Thứ Hai, 14 tháng 10, 2019

Học và làm theo phương pháp dân vận Hồ Chí Minh

         Tư tưởng “lấy dân làm gốc” của Hồ Chí Minh được kế thừa từ truyền thống lịch sử của cha ông ta. Khi nhìn nhận về vai trò, sức mạnh của nhân dân, các bậc tiền nhân đã dạy: “Khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước” (Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn); tư tưởng thân dân của Nguyễn Trãi: “Chúng chí thành thành” (Ý chí của nhân dân là thành lũy vững chắc); sức dân như nước, chở thuyền hay lật thuyền cũng do dân: "Lật thuyền mới rõ dân như nước. Cậy hiểm khôn xoay, mệnh ở trời".
        Kế thừa tư tưởng “trọng dân”, “thân dân” theo truyền thống của dân tộc, đồng thời Hồ Chí Minh tiếp thu lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin: “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”, cho nên Người đặc biệt đánh giá cao vai trò, sức mạnh của nhân dân. Người nói: “Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân”; “Trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của toàn dân”; “dân là gốc của nước”; “dân là quý nhất, là quan trọng nhất. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh: “Dân là gốc của nước”, là lực lượng chủ yếu của cách mạng, vì dân có số lượng đông, vì “mọi lực lượng đều ở nơi dân”. Dân cũng là những người làm ra mọi của cải vật chất và giá trị văn hoá, nuôi sống bộ máy Nhà nước và toàn thể xã hội, làm cho xã hội tồn tại và phát triển: “Cơm chúng ta ăn, áo chúng ta mặc, vật liệu chúng ta dùng, đều do mồ hôi nước mắt của nhân dân mà ra”.
         Xuất phát từ quan điểm sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, cho nên cả cuộc đời của Hồ Chí Minh đã hy sinh phấn đấu vì hạnh phúc của hết thảy đồng bào. Năm 1946, khi nước nhà mới giành được độc lập, trả lời một phóng viên nước ngoài, Người bộc bạch: "Tôi tuyệt nhiên không ham muốn công danh phú quý chút nào... chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành".
         Phương pháp “Lấy dân làm gốc” của Hồ Chí Minh là phải tôn trọng nhân dân, làm lợi cho dân để nhân dân hăng hái tham gia, ủng hộ sự nghiệp cách mạng. Người nói:Vô luận việc gì đều do người làm ra, từ nhỏ đến to, từ gần đến xa đều thế cả”, cho nên phải xem xét mọi việc để có lợi cho dân. Người căn dặn cán bộ, đảng viên: “Chúng ta phải ghi tạc vào đầu cái chân lý này: dân rất tốt. Lúc họ đã hiểu thì việc gì khó khăn mấy họ cũng làm được, hy sinh mấy họ cũng không sợ”“nếu không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng... chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”. Theo Người, muốn tập hợp, phát huy sức mạnh của quần chúng, vấn đề rất quan trọng là phải làm thế nào mà "mỗi tư tưởng, mỗi câu nói, mỗi chữ viết, phải tỏ rõ cái tư tưởng và lòng ước ao của quần chúng". Người nhấn mạnh: “Kinh nghiệm trong nước và các nước đã cho chúng ta biết: có lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy cũng làm được. Không có, thì việc gì làm cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”.
          Phát huy dân chủ tức là phát huy quyền làm chủ của nhân dân, để dân thực sự được “làm chủ” và thực sự “là chủ”. Hồ Chí Minh chỉ rõ, phát huy dân chủ không chỉ là “ở chỗ chào hỏi kính thưa có lễ phép mà đủ” mà còn là “không được phung phí nhân lực, vật lực của dân. Khi huy động nên vừa phải, không nên nhiều quá lãng phí vô ích. Phải khôn khéo tránh điều gì có hại cho đời sống nhân dân. Biết giúp đỡ dân cũng là biết tôn trọng dân”. Trong quan hệ với nhân dân, cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ làm công tác dân vận phải sâu sát, tìm hiểu kỹ càng, “hiểu nguyện vọng của dân, sự cực khổ của dân. Hiểu tâm lý của dân, học sáng kiến của dân... Phải tôn kính dân, phải làm cho dân tin, phải làm gương cho dân”.
          Để có thể “nói dân tin, ở dân quý, làm dân theo”, người cán bộ dân vận phải khiêm tốn học hỏi nhân dân, thành thực lắng nghe sự góp ý, phê bình của nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, “không học hỏi dân thì không lãnh đạo được dân. Có biết làm trò dân mới làm được thầy học dân”. Nếu dân góp ý sai thì giải thích cho dân hiểu, nếu có khuyết điểm thì thật thà tự phê bình trước nhân dân và nghiêm túc sửa chữa, tuyệt đối không được khinh rẻ ý kiến của nhân dân; không được dùng quyền hành để “áp bức phê bình”. Tròn 24 năm trên cương vị đứng đầu Đảng, Nhà nước, dù bận nhiều công việc, nhưng để hiểu dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn bố trí tiếp dân tại Phủ Chủ tịch và dành thời gian để đi xuống cơ sở, tìm hiểu, “lắng tai nghe ý kiến của đảng viên, của nhân dân, của những người không quan trọng”. Những chuyến công tác về địa phương trực tiếp làm việc với nhân dân, đã giúp Người nắm sát công việc, hiểu đúng tình hình, từ đó đưa ra những quyết định chỉ đạo đúng đắn, hợp lý, hợp tình, phù hợp với thực tiễn. Mặt khác, các cuộc gặp gỡ giữa Người với các tầng lớp đồng bào, là dịp để đồng bào trao đổi, bày tỏ tâm tư nguyện vọng với người đứng đầu Nhà nước, đồng thời là nguồn động viên to lớn đối với nhân dân, là cơ sở thắt chặt hơn niềm tin giữa Đảng với dân. Với Hồ Chí Minh, không bao giờ Người coi mình đứng cao hơn nhân dân, mà chỉ tâm niệm suốt đời là người phục vụ trung thành và tận tuỵ của nhân dân, “như một người lính vâng mệnh quốc dân ra trước trận”.
           “Nêu gương” là phương pháp giáo dục cán bộ, đảng viên và nhân dân thực hành đạo đức cách mạng, xây dựng nền tảng xã hội mới. Trong tư tưởng của Hồ Chí Minh, “nêu gương” là một trong những phương pháp vận động nhân dân hữu hiệu nhất. Để tập hợp được lực lượng, vận động được quần chúng, được quần chúng tin tưởng, sẵn sàng tham gia và hy sinh cho sự nghiệp cách mạng, thì người đảng viên, người cán bộ lãnh đạo, đặc biệt là những cán bộ trực tiếp làm công tác dân vận phải là những tấm gương sống. Khi nhận xét về V.I.Lênin, Hồ Chí Minh cho rằng, V.I.Lênin là người “đã nêu cho chúng ta một tấm gương sáng về sự giản dị vĩ đại và sự khiêm tốn cao độ” và “không phải thiên tài của Người, mà chính là tính coi khinh sự xa hoa, tinh thần yêu lao động, đời tư trong sáng, nếp sống giản dị, tóm lại là đạo đức vĩ đại và cao đẹp của người thầy, đã ảnh hưởng lớn lao tới các dân tộc châu Á và đã khiến cho trái tim của họ hướng về Người không gì ngăn cản nổi”.
          Cán bộ lãnh đạo, nhất là người đứng đầu phải trở thành tấm gương: “Nói đi đôi với làm”; “Nói ít, làm nhiều”, hướng về dân, gần dân, hiểu dân, trọng dân, tin dân, học dân, dựa vào dân để đối thoại, lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải quyết các khó khăn, vướng mắc và yêu cầu chính đáng của nhân dân. Trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo và triển khai thực hiện nhiệm vụ, cán bộ và cấp ủy các cấp phải sâu sát với công việc và sâu sát với nhân dân; dựa vào nhân dân để kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên, thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân thụ hưởng”.
         Đội ngũ cán bộ, đảng viên làm công tác dân vận phải luôn thấu triệt tư tưởng chỉ đạo của Hồ Chí Minh, “Đảng cầm quyền, nhưng nhân dân là chủ, quyền là do nhân dân ủy nhiệm, nên phải dốc lòng phục vụ Tổ quốc, phụng sự nhân dân”. Cán bộ dân vận phải luôn ghi nhớ tinh thần chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Hễ còn một người Việt Nam bị bóc lột, bị nghèo nàn, thì Đảng vẫn đau thương, cho đó là vì mình chưa làm tròn nhiệm vụ. Cho nên Đảng vừa phải lo tính công việc lớn như đổi mới nền kinh tế và văn hóa lạc hậu của nước ta thành nền văn hóa tiên tiến, đồng thời luôn luôn quan tâm đến những công việc nhỏ như tương, cà  mắm, muối cần thiết cho đời sống hàng ngày của nhân dân”[17]. Từ đó, có ý thức và hành động, nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
          Thực hiện phương pháp nêu gương trong công tác dân vận, Hồ Chí Minh nhấn mạnh, không gì thuyết phục hơn là bằng hành động thực tiễn, bằng việc làm cụ thể, Hồ Chí Minh nói, “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”, vì “trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”. Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương mẫu mực trong việc khởi xướng, gương mẫu thực hiện phong trào “hũ gạo cứu đói” (1945). Người đề xuất và tự mình mỗi tuần nhịn ăn một bữa, góp phần gạo vào hũ gạo cứu đói, được nhân dân nhiệt liệt hưởng ứng, trở thành phong trào rộng lớn trong cả nước. Nêu gương bằng hành động để thuyết phục nhân dân nghĩa là người cán bộ phải đi đầu, xông pha vào những nơi ác liệt nhất, gánh vác những công việc khó khăn nhất; giải quyết mọi công việc, từ vận động, tập hợp lực lượng, đến chỉ đạo đến triển khai thực thi nhiệm vụ. Trong quá trình lãnh đạo hay thực thi công việc, người cán bộ đều phải nêu gương, sẵn sàng xông pha đi đầu vào những nơi khó khăn, nguy hiểm, hoàn thành nhiệm vụ được giao. Nêu gương bằng hành động là: “Nói đi đôi với làm”, nói được thì phải làm được; “chưa làm được thì chưa nói”; cán bộ cấp trên gương mẫu, có tinh thần trách nhiệm cao trước cán bộ cấp dưới; kiên quyết khắc phục mọi biểu hiện vủa bệnh quan liêu, mệnh lệnh, giáo điều, sính dùng câu chữ to tát nhưng xa rời thực tế, xa rời cơ sở, xa rời quần chúng; kiên quyết phê phán những cán bộ, đảng viên không dám nói, không dám hành động, hoặc “nói nhiều làm ít”, “nói mà không làm”, “nói một đường làm một nẻo”, “a dua theo đuôi quần chúng”, thậm chí chỉ thụ động, ngồi chờ, ỷ lại, sợ trách nhiệm.
            Hồ Chí Minh chỉ rõ, dùng phương pháp “nêu gương” để vận động nhân dân đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên ở bất kỳ vị trí công tác nào cũng phải nêu cao tính chiến đấu tự phê bình và phê bình. Bởi vì, quần chúng nhân dân luôn chú ý tới lời nói và việc làm của cán bộ, đảng viên để xem có nên noi theo hay không. Và cũng qua đó, họ biết rất rõ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ, đảng viên ở cơ sở, cán bộ dân vận là những người làm việc thường xuyên và trực tiếp với dân; có những ưu điểm, khuyết điểm gì, đã sửa chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm đến đâu... đều được dân đánh giá. Cán bộ, đảng viên càng giữ chức vụ cao, đảm trách vị trí quan trọng, nhất là người đứng đầu, càng phải hết sức nêu gương tự phê bình và phê bình; luôn tu dưỡng, rèn luyện về phẩm chất đạo đức, lối sống ở mọi lúc, mọi nơi. Thông qua kết quả làm việc của cán bộ, đảng viên trong thực thi nhiệm vụ để xây dựng niềm tin của dân với Đảng là nhiệm vụ hết sức quan trọng của công tác dân vận và của cán bộ dân vận. Niềm tin của nhân dân với Đảng sẽ chỉ có và được khẳng định khi lời nói và việc làm của cán bộ được nhân dân thừa nhận đúng; chủ trương đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước đi vào cuộc sống. Do đó, công tác tuyên truyền, vận động phải bám sát lý luận và thực tiễn, với mục tiêu hướng tới phục vụ nhân dân, phục vụ tổ quốc, bằng tinh thần “dĩ công vi thượng”. Để lựa chọn được cán bộ dân vận tốt, có thể đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của công tác dân vận; để trở thành những tấm gương, trong công tác cán bộ, lãnh đạo cấp ủy và chính quyền cần lắng nghe dân để có sự lựa chọn đúng dắn, khách quan; lựa chọn những người cán bộ thật sự tiêu biểu về bản lĩnh chính trị, đạo đức và lối sống, năng lực trí tuệ và trình độ tổ chức thực tiễn bổ nhiệm vào các vị trí lãnh đạo và cán bộ làm công tác dân vận. Mặt khác, kiên quyết loại bỏ những người có biểu hiện thoái hóa về tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống, toan tính cá nhân, cơ hội, thực dụng, xa dân và sách nhiễu dân; việc xử lý cán bộ thoái hóa, biến chất phải kịp thời, công khai, đúng người, đúng tội và được sự giám sát của nhân dân. Nhằm ngăn chặn kịp thời những biểu hiện tha hóa quyền lực như lạm quyền, lộng quyền, trục lợi từ quyền, kéo bè kết cánh, “đầu cơ chính trị”, quan hệ “lợi ích nhóm”, xa rời lý tưởng xã hội chủ nghĩa, sa đọa về đạo đức, lối sống v.v..
           Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, đồng thời, thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, để họ rèn luyện bản lĩnh chính trị, kiên định lập trường và nâng cao năng lực lãnh đạo, phòng và chống sự phai nhạt lý tưởng cách mạng, ngăn ngừa sự dao động, mất niềm tin của cán bộ và nhân dân trước âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Đó là những vấn đề căn cốt của phương pháp “dân vận khéo” theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

