Thứ Sáu, 1 tháng 11, 2024

Lư Giang - Chi đội trưởng Nam tiến đầu tiên

 

Trung tướng Lư Giang là một người cộng sản kiên trung, một vị tướng đức độ, tài năng, trưởng thành từ cơ sở, dạn dày trong chiến đấu, lập được nhiều chiến công, sống khiêm tốn, trung thực, gần gũi thương yêu cấp dưới, hết lòng phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân.

Một tấc giang sơn

Một dòng máu đỏ…

(Trái tim người lính - thơ Lư Giang)

Năm 2007, khi vừa chuyển công tác từ Truyền hình Quân đội nhân dân sang Tạp chí Văn nghệ Quân đội, tôi đã rất may mắn khi được mời biên soạn và viết một số giai đoạn của Hồi ký “Trung tướng Lư Giang - trái tim người lính trận”.

Hơn một năm tiếp cận các nguồn tư liệu, hình ảnh, nhân chứng, nhất là được trò chuyện với Đại tá, bác sĩ Hàn Thị Trang - phu nhân của Trung tướng Lư Giang, đã cho tôi hình dung sâu sắc về một vị tướng xuất sắc, cả cuộc đời gắn bó với nghiệp binh, người chiến sĩ nhất mực trung thành với Đảng, với Bác Hồ, với Quân đội, là một tấm gương mẫu mực.

Đúng như lời Đại tướng Võ Nguyên Giáp khẳng định trong lời giới thiệu hồi ký “Trung tướng Lư Giang - trái tim người lính trận”: “Đồng chí Trung tướng Lư Giang đã hoạt động cách mạng từ năm 1942, tham gia Tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở quê nhà Bắc Giang 1945. Đồng chí vào quân đội là Đại đội trưởng của đội quân Nam tiến Bắc Bắc. Lần đầu tiên tôi gặp Lư Giang vào năm 1946, khi tôi đi kiểm tra tình hình các tỉnh miền Nam, gặp đồng chí đang chỉ huy đơn vị hành quân Nam tiến. Đồng chí là một người cộng sản kiên trung, một vị tướng có đức độ và tài năng, trưởng thành từ cơ sở, dạn dày trong chiến đấu, lập được nhiều chiến công, sống khiêm tốn, trung thực, gần gũi thương yêu cấp dưới, hết lòng phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân, luôn hoàn thành mọi nhiệm vụ được Đảng và nhân dân giao phó, nêu một tấm gương sáng về phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” (Hà Nội, ngày 24 tháng 7 năm 2008).

Tôi chưa một lần được gặp Trung tướng Lư Giang. Khi ông mất (năm 1994), tôi mới nhập ngũ, còn chưa vào nghiệp văn bút, càng không bao giờ nghĩ sẽ có một ngày biên soạn và viết sách về ông. Đối với Trung tướng Lư Giang, ông luôn có một sự hấp dẫn đặc biệt. Một con người dáng hình nhỏ bé mà hết sức kiên cường, gan góc, một vị anh hùng trong trái tim tôi.

Lư Giang (tên thật là Lê Bá Ước), sinh năm 1920, tại miền sơn cước làng Gàng, xã Võ Tranh, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang. Đây là vùng đồi núi thuộc sườn Tây Yên Tử, mảnh đất địa linh nhân kiệt Kinh Bắc. Dòng họ Lê tổ tiên của Lư Giang ở đất Võ Tranh là một danh gia vọng tộc trong vùng. Cha ruột của ông là người ôm chí lớn, từng đi khắp đó đây, khi trưởng thành trở về làng Gàng lập nghiệp với cơ ngơi khang trang, điền sản hàng trăm mẫu đất, bao dung nhiều kẻ khó, giúp đỡ người lỡ thời, người yêu nước từ khắp nơi tìm đến, là người có uy tín, danh vọng trong vùng.

Lư Giang được nuôi ăn học cẩn thận, sớm nối chí cha nên đã tham gia hoạt động Việt Minh từ rất sớm. Năm 1942, Lư Giang đã vững vàng trong đội ngũ chiến sĩ cách mạng. Tiếp đó, ông tham gia giành chính quyền tại Bắc Giang năm 1945, với cương vị Đại đội trưởng Cứu quốc quân.

Thuở thanh niên, Lư Giang đã có thiên hướng theo nghiệp văn bút. Ông rất chăm đọc sách báo, theo dõi chặt chẽ tình hình thời thế trong nước, ngoài nước, nên việc tham gia Việt Minh là tất yếu. Trong gia đình Lư Giang, các tên tuổi Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thái Học... và nhất là Nguyễn Ái Quốc, luôn được mọi người nhắc đến. Năm 19 tuổi, Lư Giang, với sự giới thiệu của đồng chí Hải Bằng và đồng chí Lan Cường, đã được kết nạp vào Việt Minh tại xóm Trại, làng Gàng.

Ở buổi đầu cách mạng, người chiến sĩ Lư Giang luôn ở tuyến đầu. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, một dấu mốc lịch sử chói lọi phải trả bằng xương máu của biết bao thế hệ anh hùng liệt sĩ để có Ngày Độc lập. Và ngay lập tức, người chiến sĩ bước vào cuộc chiến đấu vô cùng gian khổ, hiểm nguy.

Tháng 11-1945, Lư Giang được đề bạt làm Chi đội trưởng Chi đội Nam tiến đầu tiên, vào thẳng chiến trường, khi ông vừa có con gái đầu lòng Lê Thị Hồng Chinh (sinh tháng 10-1945).

Gạt tình riêng vì nghĩa nước, Chi đội trưởng Lư Giang cùng Chính trị viên Lương Cò (người kết nạp Lư Giang vào Đảng); Chi đội phó Từ Vân, đã tự tay viết những khẩu hiệu cho đoàn quân Nam tiến: “Nước Việt Nam là của Việt Nam”; “Ủng hộ miền Nam kháng chiến”... Anh em Chi đội Nam tiến, nhiều người còn chưa biết chữ, có người chưa đủ tuổi tòng quân đã chữa tuổi tên, nhất tề hát vang: Đoàn giải phóng quân một lần ra đi/ Toàn thắng vinh quang ghi ngày trở về/ Ra đi ra đi, bảo tồn sông núi/ Ra đi ra đi, thà chết chớ lui…

Không khí ấy giống như những tráng sĩ quyết đem sinh mạng của mình bảo vệ non sông, bảo vệ nền độc lập.

