Chủ Nhật, 3 tháng 3, 2024

Phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trong xây dựng nền biên phòng toàn dân

 

Chủ tịch nước đề nghị các ban, bộ, ngành, đoàn thể tiếp tục quan tâm, có những hành động, việc làm thiết thực, chung tay với Bộ đội Biên phòng bảo vệ vững chắc biên cương Tổ quốc.Sáng 1/3, tại Hà Nội, Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng long trọng tổ chức Lễ đón nhận Huân chương Chiến công hạng Nhì, kỷ niệm 65 năm Ngày truyền thống Bộ đội Biên phòng (3/3/1959-3/3/2024), 35 năm Ngày Biên phòng toàn dân (3/3/1989-3/3/2024).

Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng dự và phát biểu tại buổi lễ. Dự buổi Lễ có Thượng tướng Hoàng Xuân Chiến, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng; đại diện lãnh đạo ban, bộ, ngành Trung ương, địa phương, các lão thành cách mạng, Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Biên phòng… Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ gửi Lẵng hoa chúc mừng.

Diễn văn tại Lễ kỷ niệm, Trung tướng Nguyễn Anh Tuấn, Chính ủy Bộ đội Biên phòng nêu rõ, cách đây tròn 65 năm, thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 3/3/1959, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 100/TTg thành lập lực lượng Công an nhân dân vũ trang - nay là Bộ đội Biên phòng.

Ngày 3/3 hằng năm đã trở thành ngày truyền thống của lực lượng Bộ đội Biên phòng. Tại Kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa 11 đã thông qua Luật Biên giới quốc gia, trong đó xác định ngày 3/3 hằng năm là Ngày Biên phòng toàn dân.

Tại Lễ kỷ niệm, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng trân trọng trao Huân chương Chiến công hạng Nhì tặng lực lượng Bộ đội Biên phòng vì đã lập chiến công xuất sắc trong đấu tranh phòng, chống tội phạm sản xuất, mua bán, vận chuyển, tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Dịp này, Ban Tổ chức đã trao thưởng Bằng khen của Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng tặng các cá nhân, tập thể có thành tích xuất sắc trong thực hiện Ngày Biên phòng toàn dân, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.Phát biểu tại buổi Lễ, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng khẳng định, dưới sự lãnh đạo của Đảng, thấm nhuần lời dạy của Bác Hồ, sự quan tâm phối hợp của các cấp, các ngành, địa phương, sự thương yêu, đùm bọc, giúp đỡ của Nhân dân, 65 năm qua, Bộ đội Biên phòng luôn trung thành tuyệt đối với Đảng, tận tụy với Nhân dân, mưu trí, dũng cảm, vượt mọi khó khăn, gian khổ, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao; tích cực tham gia xây dựng, củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở, phát triển kinh tế - xã hội vùng biên, xây dựng nền biên phòng toàn dân vững mạnh, góp phần giữ vững từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc.

Chủ tịch nước cho biết, Bộ đội Biên phòng đã chủ động nghiên cứu, tham mưu cho Đảng, Nhà nước nhiều chủ trương, biện pháp bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia. Tích cực, chủ động, đấu tranh thành công nhiều chuyên án, vụ án về ma túy, mua bán người, vũ khí, vật liệu nổ, buôn lậu và gian lận thương mại; giải quyết các vụ phức tạp về an ninh trật tự ở khu vực biên giới...

Công tác đối ngoại Biên phòng được đẩy mạnh, góp phần vun đắp mối quan hệ đoàn kết, hữu nghị giữa Quân đội ta nói chung, Bộ đội Biên phòng nói riêng với lực lượng quản lý, bảo vệ biên giới các nước láng giềng và chính quyền, nhân dân hai bên biên giới.

Bằng trách nhiệm và tấm lòng cao cả, Bộ đội Biên phòng đã sáng tạo nhiều chương trình, phong trào, mô hình, cách làm hay, như: Nâng bước em tới trường - Con nuôi đồn Biên phòng; Thầy giáo quân hàm xanh; Thầy thuốc quân hàm xanh; Cán bộ biên phòng tăng cường xã; Điểm sáng văn hóa vùng biên; Mái ấm cho người nghèo và chiến sĩ nơi biên giới, hải đảo; Xuân biên phòng ấm lòng dân bản...

Mỗi cán bộ, chiến sỹ Biên phòng luôn xác định "Đồn là nhà, biên giới là quê hương, đồng bào các dân tộc là anh em ruột thịt", luôn bám địa bàn, gần dân, hiểu dân, cùng ăn, cùng ở, cùng làm, cùng nói tiếng dân tộc, tích cực giúp đỡ, hỗ trợ đồng bào xây dựng cuộc sống mới, được các cấp ủy, chính quyền và Nhân dân biên giới tin tưởng, đánh giá cao.

"Mỗi hành động đẹp, việc làm tốt của người chiến sĩ Biên phòng nơi biên giới, biển, đảo xa xôi đã góp phần tăng thêm niềm tin của Nhân dân với Đảng, Nhà nước và chế độ, làm sáng đẹp hơn hình ảnh "Bộ đội Cụ Hồ" trong thời kỳ mới", Chủ tịch nước nhấn mạnh.  

Chủ tịch nước nhận xét, 35 năm qua, Ngày Biên phòng toàn dân đã thực sự trở thành ngày hội toàn dân hướng về biên giới, hải đảo, tạo nên đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng, với nhiều hoạt động sôi nổi, ý nghĩa, để mỗi người dân phát huy lòng yêu nước, nâng cao ý thức cảnh giác, xác định trách nhiệm của mỗi người trong bảo vệ Tổ quốc, xây dựng nền biên phòng toàn dân vững chắc; tăng cường hơn sự đoàn kết hiệp đồng chiến đấu và giúp đỡ lẫn nhau giữa Bộ đội Biên phòng với Nhân dân và các lực lượng; không ngừng củng cố và phát triển tình đoàn kết, hữu nghị giữa nhân dân hai bên biên giới.Theo Chủ tịch nước, thành công của Ngày Biên phòng toàn dân một lần nữa khẳng định đây là một chủ trương đúng đắn, sáng suốt của Đảng, hợp lòng dân, phù hợp với thực tế đất nước, huy động được sức mạnh tổng hợp của toàn dân và cả hệ thống chính trị tham gia xây dựng, quản lý, bảo vệ an ninh biên giới, chủ quyền lãnh thổ quốc gia, xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định, hợp tác và phát triển.

"Biên giới quốc gia có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng đối với quốc phòng, an ninh, kinh tế và đối ngoại; là tài sản thiêng liêng, vô giá mà cha ông ta đã tạo dựng qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, với bao hy sinh, gian khó để gìn giữ và trao truyền cho các thế hệ con cháu hôm nay. Trước những diễn biến nhanh chóng và khó lường của tình hình thế giới, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc nói chung, quản lý, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia nói riêng bên cạnh thuận lợi, thời cơ còn nhiều khó khăn, thách thức, đặt ra những yêu cầu mới cao hơn", Chủ tịch nước nhấn mạnh.

