Thứ Bảy, 2 tháng 11, 2024

Tài liệu “Tuyệt đối bí mật”

 Những năm 60 của thế kỷ 20, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta ở vào giai đoạn ác liệt. Đế quốc Mỹ sau những thất bại trong chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" điên cuồng tiến hành chiến lược "Chiến tranh cục bộ" ở miền Nam, leo thang "Chiến tranh phá hoại" miền Bắc lần thứ nhất. Trước diễn biến ngày càng khẩn trương, tháng 3-1965, Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III đã hạ quyết tâm chiến thắng giặc Mỹ xâm lược. Thời điểm này, Chủ tịch Hồ Chí Minh tự cảm nhận sức khỏe của mình đã có phần giảm sút so với những năm trước. Do đó, ngày 10-5-1965, Bác đã đặt bút viết một văn bản đặc biệt quan trọng mà Bác đã khiêm tốn gọi là “Mấy lời để lại”. Đó chính là bản Di chúc thiêng liêng của Người.

Căn phòng nhỏ Bác soạn “Mấy lời để lại”

Trong hồi ký của mình, đồng chí Vũ Kỳ - thư ký riêng của Bác kể lại tiến trình ngày đầu tiên Bác viết Di chúc, ngày 10-5-1965 (Vũ Kỳ - Càng nhớ Bác Hồ, Nxb Thanh niên. Hà Nội. 1999, tr.130): “Đúng 9 giờ, Bác Hồ ngồi chăm chú viết. Vấn đề chắc đã suy ngẫm từ lâu. Phòng làm việc trên nhà sàn yên tĩnh. Gió mát dịu, thoang thoảng hương thơm của hoa vườn... Chính vào giờ phút đó Bác Hồ đặt bút viết những dòng đầu tiên vào Tài liệu “Tuyệt đối bí mật” để dặn lại cho muôn đời con cháu mai sau”.

Với sự khiêm tốn, giản dị, Bác không gọi là “Di chúc”, “Chúc thư” hay “Di huấn”... mà trong các bút tích sửa chữa và ghi trên Di chúc, Người chỉ gọi giản dị là “Tài liệu”, “Thư”, hay “Mấy lời… tóm tắt vài việc”. Bác cũng không muốn nhiều người biết việc làm của một người sắp “đi xa”, ngại dẫn đến những suy nghĩ không có lợi trong hoàn cảnh cả nước kháng chiến, nên mở đầu bài viết, Bác ghi rõ “Nhân dịp 75 tuổi” và bên lề trái, Bác ghi chú thêm hàng chữ "Tuyệt đối bí mật".

Riêng ngày 14-5-1965, do bận công việc buổi sáng, Bác chuyển sang viết vào buổi chiều với thời gian gấp đôi, từ 14 đến 16 giờ. Đúng 16 giờ, Bác đánh máy xong bản Di chúc và cho vào phong bì. 21 giờ hôm đó, Bác giao chiếc phong bì cho đồng chí Vũ Kỳ và dặn: “Chú cất giữ cẩn thận, vào dịp này sang năm nhớ đưa lại cho Bác”. Những ngày trung tuần tháng 5 của những năm sau, Bác duy trì viết, sửa chữa, bổ sung tài liệu "Tuyệt đối bí mật". Theo đồng chí Vũ Kỳ - thư ký riêng của Bác, trong khoảng thời gian 4 năm, từ 10-5-1965 đến 19-5-1969, Bác đã để cả thảy 28 buổi, phần lớn mỗi buổi hai giờ rưỡi để viết Di chúc.

Những ngày tiếp theo của tháng 5 năm ấy hay những ngày trung tuần tháng 5 của các năm sau cũng vậy, Bác viết, sửa chữa, bổ sung Di chúc ở phòng làm việc Nhà sàn. Ngày 19-5-1969, đúng dịp sinh nhật lần thứ 79, Bác xem lại Di chúc: “Đúng 9 giờ, Bác ngồi vào bàn làm việc với bản Di chúc trước mặt. Bên ngoài nắng đã lên cao. Những chùm hoa phượng nở sớm, bắt nắng khoe màu rực rỡ. Mặt hồ lăn tăn gợn sóng, lấp lánh ánh mặt trời. Một làn gió mát rượi ùa vào khung cửa sổ làm bay bay những sợi tóc bạc của Bác. Bác ngồi đó, tựa lưng vào thành ghế thoải mái, ung dung, nét suy tư hiện lên trên vầng trán rộng...”. Ngày 20-5-1969, “Người xem lại tài liệu lần cuối và xếp vào phong bì cất đi”. (Hồ Chí Minh- Biên niên tiểu sử, Nxb Chính trị quốc gia, 1996, tập 10, tr.351).

