Thứ Ba, 4 tháng 4, 2023

 

Tăng cường sự phối hợp giữa cơ sở đào tạo cao cấp lý luận chính trị và cơ quan quản lý cán bộ

(LLCT) - Mối quan hệ giữa cơ sở đào tạo và cơ quan cử cán bộ đi học được duy trì trong hầu hết các khâu của quá trình đào tạo cao cấp lý luận chính trị, đạt nhiều kết quả. Bên cạnh đó vẫn tồn tại một số hạn chế, bất cập cần khắc phục. Các giải pháp cụ thể là: thực hiện nghiêm túc các quy định của Trung ương; xây dựng quy chế phối hợp giữa các đơn vị; tổ chức kiểm tra nền nếp học tập, duy trì liên hệ giữa cơ sở đào tạo và cơ quan cử cán bộ đi học; đổi mới nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy và cách thức quản lý.

 

1. Mối quan hệ giữa Học viện và cơ quan quản lý cán bộ

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh là trung tâm quốc gia về đào tạo,  bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt, thực hiện các chức năng: (1) Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý trung, cao cấp của hệ thống chính trị, lãnh đạo chủ chốt của các đơn vị sự nghiệp công lập và doanh nghiệp nhà nước về: Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; những quan điểm, chủ trương và đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; những vấn đề lý luận và thực tiễn mới trong nước và trên thế giới, khoa học chính trị; khoa học lãnh đạo, quản lý. (2) Đào tạo cao cấp lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý đương chức và trong quy hoạch. (3) Bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ giữ các chức danh lãnh đạo, quản lý của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị theo phân công, phân cấp(1). Có thể khẳng định, Học viện là một trong các cơ sở đào tạo cao cấp lý luận chính trị quan trọng của Đảng. Trong những năm qua, Học viện có sự phối hợp chặt chẽ với Ban Tổ chức Trung ương và các địa phương trong công tác đào tạo cao cấp lý luận chính trị: xây dựng kế hoạch đào tạo dài hạn, ngắn hạn; xây dựng kế hoạch về thời gian, hình thức và chỉ tiêu tuyển sinh; khai giảng, bế giảng, quản lý và trực tiếp giảng dạy các lớp cao cấp lý luận chính trị. Học viện đã cùng với Ban Tổ chức Trung ương thống nhất quản lý danh sách học viên cả đầu vào và đầu ra; phối hợp với các địa phương trong việc tổ chức thực hiện chương trình đào tạo cao cấp lý luận chính trị. Các chủ thể tham gia quản lý học viên tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, bao gồm: Vụ Quản lý đào tạo; Viện Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý; Ban Thanh tra; Trung tâm Khảo thí và Đảm bảo chất lượng đào tạo; Văn phòng Học viện.

Cơ quan quản lý cán bộ, công chức là cơ quan, tổ chức, đơn vị được giao thẩm quyền tuyển dụng, bổ nhiệm, nâng ngạch, nâng lương, cho thôi việc, nghỉ hưu, giải quyết chế độ, chính sách và khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ, công chức(2). Theo đó, cơ quan quản lý cán bộ bao gồm: Ban Tổ chức Trung ương, Bộ Nội vụ, Ban Tổ chức tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành, các Sở Nội vụ tỉnh, thành phố và các đơn vị trực tiếp sử dụng cán bộ.

Mối quan hệ giữa cơ sở đào tạo và cơ quan quản lý cán bộ được quy định như sau:

- Quy hoạch, xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ: Cơ quan quản lý cán bộ rà soát, xây dựng quy hoạch để cơ sở đào tạo lên kế hoạch giảng dạy định kỳ và hằng năm; đáp ứng nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của cơ quan quản lý.

- Tổ chức tuyển sinh: Hằng năm, Ban Tổ chức Trung ương khảo sát nhu cầu đào tạo cao cấp lý luận chính trị của các bộ, ban, ngành Trung ương và các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Trên cơ sở đó, Ban Tổ chức Trung ương xây dựng kế hoạch tuyển sinh và làm việc với các đơn vị có liên quan để giao chỉ tiêu tuyển sinh.

- Trong quá trình đào tạo: cơ sở đào tạo quản lý học viên về: ý thức tổ chức kỷ luật, chấp hành nội quy, quy chế và kết quả học tập. Học viện phối hợp với cơ quan quản lý cán bộ đánh giá kết quả đề tài nghiên cứu và đề án tốt nghiệp của Học viên. Học viện cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời các nội dung trên cho cơ quan quản lý cán bộ. Đây là một trong các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của cán bộ được cử đi học.

- Sau đào tạo - bồi dưỡng: Cơ quan quản lý cán bộ cần có sự đánh giá và cung cấp thông tin cho cơ sở đào tạo về chuyển biến nhận thức và khả năng vận dụng tri thức đã được trang bị vào công việc. Trên cơ sở đó, cơ sở đào tạo sẽ tiếp tục hoàn thiện chương trình đào tạo và đẩy mạnh đổi mới phương pháp giảng dạy, phương pháp quản lý học viên đáp ứng yêu cầu mới.

2. Thực trạng công tác phối hợp giữa cơ sở đào tạo và cơ quan cử cán bộ đi học

- Về công tác tuyển sinh: có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan quản lý cán bộ và cơ sở đào tạo. Nhờ đó, công tác này thực hiện nhịp nhàng, tạo sự ổn định và nền nếp; góp phần nâng cao chất lượng đào tạo và công tác phục vụ lớp học. Căn cứ kế hoạch đào tạo của Ban Tổ chức Trung ương và nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ hằng năm, các tỉnh thành ủy giao cho Ban Tổ chức lựa chọn (sơ tuyển) học viên đủ điều kiện về chức vụ công tác, quy hoạch cán bộ, mức lương, độ tuổi,... theo tiêu chuẩn trong quy chế đào tạo gửi về Học viện xét tuyển đầu vào.

Trên cơ sở kế hoạch của Ban Tổ chức Trung ương, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh xây dựng và ban hành thông báo phân bổ chỉ tiêu đào tạo cao cấp lý luận chính trị trong hệ thống Học viện. Việc phân bổ chỉ tiêu dựa vào chức năng, nhiệm vụ; năng lực của các cơ sở đào tạo; vào địa bàn các cơ quan, đơn vị có nhu cầu đào tạo.

Đối với hệ không tập trung, mở lớp với các bộ, ban, ngành Trung ương; Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh, thành phố đại diện cho các vùng miền trên toàn quốc (theo cơ chế luân phiên hằng năm); đối với hệ tập trung: tuyển sinh từ tất cả các bộ, ban, ngành Trung ương và các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (với số lượng hạn chế ở từng cơ quan, đơn vị). Điều này góp phần giúp Học viện xác lập và khẳng định tính quốc gia và tính hệ thống trong đào tạo cao cấp lý luận chính trị.

Yêu cầu chung:  là đảng viên có bằng đại học. Đối với hệ đào tạo hoàn chỉnh kiến thức để cấp bằng cao cấp lý luận chính trị: là đảng viên; có bằng thạc sĩ hoặc tiến sĩ hoặc cử nhân lý luận chính trị văn bằng hai do các cơ sở đào tạo của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh cấp.

Về chức vụ: Trưởng phòng cấp huyện và tương đương trở lên (hoặc được quy hoạch vào các chức danh này). Phó Trưởng phòng cấp tỉnh và tương đương trở lên (hoặc được quy hoạch vào các chức danh này).