Chủ tịch nước nêu rõ, Đảng ta khẳng định: "Bảo vệ biên giới quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chính trị và cả nước; dựa vào dân, dân là gốc, Nhân dân là chủ thể, "mỗi người dân biên giới là một cột mốc sống"; lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt, Bộ đội Biên phòng là lực lượng chuyên trách, lực lượng chiến đấu đầu tiên, bám trụ đến cùng để bảo vệ và giữ vững biên giới quốc gia".

Trước yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ biên giới, biển, đảo trong tình hình mới, Chủ tịch nước đề nghị Bộ đội Biên phòng, các cấp, các ngành, nhất là các địa phương biên giới nắm chắc, dự báo chính xác tình hình, nhất là tình hình ngoại biên liên quan đến công tác bảo vệ biên giới, chủ động có đối sách, biện pháp xử lý đúng, phù hợp, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống.

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm, tạo sự thống nhất về tư tưởng và hành động trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đối với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia, nhất là trên các địa bàn biên giới, biển, đảo.

Đẩy mạnh và tổ chức thật hiệu quả Ngày Biên phòng toàn dân trong cả nước, tạo nên phong trào sôi nổi, với các hoạt động thiết thực chăm lo cho Bộ đội Biên phòng và đồng bào các dân tộc nơi biên giới, hải đảo, huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị và toàn dân tham gia bảo vệ biên giới quốc gia, xây dựng nền biên phòng toàn dân vững mạnh.

Cùng với đó là tiếp tục nâng cao chất lượng công tác huấn luyện, đào tạo gắn với thực tế chiến đấu, công tác; ứng dụng thành tựu của khoa học - công nghệ trong quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia.

Duy trì nghiêm chế độ sẵn sàng chiến đấu, quản lý, bảo vệ vững chắc an ninh biên giới, chủ quyền, lãnh thổ quốc gia; đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi cho giao lưu, hợp tác, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước theo chủ trương hội nhập quốc tế của Đảng, Nhà nước.

Chủ tịch nước đề nghị phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong xây dựng nền biên phòng toàn dân và thế trận biên phòng toàn dân vững mạnh; xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc, xây dựng lực lượng bảo vệ biên giới rộng khắp, trong đó nhân dân là chủ thể, lực lượng vũ trang làm nòng cốt, Bộ đội Biên phòng là lực lượng chuyên trách, trực tiếp.

Phát huy vai trò đội quân công tác, Bộ đội Biên phòng tiếp tục tham gia xây dựng, củng cố hệ thống chính trị cơ sở, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xóa đói, giảm nghèo… trên địa bàn biên giới, hải đảo; là cầu nối vững chắc và tin cậy giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân.  

Thực hiện công tác đối ngoại quốc phòng, đối ngoại biên phòng, đối ngoại nhân dân linh hoạt, sáng tạo và hiệu quả; tập trung xây dựng Đảng bộ Bộ đội Biên phòng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, nâng cao chất lượng cán bộ, đảng viên.

Xây dựng Bộ đội Biên phòng theo hướng tinh, gọn, mạnh, hiệu lực, hiệu quả, khả năng sẵn sàng chiến đấu cao, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ công tác biên phòng và xây dựng Quân đội trong tình hình mới.  

Chủ tịch nước đề nghị các ban, bộ, ngành, đoàn thể Trung ương và cấp ủy, chính quyền các địa phương tiếp tục quan tâm, có những hành động, việc làm thiết thực, chung tay với Bộ đội Biên phòng bảo vệ vững chắc biên cương Tổ quốc, xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác, ổn định và phát triển.

Theo baotintuc.vn

Đưa tộc người tưởng như tuyệt chủng từ hang đá bước ra ánh sáng

 

(Dân trí) - Sau hàng chục năm, bộ đội biên phòng giúp người Chứt biết nói tiếng Kinh, đọc được chữ và làm ra hạt lúa. Tộc người này trước đó tưởng như đã tuyệt chủng, được phát hiện trong hang hốc, lùm cây.

Từ người lính đến người nhà

Những ngày này, cánh đồng của người dân bản Rào Tre (xã Hương Liên, huyện Hương Khê, Hà Tĩnh) có sự xuất hiện của nhiều màu xanh áo lính.

Họ là những cán bộ, chiến sĩ thuộc Tổ công tác Biên phòng bản Rào Tre (Đồn Biên phòng Bản Giàng, Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Hà Tĩnh), đến giúp người dân gieo cấy lúa vụ xuân hè.

Với những anh lính cắm bản, ngoài giữ vững an ninh trật tự, an toàn biên giới, việc giúp bà con dân tộc Chứt xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế, bài trừ hủ tục lạc hậu cũng là một trong nhiệm vụ rất quan trọng.Ngược dòng thời gian, những năm 1960, 18 người Chứt của tỉnh Quảng Bình băng rừng, lội suối đến sinh sống trong những lùm cây, hang hốc trên các dãy núi của huyện Hương Khê, Hà Tĩnh. Họ mưu sinh bằng nghề săn bắt, hái lượm, dùng lá cây kết lại che thân.

Trong những chuyến tuần tra biên giới, Bộ đội Biên phòng Hà Tĩnh phát hiện nhóm người này nên vận động họ rời núi rừng về định cư ở bản Giàng, xã Hương Lâm, huyện Hương Khê. Song, vốn dĩ quen với cuộc sống hoang dã nên chẳng bao lâu, họ lại bỏ bản vào rừng.

Đến năm 1990, tỉnh Hà Tĩnh quyết định thành lập bản Rào Tre dưới chân núi Ka Đay (xã Hương Liên, huyện Hương Khê) để đưa người Chứt ra sinh sống.

Bản Rào Tre nằm cách trung tâm thành phố Hà Tĩnh hơn 70km về hướng tây. Dân cư thưa thớt, lại nằm xa khu trung tâm khiến người dân khó khăn đủ đường. Bất đồng về ngôn ngữ và phong tục tập quán khiến họ trở nên dè chừng và sợ hãi những người ở miền xuôi lên.Nhưng bằng cả tấm lòng, những người lính biên phòng nơi biên giới Tổ quốc đã không ngần ngại hướng dẫn, chỉ dạy tận tình cho người dân.

Từ lao động sản xuất, vận động định canh, định cư, đến khám chữa bệnh và dạy chữ miễn phí, tổ công tác biên phòng còn tích cực tuyên truyền về chủ trương đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước. 

Là 1 trong 5 cán bộ đầu tiên về bản, Trung tá Nguyễn Văn Thiên (Tổ trưởng Tổ công tác bản Rào Tre) nhớ lại hành trình suốt hơn 15 năm đồng hành cùng bà con.