Tất cả những tình tiết này trước đây được coi là bí mật. Cho tới 20 năm sau, năm 1989, khi điều kiện cho phép, tất cả các bản thảo Di chúc của Bác được Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VI) công bố đầy đủ.

Cụ thể, ngày 19-8-1989, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã ký ban hành Thông báo số 151-TB/TW, thông báo đến toàn Đảng, toàn dân và toàn quân một số vấn đề liên quan đến Di chúc của Bác và ngày Bác qua đời. Thông báo nêu rõ: “Năm 1965, Bác viết bản Di chúc gồm ba trang, do chính Bác đánh máy, ở cuối đề ngày 15-5-1965. Đây là bản Di chúc hoàn chỉnh có chữ ký của Bác và bên cạnh có chữ ký của đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng hồi bấy giờ.

Năm 1968, Bác viết bổ sung thêm một số đoạn, gồm sáu trang viết tay. Trong đó, Bác viết lại đoạn mở đầu và đoạn nói "về việc riêng" đã viết trong bản năm 1965, và viết thêm một số đoạn. Đó là những đoạn nói về những công việc cần làm sau khi cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta hoàn toàn thắng lợi, như: Chỉnh đốn lại Đảng, chăm sóc đời sống của các tầng lớp nhân dân, miễn thuế nông nghiệp một năm cho các hợp tác xã nông nghiệp, xây dựng lại thành phố và làng mạc, khôi phục và phát triển kinh tế, văn hóa, củng cố quốc phòng, chuẩn bị thống nhất đất nước… Ngày 10-5-1969, Bác viết lại toàn bộ đoạn mở đầu Di chúc, gồm một trang viết tay. Các năm 1966, 1967, Bác không có những bản viết riêng”.

Có thể thấy rõ, trong mấy năm cuối đời, dù sức khỏe không còn tốt như trước, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn dành nhiều thời gian và tâm huyết để viết, sửa chữa, bổ sung, cân nhắc từng câu, từng chữ, từng ý, từng lời; thậm chí chỉnh sửa, bổ sung và viết lại cho thấy Người luôn trăn trở, suy nghĩ cho vận mệnh của dân tộc, hạnh phúc của nhân dân.

Ngày 9-9-1969, trong Lễ truy điệu Người, Tổng Bí thư Lê Duẩn đã xúc động công bố bản Di chúc của Bác, là bản Di chúc hoàn chỉnh được ghép từ các bản Di chúc mà Bác đã viết, sửa và bổ sung hoặc thay thế trước đó.     

Văn kiện lịch sử vô giá

Nội dung Di chúc là những lời dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về Đảng và sự đoàn kết trong Đảng, về đoàn viên và thanh niên, về Nhân dân lao động, về cuộc kháng chiến chống Mỹ, về phong trào cộng sản thế giới... và vài dòng nói về việc riêng.

Đó là những chỉ dẫn về xây dựng và củng cố Đảng cầm quyền với những vấn đề cốt yếu của công tác xây dựng Đảng là: giữ gìn mối “đoàn kết trong Đảng”, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc tự phê bình và phê bình, rèn luyện đạo đức cách mạng, nêu cao tinh thần trách nhiệm, hết lòng phục vụ nhân dân…; và nhiệm vụ chiến lược để giữ vững vai trò lãnh đạo và cầm quyền của Đảng - là công tác chỉnh đốn Đảng.

Đó còn là những dặn dò, nhắc nhở về sự cần thiết phải “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau”. Bác nhấn mạnh: “Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khǎn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chǎm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”".

Trong Di chúc, Bác nghĩ cho người dân của mọi tầng lớp xã hội. Đối với nhân dân lao động, Bác căn dặn: “Đảng phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”.

Bác đặc biệt quan tâm đến những nhóm người yếu thế. Từ những người có công trong sự nghiệp giải phóng dân tộc: “phải tìm mọi cách cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, đồng thời mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần tự lực cánh sinh”; đến phụ nữ: “phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày càng thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc, kể cả việc lãnh đạo”; và cả những nạn nhân của xã hội cũ (như trộm cắp, cờ bạc, buôn lậu…): “phải vừa giáo dục vừa phải dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp họ trở nên những lao động lương thiện”. Qua đó chúng ta càng thấy rõ tấm lòng đôn hậu, bao dung, tình thương yêu con người vô bờ bến của Bác.