Về độ tuổi: Hệ tập trung, nam dưới 40 tuổi, nữ dưới 35 tuổi; hệ không tập trung, nam từ 40 tuổi trở lên, nữ từ 35 tuổi trở lên. Một số đối tượng được giảm 5 tuổi: nhà báo; cán bộ Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh; người có quân hàm Trung tá trở lên trong lực lượng vũ trang; người công tác tại vùng sâu vùng xa có thâm niên 3 năm trở lên; thư ký các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng; giảng viên chính, nghiên cứu viên chính; cấp trưởng đơn vị đi học tập trung không có người thay thế. Nam dưới 40 tuổi, nữ dưới 35 tuổi (đối với hệ tập trung). Quy định cũng có sự vận dụng tương đối linh hoạt đối với các trường hợp đặc biệt.

Quy trình xét duyệt: Cấp ủy của ban, bộ, ngành Trung ương; tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương lựa chọn cán bộ để giới thiệu tham gia xét tuyển; gửi về các cơ sở đào tạo của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Công văn đề nghị xét tuyển, kèm theo danh sách và hồ sơ của các ứng viên.

Cơ quan quản lý đào tạo nhận hồ sơ của các đơn vị theo Thông báo phân bổ chỉ tiêu của Giám đốc Học viện; lập danh sách trích ngang theo từng lớp (90 học viên đối với hệ không tập trung) hoặc theo từng cơ quan, đơn vị của người đi học (đối với hệ tập trung); tiến hành thẩm định, trình Hội đồng Tuyển sinh xét duyệt.

Hội đồng Tuyển sinh họp dưới sự chủ trì của Thủ trưởng cơ sở đào tạo, cho ý kiến đối với danh sách từng lớp. Trên cơ sở ý kiến kết luận của Chủ tịch Hội đồng Tuyển sinh, cơ quan quản lý đào tạo hoàn tất hồ sơ (trong đó có biên bản họp Hội đồng Tuyển sinh) gửi thẩm định: Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh gửi Ban Tổ chức Trung ương; các học viện trực thuộc gửi Học viện Trung tâm. Thời gian thông báo kết quả thẩm định là 10 ngày làm việc. Các cơ sở đào tạo tiến hành chiêu sinh theo kết quả thẩm định.

- Công tác quản lý học viên: Ban Tổ chức các tỉnh, thành ủy là thành viên chính thức của Ban chỉ đạo lớp học (Ban Tổ chức lớp học), phối hợp cùng Trường Chính trị tỉnh trong việc quản lý học viên, đánh giá học viên về quá trình rèn luyện theo quy chế trong suốt khóa học; cùng với Học viện giải quyết những vấn đề phát sinh trong suốt khóa học.

Với các lớp cao cấp lý luận chính trị tại chức mở tại các trường chính trị tỉnh và thành phố, có sự phân công rõ về trách nhiệm giữa các cơ sở đào tạo:

+ Các trường chính trị tỉnh và thành phố, các trung tâm đào tạo của các bộ ban ngành chuẩn bị cơ sở vật chất bao gồm giảng đường, các phương tiện giảng dạy, phương tiện đưa đón giảng viên, chỗ ăn ở của giảng viên.

+ Ký kết hợp đồng về toàn bộ các nội dung phục vụ khóa học, bao gồm: học phí, phương tiện đi lại, chỗ ăn ở sinh hoạt,...

+ Phối hợp với Viện Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý tổ chức việc thực hiện kế hoạch đào tạo, quản lý học viên, quản lý giảng viên.

+ Cùng với ban cán sự các lớp tổ chức sinh hoạt khi kết thúc đợt học, nắm bắt nguyện vọng của học viên phản ánh kịp thời với Ban Tổ chức lớp học từ đó có hướng giải quyết

+ Có trách nhiệm xem xét điều kiện thi của học viên về mặt chuyên cần theo quy chế.

- Công tác sử dụng cán bộ: sau các khóa học, toàn bộ học viên tốt nghiệp được quyết định gửi về Ban Tổ chức các tỉnh, thành ủy và bộ, ban, ngành. Ban Tổ chức tiếp nhận và điều động nhiệm vụ theo yêu cầu.

 Bên cạnh những kết quả đạt được trong công tác phối hợp, vẫn còn không ít những hạn chế, bất cập, đó là:

- Trong công tác tuyển sinh: Ban Tổ chức Trung ương thông báo Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng thường vào đầu năm, không song hành với Kế hoạch tài chính. Điều này cũng gây khó khăn cho quá trình tổ chức đào tạo. Một số tiêu chuẩn, tiêu chí về độ tuổi, chức vụ chưa rõ ràng; một số cơ quan quản lý cán bộ cố tình làm sai quy định, gửi danh sách ứng viên chưa đủ tiêu chuẩn, gây khó khăn cho quá trình xét tuyển của Học viện.

- Trong quá trình học: Công tác quản lý lớp còn chồng chéo; chưa có sự phân định chức năng, nhiệm vụ giữa cơ sở đào tạo và đơn vị phối hợp mở lớp, đơn vị đặt lớp. Ngay cả trong đơn vị phối hợp mở lớp cũng tồn tại sự bất cập trong mối quan hệ giữa Ban Tổ chức Tỉnh ủy với Trường Chính trị tỉnh. Điều này dẫn đến tình trạng có nhiệm vụ nhiều cơ quan cùng làm nhưng có nhiệm vụ không có đầu mối chịu trách nhiệm.

Học viên chưa chủ động thực hiện đề tài, đề án liên quan đến thực tiễn công việc, gắn đào tạo, bồi dưỡng với giải quyết các vấn đề thực tế công việc đặt ra. Cơ sở đào tạo và cơ quan cử cán bộ đi học chưa có sự phối hợp chặt chẽ trong việc giao đề tài nghiên cứu, đề án thực hiện hay đánh giá kết quả của học viên.

Chương trình học chưa gắn với nhu cầu của địa phương, ngành cử cán bộ đi học, chỉ thiên về khung chương trình của cơ sở đào tạo. Do đó, chưa có kiến thức thực tế đáp ứng nhu cầu của người học và đơn vị cử người đi học. Đơn vị cử cán bộ đi học chưa chủ động “đặt hàng” Học viện trong việc chuẩn bị các nội dung học tập cho ngành của mình.

Cơ quan quản lý cán bộ khi cử cán bộ đi học tập trung chưa kiên quyết yêu cầu cán bộ bàn giao toàn bộ công việc. Học viên vừa đi học vừa tham gia công việc ở cơ quan, dẫn đến chất lượng học tập bị ảnh hưởng.

- Sau khi kết thúc khóa học, học viên được gửi về Ban Tổ chức tỉnh, thành ủy. Từ đó, cơ quan cử cán bộ đi học và cơ sở đào tạo không có sự liên hệ nào. Đây là một trong những thiếu sót của công tác đào tạo cao cấp lý luận chính trị. Bởi lẽ nếu không có sự phản hồi thông tin của cơ quan cử cán bộ đi học thì cơ sở đào tạo sẽ thiếu căn cứ để đánh giá quá trình đào tạo. Do đó, việc điều chỉnh nội dung chương trình, đổi mới phương pháp... để nâng cao chất lượng đào tạo sẽ không sát thực tiễn. Mặt khác, việc đánh giá sự chuyển biến về nhận thức và hành động của cán bộ được cử đi học; khả năng đáp ứng nhu cầu công việc sau đào tạo, bồi dưỡng cũng không được tiến hành.