Khi đoàn quân Nam tiến do Chi đội trưởng Lư Giang dẫn đầu vượt núi băng rừng vào tới Quảng Ngãi, ngày 22-1-1946, Chi đội vinh dự được đón đồng chí Võ Nguyên Giáp, khi đó là Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Chủ tịch Quân ủy Hội đến thăm và căn dặn: “Các cậu có lực lượng hùng hậu nên sẽ có ảnh hưởng lớn và tác dụng lâu dài, kẻ địch sẽ thấy sức mạnh của cách mạng là chỉ trong một thời gian ngắn đã tổ chức được hàng chi đội, mà lại có kỷ luật nghiêm. Nhưng lần này, vào mặt trận phải có nhận thức mới. Cần chú ý rằng, ban đầu ta đánh có đội hình quy củ, trang bị mạnh, phát huy tính ngoan cường, chủ động, linh hoạt. Song, sau này, có khi không chiến đấu trong đội hình lớn, mà phải phân tán trong lòng địch, phân tán đến từng tiểu đội, từng tổ, từng người, phát huy kinh nghiệm thời kỳ bí mật, chiến đấu du kích linh hoạt, biết giương đông kích tây”.

Trong cuộc mít tinh đêm 2-1-1946 tại thị xã Quảng Ngãi, đồng chí Võ Nguyên Giáp đã trực tiếp nói chuyện, động viên và có những ý kiến chỉ đạo với Chi đội Nam tiến. Sau cuộc mít tinh, Chi đội trưởng Lư Giang cùng toàn Chi đội lên tàu, vào thẳng mặt trận Nha Trang. Khi đó, mặt trận Nha Trang đã bắt đầu vang tiếng súng.

Chi đội Nam tiến được Bộ chỉ huy mặt trận Nha Trang đóng trong thành Khánh Hòa, giao nhiệm vụ bảo vệ nhân dân và đoàn thể trong thành. Các đoàn đại biểu địa phương nghe tin bộ đội miền Bắc vào Nam chiến đấu, liền kéo đến thăm hỏi, động viên, cầm tay từng chiến sĩ rất cảm động. Bà con cô bác kể lại, trong đợt Tổng tuyển cử toàn quốc ngày 6-1-1946, mặc dù địch thả bom và bắn phá dữ dội, nhưng nhân dân ở đây vẫn đi bỏ phiếu đầy đủ. Tiếp đó, Chi đội Nam tiến tổ chức trận địa phòng ngự chạy dọc ven làng ngoại ô thành phố Nha Trang, dưới những rặng dừa rậm rạp chân núi Xuân Sơn.

Những ngày tháng cùng nhân dân Nha Trang đánh địch và xây dựng đội ngũ là những tháng ngày gian khổ, nhưng hết sức nghĩa tình của Chi đội Nam tiến. Sau này, khi trở lại chiến trường xưa, Trung tướng Lư Giang vẫn còn nhớ như in từng vạt dừa, gương mặt dân quân, các bà mẹ đã đùm đậu những người con miền Bắc.

Khoảng đầu tháng 7-1953, giữa lúc mặt trận khu V đang chuẩn bị chiến dịch lớn, Lư Giang, trên cương vị Trung đoàn trưởng Trung đoàn 108 (Khu V), được lệnh Trung ương gấp rút ra Bắc.

Trong Hồi ký, ông kể lại: “Ra Bắc lần này, tôi có linh tính được gặp Bác Hồ, sẽ nói với Bác những gì mà quân dân Khu V gởi gắm cho tôi. Chắc Bác vui khi biết Khu V trưởng thành, luôn vâng lời Bác dạy, luôn hướng về Người và Trung ương Đảng. Ngày lên đường thật gấp rút, cùng đi với tôi có nhiều đồng chí. Trong đó có cả đồng chí Sơn Ngọc Minh, lúc đó là Bí thư Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Khmer của Campuchia. Tuyệt đối giữ bí mật, đoàn chúng tôi hành quân vượt núi băng rừng. Sau 45 ngày, chúng tôi đã đến đích. Việt Bắc đây rồi, đường vào khu an toàn. Hình ảnh thân thương hiện ra trước mắt tôi. Nỗi nhớ quê hương, gia đình trong 7 năm xa cách. Không một tin tức, không một cánh thư của Nhã Nam, Bố Hạ, Yên Thế”.

Lần đầu tiên, hai trăm cán bộ cao cấp khắp chiến trường hội tụ về Việt Bắc. Nơi đây, những chiến sĩ Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, Cứu quốc quân, phân đội, chi đội về đây. Ai mất, ai còn, nhìn nhau không nói nhiều, nhưng ai cũng thấy chính mình đã trưởng thành và cùng mang theo điều lo lắng của người chỉ huy tạm rời tuyến lửa. Hy vọng lớn lao của mọi người lúc này là được gặp Bác Hồ, được gặp đồng chí Tổng tư lệnh. 

Lớp tập huấn này, nhiệm vụ chính là biên soạn và tổng kết kinh nghiệm, học tập, trao đổi những chặng đường chiến đấu ở các chiến trường và cách đánh khác nhau, phong phú nhiều mặt, giữ vững căn cứ chống càn, xây dựng và củng cố hậu phương, rút ra những bài học kinh nghiệm, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Tổng Tư lệnh.

Thấm thoắt đã hết một tháng, lớp tập huấn kết thúc. Lớp bình bầu được 7 đồng chí xuất sắc. Lư Giang vinh dự được đứng trong số đó. Buổi lễ tổng kết long trọng diễn ra. Các đồng chí lãnh đạo lớp học đã có mặt. Mọi người hồi hộp chờ đợi. Bác đến! Mọi người reo ầm lên. Bác bước vào hội trường, vừa tươi cười, vừa giơ tay vẫy ra hiệu mọi người trật tự. Lư Giang nhìn thật kỹ Bác, cố nhớ thật sâu hình dáng của Người, để khi trở về khu V nói với anh em, với đồng chí, đồng bào về vị Cha già kính yêu.

Bác giản dị và nhanh nhẹn, với bộ quần áo như ngày nào đi khảo sát biên giới đầu chiến dịch, chòm râu đã điểm bạc, đôi mắt sáng ngời trìu mến nhìn khắp lượt mọi người, chẳng khác gì người cha đầy tình thương yêu đối với các con đi xa về.

Bác được mời lên hàng ghế Chủ tịch đoàn, cùng với các đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Văn Thái.

Lư Giang kể lại trong Hồi ký: “Tôi và 6 đồng chí có thành tích xuất sắc vinh dự được Bác gắn huy hiệu Mác - Lênin. Bác hỏi tôi: “Chú tên là gì?”. Tôi bồi hồi xúc động không nói nên lời (thường ngày trong công việc, tôi là người nói năng lưu loát). Trời mùa thu mà sao lúc này mồ hôi tôi toát ra, lưỡi cứng lại, mặt đỏ lên. Với bao lời định nói, định thưa với Bác, mà lúc này cứ lúng túng mãi. Mấy phút sau, tôi cố nói với Bác: “Thưa Bác, cháu là Lư Giang, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 108, Khu V”.