Bên cạnh đó, Bác còn phác thảo lý luận về sự nghiệp đổi mới ở nước ta với những chỉ dẫn quan trọng về quản lý xã hội như: Đào tạo nguồn nhân lực, sửa đổi chế độ giáo dục, khôi phục và mở rộng các ngành kinh tế, chính sách miễn thuế nông nghiệp cho nông dân, chính sách xã hội, công bằng xã hội...

Gọi là Di chúc, nhưng bên trong lại không có mấy lời nhắc đến những yêu cầu của bản thân người viết. Cả cuộc đời, Bác đã phấn đấu, hy sinh chỉ nhằm một mục đích “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”. Ngay cả trước lúc đi xa, điều Người nuối tiếc nhất vẫn là “không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”.

Nói tới điều này, trong cuộc trao đổi giữa phóng viên Báo Quân đội nhân dân với PGS, TS Nguyễn Thanh Tú - người đã dành rất nhiều thời gian và tâm sức để tìm hiểu về toàn bộ cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh, được ông chia sẻ: Tôi thấy rõ tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, người luôn hết lòng đấu tranh, phụng sự cho hạnh phúc của con người. Bác chưa bao giờ nghĩ điều gì cho riêng mình. Xúc động hơn cả là Bác ra đi không đem theo gì, mà “để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng”, với mong muốn cuối cùng của Người là “toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.

PGS, TS Nguyễn Thanh Tú chia sẻ: Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là văn kiện có giá trị vô cùng to lớn đối với quá trình cách mạng và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc ta trên nhiều phương diện. Di chúc vạch ra phương hướng cho cách mạng Việt Nam cả hôm nay và trong tương lai, đặc biệt là quan hệ với các Đảng Cộng sản anh em, các nước xã hội chủ nghĩa. Nhất là trong bối cảnh có những diễn biến phức tạp ở khu vực và thế giới gần đây, càng cho chúng ta thấy, Di chúc của Người vừa mang ý nghĩa thời sự, vừa mang ý nghĩa thời đại sâu sắc.

Qua tìm hiểu được biết, hiện nay bản gốc Di chúc đang được cơ quan chức năng bảo quản theo chế độ đặc biệt.

55 năm thực hiện Di chúc Bác Hồ: Chủ tịch Hồ Chí Minh - Tấm gương vĩ đại trong cuộc đấu tranh chống thực dân

 

Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong những tấm gương vĩ đại trong cuộc đấu tranh của các dân tộc trên thế giới chống lại sự áp bức, bóc lột của chế độ thực dân và đế quốc vì độc lập và tự do. Đây là lời khẳng định của quyền Tổng bí thư Đảng Cộng sản Argentina, Jorge Kneyness.

Trả lời phỏng vấn phóng viên tại Buenos Aires ngày 24-8 nhân chuyến công tác tại Argentina của đồng chí Nguyễn Trọng Nghĩa, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương, ông Kneyness nhấn mạnh cả cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại một di sản toàn diện về tư tưởng, đạo đức và phong cách trên nhiều phương diện, trong đó đặc biệt là việc luôn gắn lý luận với thực tiễn, điều cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị thời đại.

Quyền Tổng bí thư Kneyness, kiêm Trưởng ban Đối ngoại Trung ương, đánh giá Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng một Đảng Cộng sản vững mạnh ở Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam đã dẫn dắt nhân dân đấu tranh chống lại thực dân Pháp và đế quốc Mỹ giành độc lập, tự do, thống nhất đất nước. Ông Kneyness bày tỏ: “Chúng tôi vô cùng ngưỡng mộ và tôn trọng tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong sự nghiệp giải phóng các dân tộc bị áp bức ở thế giới thứ ba, trong đó có tư tưởng về quân sự. Đó là kết quả của việc kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý luận và thực tiễn trong những điều kiện lịch sử nhất định, là sự tiếp thu vận dụng sáng tạo di sản tư tưởng quân sự của dân tộc và tinh hoa quân sự nhân loại. Cách mạng Việt Nam là cách mạng giải phóng dân tộc gắn liền với khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng”.