3. Một số giải pháp

Một là, thực hiện nghiêm túc các quy định của Trung ương về đào tạo cao cấp lý luận chính trị; tăng cường sự phối hợp đồng bộ từ Ban Tổ chức Trung ương, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và các tỉnh, thành, địa phương từ việc khảo sát tìm hiểu nhu cầu, số lượng, đối tượng học viên đến tổ chức thực hiện đào tạo nhằm chủ động hơn trong kế hoạch đào tạo và chuẩn bị hợp lý các nguồn lực. Thực hiện nghiêm túc Quyết định 164-QĐ/TW của Bộ Chính trị ngày 1-2-2013 Quy định về chế độ bồi dưỡng, cập nhật kiến thức đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; Nghị quyết số 32-NQ/TW ngày 26-5-2014 về Tiếp tục đổi mới nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý; rà soát, hoàn thiện chương trình đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh, chức vụ quản lý. Đặc biệt, cơ quan quản lý cán bộ cần xác định vấn đề thực tiễn đặt ra tại cơ quan, địa phương để định hướng, yêu cầu cán bộ cử đi học giải quyết; gắn việc học với thực tiễn công tác. Đồng thời, đây cũng là “đơn đặt hàng” với cơ sở đào tạo. Để làm được điều này, cần có cơ chế phối hợp chặt chẽ hơn giữa hai bên.

Hai là, xây dựng quy chế phối hợp giữa các đơn vị, đặc biệt là Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh với các tỉnh, thành, ban, ngành, tạo được sự đồng thuận cao trong công việc và cụ thể hóa cho từng chủ thể quản lý. Cơ quan Trung ương phân định rõ và quy định bằng văn bản công việc của các đơn vị có liên quan trong quản lý cán bộ được cử đi đào tạo cao cấp lý luận chính trị. Việc phân định này sẽ tránh được sự chồng chéo trong khâu quản lý, tổ chức lớp học, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, tạo tâm lý ổn định cho người học, người dạy và các cơ quan quản lý.

Ba là, tổ chức kiểm tra nền nếp học tập, duy trì liên hệ giữa cơ sở đào tạo và cơ quan cử cán bộ đi học. Việc thực hiện nội quy, quy định của cơ sở đào tạo về cả thời gian, học tập, tác phong, đạo đức là yêu cầu bắt buộc với học viên. Cần duy trì chế độ báo cáo thường xuyên giữa đơn vị cử người đi học với cơ sở đào tạo về việc thực hiện nền nếp học tập để đánh giá người học - cán bộ chính xác, toàn diện. Bên cạnh đó, cơ sở đào tạo cần đổi mới các hình thức kiểm tra, đánh giá người học, không chỉ qua điểm số các môn học mà cần kết hợp đánh giá chuyên cần, thực hiện nền nếp, nội quy lớp học. Trên cơ sở đó, các đơn vị cử cán bộ đi học, phối hợp với Học viện trong việc sử dụng kết quả này như một điều kiện, tiêu chuẩn khi bổ nhiệm cán bộ. Nếu phối hợp làm tốt công việc này thì đây sẽ là một giải pháp quan trọng trong quản lý học viên.

Bốn là, đổi mới nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy và cách thức quản lý. Cốt lõi của nâng cao chất lượng giảng dạy là giảng viên và nội dung chương trình. Giảng viên cần được học tập, bồi dưỡng thường xuyên để nâng cao chất lượng bài giảng cả về nội dung và phương pháp. Việc đổi mới đào tạo, bồi dưỡng cao cấp lý luận chính trị phải bảo đảm nguyên tắc lấy người học làm trung tâm; trọng tâm của hoạt động dạy là phát triển khả năng tự học và giải quyết vấn đề của người học; rèn luyện tư duy chiến lược cho người học; thực hiện kiểm định chất lượng độc lập các chương trình đào tạo. Cần xây dựng chuẩn đầu ra cho các chương trình đào tạo bắt đầu từ việc nghiên cứu, khảo sát nhu cầu của người học và cơ quan quản lý cán bộ, bảo đảm phù hợp với nhiệm vụ của mỗi học viên mà ngành cử đi học. Bên cạnh đó, cần nghiên cứu, so sánh, xây dựng chương trình đào tạo cao cấp lý luận chính trị trong bối cảnh, điều kiện mới để thực hiện hiệu quả hơn. Cần rà soát, loại những chuyên đề không cần thiết theo hướng tinh gọn và hiệu quả. Tăng cường các môn học thực hành, tăng thời gian tự học của người học. Cơ sở đào tạo cũng cần tăng cường trang bị cơ sở vật chất hỗ trợ việc giảng dạy và quản lý lớp. Việc giám sát hoạt động dạy học và nền nếp học tập của học viên có thể thực hiện bằng các phương tiện kỹ thuật hiện đại, bảo đảm khách quan, minh bạch, công bằng.

_________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 8-2018

 

(1) Ban Chấp hành Trung ương: Quyết định số 224-QĐ/TW ngày 6-1-2014 về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, thuvienphapluat.com.vn

(2) Quốc hội khóa XII: Luật Cán bộ, công chức năm 2008, Điều 7, http://vanban.chinhphu.vn

Nguồn : TS Nguyễn Văn Lượng

Viện Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý,

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh


 

Vấn đề tích tụ, tập trung ruộng đất qua các chính sách đất đai từ năm 1993 đến nay

(LLCT) - Để phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, an toàn và thân thiện với môi trường, những rào cản của tình trạng manh mún đất cần được tháo gỡ. Bài viết xem xét và phân tích những chuyển động chính sách ruộng đất của Việt Nam thời gian qua, làm rõ sự ảnh hưởng của chính sách đất đai đến quá trình tích tụ, tập trung ruộng đất nông nghiệp, từ đó nêu những vấn đề đang đặt ra cần có những giải pháp khả thi trong hoạch định và thực thi chính sách, góp phần thúc đẩy hỗ trợ sản xuất nông nghiệp hiện đại, hiệu quả.


1. Chính sách đất đai trong giai đoạn 1993-2013

Luật Đất đai năm 1993 ra đời đánh dấu sự thay đổi quan trọng trong chính sách đất đai của Việt Nam. Khắc phục hạn chế ở luật năm 1987, Luật Đất đai năm 1993 thừa nhận 5 quyền đất đai của người dân, bao gồm chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp quyền sử dụng đất. Nghị định 64/CP ngày 27-9-1993 cụ thể hóa các quy định giao đất nông nghiệp ổn định lâu dài cho hộ gia đình. Thời gian giao đất cho nông hộ nới rộng lên 20 năm. Cũng vào thời gian này, Nhà nước bắt đầu thừa nhận nhu cầu chuyển nhượng đất nông nghiệp của các nông hộ khi không còn nhu cầu sử dụng.

Năm 1995, cả nước có 7,35 triệu héc ta đất nông nghiệp, trong đó đất trồng cây hằng năm là 5,5 triệu héc ta. Cũng trong năm này, 7,3/10 triệu hộ nông dân đã được giao đất sử dụng lâu dài với tổng diện tích là 4,19 triệu héc ta(1). Ở các tỉnh, thành phố miền Bắc (trừ một số tỉnh miền núi) và duyên hải miền Trung, việc giao đất cho nông dân phần lớn kế thừa cách giao khoán đất trong thời kỳ thực hiện Nghị quyết 10 NQ/TW của Bộ Chính trị năm 1988. Ở một số tỉnh miền núi phía Bắc, Tây Nguyên và Nam Bộ, việc giao đất chủ yếu căn cứ vào hiện trạng ruộng đất để công nhận và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ gia đình. Vào thời điểm này, chỉ có khoảng 30% diện tích đất nông nghiệp trên cả nước được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nông dân. Hơn nửa số xã trong cả nước thực hiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho 35% số hộ trong xã(2).