Kỷ niệm 65 năm ngày Giải phóng Thủ đô (10/10/1954-10/10/2019): Nhiều hoạt động đặc biệt ý nghĩa


Top of Form
Bottom of Form

         Sở VH&TT Hà Nội là đơn vị nhận nhiệm vụ từ UBND TP Hà Nội chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan của Trung ương và Hà Nội để xây dựng kế hoạch triển khai các hoạt động dịp kỷ niệm 65 năm ngày Giải phóng Thủ đô. Sở VH&TT thực hiện tuyên truyền, trang trí cổ động trước, trong và sau ngày kỷ niệm đồng thời tuyên truyền lưu động, chiếu phim, triển lãm trưng bày cũng như chỉ đạo các đơn vị liên quan tổ chức nhiều hoạt động văn hóa, nghệ thuật.
Ngoài ra, Sở VH&TT Hà Nội còn phối hợp với các đơn vị liên quan tổ chức những hoạt động văn hóa, nghệ thuật chào mừng, như: Chương trình nghệ thuật "Tôi yêu Hà Nội"; Lễ hội nghệ thuật áo dài "Nét son Hà Nội"; Lễ hội văn hóa dân gian đương đại 2019; Cuộc thi ảnh quốc tế 2019; Chương trình hòa nhạc ngoài trời, Giải chạy Báo Hà nội mới lần thứ 46 - Vì hòa bình năm 2019… Trong thời gian này, trên toàn thành phố cũng diễn ra nhiều hoạt động kỷ niệm 65 năm Ngày Giải phóng Thủ đô. Tại Khu di tích Hoàng thành Thăng Long sẽ diễn ra các hoạt động: Ra mắt sách "Chúng ta đem vinh quang dân tộc trở về", khai mạc triển lãm "Hà Nội mùa thu năm ấy", tái hiện "Lễ chào cờ lịch sử tại khu vực sân Đoan Môn" và gặp mặt, giao lưu với các nhân chứng lịch sử…
       Từ ngày 4 - 10/10, tại không gian phố bích họa Phùng Hưng sẽ diễn ra các hoạt động trong khuôn khổ chương trình "Ký ức Hà Nội 65 năm". Đặc biệt, sáng 10/10, chương trình kỷ niệm sẽ diễn ra tại đây tái hiện không khí hân hoan vui mừng của người dân Thủ đô trong ngày đón đoàn quân chiến thắng giữa mùa thu 65 năm trước. Những ký ức xưa vẫn còn nguyên vẹn trong tâm trí của mỗi chứng nhân lịch sử được tham gia sự kiện lớn 10/10/1954. Chương trình "Ký ức Hà Nội 65 năm" nhằm mục đích tuyên truyền về một trong những chiến thắng có ý nghĩa lịch sử của dân tộc tới người dân, du khách; ngoài ra tuyên truyền giáo dục lòng yêu nước với các em học sinh trên địa bàn quận Hoàn Kiếm nói riêng và Thủ đô Hà Nội nói chung có cơ hội tìm hiểu về cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc. Qua đó, giúp mỗi công dân có nhũng hành động thiết thực, ý nghĩa, đóng góp cho việc xây dựng Thủ đô Hà Nội văn minh, đầy truyền thống và tự hào dân tộc.
       Ban Quản lý Phố cổ Hà Nội cũng phối hợp tái hiện không gian Hà Nội những năm 1954 bằng việc giới thiệu tư liệu hình ảnh về Hà Nội năm 1954; trang trí không gian phố Bích họa Phùng Hưng với các hình ảnh cổng chào, cờ hoa, băng rôn, khẩu hiệu, mô phỏng lại ngày tiếp quản Thủ đô 10/10/1954. Bên cạnh đó sẽ diễn ra các hoạt động biểu diễn âm nhạc "Hà Nội ngày ấy"; biểu diễn thời trang "Sắc thu Hà Nội". Các hoạt động tương tác (trang điểm, trình diễn áo dài trên phố..) Trung tâm Bảo tồn di sản Thăng Long - Hà Nội phối hợp với Hội Khoa học lịch sử Việt Nam tái hiện lại Lễ chào cờ lịch sử năm ấy. Lễ chào cờ sẽ gồm các hoạt động: Rước ảnh tưởng niệm của các nhân chứng lịch sử và gia đình nhân chứng; chương trình văn nghệ "Khúc tráng ca giữa mùa thu lịch sử". Sau đó, các nhân chứng, khách mời sẽ cùng thực hiện nghi lễ chào cờ tại sân Đoan Môn (đúng vị trí đoàn quân giải phóng thực hiện lễ chào cờ khi tiếp quản Thủ đô). Ngoài ra, chương trình "Ký ức mùa thu" còn có trưng bày "Hà Nội mùa thu năm ấy". Thông qua hình ảnh tư liệu, trưng bày, kể lại câu chuyện lịch sử về Hà Nội trong những năm kháng chiến chống Pháp từ ngày toàn quốc kháng chiến (19/12/1946), qua 9 năm nếm mật, nằm gai để tiến tới những giờ phút huy hoàng giải phóng Thủ đô. Trong chương trình, người dân Thủ đô và du khách còn được giao lưu với các nhân chứng lịch sử, nhà sử học để nghe kể về những kỷ niệm không bao giờ quên thời khắc đoàn quân tiến về Hà Nội. Cũng trong dịp này, Ban tổ chức ra mắt cuốn sách ảnh về Ngày Giải phóng Thủ đô "Chúng ta đem vinh quang dân tộc trở về". Ngoài ra, một trong những hoạt động văn hóa – nghệ thuật lớn, có ý nghĩa đặc biệt trong chuỗi các hoạt động hướng đến chào mừng kỷ niệm 65 năm ngày Giải phóng Thủ đô là sự kiện Liên hoan múa Rồng 2019. Sự kiện Liên hoan Múa Rồng lần thứ 5 được tổ chức với quy mô lớn, rộng khắp toàn TP Hà Nội. Liên hoan hứa hẹn sẽ góp phần tạo nên một lễ hội văn hóa truyền thống rộn ràng, vui tươi cho đông đảo quần chúng nhân dân trong nước và du khách nước ngoài, qua đó góp phần giáo dục nâng cao ý thức trân trọng và giữ gìn các giá trị văn hóa quý báu của dân tộc cho thế hệ mai sau. Hà nội là trung tâm văn hóa, chính trị, quân sự, đối ngoại của cả nước do vậy chúng ta phải biết giữ gìn và trân trọng với những giá trị đó. Mọi người hãy nêu cao tinh thần cảnh giác không làm và nghe theo những thông tin sấu độc của các thế lực thù địch hòng chống phá những thành quả mà Hà Nội đã làm được. Hãy làm nhiều việc thiết thực, ý nghĩa để làm cho Hà Nội của chúng ta ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn là điểm đến lý tưởng của bạn bè thế giới.