Đánh giá cao tư tưởng đối ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quyền Tổng bí thư Kneyness khẳng định, những quan điểm của Người trong công tác ngoại giao không chỉ có giá trị to lớn trong lịch sử, mà còn là kim chỉ nam soi sáng con đường bảo vệ đất nước, xây dựng, phát triển và hội nhập quốc tế của dân tộc Việt Nam. Di sản Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại đã làm nên vị thế và vai trò vững mạnh của Việt Nam ngày hôm nay trên trường quốc tế. Đề cập tới quan hệ giữa Đảng Cộng sản Argentina và Đảng Cộng sản Việt Nam, quyền Tổng bí thư Kneyness đánh giá cao tình đoàn kết, hữu nghị và hợp tác giữa hai Đảng Cộng sản và khẳng định chuyến thăm của đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam, do đồng chí Nguyễn Trọng Nghĩa dẫn đầu, là minh chứng cho mối quan hệ này, qua đó góp phần củng cố mối quan hệ tốt đẹp hơn 50 năm giữa hai đất nước, hai dân tộc.

Quyền Tổng bí thư Kneyness nhấn mạnh để tăng cường trao đổi và nghiên cứu giữa hai Đảng Cộng sản, Đảng Cộng sản Argentina sẽ thành lập Trung tâm nghiên cứu về Việt Nam để tìm hiểu chủ trương, chính sách, những kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong xây dựng và phát triển đất nước, cũng như quảng bá thành tựu kinh tế - xã hội và hình ảnh một đất nước Việt Nam hiện đại, hội nhập. Dự án này có ý nghĩa vô cùng quan trọng bởi Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là biểu tượng của các dân tộc yêu chuộng hòa bình và tiến bộ. Trong bối cảnh phức tạp của thế giới hiện nay, những thành quả trong công cuộc Đổi mới tại Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, rất cần được nghiên cứu, học tập và nhân rộng.

Ông Kneyness cũng đánh giá cao sự hiện diện của đoàn đại biểu cấp cao Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Uruguay tại Hội thảo mang tên “Chủ tịch Hồ Chí Minh và quan hệ Việt Nam - Mỹ Latinh” được tổ chức ngày 22-8 tại Trung tâm Nghiên cứu Đào tạo Chủ nghĩa Marx (CEFMA) ở thủ đô Buenos Aires. Hội thảo do Ban Đối ngoại Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và Đại sứ quán Việt Nam tại Argentina, phối hợp với Đảng Cộng sản Argentina tổ chức nhân kỷ niệm 55 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chào mừng 79 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9 (2-9-1945 / 2-9-2024), có sự tham dự của 100 đại biểu.

Di chúc Bác Hồ mang giá trị lịch sử và thời đại của Việt Nam và thế giới

 

Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là văn kiện lịch sử có giá trị thực tiễn và lý luận sâu sắc không chỉ đối với Việt Nam mà với cả thế giới. Nhà sử học người Anh John Callow đã đánh giá như vậy khi trả lời phỏng vấn của phóng viên nhân kỷ niệm 55 năm thực hiện Di chúc Bác Hồ.

Theo nhà sử học John Callow - cựu Giám đốc Trung tâm lưu trữ, Bảo tàng Thư viện Marx tại London, Di chúc không mang tính giáo điều, máy móc, mà là kim chỉ nam cho hành động và nguyên tắc chính trị, có tính chất như một cương lĩnh chính trị chứa đựng những giá trị vĩnh cửu, là hướng dẫn hành động có thể vận dụng sáng tạo trong mọi tình huống.

Đánh giá tổng thể, nhà sử học người Anh cho rằng Di chúc đi sâu vào hầu hết mọi lĩnh vực, đúc kết mọi tư tưởng, hy vọng và mơ ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như những nền tảng tư tưởng, đạo đức và phong cách của Bác, là sự tổng kết cuộc đời của một lãnh tụ khiêm nhường, gương mẫu và luôn đặt nhân dân trong tim.