Đến năm 1998, việc giao đất nông nghiệp đã căn bản hoàn thành trên phạm vi cả nước, có 60% số hộ nông dân với gần 65% diện tích đất nông nghiệp được cấp giấy chứng nhận. Những phần đất còn lại chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do còn nhiều vấn đề phức tạp trong thực tế chưa được giải quyết.

Đến năm 2000, gần 11 triệu giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp cho các hộ gia đình nông dân(3). Đến năm 2012, việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp đạt 85% diện tích đất nông nghiệp có giấy(4). Điều này thể hiện nỗ lực của các cơ quan thẩm quyền trong triển khai cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ dân. Vấn đề khắc phục tình trạng phân tán, manh mún ruộng đất được quan tâm, thể hiện cụ thể trong Chỉ thị số 10/1998/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủVề đẩy mạnh và hoàn thành việc giao đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp. Điểm 1, khoản B của Chỉ thị ghi rõ:“Khuyến khích các hộ nông dân chuyển đổi ruộng đất cho nhau để khắc phục tình trạng phân tán, manh mún hiện nay ngay trong quá trình thực hiện phương án giao đất theo Nghị định 64/CP ... Ủy ban nhân dân các cấp phải tổ chức chỉ đạo, tuyên truyền vận động, hướng dẫn cụ thể để giúp các hộ nông dân tự chuyển đổi đất cho nhau”(5).Thời kỳ này, nông nghiệp nước ta có bước phát triển vượt bậc so với nhiều thập niên trước về sản lượng và năng suất. Tuy vậy, đây cũng là giai đoạn nền nông nghiệp gặp nhiều thách thức trong lựa chọn giải pháp phát triển. Một mặt, Việt Nam muốn cải thiện nền nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, mặt khác tiến hành công nghiệp hóa với quyết tâm chuyển dịch lao động từ  nông nghiệp sang công nghiệp, dịch vụ và hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Do đó, vấn đề giảm thiểu tình trạng phân tán đất đai phải được giải quyết nếu muốn thực hiện cơ giới hóa, hiện đại hóa nền nông nghiệp.

Như vậy, sau Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (năm 1988), quá trình phân bổ đất đai đã chú ý tới 3 yếu tố là công bằng giữa các hộ, số người trong hộ và chất lượng đất. Sự phân bổ như thế đã dẫn đến phân tán cấu trúc sử dụng đất(6). Việc thực thi Luật Đất đai năm 1993 chính thức xác lập hiện trạng phân chia ruộng đất manh mún được xuất hiện trở lại khi các hợp tác xã giao đất cho nông dân sản xuất theo Chỉ thị 100 và sau đó là Nghị quyết 10.

Việc hạn chế tập trung ruộng đất tiếp tục thể hiện trong Nghị định 17/1999/NĐ-CP khi  quy định một hộ gia đình muốn thực hiện chuyển nhượng đất nông nghiệp phải thuộc diện chuyển đến nơi cư trú khác, hoặc chuyển sang kinh doanh, làm nghề khác, hoặc là hộ không còn ai đủ khả năng lao động (Điều 8). Thêm vào đó, một hộ gia đình muốn mua thêm đất nông nghiệp phải là những hộ chưa có đất hoặc có lượng đất dưới hạn mức quy định. Trong trường hợp chuyển nhượng đất lúa, hộ gia đình nhận chuyển nhượng phải là hộ trực tiếp sản xuất nông nghiệp (Điều 9). Trong khi đó giá cho thuê và giá chuyển nhượng đất do Nhà nước quy định đã không phản ánh đúng thị trường đất(7). Chính sách đất đai của Việt Nam cho đến cuối thập niên 1990 đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến thị trường đất nông nghiệp ở nông thôn giai đoạn này.

Như vậy, trong thập niên 1990, sự phân mảnh đất đai diễn ra mạnh mẽ. Tư duy phân mảnh quân bình ấy vốn tồn tại trong nền sản xuất tiểu nông. Một hệ quả tất yếu là thị trường đất đai chính thức không tồn tại “Rất dễ để quên rằng vào đầu những năm 1990 đất không hề có “giá” và thị trường đất đai không tồn tại(8), mà chỉ có thể diễn ra ở dạng phi chính thức (9).

Vấn đề tập trung đất đai bắt đầu được đặt ra ở thập niên 2000. Việc dồn điền, đổi thửa nhằm giảm tình trạng manh mún đất đai, đồng thời vẫn đảm bảo quyền sử dụng đất của đa số nông dân đã được nêu trong Nghị quyết 15 NQ/TW ngày 18-3-2002 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001-2010. Đây là văn kiện chỉ đạo việc điều chỉnh chính sách đất đai của Việt Nam, được thể chế hóa tại Luật Đất đai năm 2003. Nghị quyết 15 nêu rõ “khuyến khích nông dân thực hiện "dồn điền, đổi thửa" trên cơ sở tự nguyện; nông dân được sử dụng giá trị quyền sử dụng đất để góp vốn cổ phần tham gia phát triển sản xuất, kinh doanh, liên doanh, liên kết...”(10).

Luật Đất đai năm 2003 ra đời thể hiện bước tiến mới trong chính sách đất đai của Việt Nam. Nhà nước thừa nhận các giao dịch chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, góp vốn bằng quyền sử dụng đất. Đất đai là hàng hóa tham gia vào thị trường bất động sản. Các quy định của Luật đã thừa nhận quyền chuyển nhượng của người sử dụng đất nhưng chưa đề cập cụ thể hạn mức nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Tại Điểm 3, Điều 71, Luật Đất đai 2003 nêu “hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân do Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định”(11). Nghị quyết số 1126/NQ-UBTVQH11 (năm 2007)  ban hành, quy định về hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân để sử dụng vào mục đích nông nghiệp. Theo đó, hạn mức nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất là không quá 6 héc ta đối với các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thuộc khu vực Đông Nam Bộ và khu vực đồng bằng sông Cửu Long; không quá 4 héc ta đối với các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương còn lại (Điều 2)(12).

Như vậy, qua gần 10 năm (từ năm 1999 với Nghị định 17 của Chính phủ đến năm 2007 với Nghị quyết 1126 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội) các quyền chuyển nhượng đất và nhận chuyển nhượng đất của người dân đã thực sự có đủ căn cứ pháp lý để thực thi, cho phép các giao dịch chuyển nhượng hợp pháp. Điều này có thể gây ra các hệ quả: Một là, trong khoảng thời gian từ khi Luật Đất đai 2003 có hiệu lực cho đến năm 2007, trước khi Nghị quyết 1126 ban hành, các giao dịch chuyển nhượng đã diễn ra và có thể dẫn tới việc một số người nhận, chuyển nhượng vượt quá hạn mức mà Nghị quyết số 1126 cho phép; Hai là, một bộ phận người dân có nhu cầu nhận chuyển nhượng đất có thể có tâm lý lo ngại có thể đất đai bị thu hồi do tích tụ thêm ruộng đất vượt hạn mức giao đất như trong Luật Đất đai 2003 nêu ra. Điều này góp phần làm cho tiến trình tích tụ đất đai trở nên chậm hơn.