Chủ động đấu tranh với các thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc để chống phá cách mạng Việt Nam!

       Việt Nam có 54 dân tộc anh em, trong đó có 53 dân tộc thiểu số với 13,38 triệu người, chiếm 14,6% dân số cả nước. Do hoàn cảnh lịch sử và điều kiện địa lý đặc thù, nên các dân tộc Việt Nam có trình độ phát triển không đều về kinh tế, văn hóa, xã hội; đời sống dân trí và các hoạt động xã hội giữa nông thôn với thành thị, miền xuôi và miền núi còn có sự chênh lệch khá cao. Đặc biệt, các dân tộc thiểu số sống ở vùng sâu, vùng núi cao, biên giới hẻo lánh, điều kiện phát triển kinh tế - xã hội còn gặp nhiều khó khăn. Đây là cơ hội, là "mảnh đất màu mỡ" để các thế lực thù địch, phản động lợi dụng chống phá, thông qua chiến lược "diễn biến hòa bình".
         Đối với Việt Nam, trong những năm qua, quyền của người dân tộc thiểu số luôn là một trong những vấn đề chiến lược được các thế lực thù địch triệt để lợi dụng nhằm gây mất ổn định, tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng ta, đưa Việt Nam đi theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản. Chúng coi đó là một yếu tố quan trọng để tạo sức ép từ bên ngoài, đồng thời kích động các hoạt động chống phá từ bên trong. Trong đó, chúng tập trung vào một số hoạt động cơ bản sau:
         Một là, chúng lợi dụng các vấn đề về lịch sử, đất đai và cuộc sống khó khăn của một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số để vu cáo Nhà nước ta "phân biệt đối xử","đàn áp người dân tộc thiểu số", ép người dân tộc thiểu số phải "bỏ đạo, bỏ văn hoá dân tộc" hoà nhập với "cuộc sống văn minh" của người Kinh… để kích động, lôi kéo người dân tộc thiểu số biểu tình, bạo loạn, xâm phạm an ninh chính trị, trật tự xã hội (ANCT-TTATXH) ở nước ta; lợi dụng sơ hở, thiếu sót trong thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo, giải quyết khiếu nại tố cáo… ở vùng dân tộc thiểu số  để hòng mua chuộc, lôi kéo những phần tử xấu và người dân tộc thiểu số gây mất ổn định ANCT-TTATXH trên địa bàn; lợi dụng sự thoái hóa, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên, triệt để xoáy sâu tâm lý và sự dồn nén bức xúc do số cán bộ, đảng viên này gây ra với đồng bào dân tộc để tuyên truyền, xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phủ nhận thành tựu công cuộc đổi mới nhằm làm cho nhân dân mất niềm tin vào Đảng, vào chính quyền.
         Hai là, chúng luôn đánh tráo và đồng nhất khái niệm quyền dân tộc tự quyết là quyền của quốc gia - dân tộc với quyền của các dân tộc thiểu số để tuyên truyền, xuyên tạc nhằm làm cho đồng bào các dân tộc ngộ nhận rằng, quyền dân tộc tự quyết là quyền của riêng đồng bào các dân tộc thiểu số. Từ đó, chúng tìm cách kích động, lôi kéo đồng bào dân tộc đòi "quyền dân tộc tự quyết, tự quản", đòi thành lập nhà nước riêng, thoát ly khỏi sự quản lý của Nhà nước, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc như: "Nhà nước Tin lành Đề-ga" ở Tây Nguyên, "Vương quốc Khmer Krom" ở Tây Nam Bộ, "Vương quốc Mông" ở Tây Bắc... Qua đó nhằm hình thành các tổ chức đối lập với Đảng, Nhà nước ta. Bên ngoài, các tổ chức người Việt lưu vong ở nước ngoài như: "Hội người Mông thế giới", "Hội người Thượng Đề-ga"… tích cực móc nối, tài trợ, chỉ đạo số đối tượng trong nước thu hút, tập hợp lực lượng, hình thành nhen nhóm phản động gây mất ổn định chính trị ở địa phương.
           Ba là, triệt để tác động Quốc hội Mỹ và các nước phương Tây, các tổ chức Quốc tế thông qua các dự luật, nghị quyết, báo cáo... hoặc tổ chức các cuộc điều trần, hội thảo, họp báo nhằm xuyên tạc, bóp méo tình hình nhân quyền ở các vùng dân tộc thiểu số ở nước ta. Điển hình như: Báo cáo tình hình nhân quyền thế giới hằng năm của Anh, Mỹ; Nghị quyết của Nghị viện EU... Trong đó, chỉ riêng Hạ viện Mỹ hằng năm đã liên tục thông qua nhiều Dự luật, Nghị quyết về quyền của người dân tộc thiểu số tại Việt Nam như: Dự luật HR 1897, Nghị quyết H.Res.484… hay Báo cáo thường niên của Tổ chức Theo dõi nhân quyền (HRW), Tổ chức Ân xá Quốc tế (AI)... Đặc biệt, các tổ chức phản động lưu vong còn tìm cách tham gia các diễn đàn của Liên hợp quốc để gây sức ép đòi Nhà nước Việt Nam phải trao “quyền tự quyết, tự quản” cho người Khmer, người Thượng… ở trong nước.
          Bốn là, lợi dụng kênh ngoại giao song phương, đa phương, hợp tác quốc tế với Việt Nam để lồng ghép vấn đề "cải thiện dân chủ, nhân quyền" trong các nội dung hợp tác với nước ta; gây sức ép về vấn đề quyền của người dân tộc thiểu số, đòi "quyền dân tộc tự quyết" cho các nhóm dân tộc thiểu số trong quan hệ với Việt Nam; thông qua tiếp xúc, làm việc với các cơ quan chức năng để phát tán, truyền bá các tài liệu, văn bản như: Thư ngỏ, Thông cáo báo chí… hoặc gửi kháng thư tới các lãnh đạo Đảng, Nhà nước nhằm xuyên tạc tình hình dân chủ, nhân quyền, trong đó có quyền của người dân tộc thiểu số ở trong nước, qua đó, hòng hạ thấp uy tín Việt Nam trên trường Quốc tế.
         Năm là, triệt để lợi dụng trình độ dân trí thấp, phong tục, tập quán lạc hậu của đồng bào các dân tộc thiểu số để "tôn giáo hóa" các vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, tập trung vào địa bàn Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ. Chúng lập ra các "tôn giáo riêng" cho đồng bào dân tộc thiểu số như "Tin lành Đề-ga" ở Tây Nguyên; "Tin lành của người Mông" ở Tây Bắc, "Phật giáo của người Khmer" ở Tây Nam Bộ… Qua đó, hòng tập hợp, lôi kéo đồng bào dân tộc đi theo các tôn giáo rồi dùng thần quyền, giáo lý để nắm và khống chế quần chúng, chi phối các địa bàn, hình thành lực lượng đối trọng với chính quyền. Thông qua tôn giáo để dụ dỗ đồng bào cản trở việc thực hiện chính sách, pháp luật, gây mất ổn định chính trị, xã hội ở địa phương.
           Truoc tình hình trên, để góp phần đảm bảo an ninh chính trị vùng đồng bào dân tộc thiểu số, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn hoạt động của các thế lực thù địch, những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã chỉ đạo các cơ quan chức năng triển khai đồng bộ các biện pháp đấu tranh, ngăn chặn hoạt động lợi dụng quyền của người dân tộc thiểu số để xâm phạm ANCT-TTATXH ở nước ta. Trong đó, việc chủ động nắm tình hình các địa bàn, đối tượng trọng điểm về dân tộc, tôn giáo, các tổ chức phản động lưu vong, các tổ chức quốc tế… thường có hoạt động chống phá ta về dân tộc, tôn giáo để triển khai các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn. Chủ động ngăn chặn, vô hiệu hóa âm mưu, hoạt động thông qua việc triển khai các dự án, chương trình hợp tác quốc tế trong các vùng dân tộc thiểu số để lôi kéo, mua chuộc người dân tộc tham gia các hoạt động xâm phạm ANCT-TTATXH. Bên cạnh đó, các ngành chức năng đã tham mưu cho cấp ủy Đảng và chính quyền các cấp chủ động giải quyết từ cơ sở các vụ việc nhạy cảm, phức tạp liên quan tới dân tộc, tôn giáo trên địa bàn; đồng thời triển khai các phương án đấu tranh, xử lý nghiêm các đối tượng lợi dụng quyền của người dân tộc thiểu số xâm phạm ANCT-TTATXH trước pháp luật. Thông qua nhiều kênh và hình thức tuyên truyền, chúng ta đã chuyển tải chính sách, thành tựu đã đạt được trong việc bảo vệ, phát huy quyền của người dân tộc thiểu số ở nước ta, giải tỏa kịp thời các thông tin xuyên tạc, sai lệch về vấn đề này tới các tầng lớp nhân dân, cộng đồng quốc tế, kiều bào ta ở nước ngoài. Đặc biệt, việc nước ta bảo vệ thành công Báo cáo quốc gia theo cơ chế kiểm điểm định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ III của Hội đồng Nhân quyền Liên hiệp quốc ngày 4-7-2019 tại Geneva (Thụy Sỹ) là minh chứng sinh động nhất khẳng định mạnh mẽ nỗ lực và thành tựu của Việt Nam trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, trong đó có quyền của người dân tộc thiểu số, được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao; góp phần đấu tranh, phản bác các luận điệu xuyên tạc về vấn đề này đối với nước ta.  
          Tuy nhiên, các thế lực thù địch vẫn sẽ tiếp tục lợi dụng quyền của người dân tộc thiểu số nhằm thúc đẩy chiến lược "Diễn biến hòa bình" đối với nước ta. Để phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn hiệu quả hoạt động này, thiết nghĩ chúng ta cần thực hiện tốt các nội dung như sau:
         Thứ nhất, tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về quyền của đồng bào các dân tộc thiểu số theo luật pháp quốc tế và pháp luật Việt Nam; làm rõ âm mưu, thủ đoạn lợi dụng vấn đề này của các thế lực thù địch chống phá Việt Nam; vận động đồng bào tự giác, tích cực thực hiện các quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về dân tộc, tôn giáo. Đồng thời, đề cao tinh thần dân tộc và tôn trọng những điểm khác biệt của các dân tộc thiểu số không trái với lợi ích chung của đất nước; kiên quyết chống tư tưởng kỳ thị, chia rẽ dân tộc, tôn giáo, dân tộc hẹp hòi, cực đoan hoặc mặc cảm dân tộc, tôn giáo. Tiếp tục khơi dậy ý thức tự lực, tự cường và phát huy truyền thống đoàn kết, bình đẳng, tương trợ giúp đỡ nhau cùng phát triển giữa các dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
        Thứ hai, không ngừng chăm lo xây dựng, củng cố, kiện toàn hệ thống chính trị ở các địa bàn vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, ưu tiên bồi dưỡng, sử dụng cán bộ người dân tộc thiểu số. Đặc biệt, cần chú trọng nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý Nhà nước, hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc trong giám sát, phản biện xã hội, đấu tranh phòng, chống tệ quan liêu, tham nhũng, nhằm xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc vững mạnh, góp phần làm cho mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước và chính quyền các cấp với đồng bào các dân tộc ngày càng gắn bó khăng khít.
        Thứ ba, tiếp tục thực hiện hiệu quả các chương trình, dự án phát triển kinh tế, xã hội, nâng cao trình độ dân trí, văn hóa, xóa đói giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội; tạo mọi điều kiện để đồng bào các dân tộc thiểu số được tiếp cận với các điều kiện sống của khu vực thành thị, nhằm góp phần đảm bảo ngày càng tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa.
        Thứ tư, thường xuyên làm tốt công tác nắm tình hình, kịp thời phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn âm mưu, hoạt động lợi dụng quyền của người dân tộc thiểu số để phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chống phá cách mạng nước ta. Giải quyết triệt để, kịp thời các “điểm nóng”, các mâu thuẫn, khiếu kiện ngay từ cơ sở, không để kéo dài, lây lan, vượt cấp. Trong xử lý các vấn đề nhạy cảm liên quan đến dân tộc, tôn giáo phải tính toán, cân nhắc thời điểm phù hợp, đảm bảo yêu cầu đặt ra nhằm tranh thủ được sự ủng hộ rộng rãi của nhân dân trong nước và cộng đồng quốc tế, không sơ hở để địch lợi dụng vu cáo, xuyên tạc.
Vấn đề quan trọng nhất trong việc làm tăng khả năng “miễn dịch” với các hoạt động "diễn biến hòa bình" ở vùng miền núi, biên giới vẫn là tập trung đẩy mạnh phát triển kinh tế gắn với giải quyết tốt các vấn đề xã hội, gắn tăng trưởng kinh tế cao với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ở các vùng này. Đây cần được xem là một giải pháp mang tính bền vững, lâu dài, bởi nó có thể góp phần tăng cường mối quan hệ bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc bởi vì "Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển, cùng nhau phấn đấu thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Kiên quyết đấu tranh với mọi âm mưu chia rẽ dân tộc. Công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành, của toàn bộ hệ thống chính trị".