"Những ngày đầu lên bản, chúng tôi gặp rất nhiều khó khăn. Lúc đó, đường sá chưa thuận tiện, điện cũng chưa có, bà con chỉ mới vừa ra sinh sống nên nhiệm vụ chính của chúng tôi là cùng ăn, cùng ở, cùng làm với họ. Lâu dần, người dân đều xem chúng tôi như người thân thiết trong gia đình", Trung tá Thiên hồi tưởng.Để bà con sớm ngày hòa nhập với cộng đồng, Trung tá Thiên với vai trò là một thầy giáo đã trực tiếp dạy chữ, tập nói tiếng Kinh cho người dân.

Sau những nỗ lực không ngừng nghỉ, từng lớp học sinh được "thầy Thiên" giảng dạy nay đã trưởng thành, bước vào đời với hành trang mang theo đầy đủ tri thức, kỹ năng sống.

Có học sinh đi làm thêm ở xa, gửi tiền về nhà cũng chỉ tin tưởng thầy Thiên. Được học trò tin yêu, thầy Thiên vui vẻ nhận nhiệm vụ này, nhận tiền, rút tiền và đến tận gia đình trao cho người thân của các em.

"Ngoài ra, những vấn đề đại sự của thôn bản, bà con cũng tìm đến bộ đội để hỏi ý kiến. Sự tin tưởng của bà con đối với các chiến sĩ đã nâng lên thành tình cảm dành cho những người ruột thịt trong gia đình, để rồi dù đi xa họ cũng mãi nhớ về", Trung tá Thiên chia sẻ.Tổ công tác Rào Tre được UBND tỉnh Hà Tĩnh giao cho bộ đội Biên phòng Hà Tĩnh thành lập vào năm 2001 với nhiệm vụ chính giúp đỡ bà con dân tộc Chứt phát triển kinh tế - xã hội. Những ngày đầu, bà còn chưa biết cách sản xuất nông nghiệp, còn tồn tại nhiều hủ tục nên vấn đề trước mắt là tìm cách giải quyết vấn đề ăn ở cho người dân.Để làm được điều đó, các cán bộ, chiến sĩ đã thực hiện phương pháp "hành đi đôi với học". Nghĩa là, bắt tay vào thực hành cho ra kết quả trước sau đó mới nói lý thuyết. Nhờ phương pháp hướng dẫn phù hợp, đến nay cơ bản bà con đã có thể tự trồng lúa nước.

Thiếu tá Nguyễn Đức Long, quân y thuộc Tổ công tác Rào Tre, cho biết trước đây khi bà con ốm đau thường đi cúng thầy mo. Nhưng về sau, họ được cán bộ, chiến sĩ tuyên truyền vận động nên dần tiếp cận với y học hiện đại.

"Bà con đến phòng khám của chúng tôi ngay tại đồn vừa được miễn phí lại thấy hiệu quả hơn cách làm cũ nên dần tin tưởng và xóa bỏ được hủ tục", Thiếu tá Long nói.Để biết, hiểu và nắm rõ tâm tư, nguyện vọng của người dân, lực lượng biên phòng cắm bản phải thường xuyên đến thăm hỏi từng nhà.

Sau hàng chục năm, nhờ sự kiên trì, nỗ lực của lực lượng biên phòng cắm bản, cuộc sống của người Chứt đã thực sự hồi sinh. Bản này hiện có 46 hộ với 158 nhân khẩu. Họ sống trong những dãy nhà sàn kiên cố, biết làm ra hạt lúa, chăn nuôi trâu bò.

Về văn hóa, giáo dục và y tế, bản Rào Tre không còn trẻ em thất học, đạt 100% con em ở các độ tuổi được đến trường (7 học sinh đang theo học THPT, 14 học sinh THCS, 33 cháu tiểu học và 15 cháu mầm non). 

Đường giao thông trong bản đã được bê tông hóa, ruộng lúa nước được quy hoạch, làm hàng rào bán kiên cố. Đời sống của bà con từng bước được nâng lên, hôn nhân cận huyết cũng không còn khi có những "ông mối áo xanh" đồng hành.

Bộ Nội vụ thông tin về kế hoạch cải cách tiền lương từ 1/7

 

(Dân trí) - "Chúng tôi hết sức cố gắng và đảm bảo tiến độ thực hiện cải cách tiền lương từ 1/7", Quyền Vụ trưởng Vụ Tiền lương (Bộ Nội vụ) Nguyễn Bích Thu cho biết.

"Thực hiện Nghị quyết 27 của Trung ương về cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp, Kết luận 64 của Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII và Nghị quyết 104 của Quốc hội, Thủ tướng đã ban hành ngay Quyết định 135 ban hành kế hoạch triển khai thực hiện cải cách tiền lương", Quyền Vụ trưởng Vụ Tiền lương (Bộ Nội vụ) Nguyễn Bích Thu, cho biết tại cuộc họp báo Chính phủ chiều 2/3.

Với vai trò là cơ quan thường trực Ban Chỉ đạo tiền lương Nhà nước, bà Thu cho biết Bộ Nội vụ đã chủ trì, tham mưu một số việc.Theo đó, Bộ đã xây dựng tờ trình để báo cáo Bộ Chính trị các nội dung cụ thể về chế độ tiền lương mới; đánh giá tác động khi cải cách tiền lương đối với chính sách BHXH, trợ cấp ưu đãi người có công, các trợ cấp xã hội.

Bà Thu cho biết đây là các báo cáo Bộ Nội vụ triển khai ngay, tập trung làm sớm để báo cáo Bộ Chính trị cho ý kiến.

Đến nay, Bộ đã xây dựng hoàn tất tờ trình và đang trong quá trình hoàn tất hồ sơ, trình các cấp có thẩm quyền trước khi trình xin ý kiến Bộ Chính trị, làm cơ sở cho các cơ quan của Đảng, Chính phủ, Quốc hội ban hành văn bản.

Theo bà Thu, sau khi Bộ Chính trị có ý kiến, Bộ Nội vụ sẽ xây dựng nghị định ban hành chế độ tiền lương mới với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang. "Từ các năm sau cũng sẽ xây dựng các nghị định điều chỉnh chính sách tiền lương theo Kết luận 64 của Trung ương 8", bà Thu nói.

Một nhiệm vụ khác là Bộ Nội vụ sẽ phối hợp với các cơ quan để xây dựng các văn bản quy phạm xây dựng chế độ tiền lương mới.

Theo lộ trình, sau khi có ý kiến của Bộ Chính trị, Chính phủ sẽ ban hành Nghị định về chế độ tiền lương mới đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ ban hành Nghị quyết về chế độ tiền lương mới đối với cán bộ, công chức, viên chức thuộc các cơ quan của Quốc hội, HĐND, các ngành Tòa án, Kiểm sát và Kiểm toán.

Về phía các cơ quan Đảng, sẽ có quyết định của Ban Bí thư về chế độ tiền lương mới đối với cán bộ, công chức, viên chức cơ quan Đảng, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội.