2. Chính sách đất đai từ sau năm 2013

Luật Đất đai năm 2013 ra đời tiếp tục đánh dấu những thay đổi quan trọng trong chính sách đất đai của Việt Nam theo hướng ủng hộ các hoạt động đầu tư trên đất của người sản xuất bằng cách nới rộng thời hạn sử dụng đất nông nghiệp. Mặt khác, với luật mới, hạn mức về nhận chuyển quyền sử dụng đất cho các hộ nông dân cũng thay đổi “Hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân không quá 10 lần hạn mức giao đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân đối với mỗi loại đất quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 129 của Luật này” (Điều 130)(13). Điều này thể hiện nhận thức mới về việc sử dụng hiệu quả đất đai thông qua các biện pháp chính sách nhằm đáp ứng yêu cầu về tích tụ, tập trung đất đai để sản xuất theo hướng nông nghiệp hiện đại.

Theo Luật đất đai năm 2013, các hộ gia đình được giao đất lên tới 50 năm và sẽ tiếp tục được gia hạn nếu hộ gia đình có nhu cầu tiếp tục sử dụng đất cho sản xuất sau khi thời hạn trên kết thúc (Điểm 1, Điều 126). Luật mới cho phép tích tụ đất đai thông qua nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất với hạn mức lên tới tối đa gấp 10 lần hạn mức giao đất, hoặc tập trung đất thông qua hình thức cho thuê đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất.

Một điểm đáng lưu ý về hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất trong chính sách đất đai của Việt Nam từ năm 2013 đến nay là nếu các giao dịch chuyển nhượng đã diễn ra trước ngày 1-7-2007 (trước khi Nghị quyết 1126/NQ-UBTVQH11 có hiệu lực và đã tiến hành đăng ký chuyển nhượng thì diện tích vượt hạn mức được tiếp tục sử dụng như đối với đất nông nghiệp trong hạn mức nhận chuyển nhượng. Còn lại, những người nhận chuyển nhượng từ sau 1-7-2007 cho đến trước khi Nghị định 43/2014 có hiệu lực từ sau ngày 1-7-2014 và đã đăng ký chuyển nhượng thì các hộ gia đình, cá nhân được tiếp tục sử dụng đất và chỉ phải chuyển sang thuê đất đối với phần diện tích vượt hạn mức nhận chuyển quyền.

Tuy nhiên, quá trình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của Việt Nam vẫn diễn ra khá lâu trong khi đã liên tục có những điều chỉnh chính sách pháp luật về đất đai. Do đó, lượng giao dịch chuyển nhượng mà không đăng ký (vì chưa nhận giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) có thể nhiều hơn rất nhiều so với số đăng ký. Có thể một số nhận chuyển nhượng với diện tích đất lớn, nhưng không đủ giấy tờ để tiến hành đăng ký chính thức. Khi các quy định thay đổi, người nắm giữ nhiều đất đai gặp những rủi ro nhất định. Do đó, hệ quả tất yếu của quá trình điều chỉnh chính sách cùng với những biến đổi mau chóng của thị trường đất đai có thể đã bỏ lỡ những cơ hội tích tụ, tập trung đất đai sản xuất nông nghiệp.

Luật Đất đai năm 2013 quy định giới hạn nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp của cá nhân và hộ gia đình (Điều 130)(14), nhưng lại chưa có quy định về hạn mức mà doanh nghiệp có thể nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp từ các chủ thể như hộ gia đình, cá nhân hoặc các doanh nghiệp, tập đoàn, hay các cơ sở khác. Tuy nhiên, Nghị định 91/2019/NĐ-CP Về xử phạt hành chính trong lĩnh vực đất đai lại có quy định rất rõ về mức xử phạt và biện pháp xử lý đối với các hành vi vi phạm vượt hạn mức nhận chuyển nhượng đất nông nghiệp (Điều 29)(15). Biện pháp xử lý là các bên trả lại cho nhau phần đất giao dịch chuyển nhượng, nếu không thể thực hiện, Nhà nước sẽ tiến hành thu hồi phần diện tích vượt hạn mức này.

Thời hạn sử dụng đất của doanh nghiệp nhận chuyển nhượng đất nông nghiệp lên tới 70 năm, theo quy định tại Khoản 3, Điều 126 Luật Đất đai năm 2013  và Điều 2, Khoản 29, Nghị định 01/2017/NĐ-CP(16). Theo Nghị định 01, khi hết thời hạn sử dụng 70 năm, nếu doanh nghiệp tiếp tục có nhu cầu sử dụng đất sẽ được Nhà nước xem xét gia hạn. Tuy nhiên, doanh nghiệp sẽ phải chuyển sang hình thức thuê đất của Nhà nước. Với quy định này, một lần nữa chính sách đất đai của Việt Nam tiếp tục khẳng định quan hệ sở hữu toàn dân về đất đai mà Nhà nước nắm giữ quyền sở hữu, còn cá nhân, hộ gia đình và các loại hình tổ chức khác chỉ giữ quyền sử dụng đất. Sau thời hạn sử dụng 70 năm, doanh nghiệp sẽ phải đối diện với vấn đề đất đai mà họ nhận chuyển nhượng (theo giá thị trường mua bán tại thời điểm giao dịch) sẽ trở thành đất của Nhà nước và chỉ có thể thuê lại để tiếp tục sản xuất nếu được cấp phép. Quy định về thời hạn sử dụng đất đối với doanh nghiệp ở Nghị định nêu trên có thể sẽ làm cản trở quá trình tích tụ đất đai. Bởi trong xu thế vận động của nền kinh tế, đất đai được giao dịch qua nhiều lần chuyển nhượng giữa các chủ thể sử dụng khác nhau, khi những động thái chuyển dịch đất đai đẩy tới khả năng vượt ngưỡng khỏi giới hạn sản xuất ở hình thái sản xuất hộ gia đình để chuyển sang các chủ thể sử dụng đất khác như doanh nghiệp, hợp tác xã hay các tập đoàn, thì một vấn đề đặt ra là quyền sử dụng đất lâu dài sẽ thuộc về ai (Nhà nước, hay nông dân, hay doanh nghiệp/hợp tác xã/tập đoàn) sau khi thời gian sử dụng đất 70 năm kết thúc?

Tình trạng manh mún đất đai ngày nay tác động đến sản xuất nông nghiệp. Để tăng hiệu quả sản xuất nông nghiệp cần cơ giới hóa, tăng diện tích sản xuất(17).  Tuy nhiên hạn mức nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong nông nghiệp, cụ thể đối với đất cây hàng năm 30 hecta, đất cây lâu năm 100 héc ta và đất rừng 300 héc ta như quy định ở Luật Đất đai năm 2013 là khá phù hợp đối với các nông hộ với trình độ sản xuất ở nước ta(18) và  phù hợp với sản xuất quy mô hộ gia đình. Nhưng khi sản xuất cần tiếp tục mở rộng, cần huy động và liên kết giữa nhiều đơn vị sản xuất để thành lập các công ty, các doanh nghiệp, các tập đoàn lớn thì hạn mức về đất đai là một thách thức đối với các nhà đầu tư. Do đó, chính sách đất đai trong thời gian tới cần tiếp tục điều chỉnh để có những quy định mới, phù hợp, mở đường cho các giao dịch hợp pháp, hỗ trợ doanh nghiệp nông nghiệp phát triển.