LỊCH SỬ ĐÃ LỰA CHỌN - NHÂN DÂN LUÔN ỦNG HỘ


LỊCH SỬ ĐÃ LỰA CHỌN - NHÂN DÂN LUÔN ỦNG HỘ
Toàn Đảng, toàn dân tự hào, tin tưởng và đang đặt nhiều kỳ vọng lớn lao đối với đồng chí Nguyễn Phú Trọng, người lãnh đạo mẫu mực của Đảng, Nhà nước, luôn đặt lợi ích của Đảng, của đất nước lên trên, lên trước hết. Nhân kỷ niệm 50 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, xin tổng hợp những câu nói nổi tiếng của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng:
          1. "Kỷ luật một vài người để cứu muôn người".
2. "Xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phòng chống tham nhũng ai cảm thấy cản trở, nhụt chí thì dẹp sang một bên cho người khác làm".
3. "Chúng ta kiên quyết nhưng phải bình tĩnh, tỉnh táo, làm lâu dài bằng nhiều biện pháp, làm sao đánh con chuột nhưng đừng để vỡ bình".
4. "Cái lò đã nóng lên rồi thì củi tươi vào đây cũng phải cháy. Củi khô, củi vừa cháy trước, rồi cả lò nóng lên, tất cả các cơ quan vào cuộc, có ai đứng ngoài đâu và không thể đứng ngoài được".
5. "Quyền lực luôn có nguy cơ bị tha hóa, tham nhũng là "khuyết tật bẩm sinh" của quyền lực cho nên phải thiết lập được một cơ chế kiểm soát việc thực thi quyền lực đối với người có chức vụ, quyền hạn, theo nguyên tắc tất cả mọi quyền lực đều phải được kiểm soát chặt chẽ bằng cơ chế".
6. "Phải ngăn ngừa tận gốc những sai phạm, khuyết điểm một cách căn cơ, bài bản bằng các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nói một cách hình ảnh là phải “nhốt quyền lực vào trong lồng cơ chế”.
7. "Phòng chống tham nhũng là công việc hệ trọng phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, kiên quyết, kiên trì. Chúng ta tuyệt nhiên không được tự thỏa mãn với những kết quả đã đạt được".
8. "Tuyệt đối không để lọt vào cấp ủy khóa mới những cán bộ suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, chạy chức, chạy quyền, hoặc những người chờ đợi tình hình khác đi, làm chiếu lệ. Đồng chí đề nghị các cơ quan chức năng, như kiểm tra, thanh tra, tòa án, kiểm toán,…. vào cuộc đồng bộ và quyết liệt hơn. Lấy “xây” là cơ bản, “chống” phải quyết liệt và rất quan trọng. Đại hội Đảng là dịp để lựa chọn, sàng lọc, củng cố đội ngũ cán bộ. Không sợ thiếu cán bộ, bởi không thiếu cán bộ tâm huyết với Đảng, trách nhiệm với dân với đất nước. Không sợ mất uy tín; chỉ không làm, không xử lý cán bộ vi phạm mới tự đánh mất uy tín của mình".
9. "Công nghiệp hóa càng phải giữ gìn môi trường, càng hiện đại hóa càng phải sống với nhau có nghĩa tình, con người nhân ái với nhau, thương yêu đùm bọc nhau. Thế mới là Việt Nam, thế mới là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa."
10. "Cần hết sức thấm thía, từ đó ngăn chặn tình trạng chán Đảng, khô Đoàn, nhạt chính trị, ngăn chặn cho được tình trạng tha hóa, hư hỏng, tư tưởng dao động không vững vàng, kèn cựa nhau..."
ST. NTK.14.10.2019

Chủ Nhật, 13 tháng 10, 2019

Cảnh giác trước những thông tin xuyên tạc khi đât nước có những sự kiện chính trị quan trọng


Cảnh giác trước những thông tin xuyên tạc khi đât nước có những sự kiện chính trị quan trọng