Ngoài ra Bộ Nội vụ sẽ ban hành trên 10 thông tư để hướng dẫn triển khai thực hiện. "Chúng tôi hết sức cố gắng và đảm bảo tiến độ thực hiện cải cách tiền lương từ 1/7", bà Thu nhấn mạnh.

THÁNG GIÊNG KHÔNG CÒN LÀ “THÁNG ĂN CHƠI”

 Kết thúc chuỗi ngày nghỉ Tết Nguyên đán, phần lớn cơ quan, doanh nghiệp đã hoạt động trở lại. Tuy nhiên, một bộ phận lao động vẫn có tư tưởng tháng Giêng là tháng ăn chơi, khiến công việc bị giải quyết chậm chạp và trì trệ.

"Tháng Giêng là tháng ăn chơi" được bắt nguồn từ nền văn minh lúa nước khi đây là thường thời điểm nông nhàn. Nhưng liệu điều này có còn phù hợp với xã hội hiện đại?
Du xuân đi lễ là hoạt động chính của nhiều người dân trong thời điểm sau Tết Nguyên đán. Tuy nhiên, trên thực tế, vài năm trở lại đây hình ảnh xe biển xanh, lãnh đạo đi lễ chùa du xuân trong giờ làm việc đã giảm đi rất nhiều. Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Chỉ thị về việc đôn đốc thực hiện nhiệm vụ trọng tâm sau kỳ nghỉ Tết Nguyên đán, yêu cầu các Bộ, cơ quan, địa phương, tập thể, cá nhân liên quan theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao sau kỳ nghỉ Tết Nguyên đán phải tập trung ngay vào xử lý công việc, để tháng Giêng không còn là tháng ăn chơi như quan điểm dân gian.
"Xã hội ngày càng vận động tiến lên, đấy là quy luật của sự phát triển, của xã hội và của văn hóa, nên chúng ta cũng phải có những thay đổi cho phù hợp, không thể ăn chơi cả tháng Giêng được. Nếu cơ quan nào, nhất là cơ quan hành chính, chỉ lo đi lễ, tranh thủ trốn việc thì sẽ tạo nên tình trạng bê trễ, uể oải và gây xáo trộn công việc của xã hội. Gần đây, mọi người đã chuyển đi hình thức chỉ đi vào cuối tuần, chọn những lễ hội rất tiêu biểu để đi du xuân, trẩy hội", GS.TS Từ Thị Loan – Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Đào tạo, Viện Văn hóa nghệ thuật quốc gia Việt Nam chia sẻ.
Cả nước hiện có 8.000 lễ hội và phần lớn tập trung vào đầu năm. Đó cũng là phần nào lý do khách quan khiến nhiều người vui xuân mà có phần chểnh mảng trong công việc. Nhưng nếu nhìn ở góc độ tích cực, nhiều nơi đã biến thời điểm đầu năm là dịp để quảng bá du lịch, xúc tiến thương mại làng nghề. Như vậy, tháng Giêng không còn là tháng ăn chơi mà là thời điểm khơi nguồn sáng tạo hiệu quả cho cả người lớn và trẻ nhỏ.
Kỳ nghỉ lễ ở quốc gia nào cũng có. Theo các chuyên gia, điều quan trọng là cần phải có kế hoạch hợp lý giữa nghỉ ngơi, ăn uống, đi du xuân và bắt tay ngay vào công việc. Trong một xã hội văn minh, phát triển, cần làm rõ quan điểm làm ra làm, chơi ra chơi, đặc biệt là công chức không được sử dụng thời gian làm việc để đi du xuân.
VTV.vn

Chống luận điệu xuyên tạc về việc thực hiện nghĩa vụ quân sự

Thời gian gần đây, một số tổ chức, cá nhân thù địch, phần tử cơ hội chính trị, đối tượng bất mãn đã lợi dụng mạng xã hội để xuyên tạc việc thực hiện nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ công an nhân dân

Những năm qua, các địa phương trong cả nước đã tổ chức thực hiện chặt chẽ các khâu, các bước trong tuyển quân. Một số nơi đã trở thành điểm sáng trong công tác tuyển quân, đảm bảo “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, hoàn thành 100% chỉ tiêu tuyển quân được giao. Còn đối với hàng triệu thanh niên trên khắp đất nước, việc thực hiện nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ công an nhân dân đã trở thành niềm tự hào của tuổi trẻ và trách nhiệm của thanh niên Việt Nam để góp phần bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nhân dân.

Tuy nhiên, cứ đến mùa tuyển quân hàng năm, các thế lực thù địch lại ra sức xuyên tạc, chống phá, hòng làm suy giảm lòng tin của người dân vào môi trường Quân đội, Công an gây khó khăn cho công tác tuyển quân của các địa phương. Thường xuyên xuất hiện nhiều luận điệu so bì, toan tính, phân tích thiệt hơn. Chúng đánh giá rằng việc đi nghĩa vụ quân sự thiệt thòi hơn nhiều với việc ở nhà làm kinh tế … Một số kẻ xấu còn hướng dẫn thủ đoạn để “lách luật” khi khám tuyển, gây khó khăn cho công tác tuyển quân và bất ổn về an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Có những luận điệu so sánh, trong khi các nước quan tâm chăm lo đào tạo cho thanh niên lập nghiệp, làm ăn kinh tế thì “chỉ có Việt Nam mới bắt ép người dân đi nghĩa vụ quân sự, Công an”. Cần biết rằng, các nước trên đều có những quy định về việc thực hiện nghĩa vụ quân sự. Đơn cử như tại Hàn Quốc, gần như tất cả các nam công dân tuổi từ 18-35 của nước này đều phải thực hiện nghĩa vụ quân sự trong khoảng thời gian 21 tháng. Không một ai được miễn trừ dù là người có địa vị cao hay nhân vật của công chúng như diễn viên, ca sĩ nổi tiếng. Còn tại Singapore, tất cả những người vi phạm nghĩa vụ quốc gia đều phải đối mặt án phạt tiền tới 10.000 đô la Singapore, án tù với thời hạn không quá ba năm hoặc cả hai. Như vậy, tùy theo tình hình chính trị, quân sự của mỗi nước, chế độ nghĩa vụ quân sự được thực hiện một cách phù hợp chứ không phải như luận điệu của các thế lực xấu cho rằng, chỉ Việt Nam đưa ra quy định nghĩa vụ quân sự, Công an nhằm “o ép người dân”.