Trong những năm gần đây, Việt Nam đã và đang có nhiều điều chỉnh tiếp tục trong chính sách đất nông nghiệp kể từ sau năm 2013 đến nay như ban hành các quy định rõ ràng, phù hợp với từng bối cảnh địa phương về cánh đồng lớn (năm 2016), ban hành quy định về việc doanh nghiệp có thể nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp để đầu tư vào nông nghiệp (năm 2017), tổ chức thí điểm áp dụng chính sách khuyến khích tập trung đất đai qua các biện pháp hỗ trợ giá thuê đất ở một số địa phương. Những bước điều chỉnh quan trọng này trong chính sách đất đai đang tạo ra cơ sở pháp lý cho phép các giao dịch trên thị trường đất nông nghiệp được thực hiện hiệu quả hơn và mở rộng cơ hội phát triển doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. Đó là những điều mà cách đây 30 năm các nhà làm chính sách chưa đề cập tới. Tuy nhiên, việc sử dụng và cấp quyền sử dụng đất đai hiện nay một lần nữa lại đặt ra những vấn đề mà các nhà chính sách cần nhìn nhận và dự báo về những tác động của chính sách đất đai đến sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn trong nhiều thập kỷ tới.

Trong tình hình hiện nay, vấn đề tích tụ, tập trung đất đai không chỉ quan trọng ở quan hệ quyền sử dụng đất mà một điểm quan trọng, cấp thiết không kém là làm sao để đất đai được sử dụng hiệu quả thông qua các hình thức liên kết mới giữa các chủ thể sử dụng đất. Do đó, những nỗ lực điều chỉnh chính sách cho phát triển nông nghiệp không chỉ cần thiết trong lĩnh vực ruộng đất mà còn cần đến những nỗ lực ở nhiều lĩnh vực khác, như lĩnh vực chuyển đổi số,  đầu tư doanh nghiệp, đào tạo nguồn nhân lực, tạo việc làm ngoài nông nghiệp.

__________________

(1), (2)  Văn kiện Quốc hội toàn tập, Tập VIII (1992-1997), Quyển 2 1994-1995: Báo cáo của Chính phủ về tình hình thi hành pháp Luật Đất đai (Do ông Tôn Gia Huyên, Tổng Cục trưởng Tổng cục ruộng đất đọc tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khoá IX, ngày 01-4-1995).

(3), (4) (6) OECD: “Các chính sách nông nghiệp Việt Nam 2015”, Nhà xuất bản OECD, Paris, https://www.oecd.org/countries/vietnam/OECD-Review-Agricultural-Policies-Vietnam-Vietnamese-Preliminaryversion.pdf

(5) https://thuvienphapluat.vn/van-ban/bat-dong-san/chi-thi-10-1998-ct-ttg-day-manh-hoan-thanh-giao-dat-cap-giay-chung-nhan-quyen-su-dung-dat-nong-nghiep-41451.aspx?v=d.

(7) Marsh, S. P. và MacAulay, T. G.,: Land reform and the development of commercial agriculture in Vietnam: policy and issues, Agribusiness Review – Vol,10 – 2002. ISSN, 1442-6951.

(8) Ngân hàng Thế giới: Sửa đổi Luật Đất đai để thúc đẩy phát triển bền vững ở Việt Nam – Bản tóm tắt các khuyến nghị chính sách ưu tiên rút ra từ các nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới. Hà Nội, tháng 9/2012. https://documents1.worldbank.org/curated/en/997881468328571984/pdf/707260WP0VIETN0ai0Final0Viet012Oct4.pdf

(9), (18) Đỗ Kim Chung: “Tích tụ và tập trung đất đai: cơ sở lý luận và thực tiễn cho phát triển nông nghiệp hàng hóa ở Việt Nam”,  Tạp chí Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, 2018,  16(4): Trang 412-424.

(10)https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Linh-vuc-khac/Nghi-quyet-15-NQ-TW-nam-2002-day-nhanh-cong-nghiep-hoa-hien-dai-hoa-nong-nghiep-139273.aspx?tab=7.

(11), (13), (14) https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Bat-dong-san/Luat-dat-dai-2013-215836.aspx.

(12) https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Bat-dong-san/Nghi-quyet-1126-2007-NQ-UBTVQH11-han-muc-nhan-chuyen-quyen-su-dung-dat-nong-nghiep-ho-gia-dinh-ca-nhan-de-su-dung-vao-muc-dich-nong-nghiep-53544.aspx

(15) https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Bat-dong-san/Nghi-dinh-91-2019-ND-CP-xu-phat-vi-pham-hanh-chinh-trong-linh-vuc-dat-dai-379364.aspx

(16) https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Bat-dong-san/Nghi-dinh-01-2017-ND-CP-sua-doi-nghi-dinh-huong-dan-Luat-dat-dai-337031.aspx

(17) Đặng Kim Sơn: “Tập trung hoá sản xuất, tích tụ đất đai phát triển nông nghiệp Việt Nam", Tạp chí Xã hội học, số 4-2017.

Nguồn : TS NGUYỄN THỊ MINH PHƯƠNG

Viện Xã hội học,

Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam

 

Nâng cao chất lượng sinh hoạt chuyên đề ở các chi bộ trong Đảng bộ Quân đội giai đoạn hiện nay

(LLCT) - Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng mạnh là do chi bộ tốt, chi bộ tốt là do các đảng viên đều tốt”(1). Quán triệt chỉ dạy của Người, các chi bộ trong Đảng bộ Quân đội đã không ngừng đổi mới, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng, xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. 

 

Trong những năm qua, Tổng cục Chính trị đã chỉ đạo các cấp ủy, chi bộ trong toàn quân quán triệt và thực hiện nghiêm các nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn của Đảng về nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ; các cơ quan, đơn vị tổ chức tập huấn, bồi dưỡng cho đội ngũ chi ủy viên, bí thư chi bộ về kỹ năng, nghiệp vụ tiến hành công tác đảng, công tác chính trị. Theo đó, nền nếp, chế độ sinh hoạt đảng, chất lượng sinh hoạt chi bộ ngày càng được nâng lên. Công tác chuẩn bị sinh hoạt được quan tâm đúng mức. Trong sinh hoạt, các chi bộ thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ. Số đảng viên tham gia sinh hoạt tại chi bộ đạt tỷ lệ cao, nhiều đảng viên tự giác, gương mẫu, tích cực tham gia góp ý kiến xây dựng nghị quyết chi bộ…

Các cấp ủy, chi bộ trong Đảng bộ Quân đội thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai sinh hoạt chuyên đề, bảo đảm đúng quy định, hướng dẫn của Đảng, sát yêu cầu nhiệm vụ và thực tiễn từng cơ quan, đơn vị. Kỹ năng, phương pháp chuẩn bị và tổ chức, điều hành sinh hoạt của bí thư chi bộ ngày càng được nâng lên. Sinh hoạt chuyên đề đã phát huy tác dụng trong thảo luận, phát huy tinh thần trách nhiệm, trí tuệ của mỗi đảng viên trong quyết định những nội dung lãnh đạo của chi bộ. Các đồng chí cấp ủy viên được phân công theo dõi, dự sinh hoạt với các chi bộ; gợi mở cho các chi bộ lựa chọn nội dung sinh hoạt đúng định hướng. Cơ quan chính trị và cán bộ đảm nhiệm công tác đảng, công tác chính trị đã phát huy tốt vai trò trong theo dõi, chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra các cấp ủy, chi bộ đổi mới nội dung, hình thức sinh hoạt chuyên đề.

Nội dung sinh hoạt chuyên đề của các chi bộ đa dạng, phong phú tập trung vào: Học tập và làm theo theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; triển khai thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật Nhà nước và các quy định của đơn vị; các giải pháp phòng, chống biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong chi bộ; đổi mới và nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ; công tác tạo nguồn, bồi dưỡng và phát triển đảng viên...