 Trước và trong những ngày diễn ra Hội nghị Trung ương 11 tại Hà Nội, trên các trang mạng lại xuất hiện những thông tin dùng các câu like theo kiểu “tiết lộ” nội dung “cơ mật”  có liên quan tới công tác nhân sự cấp cao nhằm thu hút tâm lý hiếu kỳ của nhiều người; cùng với đó là những bình luận xuyên tạc nhằm gây nhiễu loạn. Vẫn những thủ đoạn cũ và lạc lõng trên các trang mạng đưa ra các bài viết nhấn mạnh rằng  “Hội nghị Trung ương 11: Xáo trộn ít hay đánh nhau lớn”. Những  bài viết này thường phỏng đoán đưa ra nhận định như; Hội nghị Trung ương 11 là chuẩn bị nhân sự cấp cao cho khóa XIII, rồi đưa ra dự đoán người này khả năng vào vị trí lãnh đạo này, người kia vào vị trí lãnh đạo khác…
Những người viết bài thường tự nhận và mệnh danh cho mình là những “trí thức”, “nhà báo tự do”  tự nhân định và dựng lên rằng từ Hội nghị Trung ương 10 (tháng 5/2019) đã xếp sắp nhân sự Ủy viên Trung ương, còn Hội nghị Trung ương 11 là sắp xếp nhân sự Bộ Chính trị, Ban Bí thư cho khóa XIII.  Những nhân vật này có còn sử dụng những ngôn từ như “đấu đá”, “sát phạt” để xuyên tạc một cách trắng trợn về công tác cán bộ của Đảng.
 Nhưng sự thật là tại Hội nghị Trung ương 10 (diễn ra trong 3 ngày từ 16 đến 18/5/2019), Ban Chấp hành Trung ương đã cho ý kiến về Đề cương các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng; góp ý việc chỉ đạo tiến hành đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIII của Đảng.
Tại  Hội nghị Trung ương 11lần này, Ban Chấp hành Trung ương chỉ tập trung thảo luận, cho ý kiến một bước về các dự thảo văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng: Dự thảo Báo cáo chính trị và dự thảo Báo cáo 10 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011); dự thảo Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Chiến lược kinh tế-xã hội 2011-2020, xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2021-2030; Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện công tác xây dựng Đảng, thi hành Điều lệ Đảng nhiệm kỳ khóa XII.
Như vậy sự thật cho thấy rằng, cả Hội nghị Trung ương 10 và 11, không có nội dung về công tác chuẩn bị nhân sự như những  nhà “trí thức”, “nhà báo tự do” rêu rao, bình luận trên các trang mạng. Thực sự về công tác chuẩn bị nhân sự, tại Hội nghị Trung ương 9, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã xem xét, cho ý kiến về việc giới thiệu nhân sự quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhiệm kỳ 2021 - 2026 đối với 205 người để Bộ Chính trị xem xét, quyết định quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương nhiệm kỳ 2021 – 2026.
Họ đâu có hiểu rằng về công tác chuẩn bị nhân sự, đã được Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: Tinh thần là phải làm từng bước, từng việc, chắc chắn, chặt chẽ. Quy hoạch xong Ban Chấp hành Trung ương, mới làm quy hoạch Bộ Chính trị, Ban Bí thư; sau đó mới đến các chức danh chủ chốt. Đồng thời, cần thường xuyên rà soát, kịp thời phát hiện những trường hợp vi phạm hoặc không đủ tiêu chuẩn để đưa ra khỏi quy hoạch; bổ sung những nhân tố mới đủ tiêu chuẩn, điều kiện vào quy hoạch.
Như vậy có thể thấy, công tác chuẩn bị nhân sự  của Đảng là việc vô cùng hệ trọng. Vì vậy công tác chuẩn bị Đảng ta đã thực hiện một cách bài bản, chứ không thể làm tùy tiện hay cứ đến Hội nghị Trung ương là làm nhân sự.
Cho nên những luận điệu tuyên truyền xuyên tạc về công tác cán bộ của Đảng trong thời gian qua của những kẻ xấu chỉ là những luận điệu nhảm nhí; là những thông tin sai sự thật không đúng với thực tế những gì đang diễn ra. Những luân điệu và những bình luận, dự đoán đi kèm càng trở nên lố bịch, lạc lõng, dù đối tượng tiếp nhận thông tin là chính những phần tử chống đối cũng thấy không có gì thuyết phục và đáng phải quan tâm.
                                                       Sóng Hồng.14.10.19

Lợi dụng Hội nghị Trung ương 11 để tán phát “thư ngỏ”, chống phá Đảng, Nhà nước


Lợi dụng Hội nghị Trung ương 11 để tán phát “thư ngỏ”, chống phá Đảng, Nhà nước


Từ ngày 7 đến 12-10, Hội nghị Trung ương 11, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII diễn ra tại Thủ đô Hà Nội. Hội nghị tập trung thảo luận, cho ý kiến một bước về các dự thảo văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng; báo cáo tình hình kinh tế-xã hội, ngân sách Nhà nước năm 2019; dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, ngân sách Nhà nước năm 2020 và một số vấn đề quan trọng khác.
Lợi dụng thời điểm này, các phần tử cơ hội chính trị tiếp tục giở chiêu trò “thư ngỏ” gửi hội nghị và phát tán trên mạng xuyên tạc tình hình, vu cáo, bôi nhọ lãnh đạo Đảng, Nhà nước và nhiều vấn đề khác theo kiểu “lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Trong “thư ngỏ” của một vị giáo sư vốn là người không còn đứng trong hàng ngũ của Đảng, cho rằng: Hội nghị Trung ương lần thứ 11 họp đúng vào lúc đất nước ta đang đối diện trong một bối cảnh vận nước “chao đảo với lớp lớp sóng triều Biển Đông, lòng dân sục sôi với thế nước trực diện với nạn xâm lăng”. 
Ông vu cáo: Chuyện “kiểm soát quyền lực (Quy định 205-QĐ/TW) chỉ là “trò chơi tranh giành quyền lực”… Từ đó, bài viết quy kết mang tính kích động: phải dứt khoát từ bỏ những kẻ đang ngoan cố duy trì chế độ toàn trị phản dân chủ nhằm vớt vát quyền uy mục ruỗng, quyết đẩy đất nước vào con đường lệ thuộc, bán nước cho Trung Quốc. Một số đối tượng khác thì không ngừng vu cáo Đảng, Nhà nước nhu nhược, không có biện pháp đối với vấn đề bãi Tư Chính, Biển Đông. Phần cuối trong “thư ngỏ”, họ cũng lòi ra cái đuôi khi kết luận: Nếu không thực hiện dân chủ hóa theo đa nguyên, đa đảng, “tam quyền phân lập”, “xã hội dân sự” thì không thể giữ được độc lập, chủ quyền cho đất nước, tự do cho nhân dân.
Ở một hướng khác, Đài Á châu tự do (RFA) chống phá, tuyên truyền xuyên tạc theo hướng dẫn dắt thông tin khi cho đăng tải bài viết, phát biểu của nhiều phần tử chống đối, phê phán Hội nghị Trung ương 11, công tác nhân sự của Đảng là lạc hậu, khép kín và trái khoáy; nói rằng, nếu Hội nghị Trung ương 10 vào tháng 5-2019 chủ yếu “sắp ghế” cho 200 ủy viên Trung ương thì Hội nghị Trung ương 11 có nhiệm vụ chốt danh sách sơ bộ các gương mặt Ủy viên Bộ Chính trị cho khóa 13. Từ đó, bài viết này xuyên tạc “Hội nghị 11 chỉ là cuộc đấu đá, sát phạt giữa các phe nhóm”.