Là một người từng có nhiều năm nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh và là một người bạn lâu năm của Việt Nam, ông John Callow cho rằng, Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là văn kiện về sự tin cậy và lòng tin giữa lãnh đạo và nhân dân, ghi lại chân thực những hy vọng, ước mơ và khát vọng của Bác đối với hậu thế. Với tư tưởng nhân văn sâu sắc, Di chúc mang đến cho người dân Việt Nam tinh thần lạc quan rằng con đường phía trước, dù khó khăn đến mấy, đích đến cuối cùng sẽ là một xã hội bình đẳng, công bằng, nơi phụ nữ được coi trọng như nam giới, nơi trẻ em có thể phát huy hết tiềm năng. Theo nhà sử học, đối với Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam, Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh có tính chất như bản Hiến pháp thứ hai, chứa đựng những giá trị cao quý về tư tưởng, đạo đức và phong cách của Bác.

Ông John Callow chỉ rõ Di chúc bảo vệ các quyền, hy vọng và ước mơ của người dân Việt Nam từ phụ nữ, nam giới đến trẻ em và việc tiếp bước trên con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội mà Bác Hồ đã chọn và dẫn dắt.

Nhà sử học đã đặc biệt ấn tượng về giá trị nhân văn sâu sắc thể hiện trong Di chúc của Bác khi cho rằng Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đau đáu nỗi đau của đồng bào, của cả dân tộc bị chiến tranh tàn phá, bởi chất độc màu da cam, bom napalm… Trên con đường đã chọn, Bác chấp nhận những khổ đau, mất mát này vì tương lai của dân tộc, với niềm tin đó là những hy sinh xứng đáng.

Nhà sử học khẳng định, chắt lọc chỉ trong vài trang giấy, Di chúc hội tụ những yếu tố cốt lõi của Tư tưởng Hồ Chí Minh, với những vần thơ lục bát bên cạnh sự tôn vinh chủ nghĩa Mác-Lênin. Đó là sự kết hợp giữa cái mới và cái cũ, cái bất biến, cái vĩnh cửu, đồng thời cũng là đỉnh cao của tư tưởng chính trị, khoa học và công nghệ với mục đích phục vụ nhân dân.

Theo sử gia người Anh, dù thế giới đã đổi thay, nhưng Di sản của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn mang lại nguồn sống, chứa đựng sức mạnh và truyền cảm hứng cho người dân Việt Nam cũng như tất cả những người dân tiến bộ trên thế giới.

Ông Callow nhấn mạnh trong 55 năm qua, Việt Nam đã thực hiện Di chúc theo đúng tinh thần của Bác, đồng thời tiếp thu những giá trị và tinh hoa của các nước trên thế giới.

Nhớ mãi kỷ niệm về Bác Hồ kính yêu

 

Trong ký ức của Đại tá, Anh hùng LLVT nhân dân La Văn Cầu, những lần vào sinh ra tử cùng đồng đội chống quân xâm lược và kỷ niệm về Bác Hồ kính yêu sẽ không thể nào phai mờ trong tâm trí ông.

Anh hùng La Văn Cầu là người dân tộc Tày, quê ở xã Phong Nặm, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Tháng 8-1945, La Văn Cầu tới lớp bình dân học vụ, theo các buổi sinh hoạt đoàn, đội. Đến năm 1948, với lòng căm thù giặc sâu sắc, La Văn Cầu viết đơn tình nguyện nhập ngũ vào Đại đội 671, Trung đoàn 174, Đại đoàn 316. Từ đây, với lòng dũng cảm, sự mưu trí, chiến sĩ La Văn Cầu đã cùng đồng đội lập nhiều chiến công.

Đặc biệt, trong Chiến dịch Biên giới năm 1950, trên cương vị Tiểu đội phó, Trung đội 2, Đại đội 671, La Văn Cầu cùng đồng đội nhận nhiệm vụ dùng bộc phá đánh lô cốt địch tại cứ điểm Đông Khê. Dù bị thương ở mặt, nát cánh tay phải nhưng La Văn Cầu vẫn ôm gói bộc phá tiêu diệt lô cốt địch sau khi nhờ đồng đội chặt đứt cánh tay cho đỡ vướng. Anh hùng La Văn Cầu xúc động kể rằng, dù hoàn thành nhiệm vụ nhưng ông cảm thấy rất đau đớn. Nỗi đau không phải do mất cánh tay mà bởi trong trận đánh này, nhiều đồng đội của ông đã anh dũng hy sinh.