Từ năm 2018 đến nay, 100% các chi bộ đã duy trì và thực hiện nghiêm chế độ sinh hoạt định kỳ; có 99,8% các chi bộ quan tâm tổ chức sinh hoạt theo chuyên đề, trong đó, có 35% chi bộ tổ chức sinh hoạt chuyên đề từ ba đến bốn lần; 64,8% chi bộ tổ chức sinh hoạt từ một đến hai lần trong quý.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, sinh hoạt chuyên đề của một số chi bộ còn có hạn chế, khuyết điểm nhất định, như: Nội dung sinh hoạt chuyên đề có thời điểm chất lượng còn hạn chế; thời gian sinh hoạt chi bộ ngắn; các ý kiến tham gia thảo luận còn biểu hiện xuôi chiều…

Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên do nhiều nguyên nhân, cả khách quan và chủ quan, nhưng chủ yếu là nhận thức về yêu cầu, nội dung sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt chuyên đề của một số cấp ủy, chi bộ chưa đầy đủ. Việc xây dựng kế hoạch sinh hoạt chuyên đề chưa được quan tâm đúng mức. Công tác chuẩn bị nội dung sinh hoạt có chi bộ chưa kỹ. Phân công cán bộ, đảng viên chuẩn bị nội dung chuyên đề chưa được chú trọng. Phương pháp điều hành sinh hoạt của một số bí thư chi bộ thiếu linh hoạt…

Để nâng cao chất lượng sinh hoạt chuyên đề của các chi bộ trong Đảng bộ Quân đội, các cấp ủy cần tập trung thực hiện một số nội dung, biện pháp cụ thể như sau:

Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của chi ủy viên và bí thư chi bộ về nâng cao chất lượng sinh hoạt chuyên đề

Bí thư chi bộ là người chủ trì mọi mặt hoạt động của chi ủy, chi bộ. Chi ủy là hạt nhân đoàn kết, tiêu biểu về năng lực, trí tuệ của chi bộ, cơ quan lãnh đạo của chi bộ giữa hai kỳ đại hội. Đội ngũ bí thư, chi ủy viên là nhân tố rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến chất lượng sinh hoạt chuyên đề của chi bộ. Do đó, chất lượng sinh hoạt chuyên đề của các chi bộ trongĐảng bộ Quân đội được nâng cao khi đội ngũ chi ủy viên và bí thư chi bộ có nhận thức đúng, trách nhiệm cao về sinh hoạt chi bộ nói chung và sinh hoạtchuyên đề nói riêng.

Các cấp ủy, chi bộ trong Đảng bộ Quân đội cần tập trung lãnh đạo công tác tuyên truyền, giáo dục cho đội ngũ chi ủy viên và bí thư chi bộ nắm chắc vị trí, vai trò, tầm quan trọng của sinh hoạt chuyên đề; đồng thời quán triệt, triển khai thực hiện tốt các nghị quyết, chỉ thị, quy định, hướng dẫn của cấp ủy các cấp, nhất là Quy định số 104-QU/TW ngày 16-2-2017 của Quân ủy Trung ương “Một số vấn đề cơ bản về thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ của các tổ chức đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam”; Hướng dẫn số 12- HD/BTCTW ngày 06-7-2018 của Ban Tổ chức Trung ương về một số vấn đề nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ; Hướng dẫn số 1677/HD-CT ngày 28-9-2018 của Tổng cục Chính trị về “Một số vấn đề về nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ trong Đảng bộ Quân đội”; Hướng dẫn số 01-HD/TW ngày 28-9-2021 của Ban Bí thư “Một số vấn đề cụ thể thi hành Điều lệ Đảng”… Bên cạnh đó, cần tăng cường giáo dục, bồi dưỡng cho đội ngũ bí thư, chi ủy viên nắm vững các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng, quy trình, nội dung, hình thức, tính chất, yêu cầu của một buổi sinh hoạt chuyên đề có chất lượng; các kỹ năng cần thiết trong chuẩn bị, điều hành sinh hoạt chi bộ...

Công tác tuyên truyền, giáo dục phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, bằng nhiều hình thức, biện pháp linh hoạt, như: tổ chức học tập, sinh hoạt đảng; giao ban, hội ý; mở lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ, hội thi v.v.. Từ đó, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, trách nhiệm trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ của đội ngũ chi ủy viên, bí thư chi bộ, góp phần nâng cao chất lượng sinh hoạt chuyên đề cho các chi bộ trong Đảng bộ Quân đội.

Hai là, cần quan tâm xây dựng và thực hiện nghiêm kế hoạch sinh hoạt chuyên đề

Chi ủy mà trực tiếp là bí thư chi bộ chủ động nghiên cứu, quán triệt nắm vững các căn cứ và xây dựng kế hoạch sinh hoạt chuyên đề của chi bộ, báo cáo cấp ủy cấp trên đúng quy định. Sau khi có kế hoạch, đồng chí bí thư chi bộ phải có trách nhiệm triển khai và tổ chức điều hành chi bộ sinh hoạt nghiêm túc, đúng quy trình, thủ tục, nguyên tắc.

Ngoài các buổi sinh hoạt chi bộ định kỳ theo quy định, mỗi quý, ít nhất một lần, chi bộ cần tổ chức một buổi riêng để sinh hoạt chuyên đề và lựa chọn một số nội dung cần thiết, hoặc khâu yếu, mặt yếu của cơ quan, đơn vị làm chủ đề sinh hoạt. Việc chọn chuyên đề cần được phổ biến, thảo luận, thông qua các kỳ sinh hoạt để đảng viên tham gia chuẩn bị và thảo luận sôi nổi, có chất lượng, hiệu quả.

Ba là, phân công cán bộ, đảng viên chuẩn bị chuyên đề phải cụ thể, tỷ mỷ.

Chi ủy hội ý, thống nhất phân công đồng chí bí thư chi bộ, chi ủy viên hoặc những đảng viên am hiểu nội dung liên quan đến chuyên đề để chuẩn bị bằng văn bản. Trường hợp không thể chuẩn bị bằng văn bản thì bí thư chi bộ báo cáo cấp ủy cấp trên để xin ý kiến chỉ đạo, hướng dẫn nội dung, hình thức, phương pháp sinh hoạt cụ thể, bảo đảm chất lượng. Nội dung chuyên đề nên gắn sát thực tiễn từng cơ quan, đơn vị, tập trung khắc phục khâu yếu, mặt yếu, hoặc kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ gắn với thực hiện Chỉ thịsố05-CT/TW ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị, Chỉ thị số 87-CT/QUTW ngày 08-7-2016 của Thường vụ Quân ủy Trung ương về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh… Bí thư chi bộ trao đổi với chi ủy viên hoặc đảng viên được phân công về mục đích, yêu cầu, nội dung, phương pháp thực hiện chuyên đề; đồng chí được phân công có trách nhiệm nghiên cứu kỹ đề cương chuyên đề, sưu tầm, thu thập số liệu, tài liệu có liên quan để  xây dựng tham luận. Dự thảo chuyên đề phải được chi ủy (bí thư, phó bí thư) thông qua; báo cáo cấp ủy cấp trên trực tiếp và gửi cho đảng viên trước khi sinh hoạt nếu có điều kiện.