Thấy tôi nói giọng Bắc mà lại ở Khu V, Bác lại hỏi: “Chú quê ở đâu?”. Lẽ ra tôi phải thưa với Bác: Cháu quê ở Bắc Giang, chỉ huy bộ đội Nam tiến những ngày đầu cách mạng, nhưng tôi chỉ nói được với Bác một câu: “Cháu quê ở Bắc”. Bác thông cảm và cười đôn hậu. Tôi thấy mạnh dạn hơn, với cái nhìn trìu mến, thân thương của người cha.

Bác hỏi: “Đồng bào trong đó có khổ lắm không?”. Tôi đáp: “Thưa bác! Đồng bào vùng tự do không khổ lắm, đời sống mỗi ngày có dễ chịu hơn”.

Bác lại hỏi: “Thế anh em chiến sĩ có đoàn kết không? Đồng bào các dân tộc có đoàn kết không? Bộ đội và đồng bào thế nào?”. Tôi đáp: “Thưa bác! Đoàn kết tốt ạ. Đồng bào miền Nam gởi cháu lời thăm Bác”.

Bác nói tiếp: “Bác nghe ban lãnh đạo lớp học báo cáo chú học tốt, nên Bác tặng chiếc huy hiệu”.

Lư Giang đứng nghiêm, vô cùng xúc động khi được Bác Hồ gắn huy hiệu Mác - Lênin.

Lớp học bế mạc, Lư Giang chia tay đồng đội về đơn vị. Ông nhận công tác là phái viên của Bộ Quốc phòng. Lúc đó, do tình hình chung, phát triển ở các chiến trường rất khẩn trương, ông chưa kịp về thăm gia đình. Nhớ lời Bác dặn dò, quân và dân Khu V đã đập tan chiến dịch Atlante của Navarre, đập tan 22 tiểu đoàn cơ động tinh nhuệ của địch.

Trung tướng Lư Giang với Thủ đô Hà Nội

 

Ngắm cầu Thê Húc soi bóng xuống Hồ Gươm xanh thẳm, chúng tôi càng nhớ tới Trung tướng Lư Giang, nhớ ngày ông là Tư lệnh Quân khu Thủ đô, mỗi buổi chiều thu trên chiếc xe đạp tới đón cháu ngoại lúc tan trường.

Chúng ta vừa long trọng tổ chức kỷ niệm 70 năm Ngày Giải phóng Thủ đô (10-10-1954 / 10-10-2024) với nhiều hoạt động thiết thực, ý nghĩa sâu sắc, khẳng định tầm vóc mới của Thủ đô văn hiến - văn minh - hiện đại. Trong những ngày sôi nổi tinh thần cách mạng, hình ảnh người chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam, hình tượng Bộ đội Cụ Hồ càng thêm ngời sáng.

Lư Giang giản dị lắm. Ông luôn không đồng tình việc làm phiền người khác, nhất là việc riêng tư của mỗi người. Đó là điều đặc biệt của Trung tướng Lư Giang.

Ngày 16-1-1980, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra Quyết định số 1023/NQ-NS/TVV do đồng chí Lê Đức Thọ, Ủy viên Bộ Chính trị ký, bổ nhiệm Thiếu tướng Lư Giang, Phó tư lệnh Quân khu Thủ đô giữ chức Tư lệnh Quân khu Thủ đô.

Tiếp đó, ngày 21-1-1980, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Tôn Đức Thắng ký Sắc lệnh số 14-LCS, bổ nhiệm Thiếu tướng Lư Giang làm Tư lệnh Quân khu Thủ đô, thay Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên chuyển sang công tác ở Bộ Xây dựng.

Ban Bí thư Trung ương Đảng ký quyết định thành lập Đảng bộ Quân khu Thủ đô, dưới sự lãnh đạo trực tiếp về mọi mặt của Quân ủy Trung ương, đồng thời, đặt dưới sự lãnh đạo của Thành ủy Hà Nội về công tác quân sự địa phương. Đảng ủy Quân khu gồm 9 đồng chí: Phí Triệu Hàm, Lư Giang, Phạm Thạch Tâm, Nguyễn Tiệp, Tạ Đình Hiểu, Phạm Quang Vinh, Hà Văn Phúc, Hoàng Kim, Đỗ Văn Dũng.

Giai đoạn đó, đất nước ta, nhân dân ta đứng trước những khó khăn, thử thách chất chồng, sự bao vây, cấm vận ngặt nghèo, hai đầu biên giới phía Nam, phía Bắc, máu của đồng bào ta, chiến sĩ ta đang đổ xuống.

Từng là người chỉ huy trên các chiến trường ác liệt trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, trên cương vị mới - Tư lệnh Quân khu Thủ đô, Tư lệnh Lư Giang hiểu rất sâu sắc rằng, người chiến sĩ Thủ đô phải là trụ cột của niềm tin, nền tảng vững vàng của phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ trên các mặt công tác. Từ tư duy ấy, Tư lệnh Lư Giang đã cùng với Ban chỉ huy lãnh đạo, chỉ đạo những việc làm thiết thực, cấp bách.

Tình hình lương thực thiếu thốn trên toàn quốc khiến việc đảm bảo tiêu chuẩn bữa ăn của bộ đội là một vấn đề lớn và khó. Tư lệnh Lư Giang cùng Đảng ủy Quân khu Thủ đô đã ra nghị quyết về đẩy mạnh sản xuất, tự túc chỉ tiêu lương thực, thực phẩm và làm kinh tế trong lực lượng vũ trang Quân khu. Từng bị thiếu đói dài ngày ở chiến trường Khu 5 trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ, Tư lệnh Lư Giang rất thấm thía từng bữa ăn của bộ đội. Tuần sau có còn đủ gạo không? Ngày mai bộ đội có rau xanh ăn không? Trồng giống rau gì ngắn ngày nhất thì được thu hoạch? Mùa mưa nóng ẩm ngập lụt, mùa đông rét buốt khô hạn, việc tăng gia sản xuất phải thế nào? Ai cũng nghĩ, một Tư lệnh Quân khu Thủ đô quyền cao chức trọng, có hàng vạn quân trong tay, việc gì phải lo những chuyện cỏn con như vậy? Nhưng thực tiễn cách mạng của chúng ta, đời sống nhân dân và người chiến sĩ của chúng ta, đã đặt ra cho vị chỉ huy cao nhất của một Bộ tư lệnh Quân khu đã phải suy nghĩ và thực hành như thế.

Không chỉ những công việc cụ thể với đời sống bộ đội, mà với những việc xa hơn, căn cơ gốc rễ, Tư lệnh Lư Giang đều dành hết tâm huyết và trí tuệ của mình. Với tư cách Tư lệnh Quân khu Thủ đô, đại biểu Quốc hội của TP Hà Nội, tháng 12-1981, tại Hội trường Ba Đình, trong Kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa VII, ông cùng các đại biểu đã trình bày các sắc luật quan trọng và Quốc hội đã thông qua Luật Nghĩa vụ quân sự và Luật Sĩ quan trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Đây là những dấu mốc có ý nghĩa hết sức quan trọng với quân đội, với người chiến sĩ.