Tháng 5-1951, với những thành tích xuất sắc trong Chiến dịch Biên giới, La Văn Cầu vinh dự được báo cáo thành tích với Chủ tịch Hồ Chí Minh tại ATK. Nhận thông báo của cấp trên, chiến sĩ La Văn Cầu phấn khởi, lập tức lên đường. Đi bộ gần hai ngày từ thị xã Lạng Sơn (tỉnh Lạng Sơn) đến cuối giờ chiều hôm sau, La Văn Cầu cùng đồng chí liên lạc viên mới về đến nơi. Trước khi đi, chỉ huy giao nhiệm vụ cho La Văn Cầu thay mặt cán bộ, chiến sĩ đơn vị chúc sức khỏe Bác Hồ, nhưng khi gặp Người, La Văn Cầu xúc động chưa kịp nói gì thì Bác Hồ đã ân cần thăm hỏi, động viên.

Anh hùng La Văn Cầu nhớ lại: “Lúc đó, tôi nói tiếng Kinh còn chưa rõ, nhưng Bác Hồ luôn lắng nghe và hiểu được hết. Trước khi gặp Bác, tôi luôn suy nghĩ phải nói như thế nào cho đúng, nhưng khi được ăn cơm, trò chuyện với Bác thì bao nhiêu lo lắng tan biến hết. Người gần gũi và ấm áp, bao dung, giống như người cha đối với người con vậy”.

Tại Đại hội thi đua yêu nước lần thứ nhất (từ ngày 1 đến 6-5-1952) tổ chức tại Chiến khu Việt Bắc, sau khi biết hoàn cảnh gia đình La Văn Cầu, Bác Hồ xúc động nói rằng: Mẹ Lục Thị Quý, thân sinh của cháu Cầu, chỉ có một con trai nhưng đã động viên con đi chiến đấu, không ngại gian khổ, hy sinh. Vậy thì cuộc trường kỳ kháng chiến của chúng ta nhất định thắng lợi!

Đầu năm 1955, Nhà nước mời các gia đình tiêu biểu có công với cách mạng về gặp mặt tại Hà Nội, bà Lục Thị Quý cùng La Văn Cầu lại được về gặp Bác Hồ, được ăn cơm với Người.

Tấm gương Đại tá, Anh hùng La Văn Cầu đã được đưa vào sách giáo khoa để giáo dục cho các thế hệ. Năm nay, dù đã ngoài 90 tuổi, nhiều ký ức có thể phai mờ nhưng những kỷ niệm về Bác Hồ kính yêu đối với ông không thể nào quên.

Ngày trở về của người từng được truy điệu

 

Năm 1964, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta bước vào giai đoạn gian khổ, ác liệt, thầy giáo trẻ Lê Xuân Khảm đã tình nguyện nhập ngũ.

Xếp lại những trang giáo án, tạm biệt Trường Hàng hải Việt Nam (nay là Trường Đại học Hàng hải), với lá đơn được viết bằng máu, thầy Khảm được điều động về làm thợ máy trên những con tàu không số huyền thoại, tham gia vận chuyển vũ khí chi viện cho chiến trường miền Nam. Đoàn tàu không số khi đó có mật danh là Đoàn 759, nay là Lữ đoàn 125, Vùng 2 Hải quân.

Cuối năm 1966, trong chuyến đi thứ 3 của mình, thợ máy Lê Xuân Khảm trong đội hình tàu số 69, làm nhiệm vụ đưa vũ khí vào Khu 9 (Cà Mau). Tàu 69 khi đó cải dạng là tàu nghiên cứu khoa học biển của nước ngoài, trên tàu được “trang bị các loại máy móc, thiết bị rất hiện đại” nhưng thực tế chỉ có một máy chính và một số dụng cụ hàng hải thô sơ để qua mắt địch. Vượt qua mấy nghìn hải lý trong sóng gió, tàu 69 đã cập bến an toàn. Giao hàng xong, tàu quay ra gần đến Côn Đảo thì địch phát hiện và tấn công. Trận đánh không cân sức giữa tàu chiến hiện đại của Mỹ với tàu không số thô sơ, nhưng cán bộ, chiến sĩ vẫn chiến đấu kiên cường, sẵn sàng hy sinh chứ nhất quyết không để tàu rơi vào tay địch.

Ông Khảm nhớ lại: “Sau mấy ngày đêm quần nhau với địch, người bị thương thay thế vị trí người hy sinh, đêm 1-1-1967, tàu 69 rút vào được cửa sông Vàm Lũng (Cà Mau), thoát khỏi vòng vây của địch. Anh em trên tàu hy sinh và mất tích gần hết, con tàu bị hư hỏng nặng, không đủ sức quay về khiến lòng tôi quặn thắt...”.