Thủ đoạn sử dụng hình thức “thư ngỏ” là lợi dụng vào những thời điểm diễn ra các sự kiện chính trị lớn của đất nước. Bản chất của các “thư ngỏ” là xuyên tạc, bóp méo sự thật, kích động, chống phá Đảng và Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Trong “thư ngỏ”, mục đích của họ là “kiến nghị”, “yêu sách” đòi thực hiện chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, đòi từ bỏ, hạ bệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong nền tảng tư tưởng của Đảng…
Một là, lợi dụng những thời điểm diễn ra những sự kiện chính trị trọng đại, họ gửi “thư ngỏ”, “kiến nghị” để tập trung sự quan tâm của dư luận, nhất là những thời điểm nhạy cảm, đánh vào tâm lý tò mò của một bộ phận người dân. Luận điệu trong các “thư ngỏ” được họ trình bày giả dạng dưới hình thức phân tích, diễn biến tình hình hết sức cấp bách, nguy hiểm, hỗn loạn, sục sôi theo kiểu “tung hoả mù”, sau đó là những kiến nghị hết sức “khẩn thiết”, “tâm huyết”, “trách nhiệm” trước vận mệnh đất nước, dân tộc. Qua đó, nếu không tỉnh táo, người đọc dễ hoài nghi, hoang mang, dao động.
Hai là, thủ đoạn tinh vi của họ thể hiện ở chỗ vu khống, đổ lỗi những vấn đề mà họ nêu ra là do thể chế chính trị gây ra, từ đó quy kết vai trò lãnh đạo của Đảng là độc đoán, chuyên quyền; xuyên tạc công tác cán bộ là tranh giành, đấu đá, thanh trừng phe nhóm. Mục đích của họ là khuấy động tình trạng hỗn loạn theo kiểu “đục nước béo cò”, nói xấu, xuyên tạc, vu cáo lãnh đạo cấp cao. Qua đó làm giảm niềm tin của nhân dân vào vai trò lãnh đạo Đảng.
Ba là, từ “thư ngỏ”, những kiến nghị, đòi hỏi họ đưa ra vẫn là những mục tiêu “diễn biến hoà bình” không bao giờ thay đổi là xoá bỏ thể chế chính trị xã hội XHCN, yêu cầu thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, thực hiện “nhà nước tam quyền phân lập”, “xã hội dân sự”, qua đó lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, hướng lái cách mạng Việt Nam theo con đường tư bản chủ nghĩa.
Bốn là, phương thức của thủ đoạn tinh vi nói trên của họ là tung lên mạng xã hội, các trang của các tổ chức, hội đoàn phản động lưu vong, truyền thông hải ngoại để mở rộng đối tượng tuyên truyền xuyên tạc, đồng thời kích động, lôi kéo tụ tập xuống đường, biểu tình, gây rối làm mất ổn định chính trị và an ninh, trật tự.
Các đối tượng đề tên, ký tên “thư ngỏ” thường là những người từng là cán bộ, đảng viên, công chức trong hệ thống chính trị, đã có thời gian công tác, vị trí chức vụ lãnh đạo, có tiếng nói, uy tín nhất định. Lúc đương chức, đang công tác, họ không có ý kiến, góp ý, khi có tuổi hoặc về hưu mới bắt đầu lên tiếng phê phán, xét lại, trở cờ, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, câu nối, móc ngoặc phần tử phản động bên ngoài để chống phá cách mạng Việt Nam.
Đối với vấn đề Biển Đông cũng là nội dung được đề cập trong các “thư ngỏ” gửi Hội nghị Trung ương 11. Các “thư ngỏ” nêu ra vấn đề phức tạp tại Biển Đông rồi đánh giá tính chất “cực kỳ hệ trọng”, nhân danh nhân sĩ, trí thức yêu nước đòi hỏi Đảng, Nhà nước phải có biện pháp cứng rắn, quyết liệt. Từ chỗ phê phán chính sách quốc phòng “3 không”, cho rằng “sai lầm về đường lối”, ứng phó hèn nhát, họ chuyển sang “tham mưu” với những đề xuất kiểu như phải theo phe này, nước kia để giữ chủ quyền biển đảo.
Quan điểm của Đảng, Nhà nước chỉ rõ: Biển, đảo là bộ phận lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc, có vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước. Bảo vệ chủ quyền biển, đảo là nhiệm vụ trọng yếu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Đối với vấn đề Biển Đông nói chung, bãi Tư Chính nói riêng, Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam nhiều lần khẳng định “nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 của Trung Quốc hoạt động tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam, vi phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam được xác lập phù hợp với các quy định của Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 mà Việt Nam và Trung Quốc đều là thành viên. Việt Nam kiên quyết phản đối hành động này và yêu cầu Trung Quốc chấm dứt ngay vi phạm, rút toàn bộ nhóm tàu nói trên ra khỏi vùng biển Việt Nam và không để tái diễn hành động vi phạm tương tự. Việt Nam kiên quyết bảo vệ chủ quyền và các quyền lợi hợp pháp của Việt Nam tại Biển Ðông bằng các biện pháp luật pháp quốc tế cho phép”.
Tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 52 (AMM-52) tại Thái Lan, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh phát biểu nhấn mạnh tình hình Biển Đông diễn biến phức tạp, trong đó có các hành động đơn phương như quân sự hoá, gia tăng tập trận quân sự, đặc biệt là tàu khảo sát HD-8 của Trung Quốc được các tàu hải cảnh và dân binh hộ tống xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, tiến hành các hoạt động khảo sát trái phép. 
Tại Liên hợp quốc, Phó Thủ tướng nêu rõ vấn đề Biển Đông và quan điểm của Việt Nam, kêu gọi các bên liên quan ở Biển Đông tôn trọng luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên hợp quốc về Luật biển 1982. Hay trong chuyến thăm Trung Quốc vừa qua, trao đổi trực tiếp với Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân nhấn mạnh Việt Nam muốn cùng Trung Quốc kiểm soát tốt bất đồng, xử lý thỏa đáng vấn đề này để tạo cơ sở cho sự phát triển ổn định, bền vững của quan hệ hai nước.
Đặc biệt, trong phát biểu khai mạc Hội nghị 11, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đề nghị Trung ương “Phân tích, dự báo có căn cứ, cơ sở khoa học, tình hình thế giới và trong nước, nhất là tình hình Biển Đông; chỉ rõ các khả năng có thể xảy ra trong thời gian tới, lường trước những thời cơ, thuận lợi cần nắm bắt, những khó khăn, thách thức”.
Chủ quyền lãnh thổ, biển đảo là thiêng liêng, bất khả xâm phạm, chúng ta phải kiên quyết, kiên trì giữ vững. Những giải pháp mà Đảng, Nhà nước thực hiện đối với vấn đề Biển Đông vừa là vấn đề chiến lược, vừa là sách lược trong từng thời điểm cụ thể. Yêu nước, thể hiện quyết tâm giữ vững chủ quyền biển đảo, song chúng ta cần phải hết sức tỉnh táo, tránh bị kẻ xấu lợi dụng lòng yêu nước để tuyên truyền gây tâm lý hoang mang, kích động chống phá.