Bên cạnh đó, các thế lực thù địch đã lợi dụng mạng xã hội để đăng tải những hình ảnh, video được cắt ghép, dàn dựng để bóp méo sự thật, xuyên tạc về đạo đức, tác phong của cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội, Công an nhằm kích động một số người nhẹ dạ, cả tin, thiếu hiểu biết. Chúng tung tin thất thiệt rồi đưa ra những câu hỏi khả nghi, cho rằng “có sự lấp liếm, giấu nhẹm”. Những hình ảnh, video, được tung lên mạng thường lập lờ, võ đoán, không có địa chỉ cụ thể của cơ quan, đơn vị nào; lời lẽ miệt thị, vu khống trắng trợn, làm cho thanh niên và gia đình bán tín bán nghi dẫn đến đắn đo, do dự khi nhận thông báo khám tuyển, lệnh gọi nhập ngũ. Đây là sự xuyên tạc trắng trợn, không những nhằm bôi nhọ hình ảnh, uy tín của lực lượng Công an, Quân đội, gây ngờ vực trong nhân dân, mà còn nhằm gây mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, kích động người dân biểu tình, chống phá, kích động các quân nhân đào ngũ, chống đối việc thực hiện nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc…

Và thực tiễn đã chứng minh rằng, môi trường công an, quân đội là “ngôi trường lý tưởng” để các thanh niên rèn luyện, phấn đấu và trưởng thành. Thanh niên khi tham gia nghĩa vụ quân sự sẽ được bồi dưỡng, học tập, tiếp thu những kiến thức về chính trị, quân sự, văn hóa, khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ hữu ích cho bản thân. Từ đó có sự trưởng thành vượt bậc về nhận thức chính trị, nâng cao tinh thần yêu nước, nhận thức, ý thức cảnh giác cách mạng, có lập trường chính trị vững vàng. Sau khi thực hiện xong nghĩa vụ công an, quân đội, các thanh niên rèn luyện ưu tú sẽ được cử đi đào tạo để trở thành sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp nếu có nguyện vọng. Bên cạnh đó, các chiến sỹ nghĩa vụ xuất ngũ cũng được chính quyền địa phương nơi cư trú quan tâm, ưu tiên tuyển chọn, bố trí công việc phù hợp với khả năng. Tại Công an tỉnh Hưng Yên, trên cơ sở các quy định, hướng dẫn của Bộ Công an, Giám đốc Công an tỉnh đã chỉ đạo các phòng chức năng có liên quan ưu tiên đề xuất, tuyển chọn lại các chiến sỹ nghĩa vụ đã có bằng Đại học và có kết quả rèn luyện tốt trong thời gian tại ngũ để phục vụ lâu dài trong lực lượng Công an nhân dân. Bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ thiêng liêng, cao quý nhất. Lên đường làm nghĩa vụ quân sự, công an không chỉ là nghĩa vụ, trách nhiệm mà cao hơn cả đó còn là niềm tự hào của tuổi trẻ nói riêng và trách nhiệm của thanh niên Việt Nam nói chung để góp phần bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng, xây dựng, bảo vệ quê hương ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.

Ngăn ngừa suy thoái trong công nghiệp văn hóa

Tại Hội nghị toàn quốc về phát triển các ngành công nghiệp văn hóa (CNVH) Việt Nam, diễn ra ngày 22-12-2023 ở Hà Nội, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã nhấn mạnh yêu cầu: Cần có sự chuyển biến mạnh mẽ từ nhận thức, tư duy đến hành động, đổi mới tư duy, đột phá trong cách làm... đồng thời nhận diện thời cơ, thách thức của CNVH Việt Nam trong thời gian tới...

Công nghiệp văn hóa là một khái niệm có biên độ tư duy và phạm vi ứng dụng rộng, đa ngành, đa lĩnh vực, đa phương thức. Trên thế giới, tùy vào trình độ phát triển kinh tế-xã hội và đặc trưng văn hóa, mỗi quốc gia có cách phát triển CNVH khác nhau. Tại Việt Nam, CNVH trên thực tế đang là lĩnh vực khá non trẻ. Trong thời kỳ đổi mới, hội nhập, Đảng, Nhà nước ta đã có định hướng phát triển CNVH từ sớm và tư duy phát triển CNVH được bổ sung, phát triển qua từng nhiệm kỳ, từng giai đoạn phát triển đất nước. Tuy nhiên, việc đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống trên lĩnh vực này vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế.

 

Sự “lệch chuẩn” trong CNVH, từ những góc nhìn cận cảnh trên thực tế, có thể thấy, nó xuất phát từ nhận thức chưa đầy đủ về mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp phát triển CNVH của Đảng. Từ đó dẫn đến tư duy phiến diện trong một bộ phận tổ chức, cá nhân làm văn hóa. Lối tư duy ấy sinh ra cách làm thực dụng, “ăn xổi”. Đơn cử, tại TP Hồ Chí Minh, ngành công nghiệp giải trí có sự bứt phá, vươn lên bằng các mô hình xã hội hóa. Sự huy động các nguồn lực, trong đó có nguồn lực từ kiều bào và hợp tác quốc tế đã thổi một luồng gió mới cho thị trường giải trí ở TP Hồ Chí Minh.Hàng loạt mô hình sân khấu xã hội hóa, hãng phim tư nhân, công ty dịch vụ giải trí... ra đời, đem đến cho thị trường sự đa dạng về loại hình, phong phú về sản phẩm.

Nhìn từ khía cạnh văn hóa tư tưởng, có thể thấy, điều đáng lo ngại hiện nay chính là những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống trong CNVH. Để kiếm nhiều tiền, muốn nhanh chóng nổi tiếng, không ít tổ chức, cá nhân sẵn sàng sử dụng chiêu trò phản cảm bằng mọi giá. Sự xuất hiện nhan nhản các danh hiệu tự phong, kiểu như: “Nữ hoàng”, “ông vua”, “nam thần”, “thánh nữ”, “ngôi sao”... cùng việc “bội thực” các cuộc thi nhan sắc khiến tình trạng “lệch chuẩn” trong thị trường giải trí ngày càng phức tạp. Bên cạnh đó là sự “lệch chuẩn” về tư tưởng, nội dung tác phẩm.

Những ồn ào dư luận xoay quanh một số bộ phim điện ảnh, tác phẩm văn học thời gian qua cho thấy, nhiều giá trị cốt lõi của văn hóa, truyền thống dân tộc bị “hư cấu” theo những góc nhìn phiến diện. Phẩm chất anh hùng, lòng yêu nước hun đúc nên cốt cách dân tộc bị “pha loãng”, trở nên hời hợt, nhạt nhòa. Thậm chí, có lúc nó bị biến thành công cụ, chi tiết để chọc cười, câu khách...

Nguyên nhân căn bản của những hạn chế, bất cập nêu trên chính là do môi trường CNVH bị chi phối, ảnh hưởng bởi chủ nghĩa cá nhân. Thực trạng này đòi hỏi phải chấn chỉnh, khắc phục cách làm “ăn xổi”, manh mún, chụp giật; đồng thời phải đổi mới mạnh mẽ nhận thức, tư duy và hành động trong CNVH. 0Phát triển CNVH là xu thế tất yếu. Trong chiến lược phát triển Việt Nam hùng cường, tiềm năng, thế mạnh từ văn hóa dân tộc cần được khai mở, tận dụng, phát triển một cách mạnh mẽ, toàn diện. Đại hội XIII của Đảng xác định: “Khẩn trương triển khai có trọng tâm, trọng điểm ngành CNVH và dịch vụ văn hóa trên cơ sở xác định và phát huy sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam, vận dụng có hiệu quả các giá trị, tinh hoa và thành tựu mới của văn hóa, khoa học, kỹ thuật, công nghệ của thế giới”.