Với quan hệ quốc tế, đầu tháng 2-1982, trong lễ đón Đoàn đại biểu quân sự cấp cao Liên Xô, do Nguyên soái N.U.Ô-ga-rơ-cốp, Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, Tổng Tham mưu trưởng Các lực lượng vũ trang Liên Xô, Thứ trưởng Thứ nhất Bộ Quốc phòng Liên Xô thăm hữu nghị chính thức nước ta, Tư lệnh Lư Giang cùng Tư lệnh các quân chủng, binh chủng, Bộ đội Biên phòng dự tiếp phái đoàn. Đây là những khoảnh khắc khó quên của Tư lệnh Lư Giang và các vị tướng lĩnh.

Trong những năm 80, 90 của thế kỷ trước, khi kinh tế nước ta khó khăn, Tư lệnh Lư Giang rất trăn trở, cùng với toàn quân đẩy mạnh phong trào thi đua. Lễ ký kết giao ước thi đua giữa Quân khu Thủ đô với Quân khu 3 và Quân khu 4 được tổ chức vào đầu tháng 5-1982. 3 đồng chí: Thiếu tướng Lư Giang, Tư lệnh Quân khu Thủ đô; Trung tướng Nguyễn Quyết, Tư lệnh Quân khu 3; Thiếu tướng Nguyễn Thế Bôn, Tư lệnh Quân khu 4, đã ký Biên bản giao ước thi đua, trong đó có một nội dung là: “Đẩy mạnh sản xuất, tiết kiệm và tổ chức đảm bảo đời sống tinh thần, vật chất của các lực lượng vũ trang”.

Các vị tướng lĩnh, Tư lệnh lừng danh đã có những quyết định thiết thực như thế.

Trung tướng Lư Giang là người kế nhiệm Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên nhận trọng trách Tư lệnh Quân khu Thủ đô. Từ trong chiến trường, các ông đã thấu hiểu về nhau, nên khi đảm đương trọng trách mới, đều đem hết trí tuệ và nhiệt huyết của mình phục vụ Đảng, phục vụ Quân đội và nhân dân, trong đó có nhân dân Thủ đô Hà Nội. Người chiến sĩ Thủ đô phải luôn gương mẫu, đi đầu trong mọi công tác. Một trong những người mà Tư lệnh Lư Giang gắn bó, kính trọng từ những ngày đầu, là Đại tướng Võ Nguyên Giáp.

Những ngày đảm đương cương vị Tư lệnh Quân khu Thủ đô, nhất là cuối thập kỷ 80, khi Liên Xô và Đông Âu đã có dấu hiệu của sự tan rã, Tư lệnh Lư Giang thường xuyên đến với Đại tướng, như tìm đến trí tuệ và bản lĩnh lớn, sự tinh tường, sự kiên định vào con đường mà Đảng, Bác Hồ đã lựa chọn, để từ đó, có những tham mưu, hoạch định lớn, đúng đắn, lâu dài với lực lượng vũ trang Thủ đô Hà Nội và bộ đội trong toàn quân.

Trung tướng Lư Giang luôn có một niềm tin đặc biệt vào Đại tướng. Ngay từ những ngày đầu Nam tiến năm 1945, rồi dằng dặc hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, và sau này, suốt hơn 10 năm ở cương vị trọng trách tại Bộ tư lệnh Quân khu Thủ đô, lúc nào và ở đâu, ông cũng luôn nghĩ đến người Anh Cả của Quân đội, với những suy nghĩ sâu sắc, niềm tin mãnh liệt từ đạo làm người của vị tướng lừng danh.

Không biết bằng cách nào, có thể nói là một sự kỳ diệu khó giải thích, Đại tướng Võ Nguyên Giáp luôn truyền được ngọn lửa tất thắng cho các tướng lĩnh, binh sĩ của mình trong mọi hoàn cảnh, cho dù là ở những hoàn cảnh éo le, khốc liệt nhất. Trung tướng Lư Giang làm Tư lệnh Quân khu Thủ đô ở thời kỳ cực kỳ gian khó. Là một người lính chỉ quen đánh giặc, ông phải làm gì lúc ấy?

Có những lúc, ông im lặng rất lâu, dõi sâu vào lòng mình. Và khi ấy, ông luôn tìm đến Đại tướng. Thật kỳ diệu, mọi thứ được tháo cởi dễ dàng, khó khăn mấy rồi tất cả sẽ qua. Những lúc ấy, những người lính già, những vị tướng trận đã tựa vào nhau, vững chắc như thành đồng vách sắt. Có câu chuyện, hai vị tướng đã phải trăn trở và cân nhắc rất nhiều.

Trong các câu chuyện sau này kể lại, bà Hàn Thị Trang, vợ Trung tướng Lư Giang, luôn nhắc về Đại tướng Võ Nguyên Giáp với sự xúc động sâu sắc. Ngày Lư Giang sắp mất tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 (năm 1994), Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhiều lần đến thăm ông. Hai vị tướng nhiều lần nắm chặt tay nhau rất lâu trong im lặng.

Trong hơn 10 năm công tác tại Quân khu Thủ đô, nhiều năm giữ cương vị cao nhất, Trung tướng Lư Giang luôn là tấm gương sáng cho các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Thủ đô học tập, noi theo. Ông luôn là người đi đầu, không chỉ bằng trí tuệ và tâm huyết, mà còn bằng trái tim ấm nóng. Lư Giang từng vào sinh ra tử, nên rất hiểu giá trị của cuộc sống hòa bình hôm nay mà người chiến sĩ phải giữ gìn.

Từ khi tuổi trẻ có khả năng văn bút, từng sớm cầm súng lên đường Nam tiến buổi đầu tiên, khi ở cương vị Tư lệnh Quân khu Thủ đô, trước dòng sông Hồng ứa đỏ phù sa, Trung tướng Lư Giang rất thấm thía và biết tri ân tổ tiên, nguồn cội, như chim hồng hạc bay định phận giữa trời, như nguồn lệ của những người lính, lấy máu xương mình xây đắp tượng đài Tổ quốc.

Tâm niệm suốt cuộc đời mình, Trung tướng Lư Giang luôn chiến đấu vì sự nghiệp cách mạng của Đảng, ấm no, hạnh phúc của nhân dân, tin tưởng vào sự nghiệp chính nghĩa, vào thắng lợi của cách mạng, kiên quyết đấu tranh và chiến đấu dũng cảm trước mọi kẻ thù.

Trong thời bình, ông luôn trăn trở với công cuộc xây dựng, đổi mới đất nước, nêu cao truyền thống của Quân đội, không lùi bước trước hiểm nguy, đoàn kết và phát huy cao độ tinh thần đại đoàn kết trong mọi thời đoạn lịch sử. Một đời tâm niệm lời dạy của Bác Hồ: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.