Nhận diện “thầy phán”

Nhận diện “thầy phán”


Tuy nhiên, một thực tế là trên các trang mạng xã hội, việc “bày tỏ chính kiến” về một vấn đề, sự việc đang trở nên rất hỗn độn, rất nhiều người tự cho mình có hiểu biết, có trình độ rồi tự lên lớp làm “thầy phán”, nói chỗ này, kích bác chỗ kia gây nhiễu loạn thông tin, phức tạp tình hình.
Có thể thấy rõ thực tế này từ thông tin mạng xã hội về hành vi vi phạm vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa Việt Nam của nhóm tàu khảo sát Hải dương 8, Trung Quốc.
Hồi tháng 8 vừa qua, một nhóm người dưới danh nghĩa “nhân sĩ trí thức” đã tự soạn thảo văn bản “Tuyên bố Biển Đông”, rêu rao rằng đã thu thập được hơn 1.000 chữ ký để gửi cho các nhà lập pháp tại Hà Nội. Số này đã tập hợp, ước chừng chục người, đi bộ đến tòa nhà Quốc hội để “trao bản tuyên bố cho Chủ tịch Quốc hội”, tuy nhiên không gặp được người có thẩm quyền nên văn bản được gửi qua đường bưu điện.
Để tạo dư luận, họ tụ tập, tuần hành đến trước Đại sứ quán Trung Quốc, Bộ Ngoại giao, cho người quay clip tung lên mạng. Bản tuyên bố này có 4 điểm, trong đó đưa ra đề nghị Việt Nam hoàn chỉnh hồ sơ để kiện Trung Quốc ra Tòa án Quốc tế, giống như việc Philippines đã làm trước đây. Việc thu thập chữ ký cũng chính là nhằm mục đích “tạo trọng lượng” cho bản tuyên bố mà họ đưa ra. 
Bản tuyên bố được phát tán trên mạng, thu hút bình luận, trong đó có những lời lẽ rất tiêu cực của những người thiếu hiểu biết hoặc những người có tâm lý thù địch, bất mãn với chế độ. Thậm chí, có người còn châm chỉa rằng tại sao một bản tuyên bố “sâu sắc, khoa học” như vậy mà Nhà nước Việt Nam lại bàng quan, không tiếp thu! Họ còn miệt thị rằng, tại sao vấn đề Biển Đông, chủ quyền biển đảo nguy nan mà “chính quyền vẫn bình chân”, để cho những “chí sĩ yêu nước” phải “ngày đêm dày vò, lo nghĩ kế sách cứu nguy”!...
Đọc qua những câu từ này cho thấy, sự tung hứng rất kệch cỡm của những người đưa ra tuyên bố mà người “bày tỏ chính kiến”, thực chất là hành vi tạo cớ để gây nhiễu dư luận, bôi nhọ, miệt thị Đảng, Nhà nước về đường lối đối ngoại, đường lối quốc phòng trong vấn đề bảo vệ chủ quyền biển đảo. Theo dõi nhiều năm qua thì việc những nhóm người nhân danh nhân sĩ trí thức, đưa ra cái gọi là “thư ngỏ, tuyên bố, kiến nghị, thư góp ý...” đã lặp đi lặp lại nhiều lần, nhất là thời điểm Quốc hội lấy ý kiến góp ý dự thảo bản Hiến pháp mới (năm 2013), rồi việc giải quyết các vấn đề phức tạp về chủ quyền biển đảo trên Biển Đông.
Sau “thư ngỏ, thư góp ý, tuyên bố” là chiêu thu thập chữ ký. Họ trưng ra bản thu thập chữ ký của “nhân sĩ trí thức” với những cái tên quen thuộc về tư duy ngược, quan điểm ngược với đường lối bảo vệ Tổ quốc, đường lối quốc phòng, an ninh, ngoại  giao của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.
Quan điểm sai lệch, phản khoa học nhưng lại được họ tự cho là khẩn thiết nhằm “cứu nguy” an ninh, chủ quyền đất nước nhằm đánh lạc hướng dư luận. Riêng về chữ ký, thực tế cũng chỉ quanh quẩn ở những “nhà dân chủ” nhẵn mặt, còn cái gọi là chữ ký, sự ủng hộ trên mạng với con số hàng vạn người thì đó chỉ là số ảo mà thôi.
Về tình cảm yêu nước, mong muốn hiến kế cho Nhà nước trong việc bảo vệ chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc, đó là điều đáng trân trọng. Tuy nhiên, cần phân biệt sự hiến kế, kiến nghị xuất phát từ lòng yêu nước chân chính, từ tình cảm với quê hương, đất nước để đóng góp ý kiến cho Đảng, Nhà nước với việc lợi dụng vấn đề, nhân danh ý kiến, kiến nghị để gây nhiễu, làm phức tạp tình hình, với động cơ xấu.
Trong vấn đề Biển Đông, lâu nay, Đảng, Nhà nước ta cũng luôn trân trọng những tình cảm, ý kiến đóng góp của các tầng lớp nhân dân, từ trí thức, văn nghệ sĩ các bậc lão thành đến thế hệ trẻ. Song, việc nhân danh yêu nước để tụ tập, lấy chữ ký hoặc giả mạo chữ ký, đưa ra các văn bản kiến nghị để gây sức ép với Đảng, Nhà nước, tạo cớ cho các thế lực thù địch chống phá là không thể được.
Như trong trường hợp trên, nói là kiến nghị nhưng số người này lại tụ tập tuần hành, mang băng rôn, khẩu hiệu đến cổng cơ quan công quyền, cho người quay clip tung lên mạng, phê phán, miệt thị... thì đây thực chất là hành động vin cớ yêu nước, vin cớ kiến nghị để châm mồi, khuấy nước cho các thế lực thù địch chống phá.
“Cần khởi kiện Trung Quốc ra Tòa án Quốc tế” là chiêu mà nhiều thế lực chống đối vin vào để kích động người dân, từ đó miệt thị chính quyền. Ngày 14-8-2019, trang VOA đưa bài viết “Vụ bãi Tư Chính: Chưa kiện thì chưa tin”. Bài báo này cho rằng, để tránh Trung Quốc có hành động xâm phạm thì Việt Nam phải kiện ra Tòa án Quốc tế như những gì mà Philippines đã làm trước đây. Chỉ khi Việt Nam đâm đơn khởi kiện, thể hiện rõ thái độ quyết liệt thì người dân mới có thể tin, chứ nay chỉ phản ứng mà chưa kiện thì chưa tin!
Rõ ràng, đây là kiểu đánh tráo khái niệm, vờ mượn dẫn chứng của nước ngoài khi kiện ra Tòa án Quốc tế để “vẽ đường” cho Việt Nam, để kích động tâm lý người dân khiến họ nghĩ rằng, trong xử lý vi phạm chủ quyền thì “phải kiện” mà không thấy được nguyên tắc, đường lối giải quyết phù hợp, đúng đắn của Đảng, Nhà nước ta. Tương tự, trang BBC còn bày trò “vụ bãi Tư Chính và cơ hội thoát Trung”, tự suy diễn rồi “góp ý” phải thế này, phải thế kia.
Thậm chí, trang RFA trước đó còn xuyên tạc vấn đề khi nói rằng, lãnh đạo Việt Nam “vẫn im tiếng” trong vụ việc tại bãi Tư Chính, từ đó kích động người dân “phải có chính kiến”, kêu gọi xuống đường “thể hiện lòng yêu nước”... Họ tỏ ra người có hiểu biết rồi phán “Khả năng đụng độ vũ trang tại bãi Tư Chính tăng cao”; “Bãi Tư Chính, rủi ro đụng độ quân sự khi đối đầu lần hai”...
Có tài khoản suy diễn, xuyên tạc vấn đề thành “Nhà nước Việt Nam đã bắt đầu từ bỏ chính sách “ba không”, xuyên tạc chính sách nhất quán về quốc phòng, đối ngoại của Đảng và Nhà nước...
Xâu chuỗi các sự kiện, diễn biến trên Biển Đông những năm qua cho thấy, các thế lực thù địch, phản động đang triệt để lợi dụng vấn đề này để chống phá Đảng, Nhà nước, chống phá chế độ.
Có thể nhận diện các thủ đoạn của chúng là: Thứ nhất, kích động người dân tuần hành, biểu tình dưới danh nghĩa yêu nước, bảo vệ chủ quyền biển đảo. Dưới vỏ bọc tuần hành thể hiện tình yêu nước và bảo vệ Tổ quốc, các đối tượng rêu rao việc xuống đường đấu tranh là ôn hòa, phi bạo lực. Tuy nhiên, mưu đồ là tiến hành ném bom xăng, tấn công trụ sở cơ quan công quyền, tấn công cảnh sát, cán bộ cơ quan Đảng, Nhà nước.
Thứ hai, bằng những luận điệu xảo trá, họ cho rằng để bảo vệ chủ quyền biển đảo thì người dân phải xuống đường, phải gây áp lực để Nhà nước “vào cuộc”, kêu gọi phải huy động quân đội “thể hiện bản lĩnh”. Cùng với đó, các đối tượng còn cổ súy, đưa luận điệu “tự người dân có thể bảo vệ Tổ quốc”, không cần sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước.
Thứ ba, kẻ địch tìm cách xuyên tạc chủ trương, hoạt động bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia của Đảng, Nhà nước ta. Từ việc thông tin về chủ quyền biển đảo bị suy diễn sai lệch, chúng đưa ra các bài viết chế giễu, đả kích đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước. Chúng cho rằng lãnh đạo Đảng, Nhà nước “vì phe này, phe kia” không giải quyết tình hình, để chủ quyền bị xâm lấn. Chúng xuyên tạc Đảng ta bằng luận điệu: khi đất nước chỉ có một đảng lãnh đạo thì không có đủ sức mạnh để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, từ đó hướng lái tư tưởng đòi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, hướng lái thể chế chính trị tại Việt Nam đi theo hướng tư bản.
Điểm nữa, các đối tượng lợi dụng vấn đề chủ quyền để đưa ra các yêu sách, đòi hỏi phi lý. Chúng bịa chuyện những người phạm pháp bị bắt giữ thành “đàn áp người yêu nước”, “bắt giữ người dân bảo vệ chủ quyền biển đảo”, khoác cho số này tên gọi “tù nhân lương tâm”!
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng nêu rõ: “Về hành vi vi phạm vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa Việt Nam của nhóm tàu khảo sát Hải dương 8, Việt Nam đã nói rõ nhiều lần. Đây là vùng biển hoàn toàn của Việt Nam, được xác định theo Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) 1982”.
Tính chất nhất quán của quốc phòng Việt Nam là: Tự vệ, chính nghĩa, quốc phòng hòa bình, dựa vào sức mạnh của cả hệ thống chính trị và của toàn dân, lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nguyện vọng và cũng là lợi ích cao nhất của dân tộc Việt Nam là giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, hợp tác cùng phát triển...