Để CNVH phát triển bền vững với tinh thần khẩn trương theo định hướng của Đảng, phương châm kết hợp “xây” và “chống”, “lấy xây để chống” cần được nhất quán từ chủ trương vĩ mô đến ứng dụng, phát triển các mô hình, loại hình từ cơ sở. Chính sách kinh tế trong văn hóa và văn hóa trong kinh tế được Đảng ta xác định trong Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII (năm 1998) chính là một trong những nguyên tắc nền tảng để đổi mới tư duy, hành động “xây” và “chống” trong CNVH. Mục tiêu phát triển đã được Chính phủ xác định rõ, đến năm 2030 đạt 7% tổng sản phẩm trong nước (GDP) từ CNVH.

Cơ cấu CNVH bao gồm nhiều lĩnh vực, song ưu tiên phát triển các ngành có nhiều lợi thế, tiềm năng, như: Điện ảnh, nghệ thuật biểu diễn, thủ công mỹ nghệ, quảng cáo, phần mềm và các trò chơi giải trí, truyền hình và phát thanh, thời trang, du lịch văn hóa...Các ngành ưu tiên phát triển cũng chính là những lĩnh vực chứa đựng nhiều yếu tố nhạy cảm. Thời cơ cho CNVH rất lớn, nhưng thách thức cũng đến từ chính yếu tố nhạy cảm của nó mà nhiều khi hiệu lực luật pháp không can thiệp được.

Để “xây” và “chống” có hiệu quả, phải lấy vũ khí văn hóa đạo đức đẩy lùi mầm mống phản văn hóa, quét sạch chủ nghĩa cá nhân trong hoạt động văn hóa. Mục tiêu kinh tế của CNVH không chỉ có việc nâng tầm, nâng chất lượng các yếu tố về nhân lực, vật chất, công nghệ... mà cần coi trọng giá trị cốt lõi của văn hóa. Cùng với đẩy mạnh công tác giáo dục lý luận chính trị, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong môi trường CNVH, cần phát huy vai trò của các tổ chức hội, đoàn, hiệp hội từ Trung ương đến địa phương trong quản lý, định hướng lao động nghề nghiệp của văn nghệ sĩ và doanh nghiệp.

Để “xây” tốt thì phải ngăn ngừa mầm mống suy thoái ngay từ tư duy, ý tưởng sáng tạo, biểu diễn, phổ biến tác phẩm. Vai trò nòng cốt của tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên trong các hội, đoàn, hiệp hội cần được đề cao để hội viên các ngành, các lĩnh vực có môi trường lao động, cống hiến lành mạnh, đúng định hướng của Đảng. Muốn CNVH phát triển bền vững, phải đầu tư có trọng tâm, trọng điểm để có tác phẩm lớn.

Những điểm mới về chiến lược “Diễn biến hoà bình” hiện nay

Hiện nay, bối cảnh thế giới luôn biến đổi với nhiều thách thức, phức tạp, khó dự báo. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, xung đột cục bộ diễn ra dưới nhiều hình thức, quyết liệt tiềm ẩn nhiều bất ổn đối với môi trường kinh tế, chính trị, an ninh quốc tế. Xu hướng đa cực, đa trung tâm, nổi lên với chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, cực đoan, chủ nghĩa nước lớn cường quyền, chủ nghĩa thực dụng…Tác động của đại dịch Covid-19, khiến thế giới rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng nhiều mặt(2). Với bối cảnh quốc tế và khu vực diễn biến phức tạp như vậy, chiến lược DBHB ngày càng được các thế lực thù địch, phản động thực hiện một cách tinh vi hơn, khó nhận diện để có thể ứng phó kịp thời. 

Về đối tượng của chiến lược DBHB ngày nay không chỉ là các nước XHCN và các nước phát triển theo hướng XHCN mà còn là những nước có chế độ chính trị khác. Trong tính chất đa dạng, phức tạp, đan xen, không đồng nhất hiện nay, đối tượng DBHB cũng thay đổi trên từng lĩnh vực, từng mối quan hệ…, nhưng suy cho cùng, những nước không cùng quỹ đạo, hoặc các quốc gia có vị trí địa lý mang tính chiến lược, thuộc khu vực cạnh tranh nhạy cảm, hoặc có vị thế mang tính nguy cơ, bất lợi ở các diễn đàn quốc tế đều được liệt vào đối tượng của chiến lược DBHB. 

Về bản chất, DBHB ngày nay không thay đổi, nhưng tuỳ vào từng đối tượng cụ thể, các thế lực phản động lựa chọn phương thức, thủ đoạn phù hợp để tiến hành chống phá. Nếu như trước đây DBHB coi trọng “dính líu để khuếch trương”, “can dự để mở rộng”, thì hiện nay chúng được khoét sâu vào mâu thuẫn nội bộ các nước XHCN, vào công tác lãnh đạo, quản lý, điều hành xã hội ở các nước này để chống phá.

Hoạt động phá hoại tư tưởng – chính trị diễn ra với nhiều hình thức khác nhau không chỉ dừng ở tuyên truyền, truyền bá các giá trị thù địch; mà còn kích động chống phá Đảng Cộng sản, Nhà nước XHCN.

Hoạt động phá hoại nền kinh tế - xã hội được tiến hành bằng phương thức kích thích, thúc đẩy khuynh hướng phát triển kinh tế thị trường tự do, tách khỏi sự lãnh đạo, quản lý của Nhà nước XHCN. Hoạt động phá hoại văn hoá – xã hội, như xuyên tạc, đả kích bản sắc văn hoá dân tộc, giá trị tinh thần XHCN; truyền bá văn hoá, lối sống thực dụng, vụ lợi cá nhân, tôn thờ đồng tiền…; tìm kiếm, móc nối, mua chuộc, lôi kéo, kích động trí thức, văn nghệ sĩ đối lập, bất mãn, thù địch với chế độ, làm cho hoạt động văn hoá, văn nghệ đi chệch hướng XHCN…

Hoạt động phá hoại an ninh, quốc phòng: phủ định nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối đối với lực lượng vũ trang; xuyên tạc chủ trương, đường lối về an ninh, quốc phòng; dùng mọi thủ đoạn phi chính trị hoá và trung lập hoá lực lượng vũ trang, thực chất là tìm cách loại bỏ công cụ trọng yếu bảo vệ Đảng, Nhà nước.

Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư diễn ra mạnh mẽ với sự bùng nổ các phương tiện truyền thông, sự nhanh nhạy của thông tin trở thành công cụ mới để các thế lực phản động thực hiện chiến lược DBHB. Thông qua các trang mạng xã hội, blog, “live stream”, website…cắt dán hình ảnh, xuyên tạc, tung tin thất thiệt với gán mác “tìm hiểu sự thật”, “sáng tỏ vấn đề” để nhào nặn thông tin, đưa ra những số liệu không kiểm chứng, căn cứ “giả khoa học” để làm sai lệch bản chất các sự kiện, bôi nhọ danh dự, uy tín lãnh tụ, anh hùng dân tộc; nghiêm trọng hoá các vấn đề xã hội nhằm gây tâm lý hoài nghi, dao động, hướng cộng đồng đến suy nghĩ lệch lạc, “tự diễn biến”, tự chuyển hoá”. Do đó, cần nhận diện và có những giải pháp thích hợp, trước hết, cần xác định công tác đấu tranh phòng, chống âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng, phải được triển khai tích cực, thường xuyên và lâu dài. Thứ hai, xây dựng đội ngũ cán bộ, lãnh đạo các cấp mạnh về số lượng và chất lượng. Thứ ba, xây dựng lực lượng nòng cốt, trình độ cao trong công tác đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”. Thứ tư, phát huy vai trò của báo chí, truyền thông đối với công cuộc đấu tranh phòng, chống “Diễn biến hoà bình”...

Với tính chất nguy hiểm, chiến lược DBHB cũng là một trong những nhân tố gây nên sự tan rã của chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu. Nhưng không có nghĩa lý tưởng, con đường XHCN đã chấm dứt, vì trên thực tế con đường này đã, đang và vẫn luôn là sự lựa chọn tất yếu của nhân loại khi ngày càng có nhiều nước vẫn tiếp tục đứng vững và phát triển theo khuynh hướng này. Để tiếp tục giữ vững sự lựa chọn này, giữ vững con đường này thì chúng ta phải nhận diện đúng và vạch rõ được bản chất, phương thức mới của chiến lược DBHB, từ đó định ra được phương thức đấu tranh phù hợp./. 

Nhận diện chiến lược "Diễn biến hòa bình" trong giai đoạn hiện nay

Trong bối cảnh hiện nay, chiến lược diễn biến hòa bình (DBHB) với những âm mưu, thủ đoạn ngày càng tinh vi, phức tạp, vì vậy chúng ta phải thực sự tỉnh táo, nhận diện đúng để có thể vạch trần bản chất và có phương cách phù hợp, hiệu quả.

Cách mạng tháng 10 Nga thành công (năm 1917) đã mở ra một thời đại mới trong lịch sử loài người, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản nhà nước xã hội chủ nghĩa được thành lập, phong trào Cộng sản phát triển khắp nơi. Đặc biệt sau chiến tranh thế giới thứ hai, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc bị áp bức trở thành một cao trào cách mạng; chủ nghĩa xã hội (CNXH) trở thành một trào lưu và phát triển thành hệ thống ở Đông Âu, Châu Á. Thuật ngữ “diễn biến hoà bình” xuất hiện lần đầu vào năm 1949 trong sinh hoạt chính trị quốc tế. Trong bức thư gửi Tổng thống Truman, Dean Akison – ngoại trưởng Mỹ lúc đó đã sử dụng khái niệm “diễn biến hoà bình” để chỉ sự chuyển hoá các nước XHCN thành TBCN. Chính vì vậy, từ những năm 50 các nước XHCN đã đề cập đến âm mưu DBHB và coi đấu tranh chống DBHB là một trong những nội dung quan trọng để bảo vệ thành quả, sự nghiệp CNXH.

Bước vào cuộc “chiến tranh lạnh”, bên cạnh việc đẩy mạnh sử dụng sức mạnh quân sự, các thế lực phản động tăng cường sử dụng các biện pháp tiến công về tư tưởng, văn hoá và lối sống bằng con đường tuyên truyền, phát thanh thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng; đẩy mạnh xâm nhập sách, báo, phim, ảnh… kích động tâm lý bất mãn trong một bộ phận nhân dân ở các nước XHCN, phổ biến lối sống thực dụng, tự do, ích kỷ cá nhân…; lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền” như một thứ vũ khí nhằm tăng thêm những mâu thuẫn, xung đột, phân hoá nội bộ các nước XHCN.

DBHB còn có những tên gọi khác nhau như “Chuyển hoá hoà bình”, “Biến đổi hoà bình”, “Cạnh tranh hoà bình”, “Chiến thắng không cần chiến tranh” … Song cho dù với tên gọi nào đi chăng nữa thì đây là cuộc chiến dựa trên phương thức tiến hành các hoạt động phi vũ trang, phi quân sự nhằm chuyển hoá chế độ CNXH.

Từ điển bách khoa quân sự Việt Nam đã định nghĩa: “Diễn biến hòa bình” là chiến lược cơ bản của các thế lực thù địch nhằm lật đổ chế độ chính trị - xã hội của các nước tiến bộ, trước hết là các nước xã hội chủ nghĩa từ bên trong, chủ yếu bằng các biện pháp phi quân sự(1). Mục tiêu của chiến lược DBHB là xoá bỏ chế độ CNXH trên phạm vi toàn thế giới. Mục tiêu cuối cùng là phải xoá bỏ tận gốc CNXH với tư cách là một con đường phát triển chứ không chỉ dừng lại ở một chế độ xã hội.

Bản chất của chiến lược DBHB là quá trình dịch chuyển mâu thuẫn, xung đột từ bên ngoài vào bên trong các nước XHCN; từng bước hình thành những nhân tố chống XHCN từ trong nội bộ Đảng Cộng sản cầm quyền; kích động các tầng lớp xã hội nổi dậy đấu tranh làm suy yếu, mất niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, vào con đường CNXH. Đó là quá trình “tự diễn biến”, “tự sụp đổ, tan rã” của chế độ XHCN mà không cần phải dùng đến chiến tranh quân sự.

Phạm vi của chiến lược DBHB được thực hiện một cách toàn diện trên hầu khắp các lĩnh vực của đời sống xã hội và có sự kết hợp chặt chẽ giữa các biện pháp chính trị, tư tưởng, kinh tế, xã hội, lấy ngoại giao và quân sự làm hậu thuẫn và răn đe. Trong đó, chống phá về tư tưởng được xác định là mũi nhọn hàng đầu, tôn giáo và dân tộc làm ngòi nổ, kinh tế làm đòn bẩy và “mồi nhử” tạo sự ràng buộc, phụ thuộc. 

Thực chất, chiến lược DBHB là căn cứ vào tình hình, diễn biến từng nước XHCN để tạo nên những nhân tố chống chế độ bên trong mỗi nước để tác động, tấn công một cách thích hợp trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, tư tưởng, văn hoá, quân sự, ngoại giao…, trong đó mặt trận tư tưởng nổi lên hàng đầu. 