Đó luôn là suy nghĩ và hành động suốt đời của Trung tướng Lư Giang!

Không gian mạng cần được quản lý như thế giới thực

 Thực tiễn chứng minh, lượng thông tin mà con người được cung cấp, tiếp nhận thông qua internet và không gian mạng là vô cùng lớn. Không gian mạng là mở, được cập nhật liên tục, không phân biệt không gian, thời gian nên con người trong bối cảnh này dù chủ động hay bị động thì thông tin cũng là nhân tố trực tiếp tác động đến nhận thức, và đôi lúc hành động của họ cũng phụ thuộc vào lượng thông tin mà họ tiếp nhận được.

Bộ não của mỗi người trong một khoảng thời gian nhất định chỉ có thể tiếp nhận và xử lý được một lượng thông tin nhất định, nếu vượt quá giới hạn sẽ tạo nên chứng “bội thực thông tin”. Từ đó làm con người mất phương hướng, rơi vào tình trạng mù mờ, không phân biệt được đúng sai, nhận thức không đến nơi đến chốn, tư tưởng và hành động dễ sa vào tiêu cực hoặc có các hành vi lệch lạc. Ví dụ như khi một đối tượng giả danh cán bộ của cơ quan nhà nước hay giả mạo một cơ quan nhà nước có uy tín liên tục gây sức ép, cung cấp thông tin giả mạo, sai trái thì sẽ dễ khiến nạn nhân bị khủng hoảng, ức chế tâm lý và vô thức làm theo yêu cầu của các đối tượng này.

Trên thế giới, nhiều quốc gia đã coi không gian mạng là một nơi cần được quản lý như thế giới thực. Hay nói cách khác, các quy tắc, quy định, chế tài, định hướng được thực hiện cả trên môi trường thực và môi trường ảo. Ví dụ như ở Hoa Kỳ, mặc dù hiến pháp không bảo đảm quyền ẩn danh một cách rõ ràng nhưng có những tham chiếu chặt chẽ về quyền ẩn danh với các ràng buộc pháp lý. Các luật về truyền thông ở một số tiểu bang cũng quy định về hành vi, theo đó các hành vi sử dụng mạng xã hội để tán phát thông tin sai lệch sẽ bị xử lý từ phạt tiền đến án hình sự. Tòa án có thể yêu cầu các cơ quan chính phủ xác định danh tính của các tài khoản ẩn danh để phục vụ cho quá trình xét xử.

Các điều khoản của hành lang pháp lý ở Liên minh châu Âu và các quốc gia thành viên cũng có những quy định về quyền và nguyên tắc pháp lý về ẩn danh trên không gian mạng để phòng ngừa, xử lý những tác động xấu, tiêu cực do các hoạt động ẩn danh đối với xã hội hay lợi dụng ẩn danh để thực hiện các hoạt động khủng bố. Có thể thấy rằng, dù cổ vũ cho hoạt động tự do báo chí, tự do ngôn luận nhưng bản thân các quốc gia này cũng đã lường trước và có những quy định chặt chẽ để ứng phó với những tác động tiêu cực mà hoạt động ẩn danh gây ra.

Tuyên bố các nguyên tắc về quyền tự do ngôn luận và tiếp cận thông tin ở châu Phi năm 2019 của Tòa án Nhân quyền châu Phi (ACHR) đưa ra 16 nguyên tắc mà luật pháp quốc gia phải tuân thủ, bao gồm bảo đảm sự đa dạng của các phương tiện truyền thông, các quy định về xử lý vi phạm bằng các hình phạt, kể cả bằng hình sự đối với những hoạt động cung cấp thông tin gây tổn hại tới xã hội. Tuyên bố về nguyên tắc tự do ngôn luận Tòa án Nhân quyền liên Mỹ (IACHR) bao gồm 13 nguyên tắc, trong đó có cấm kiểm duyệt trước, bảo vệ nguồn, luật riêng tư, tài trợ và quảng cáo công cộng cũng như luật đa dạng và chống độc quyền... hay các quy định Điều 13(3) của Công ước Liên Mỹ, bảo vệ quyền tự do tư tưởng và quan điểm trên không gian mạng cũng như các phương tiện truyền thông. Tất cả đều có những quy định cụ thể với các ràng buộc về pháp lý đối với hoạt động chính danh hay ẩn danh trên môi trường số.

Bước vào thời kỳ mới, chúng ta lựa chọn xây dựng xã hội mới với những con người xã hội chủ nghĩa trên cơ sở phương thức sản xuất tiên tiến, hiện đại-phương thức sản xuất số. Để chiến thắng “địch bên trong ta”, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta cần có nhận thức sâu sắc tính cấp thiết, lâu dài, phức tạp của cuộc đấu tranh này, cần có quyết tâm chính trị cao, kiên quyết, kiên trì đấu tranh với những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, đặc biệt là các hoạt động quản lý, định hướng và triển khai phát triển xã hội số, văn hóa số, con người số.

Không gian số là nội hàm mới, là thực tiễn, việc trang bị kiến thức, kỹ năng cho từng tổ chức, cơ quan, đoàn thể, tổ chức chính trị xã hội, người dân và toàn xã hội không thể thực hiện trong một sớm một chiều mà phải trải qua một thời gian dài tích góp và có quá trình để đấu tranh, sàng lọc, loại bỏ và cập nhật liên tục những kiến thức, kỹ năng mới, đổi mới và cập nhật liên tục để phù hợp với xu hướng chung của thế giới, của xã hội và nhận thức. Mỗi cá nhân, tổ chức cần rèn luyện thói quen tiếp cận thông tin một cách chủ động, có hệ thống, có mục đích.

Cần chủ động sàng lọc, tìm hiểu, tham vấn ý kiến chuyên gia, sử dụng các kênh thông tin chính thống, thực hiện kiểm tra, kiểm chứng thông tin trước khi chia sẻ, bình luận để loại bỏ những thông tin sai trái, thù địch, lệch chuẩn, thiếu các giá trị chuẩn mực xã hội... Mỗi người dân, tổ chức cần nâng cao trình độ nhận thức, tinh tường nhận diện, tiếp cận thông tin một cách đúng đắn, có quan điểm rõ ràng, chuẩn mực, có cái nhìn khách quan, toàn diện, có tư duy phản biện, bản lĩnh vững vàng để sẵn sàng đấu tranh, phản bác những quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

“Địch bên trong ta đáng sợ hơn”

 Trong bối cảnh mới, khi phương thức sản xuất mới ra đời thì công tác chống “giặc nội xâm”, đấu tranh với “địch bên trong ta” trở thành yêu cầu cấp bách hơn bao giờ hết. Nó không chỉ xuất hiện trong thế giới thực mà còn len lỏi vào đời sống xã hội thông qua internet, mạng xã hội. Nhiều kẻ cơ hội chính trị, phản động và một bộ phận người dân (có cả một số cán bộ, công chức, đảng viên) trong cuộc sống hằng ngày thì thể hiện sự quyết tâm, đồng thuận cao đối với các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật nhưng trên không gian mạng lại sử dụng các kỹ thuật, công nghệ ẩn danh để thực hiện các hoạt động cung cấp thông tin sai lệch, có các hành vi lệch chuẩn. Có những cá nhân còn bôi nhọ, chống phá những thành quả của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.