Trước tình hình vi phạm chủ quyền biển, đảo trên Biển Đông diễn ra phức tạp, đặt ra yêu cầu cao phải tăng cường tổ chức lực lượng và phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, đấu tranh toàn diện, bằng các hình thức, biện pháp linh hoạt, thông qua chủ trương, kế hoạch chỉ đạo, điều hành tập trung thống nhất trên các lĩnh vực chính trị, ngoại giao, pháp lý, kinh tế, quốc phòng, an ninh. Trong vấn đề đó, chúng ta cần cảnh giác những kẻ lợi dụng vấn đề Biển Đông, lợi dụng lòng yêu nước của người dân để kích động, chống phá.

Không để các thế lực thù địch lợi dụng, lôi kéo, kích động


Không để các thế lực thù địch lợi dụng, lôi kéo, kích động

 


Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và âm mưu “diễn biến hòa bình” luôn có quan hệ chặt chẽ với nhau. Nhận diện và đấu tranh ngăn chặn, loại bỏ tình trạng này đã và đang là một nhiệm vụ cấp thiết.
Cách đây 6 năm, Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam và một số cơ quan đồng tổ chức hội thảo khoa học về “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” (TDB, TCH). Hội thảo xác định, TDB, TCH có thể diễn ra 3 giai đoạn, ứng với 3 mức độ. Ở giai đoạn ban đầu, đối tượng thể hiện sự hoang mang, dao động về tư tưởng chính trị, hoài nghi về sự lãnh đạo của Đảng, về Chủ nghĩa Mác-Lênin; giai đoạn 2, đối tượng bắt đầu chủ động tiếp nhận những thông tin trái chiều, những luận điệu chống đối, hoặc lý luận phản động; giai đoạn 3, đối tượng hoàn toàn có tư tưởng phản động, chống đối. Tương ứng với đó sẽ là 3 kịch bản TDB, TCH: Một là, về chính trị. Hai là, từ kinh tế chuyển hóa về chính trị. Ba là, các phần tử biến chất liên kết lại, dùng “nội công, ngoại kích” tạo ra “cách mạng màu” theo kiểu “mùa xuân Ả-rập”.
Năm 2016, phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 4, khóa XII, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (nay là Tổng Bí thư, Chủ tịch nước) đã đề cập mối quan hệ nguy hiểm: “Từ suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc”.
Một dẫn chứng của hiện tượng trên chính là Trịnh Xuân Thanh. Theo thông tin kết luận từ cơ quan chức năng, Thanh có nhiều sai phạm từ lâu nhưng không bị xử lý vì có sự dung túng, bao che và còn liên tục được bổ nhiệm cao hơn, nên ngày càng lộng hành, coi thường kỷ cương, phép nước, coi thường những ý kiến góp ý của cấp trên, đồng đội. Với bản tính như vậy, khi bị xử lý, Thanh viết đơn xin ra khỏi Đảng, công khai tuyên bố không còn tin ở lãnh đạo Đảng, Nhà nước, trốn đi nước ngoài. Thanh đã tự biến mình từ một tội phạm tham nhũng trở thành kẻ tiếp tay cho các đối tượng phản động, cung cấp tài liệu (cả tài liệu mật) để chúng xuyên tạc, chống phá Đảng, Nhà nước.
Năm 2018, xảy ra vụ một cán bộ bị truy nã do liên quan đến vụ án buôn bán hàng giả đã bỏ trốn ra nước ngoài, xin tị nạn chính trị, thậm chí gọi điện cho đài phản động VOA “kêu cứu”, vu khống Đảng, Nhà nước, quân đội. Trường hợp Đặng Xương Hùng, cựu cán bộ ngoại giao ở Thụy Sĩ cũng vì bất mãn mà xin tị nạn chính trị tại Thụy Sĩ. Nhà chức trách nước ngoài từ chối vì lý do nêu ra để xin tị nạn của Hùng không thuyết phục. Thế là Hùng tuyên bố ra khỏi Đảng, xuyên tạc, nói xấu Đảng, Nhà nước để chứng minh mình là “nạn nhân” của chế độ.
Đối tượng Lê Văn Thương từng là thượng úy nhưng do vi phạm kỷ luật, bị cho ra quân. Khi về địa phương, Thương mở cửa hàng gỗ mỹ nghệ vì có hoa tay trong lĩnh vực này. Lẽ ra Thương có thể trở thành người dân làm ăn lương thiện nhưng Thương thường xuyên lên mạng giao du với các đối tượng phản động như Đào Minh Quân, Lisa Phạm… Chúng đã kích động khiến Thương ngộ nhận mình là “quân oan” nên dần dần Thương đã đi theo con đường chống phá đất nước và trốn ra nước ngoài. Thương đã bị cơ quan công an khởi tố, truy nã về tội “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” theo Điều 109 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Với trường hợp một cán bộ cao cấp quân đội nghỉ hưu có lời nói, việc làm sai trái gây bức xúc trong dư luận vừa qua, đáng buồn là người này cũng đã có nhiều việc làm tiếp tay cho các thế lực thù địch chống phá Đảng, Nhà nước, quân đội. Lợi dụng hình ảnh sĩ quan cao cấp và các danh hiệu, nhiều tổ chức núp bóng viện nghiên cứu, tổ chức xã hội dân sự, dưới vỏ bọc yêu nước, bảo vệ chủ quyền biển, đảo đã lôi kéo những cựu quan chức tham gia hoạt động cùng với nhiều thành phần bất mãn, cơ hội chính trị. Trao đổi với phóng viên Báo Quân đội nhân dân, TS Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ cho biết, ông cũng được mời nhưng kiên quyết không dự vì ông thừa biết bộ mặt thật của những tổ chức đó. Ông cũng không thể ngồi chung bàn với những đối tượng mà từ lâu nghe đến tên người ta đã biết họ chỉ gắn với giới "dân chủ cuội", được các đài, báo phản động đăng tải.
Nguyên nhân của những sự việc trên đều một phần liên quan tới bệnh công thần, kiêu ngạo, đến chủ nghĩa cá nhân, xa rời tổ chức, coi thường kỷ luật Đảng, kỷ cương phép nước. Họ không ý thức được trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi của mình, đòi hỏi thái quá ở tổ chức, tự cao, tự đại... nên đã nảy sinh bất mãn, tiêu cực, để rồi bị các thế lực thù địch lợi dụng, lôi kéo, kích động. Trên thực tế, lớp lớp thế hệ cán bộ, chiến sĩ quân đội và các cựu chiến binh, cựu quân nhân vẫn tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng và nhân dân; luôn giữ gìn và phát huy truyền thống cao đẹp Bộ đội Cụ Hồ. Một vài người như trên chỉ là cá biệt, "con sâu làm rầu nồi canh".
Sinh thời, trong bài viết đăng trên Báo Cứu quốc ngày 17-5-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: “Người làm tướng có mưu trí bao giờ cũng lo lắng đến lợi, đến hại. Lo đến lợi mới có đủ tin tưởng làm trọn được nhiệm vụ. Lo đến hại mới tìm mưu kế để giải trừ được gian nguy”.
Ngẫm lời Bác, soi vào một số hiện tượng vừa qua, có người chỉ vì hư danh, ngộ nhận đã tiếp tay cho thế lực xấu, thù địch như vậy, quả thực đau lòng. Xưa nay, người lính nghỉ hưu về với đời thường, nhất là những cán bộ cao cấp phải là chỗ dựa của cấp ủy, chính quyền cơ sở, là cây cao bóng cả đối với thế hệ trẻ. Nhưng thật đáng trách, có người đã mắc sai lầm, phải trả giá rất đắt cho sinh mệnh chính trị, tên tuổi và danh dự của mình. Hậu quả để lại không chỉ với bản thân họ mà còn hết sức nặng nề đối với gia đình, con cháu, bạn bè, đồng đội.
Trung tướng Nguyễn Quốc Thước khi trao đổi với phóng viên đã tâm sự: "Thời ở chiến trường đánh Mỹ, kẻ thù thâm độc từng tung tin tôi-trung đoàn trưởng đầu hàng để gây hoang mang cho bộ đội. Thế mà nay, chính người là cán bộ nghỉ hưu của ta lại tung tin sai lệch về Đảng, về Nhà nước, quân đội thì nguy hiểm nào bằng". Thượng tướng, Anh hùng LLVT nhân dân Võ Tiến Trung cũng hết sức bức xúc và lo lắng khi một vị tướng đứng tên biên soạn cuốn sách có nhiều nội dung sai sự thật, trở thành miếng mồi “vô giá” cho các thế lực thù địch lợi dụng, xuyên tạc; thậm chí chúng còn tài trợ để xuất bản ở nước ngoài trong khi cơ quan chức năng của quân đội khẳng định nó sai quá nhiều, không đủ điều kiện để xuất bản.
Xuyên tạc, bịa đặt về quân đội, ảnh hưởng đến nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc là điều không thể chấp nhận, càng không thể chấp nhận khi đất nước đang đứng trước những khó khăn, thách thức. Trên thực tế, từng có người đã bị xử lý bởi thông tin bịa đặt về quân đội. Trước đây, có tờ báo đăng tải chuyện sĩ quan cấp tá tên Vũ Văn Nhồng ở một khu tập thể kinh doanh cà phê và chiếu phim sex gây mất an ninh trật tự, vị sĩ quan ấy đã bắn chết hai đứa con vì chúng dâm loạn khi xem phim. Thông tin ấy thực ra không có thật, bịa đặt trắng trợn khiến dư luận dậy sóng, cả khu tập thể quân đội bức xúc vì sự bịa đặt vu khống, bôi nhọ danh dự, uy tín của quân đội. Người dân đã viết đơn khởi kiện ra tòa án quân sự. Nhà báo viết bài sai sự thật đã phải ra tòa, bị xử 6 tháng tù treo. Thiết nghĩ, đó là bài học đắt giá vẫn còn nguyên tính thời sự.
Hiện nay, chúng ta phải luôn đề cao cảnh giác trước nguy cơ các thế lực thù địch lợi dụng, lôi kéo cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ, chiến sĩ LLVT, trong đó có cả sĩ quan cao cấp nghỉ hưu. Vừa qua, hầu hết những trường hợp TDB, TCH bị chúng lôi kéo đều là những người đã nghỉ hưu, ra quân, có mâu thuẫn, vướng mắc, nảy sinh bất mãn nên bị lợi dụng. Nhưng cũng có trường hợp chúng khai thác triệt để bệnh công thần, háo danh. Lại có trường hợp chúng lợi dụng cá tính bộc trực, thẳng thắn, lôi kéo cán bộ tham gia dưới cái mũ đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng, nhân danh lòng yêu nước, bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Có trường hợp chúng lợi dụng cán bộ thiếu thông tin, cán bộ bị bệnh tật, tâm lý không bình thường để kích động.
Để đẩy lùi hiện tượng trên, cùng với việc giữ mình, tự soi, tự sửa của từng cán bộ, đảng viên, kiên quyết không sai phạm, nếu có sai phạm phải kịp thời khắc phục, không để các thế lực thù địch và kẻ xấu lợi dụng, lôi kéo, kích động thì vai trò tổ chức đảng, đoàn thể các cấp, vai trò công tác bảo vệ chính trị nội bộ, công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên, trong đó có cả đảng viên nghỉ hưu hết sức quan trọng. Chúng ta phải dựa vào sức mạnh cộng đồng của cấp ủy đảng, đoàn thể, nhân dân nhằm giáo dục, thuyết phục, động viên người vi phạm nhìn ra khuyết điểm để sửa chữa khắc phục và đấu tranh, không để kẻ xấu làm hỏng cán bộ. Tuy nhiên, với những người cố tình vi phạm, coi thường tổ chức đảng, đoàn thể, coi thường đồng chí đồng đội và nhân dân, cố tình đi ngược, phá hoại lợi ích của đất nước và nhân dân thì cần phải kiên quyết xử lý.
Trước những hiện tượng công thần, kiêu ngạo, bị kẻ xấu lôi kéo phá hoại vừa qua, chúng ta càng thấm thía chủ trương, quan điểm của Đảng về việc phải xử lý, cách chức, thu hồi danh hiệu cả với những cán bộ nghỉ hưu gần đây. Ban đầu, từng có ý kiến cho rằng cách làm đó không hiệu quả nhưng Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng vẫn khẳng định đây là việc làm cần thiết, mang tính giáo dục cao, rất thấm thía đối với người bị xử lý. Quy định 102-QĐ/TW của Ban Chấp hành Trung ương về xử lý đảng viên vi phạm kỷ luật cũng đã nêu rõ thời hiệu kỷ luật lên tới 10 năm đối với những hành vi vi phạm đến mức phải kỷ luật bằng hình thức cảnh cáo hoặc cách chức và sẽ không áp dụng thời hiệu xử lý kỷ luật Đảng đối với những hành vi vi phạm đến mức phải khai trừ; vi phạm về chính trị nội bộ; về an ninh, quốc phòng, đối ngoại có xâm hại đến lợi ích quốc gia... Về lâu dài, chúng ta cũng cần nghiên cứu kinh nghiệm của các nước trên thế giới, như ở Đức, công chức hưu mắc sai phạm có thể phải chịu hình thức xử lý là giảm lương hưu hay truất lương hưu vĩnh viễn.
Chúng ta đồng tình và tiếp tục thực hiện chủ trương của Đảng trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay, như lời phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị lần thứ 11, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII mới đây, sau khi nhắc lại việc phải kỷ luật hơn 70 cán bộ cao cấp thuộc diện Trung ương quản lý: “Thật đau xót, nhưng không thể không làm, không có cách nào khác! Tất cả là vì sự nghiệp chung của Đảng, của đất nước, của nhân dân. Đây là bài học sâu sắc, bài học đắt giá cho tất cả chúng ta”. “… Bất cứ trường hợp nào mà vi phạm kỷ luật, chúng ta phải xử lý nghiêm minh, làm nghiêm từ trên xuống dưới để giữ vững kỷ cương, kỷ luật của Đảng, để lấy lại và củng cố niềm tin và tình thương yêu, quý trọng của nhân dân!”