Sự xuyên tạc, kích động thâm hiểm về nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển

Thời gian qua, trên các trang mạng xã hội, các thế lực thù địch, phản động, một số tổ chức, cá nhân thiếu thiện chí với Việt Nam đã trắng trợn xuyên tạc chủ trương, đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta có liên quan về vấn đề chủ quyền biển, đảo Việt Nam. Họ vu cáo rằng, Đảng, Nhà nước và Quân đội ta “không kiên quyết bảo vệ chủ quyền biển, đảo và lợi ích quốc gia trên biển”, “lúc nào cũng chỉ muốn đối thoại, đàm phán hòa bình nên để nước ngoài lấn tới...”; "không đủ năng lực và không đủ quyết tâm để bảo vệ chủ quyền biển, đảo”...

Từ đây, các đối tượng ra sức xuyên tạc sự thật về mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước có biển trong khu vực Biển Đông; tuyên truyền chủ nghĩa dân tộc cực đoan, tâm lý bài nước này, thân nước kia; kích động sự chống đối Đảng, Nhà nước; hạ thấp vị thế, vai trò, sức mạnh của Quân đội; phá hoại, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Họ kêu gọi Đảng, Nhà nước ta phải từ bỏ chính sách đối ngoại quốc phòng “4 không”, đòi Đảng ta “thực hiện liên minh quân sự” để bảo vệ chủ quyền biển, đảo, bảo vệ lợi ích quốc gia trên biển... 

Có thể thấy, những luận điệu trên hoàn toàn là sự xuyên tạc trắng trợn, kích động với dụng ý phá hoại. Sự thật là nhiệm vụ bảo vệ biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc luôn được Đảng, Nhà nước, Quân đội ta đặc biệt coi trọng, đang được tiến hành một cách đồng bộ, bài bản, kiên quyết, kiên trì, kiên cường và khôn khéo.

Thứ nhất, đường lối, chính sách, các chiến lược, kế hoạch... phát triển đất nước của Đảng, Nhà nước ta từ trước đến nay đều khẳng định rất rõ ràng, biển, đảo là một bộ phận lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc; lợi ích quốc gia trên biển là vấn đề trọng yếu, thường xuyên và lâu dài của Việt Nam. Ngay từ thời điểm đang phải dồn toàn lực để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, dù khó khăn trăm bề, Đảng, Nhà nước, Quân đội ta đã kịp thời đưa lực lượng, phương tiện đi giải phóng các đảo từ tay chế độ cũ, thể hiện tầm nhìn trong việc bảo vệ chủ quyền biển, đảo quốc gia.

Trong suốt những năm qua, Việt Nam luôn kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo và tất cả lợi ích hợp pháp, chính đáng trên biển Việt Nam đã được luật pháp quốc tế và Hiến pháp, pháp luật Việt Nam quy định. Đảng, Nhà nước, Quân đội ta đã nhiều lần phát ngôn công khai, khẳng định rõ lập trường, quan điểm nêu trên. Hệ thống quan điểm của Đảng ta về công tác đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo ngày càng được hoàn thiện, phát triển. Điều đó được thể hiện rõ qua các văn kiện của mỗi kỳ đại hội Đảng. Gần đây nhất, Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định, bổ sung, phát triển những quan điểm cơ bản về nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong tình hình mới. Trong đó, Đảng đã xác định quan điểm nhất quán và đề ra các biện pháp giải quyết vấn đề trên biển hiện nay.

Thứ hai, Đảng, Nhà nước và Quân đội ta luôn ưu tiên dành mọi nguồn lực tốt nhất cho nhiệm vụ giữ vững chủ quyền biển, đảo; kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh tại địa bàn chiến lược, vùng đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo.

Những năm qua, Đảng, Nhà nước ta chủ trương đẩy mạnh phát triển kinh tế biển, tạo điều kiện thuận lợi để ngư dân yên tâm bám biển, làm giàu từ biển. Nhiều ngành kinh tế biển được chú trọng như khai thác dầu khí, vận tải biển, điện gió ngoài khơi, du lịch biển, đảo, phát triển kinh tế các đảo, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học... Tất cả hoạt động kinh tế biển đó thể hiện tính chất của nền quốc phòng toàn dân, thực hiện sách lược gắn kinh tế với quốc phòng, góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo.

Thứ ba, trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực tiếp tục có những diễn biến phức tạp, Đảng, Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia-dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác cùng có lợi.

Đảng, Nhà nước ta thực hiện triết lý “Ngoại giao cây tre” mà bản chất là mềm mại, khôn khéo nhưng rất kiên cường, quyết liệt. Mục tiêu lớn nhất là tránh được xung đột, không để xảy ra chiến tranh, giữ gìn môi trường hòa bình để phát triển đất nước, nhưng đồng thời bảo vệ được lợi ích quốc gia-dân tộc với quyết tâm cao nhất.

Chúng ta xác định, giải quyết tranh chấp trên Biển Đông là vấn đề lâu dài, kiên trì hợp tác tìm kiếm biện pháp hòa bình để giải quyết tranh chấp, bảo vệ lợi ích chính đáng của nước ta, đồng thời tôn trọng lợi ích chính đáng của các nước trên cơ sở tuân thủ luật pháp quốc tế. Chúng ta không đi với nước này để chống lại nước kia; không thụ động chịu tác động hay sự lôi kéo của bất cứ nước nào, nhất là tránh việc trở thành con bài trong tay các nước lớn.

Thứ tư, Đảng, Nhà nước ta luôn chăm lo xây dựng lực lượng hải quân, cảnh sát biển, biên phòng, dân quân tự vệ biển và lực lượng kiểm ngư vững mạnh, với trang bị, phương tiện ngày càng đồng bộ, hiện đại đủ sức quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Các lực lượng nêu trên luôn có tinh thần, quyết tâm cao, kiên quyết, kiên trì, kiên cường thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao, không có chuyện “không kiên quyết bảo vệ chủ quyền biển, đảo và lợi ích quốc gia trên biển”... như kẻ xấu xuyên tạc, vu cáo.

Thứ năm, Đảng, Nhà nước quan tâm đẩy mạnh công tác tuyên truyền về chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc. Công tác tuyên truyền đã thông tin kịp thời, minh bạch, chính xác để người dân trong nước, người Việt Nam ở nước ngoài và cộng đồng quốc tế hiểu cơ sở pháp lý, chứng cứ lịch sử và sự quản lý thực tế của Việt Nam trên các vùng biển, đảo ở Biển Đông; hiểu rõ quan điểm, lập trường của Đảng, Nhà nước ta về giải quyết vấn đề chủ quyền trên Biển Đông; từ đó, xây dựng niềm tin, ý chí quyết tâm, tạo đồng thuận của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.

Do đó, những luận điệu xuyên tạc chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước ta trong nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo rõ ràng là xuất phát từ những mưu đồ đen tối, âm mưu kích động, phá hoại, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, chia rẽ mối quan hệ Việt Nam với các nước trên thế giới, cần phải được nhận diện, lên án, đấu tranh kịp thời.