Cần coi giặc nội xâm, coi kẻ địch bên trong ta là kẻ thù trực tiếp, toàn diện, đặc biệt trong bối cảnh các thế lực thù địch, cơ hội chính trị, phản động đang sử dụng các công nghệ, nhất là sử dụng không gian mạng và các hoạt động ẩn danh trên không gian mạng để cổ xúy cho các hành vi lệch chuẩn, cung cấp các thông tin sai trái, thù địch, lệch lạc, tiêu cực, thực hiện “diễn biến hòa bình”, “cách mạng màu” với mục tiêu làm thay đổi thể chế chính trị ở nước ta.

Trong kháng chiến chống giặc ngoại xâm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Chúng ta phải luôn luôn nâng cao cảnh giác và tinh thần yêu nước của nhân dân, dựa vào lực lượng của nhân dân, thì trong chống giặc nội xâm, “chống kẻ địch ngay trong ta” cũng phải dựa vào dân mới có thể giành được thắng lợi: Ví dụ như “phong trào chống tham ô, lãng phí, quan liêu ắt phải dựa vào lực lượng quần chúng thì mới thành công”.

Công cuộc chống “giặc nội xâm” chống lại “kẻ địch ngay trong ta” sẽ lâu dài và khó khăn, phức tạp hơn cả sự nghiệp chống giặc ngoại xâm. Người khẳng định rằng: “Việc tranh đấu với kẻ địch ở tiền tuyến bằng súng, bằng gươm còn dễ, nhưng việc tranh đấu với kẻ địch trong người, trong nội bộ, trong tinh thần, là một khó khăn, đau xót”. Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Người chỉ rõ: “Mỗi kẻ địch bên trong là một bạn đồng minh của kẻ địch bên ngoài. Địch bên ngoài không đáng sợ. Địch bên trong đáng sợ hơn, vì nó phá hoại từ trong phá ra”.

Ngày nay, người dân không chỉ ở trong thế giới thực mà còn sống, sinh hoạt, hoạt động tích cực trên không gian ảo. Do đó, không chỉ cần quan tâm đến người dân trong thế giới thực mà còn phải tranh đấu với kẻ địch ở ngay trong ta, ngay trong nội bộ, ngay trong tinh thần.

Hoạt động ẩn danh trên mạng - phá hoại sự ổn định của đất nước

 Nói về hoạt động ẩn danh trên KGM, thời gian qua đã có nhiều tiền lệ và hậu quả xấu đối với đời sống xã hội, làm ảnh hưởng tới cuộc sống của người dân. Các hoạt động lợi dụng MXH, lợi dụng các yếu tố kỹ thuật và kẽ hở của pháp luật, lợi dụng lòng tin và “mơ màng” với cảm giác đứng trong bóng tối, thực hiện các hoạt động ẩn danh để sử dụng các thông tin giả mạo, thất thiệt, đưa thêm thông tin nửa vời, cắt ghép; lợi dụng ẩn danh để lừa đảo, đưa các thông tin sai trái, xuyên tạc để “ném đá” hại người; qua đó gây chia rẽ, bè phái, mất đoàn kết; làm nảy sinh tư tưởng nghi ngờ, đố kỵ, thậm chí gây hoang mang, lo lắng trong cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân.

Nguy hiểm hơn nữa, các hoạt động ẩn danh còn được các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị sử dụng để chống phá chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, gây mâu thuẫn, chia rẽ nội bộ, kích động bạo lực, cổ vũ cho các hoạt động tập trung đông người hòng thúc đẩy bạo loạn, bạo động; thực hiện các hoạt động cổ xúy, thúc đẩy “cách mạng màu”.

Các kênh truyền thông cả chính danh lẫn ẩn danh của một số cá nhân, tổ chức móc nối với một số đối tượng chống đối, bất mãn trong nước nhằm đưa các tin, bài có nội dung tiêu cực, xuyên tạc; lợi dụng tình hình và các sự kiện quan trọng của đất nước, các vấn đề dư luận xã hội quan tâm, các vấn đề liên quan đến tôn giáo, nhân quyền, dân chủ, dân tộc... để phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng, bôi xấu các thành quả của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Vừa qua, trong khi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đang tích cực phòng, chống và khắc phục hậu quả cơn bão số 3 (bão Yagi), các tin đồn thất thiệt gây ảnh hưởng xấu, hoang mang dư luận liên tục được tung ra trên MXH Facebook, YouTube với những dòng trạng thái, hình ảnh, video clip “vỡ đê” ở một địa phương nào đó... Trên các tài khoản này, ngoài các thông tin xấu, thất thiệt còn cung cấp nhiều thông tin sai trái, sai lệch, cổ vũ các hành vi lệch chuẩn, thực hiện các hành vi chống phá những thành quả mà Đảng, Nhà nước, toàn dân, toàn quân ta đã đạt được.

Trên thế giới, nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ như Mỹ, Liên minh châu Âu... đã có những hành lang pháp lý nhằm xử lý các hành vi trên KGM, trong đó có những quy định để thực hiện giám sát, trừng phạt hoặc thực hiện các biện pháp hình sự. Đã đến lúc chúng ta quan tâm, hoàn thiện và xây dựng các hành lang pháp lý liên quan đến các hoạt động ẩn danh và lợi dụng ẩn danh để thực hiện các hành vi xấu trên KGM.

Ngoài ra, cần có các hành lang pháp lý về “chính danh” trong các hoạt động liên quan đến KGM, đồng thời cần nâng cao nhận thức, văn hóa ứng xử, trách nhiệm của người dân khi sử dụng MXH. Cần xây dựng “thế trận lòng dân” trên KGM để đáp ứng với yêu cầu của tình hình mới hiện nay.

Từ những hành vi đơn lẻ hòng trục lợi...

 Những mặt tiêu cực này đã và đang dần len lỏi vào đời sống xã hội Việt Nam, xuất hiện những yếu tố làm cho con người trở nên lệch lạc, mất phương hướng dẫn đến dễ tin hoặc làm theo những quan điểm sai trái, thù địch, có những hành động lệch chuẩn gây ảnh hưởng tới uy tín, quyền lợi của tổ chức, cá nhân và toàn xã hội.