Bốn là, tổ chức buổi sinh hoạt chuyên đề đúng quy định

Bí thư thông báo thời gian, nội dung sinh hoạt chuyên đề và cung cấp bản dự thảo chuyên đề cho đảng viên nghiên cứu trước. Từng đảng viên chủ động chuẩn bị để tham gia phát biểu, thảo luận trong cuộc họp. Trong sinh hoạt chuyên đề, bí thư chi bộ là người chủ trì hội nghị; người được phân công chuẩn bị trình bày dự thảo chuyên đề trước chi bộ, báo cáo chuyên đề phải ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu, dễ nhớ. Chủ trì hội nghị định hướng, gợi ý và điều hành thảo luận. Cần phát huy dân chủ trong thảo luận, các đảng viên trong chi bộ tích cực phát biểu nêu nhận thức của cá nhân đối với chuyên đề và tác dụng của chuyên đề đối với bản thân, đóng góp ý kiến để hoàn thiện dự thảo chuyên đề, đồng thời đề xuất các biện pháp trong công tác lãnh đạo của chi bộ; chi ủy viên hoặc đảng viên được phân công tiếp thu, hoàn thiện chuyên đề; thông qua bí thư; gửi chuyên đề tới tổ đảng (nếu có), đảng viên trong chi bộ để nghiên cứu, học tập và báo cáo cấp trên theo quy định.

Năm là, tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát của cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp và cơ quan chính trị (trợ lý chính trị) đối với sinh hoạt chuyên đề

Đây là vấn đề thuộc về nguyên tắc, đồng thời là nhân tố bảo đảm cho sinh hoạt chuyên đề được tiến hành đúng hướng, chất lượng sinh hoạt chuyên đề ngày càng cao. Cấp ủy các cấp, trực tiếp, thường xuyên là bí thư đảng ủy, chính ủy, chính trị viên phải thường xuyên quán triệt sâu sắc các nghị quyết, chỉ thị của cấp trên về nâng cao chất lượng sinh hoạt chuyên đề; chủ động tham mưu cho đảng ủy đề ra chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo sát đúng, giúp các chi ủy, chi bộ và đội ngũ cán bộ, đảng viên quán triệt, thực hiện đạt hiệu quả thiết thực, góp phần nâng cao chất lượng sinh hoạt chuyên đề của các chi bộ; phân công các đồng chí ủy viên dự và trực tiếp chỉ đạo sinh hoạt chuyên đề; phát hiện những khuyết điểm, hạn chế để có biện pháp khắc phục kịp thời; đồng thời quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, phát huy vai trò của cơ quan chính trị (trợ lý chính trị), ủy ban kiểm tra trong hướng dẫn, kiểm tra, theo dõi việc chấp hành nền nếp, chế độ, nguyên tắc, nội dung, quy trình và việc thực hiện các chủ trương, biện pháp nâng cao chất lượng sinh hoạt chuyên đề.

Cơ quan chính trị (trợ lý chính trị) phối hợp chặt chẽ với ủy ban kiểm tra nghiên cứu các nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn của cấp trên, nhất là các quy định mới về sinh hoạt chuyên đề, chuẩn bị nội dung và tham mưu cho đảng ủy cụ thể hóa thành các văn bản hướng dẫn thực hiện; làm tốt công tác theo dõi, kiểm tra và thường xuyên nắm chắc chất lượng sinh hoạt chuyên đề; kịp thời phát hiện, giải đáp những bất cập, khó khăn, vướng mắc và đề xuất với đảng ủy xây dựng và triển khai kế hoạch bồi dưỡng năng lực, phương pháp, kỹ năng chuẩn bị và chủ trì sinh hoạt chuyên đề cho các chi bộ.

__________________

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.113.

Nguồn : NGUYỄN THÀNH VINH

  Trường Đại học Văn hóa Nghệ thuật Quân đội

Kiên định thực hiện chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ


Độc lập, tự chủ trong chính sách đối ngoại là khả năng tự quyết trong các vấn đề liên quan tới hoạch định và triển khai chính sách, chiến lược, hành động của mình, mà không chịu bất kỳ sức ép hay tác động, áp đặt từ các yếu tố bên ngoài, nhằm mục tiêu bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc. Độc lập, tự chủ còn là khả năng đứng vững, chống chịu trước mọi biến động của thời cuộc, thể hiện rõ tinh thần độc lập, tự cường, dựa vào chính mình để bảo vệ lợi ích của đất nước, dân tộc. Độc lập, tự chủ không đồng nghĩa với biệt lập. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, độc lập, tự chủ chính là sự chủ động tăng cường mở rộng hợp tác quốc tế, xử lý đúng đắn, hài hòa, cân bằng các mối quan hệ lợi ích dân tộc và giai cấp, quốc gia và thời đại. Và trong quá trình mở rộng hợp tác với thế giới, độc lập, tự chủ chính là “mỏ neo” quy định quá trình hội nhập quốc tế. Nói cách khác, độc lập, tự chủ của một quốc gia sẽ quyết định mức độ, phạm vi, chiều hướng hội nhập quốc tế của quốc gia đó.

Hiện nay, thế giới đang trong ngã rẽ của những biến chuyển liên quan đến cạnh tranh nước lớn cũng như những điều chỉnh chính sách của họ. Mọi động thái của các cường quốc đều ảnh hưởng, chi phối đến sự vận động, phát triển của thế giới. Trong môi trường quốc tế bất định, bất an đó, các nước, nhất là các nước nhỏ, đều chuẩn bị cho mình một tâm thế tự chủ, khả năng độc lập trước mọi biến động của tình hình, không ngả nghiêng, dao động, không chịu bất kỳ sức ép bên ngoài nào. Giữa muôn vàn quan hệ lợi ích đa chiều, chồng chéo, đan xen và sự cạnh tranh đối đầu quyết liệt giữa các nước lớn, sức ép của các nước lớn với các nước vừa và nhỏ cũng theo chiều hướng gia tăng, đòi hỏi phải có đối sách thận trọng, mềm dẻo và khôn khéo để duy trì quan hệ cân bằng, tạo thế đan xen lợi ích, giữ được thế trung lập và chính sách ngoại giao độc lập, tự chủ, tránh rơi vào tình trạng đối đầu hay lệ thuộc, vừa bảo vệ độc lập, chủ quyền, vừa bảo vệ hòa bình. 

Độc lập, tự chủ là mục tiêu cao nhất của cách mạng Việt Nam, là căn cứ quan trọng nhất để hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại của nước ta. Thực tiễn cách mạng Việt Nam trong quá trình đấu tranh, bảo vệ, giữ vững nền độc lập Tổ quốc, trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước đã cho thấy điều đó.

Sau hơn 35 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, hội đủ tiền đề nội lực để có thể phát huy thế mạnh, bảo đảm sự tự chủ trong các quyết sách liên quan đến vận mệnh phát triển và an ninh của đất nước. Điều này thể hiện rõ trong sự đi lên của đất nước, với cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín quốc tế ngày càng nâng cao. Việt Nam đã tích cực tham gia vào đời sống quốc tế, góp phần tạo dựng, duy trì, củng cố và gìn giữ môi trường hòa bình, an ninh, ổn định, phát triển. Đảm đương xuất sắc vai trò Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Chủ tịch ASEAN nhiệm kỳ 2020 - 2021, liên tục được bầu chọn vào các vị trí quan trọng trong các tổ chức khu vực, quốc tế là những minh chứng cho một Việt Nam ngày càng tự chủ, tự tin, độc lập. Trước những diễn biến mới, phức tạp của một số quốc gia, khu vực trên thế giới, Việt Nam vẫn luôn kiên trì, kiên định giữ vững lập trường đối ngoại, tạo dựng được lợi thế quốc gia và vị thế quốc tế. Do đó, việc cho rằng Việt Nam  cần đi theo và dựa vào một bên để làm điểm tựa chống lại bên khác như một số “luận điệu rao giảng”, sẽ chỉ là ảo tưởng, phi thực tế và vô căn cứ, NTM./.