Không gian mạng (KGM) góp phần hình thành nên xã hội số, ngoài các thông tin tích cực, các tri thức có ích còn tồn tại một lượng thông tin xấu, độc nhất định. Nguồn “nguyên liệu” chính để hình thành thông tin trên KGM xuất phát từ những mối quan hệ, các hoạt động hằng ngày của các cá nhân, xã hội nên bao giờ cũng lẫn trong đó những “tạp chất”. Khi con người tiếp nhận thông tin, bản thân mỗi người đều tự hình thành một “bộ lọc” để tiếp nhận những thông tin được coi là có ích, có lợi tùy thuộc vào quan điểm, mục đích, thị hiếu của chính mình.

Có những vấn đề cùng là một thông tin nhưng đối với người này là có lợi, đối với người khác thì không và ngược lại. Các tiêu chí để đánh giá “có lợi”, “có hại”, “có ích”, “vô ích”, “tích cực”, “tiêu cực” chỉ mang tính tương đối. Các hoạt động của con người trên KGM, trên cơ sở ứng dụng khoa học kỹ thuật cho phép con người thực hiện các hoạt động ẩn danh để đạt được những “phần lợi ích” nhiều nhất, “có lợi” nhiều nhất.

Mạng xã hội (MXH) Facebook, một dịch vụ trên KGM có nhiều người sử dụng cho phép các hoạt động ẩn danh để cung cấp thông tin. Ở Việt Nam, tính đến năm 2024, trên MXH Facebook có khoảng 78 triệu tài khoản đang hoạt động. Cũng năm 2024, MXH Zalo có khoảng 75 triệu tài khoản hoạt động thường xuyên; MXH TikTok có 67,72 triệu người dùng từ 18 tuổi trở lên.

Ngoài các tài khoản chính danh, cung cấp thông tin hữu ích, có giá trị còn rất nhiều tài khoản ảo, tài khoản ẩn danh cung cấp các thông tin về mọi mặt hoạt động của đời sống xã hội dưới danh nghĩa là các hoạt động dân sự, lợi dụng quyền cung cấp thông tin, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí để trục lợi, lừa đảo nhằm chiếm đoạt tài sản, xúc phạm, bôi nhọ, cung cấp các thông tin sai lệch gây hoang mang dư luận, gây bức xúc trong xã hội.

Những hoạt động lừa đảo, giả mạo, giả danh cơ quan, tổ chức, cá nhân ngày càng được các đối tượng thông qua hoạt động ẩn danh để lợi dụng niềm tin hòng trục lợi cá nhân, chiếm đoạt tài sản của người khác. Thời gian qua, nhiều người dân trên cả nước liên tục bị các số điện thoại giả mạo cơ quan công an, cơ quan quản lý nhà nước gọi đến với nội dung như: “Cập nhật số liệu thẻ căn cước công dân”; giả danh cán bộ Bộ Thông tin và Truyền thông, nhà mạng thông báo “số điện thoại sẽ bị chặn, hủy và khóa sau vài giờ”; thông báo triệu tập của “công an xã”, “công an huyện” đến xử lý và thực hiện hoàn thành thủ tục của tòa án, pháp luật hay xử lý nợ; giả danh cán bộ ngân hàng “thông báo trúng thưởng”, thực hiện tra soát tài khoản, yêu cầu người dân cung cấp số tài khoản, mật khẩu giao dịch, mã OTP...

Hay việc người sử dụng MXH Facebook, Zalo, Viber, Telegram... liên tục được đưa vào các hội, nhóm, bị gửi các đường liên kết trên mạng có tiêu đề hấp dẫn, gây sốc có chứa đựng mã độc, chứa đựng các cách thức truy cập trái phép vào tài khoản hoặc giả danh người thân vay tiền... Nhiều tài khoản ẩn danh, giả mạo các kênh truyền thông chính thống như Đài Truyền hình Việt Nam, Báo Nhân Dân, Báo Quân đội nhân dân... các cơ quan, tổ chức có uy tín như các bệnh viện nổi tiếng để quảng cáo thực phẩm chức năng, thuốc giả, tư vấn cách thức chữa bệnh, bán “thuốc dạo” để chữa bệnh ung thư, bệnh đặc trị... Điều đáng buồn là nhiều người dân đã sập bẫy lừa đảo của các đối tượng này, bị ảnh hưởng tâm lý, thiệt hại về kinh tế với số tiền rất lớn.

Ngoài ra, còn có các hoạt động ẩn danh nhằm thực hiện các hành vi ác ý, bôi nhọ danh dự người khác. Nhiều người dân bị các tài khoản MXH ẩn danh ghép các nội dung xấu, giả mạo và tạo các đoạn video clip nhằm mục đích bắt nạt, quấy rối, lăng mạ, sỉ nhục, tra tấn tinh thần thông qua các phương tiện điện tử và KGM. Trên MXH Facebook, có nhiều hội, nhóm mang những cái tên gây sốc như: “Bóc phốt”, “diễn đàn”, “trang thú tội (confession)”..., các tài khoản này gửi tin nhắn, đánh cắp thông tin và phá hoại tài khoản, đăng tin nhắn, comment, gửi các tin nhắn, đăng các hình ảnh, video clip có nội dung khiêu dâm gây rối loạn tâm lý, tổn thương, tổn hại đến uy tín, danh dự của người khác.

Các tài khoản ẩn danh còn dùng công nghệ để định vị, theo dõi vị trí và hoạt động của nạn nhân để quấy rối, theo dõi người khác trên MXH; đăng tải thông tin riêng tư hoặc giả mạo danh tính nhằm làm tổn hại danh dự, uy tín của người khác gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới tâm trạng và tinh thần của họ. Các hoạt động này còn hướng đến xâm hại trẻ em, nhiều trẻ em bị dụ dỗ gửi ảnh, video về bộ phận nhạy cảm khi sử dụng internet. Nhiều trẻ vị thành niên thông qua môi trường mạng bị dụ dỗ tham gia đường dây mua bán người, đường dây thực hiện các dịch vụ nhạy cảm như vũ trường, quán bar, quán karaoke trá hình...

Hành lang pháp lý về trách nhiệm hành vi trên mạng xã hội

 Internet đã tạo ra một không gian ảo, hình thành xã hội ảo trên cơ sở quan hệ giai cấp với tính chất và quy mô mới, lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất mới-phương thức sản xuất số-mà ở đó, các mối quan hệ như quan hệ giai cấp, mối quan hệ giữa con người với con người đã có những thay đổi, người dân có thể tiếp cận thế giới một cách dễ dàng hơn.

Theo Bộ Thông tin và Truyền thông, năm 2024, Việt Nam có hơn 100 triệu dân với hơn 70 triệu người sử dụng internet. Lợi dụng những điều kiện thuận lợi được pháp luật quy định, các đối tượng đã lợi dụng sự bùng nổ về công nghệ thông tin, những tiện ích mà công nghệ thông tin mang lại (như dùng các kỹ thuật để ẩn danh tương tác, lừa đảo qua MXH, các ứng dụng nhắn tin qua mạng (OTT)...) để thực hiện nhiều vụ lừa đảo trực tuyến, chiếm đoạt tài sản có giá trị cao, gây hoang mang dư luận, mất an toàn xã hội.

Ứng phó với những vấn đề trên, theo thống kê của Cục An toàn thông tin (Bộ Thông tin và Truyền thông), tính đến tháng 6-2024, thông qua triển khai Hệ thống cảnh báo, ngăn chặn tên miền độc hại quốc gia (DNS Shinkhole quốc gia), cơ quan chức năng đã ngăn chặn 12.818 web/blog vi phạm, trong đó có 3.170 website lừa đảo trực tuyến. Bảo vệ hơn 10,981 triệu người dân không truy cập vào các website lừa đảo, vi phạm pháp luật). Tuy nhiên vẫn còn đó những khó khăn, thách thức về hành lang pháp lý, về kỹ thuật công nghệ, về nhận thức của người dân cần được tiếp tục rà soát, hoàn thiện và thúc đẩy.

Những tài khoản ẩn danh trên MXH mang lại nhiều nguy cơ, thách thức, đặc biệt trong bối cảnh đất nước ta đang bước vào giai đoạn phát triển mới, đòi hỏi chúng ta cần có các phương án, giải pháp mang tính định hướng để bảo đảm quyền riêng tư, hạn chế các hoạt động ẩn danh mang mục đích xấu thông qua tăng cường các hoạt động bảo đảm bảo mật thông tin, sử dụng các biện pháp nhằm xác thực danh tính, hoàn thiện hành lang pháp lý theo hướng quy định trách nhiệm hành vi khi sử dụng MXH, tiến tới xử lý nghiêm minh các vi phạm liên quan đến tài khoản ẩn danh.

Cùng với đó, người dân cần nhận diện các hoạt động lợi dụng ẩn danh để quấy rối, bắt nạt, lừa đảo, xâm phạm quyền riêng tư, tán phát thông tin sai lệch và bôi nhọ, cung cấp các thông tin thất thiệt, các quan điểm sai trái, thù địch nhằm chống phá thành quả của cách mạng Việt Nam, chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng và Nhà nước ta.

Quyền riêng tư hay kẽ hở lợi dụng?

 Trên xã hội số, các dịch vụ và mối quan hệ của những chủ thể có mối quan hệ cơ hữu, gắn kết chặt chẽ với nhau. Một xã hội mới trong không gian ảo trên cơ sở các quan hệ giai cấp với tính chất và quy mô mới, lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất mới, dân tộc và quan hệ dân tộc, gia đình và quan hệ gia đình, các tầng lớp xã hội cũng đã dần hình thành trên môi trường này.

Hiểu đúng về “quyền riêng tư” trên mạng xã hội

MXH và dịch vụ MXH trên không gian ảo là một cách điển hình để triển khai các hoạt động giao tiếp, chia sẻ thông tin của các chủ thể trên không gian ảo. Ban đầu, MXH được tạo ra nhằm cung cấp một dịch vụ trên internet để mỗi thành viên kết nối với nhau trên cơ sở cùng sở thích, cùng mối quan tâm và thực hiện nhiều mục đích khác nhau. Dịch vụ MXH tạo nên một môi trường mà trên đó, người tham gia có thể tự do thể hiện quan điểm, chia sẻ về những hoạt động trong cuộc sống hằng ngày.

Ẩn danh-một tính năng cho người sử dụng internet xuất hiện khi không gian số trở thành phổ biến trong đời sống xã hội của con người. Tính năng này cho phép người dùng xuất hiện mà không lưu lại các dấu vết hoạt động trên không gian mạng. Tính năng này hiện nay thường được người dùng sử dụng các dịch vụ MXH để tổ chức, tạo lập và sản xuất những sản phẩm thông tin, truyền thông như tin, bài, video clip, âm thanh dưới sự hỗ trợ của các công cụ sử dụng thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp như dữ liệu lớn, các phần mềm thông minh nhân tạo... Tính năng ẩn danh tạo ra một dịch vụ cho phép thực hiện các quyền riêng tư, quyền tự do cá nhân... Bên cạnh những thông tin tích cực, nhân văn, vì xã hội và cộng đồng vẫn có các cá nhân, tổ chức lợi dụng các kỹ thuật, công nghệ tạo nên các kênh, cá nhân ẩn danh nhằm phá hoại những thành quả của đất nước, nhân dân, làm suy giảm lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước thông qua việc cung cấp những thông tin sai sự thật, xuyên tạc, bôi nhọ trên MXH...

Về mặt khái niệm, ẩn danh là việc người sử dụng thiết lập các tài khoản trên không gian số như tài khoản trên MXH Facebook; YouTube; Zalo; TikTok; Threads; Instagram... mà thông tin về danh tính thật của người sử dụng không được tiết lộ. Tính năng này cũng cho phép người dùng sử dụng tên giả, hồ sơ cá nhân giả, ảnh giả hoặc không có thật để hạn chế, trốn tránh việc truy vết thông tin, định danh người dùng.

Chính vì lẽ đó, tài khoản ẩn danh ngoài những người dùng sử dụng để thực hiện các hoạt động truyền thông mang nhiều nét nhân văn, tốt đẹp trên cơ sở hài hòa và gìn giữ văn hóa dân tộc thì hiện nay đang bị các đối tượng phản động, cơ hội chính trị thực hiện những hoạt động chống phá, cung cấp thông tin thất thiệt, quấy rối, bắt nạt người khác, thực hiện các hành vi lừa đảo, gian lận thông qua giả mạo thông tin người dùng khác, lợi dụng sự tin tưởng của người khác để trục lợi.

Bên cạnh đó, các tài khoản ẩn danh còn được sử dụng như một cách để xâm phạm quyền riêng tư, cố tình thu thập thông tin, hình ảnh của người khác để sử dụng cho mục đích xấu, gây lo lắng và bất an cho xã hội. Các tài khoản ẩn danh còn sử dụng những kỹ thuật, công nghệ như trí thông minh nhân tạo để tạo ra các sản phẩm truyền thông chứa đựng những thông tin sai lệch, tin giả, tin thất thiệt gây hoang mang và hiểu lầm trong cộng đồng, đặc biệt là bôi nhọ, xuyên tạc lãnh đạo Đảng, Nhà nước, thành quả của Đảng Cộng sản Việt Nam trong tiến trình xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc.

Các tài khoản này cũng thường được sử dụng để kích động bạo lực, thù hận và kỳ thị như phân biệt vùng miền, phá hoại tinh thần đoàn kết toàn dân tộc, gây nên những tổn thương tâm lý, sự hoang mang, phân hóa và mất niềm tin trong cộng đồng cũng như toàn xã hội, gây xung đột và căng thẳng không đáng có.