Trải qua trận chiến đấu với nhiều mất mát, những vết thương trên cơ thể dần lành lại, ông Lê Xuân Khảm cùng đồng đội còn lại của tàu 69 gia nhập đơn vị Quân giải phóng, tham gia chiến đấu trên chiến trường U Minh. Điều kiện chiến tranh khốc liệt, thông tin liên lạc đứt đoạn, nên ông Khảm cũng “bặt vô âm tín” với đơn vị cũ và gia đình từ đó. Ai cũng tin rằng ông và đồng đội đã hy sinh cùng con tàu 69. Đơn vị làm lễ truy điệu và gửi tư trang về gia đình. Người cha già run run lần giở chiếc ba lô của con trai, nước mắt ông lặng lẽ rơi xuống chiếc áo bộ đội bạc màu vì nghĩ rằng con trai ông không còn nữa.

Nhưng thật bất ngờ, chiều thu năm 1976, ông Khảm đột ngột trở về. “Mẹ tôi cứ sờ nắn những vết thương chằng chịt trên cơ thể tôi mà khóc. Mẹ tôi khóc vì xúc động, vì hạnh phúc trước sự trở về thần kỳ của tôi; càng tự hào hơn khi biết tôi là Thiếu tá, Tiểu đoàn trưởng. Mẹ tôi đã về với tiên tổ từ lâu nhưng tôi vẫn nhớ mãi ánh mắt của mẹ ngày ấy...”, ông Khảm bồi hồi nhớ lại.

Gần 20 năm công tác trong Quân đội, lăn lộn khắp các chiến trường với bao lần vào sinh, ra tử, Thiếu tá Lê Xuân Khảm trở về với Trường Đại học Hàng hải thân yêu cho tới ngày ông được nghỉ hưu. Hiện ông đang sinh sống an vui cùng gia đình tại thành phố Hải Phòng.

Người tổ chức lực lượng đặc công Phú Quốc

 

Tham quan Nhà tù Phú Quốc, tôi chú ý đến bức hình giới thiệu về đồng chí Nguyễn Ngọc Toản (tức Ba Toản), tù binh bị địch bắt trong Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1968 tại Sài Gòn và đưa về giam giữ tại đây. Tháng 6-1968, Ba Toản cùng với một số đồng chí vượt ngục thành công và ông ở lại Phú Quốc, xây dựng lực lượng đặc công, tổ chức những trận đánh đạt hiệu suất chiến đấu cao, khiến quân Mỹ, ngụy khiếp đảm.

Từ những thông tin ấy, tôi tìm đến nhà riêng của ông Ba Toản, nguyên Đội trưởng Đội Đặc công Phú Quốc ở ấp Khu Tượng, xã Cửa Dương, TP Phú Quốc (Kiên Giang). Ông kể: "Tôi sinh năm 1938, nhưng các giấy tờ ghi sinh năm 1940, tên thật là Nguyễn Văn Mỹ, quê ở thôn Mỹ Giang, xã Tam Hiệp, huyện Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây (nay là huyện Phúc Thọ, TP Hà Nội). Năm 1955, tôi vào công tác trong ngành thực phẩm tỉnh Sơn Tây. Ngày 7-10-1963, tôi nhập ngũ vào Quân đội. Năm 1966, tôi được lựa chọn huấn luyện trinh sát đặc nhiệm tại Trung đoàn 426 thuộc Cục Nghiên cứu (Cục 2), Bộ Tổng Tham mưu.

Cuối năm 1966, tôi cùng với các đồng đội hành quân vào miền Nam chiến đấu. Vào đến Sài Gòn, tôi được biên chế về Đơn vị đặc công trinh sát Y4, hoạt động ở Khu Sài Gòn-Gia Định. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, Đơn vị đặc công trinh sát Y4 chúng tôi được giao đánh vào Trại Tăng thiết giáp Phù Đổng của địch ở Hạnh Thông Tây, quận Gò Vấp. Đây là nơi đặt Bộ chỉ huy Binh chủng Thiết giáp kỵ binh của quân đội ngụy Sài Gòn. Trong trận đánh này, chúng tôi đã làm chủ Trại Tăng thiết giáp Phù Đổng gần một ngày, sau đó địch phản kích, chúng tôi chiến đấu đến khi hết đạn và bị địch bắt. Địch tra tấn chúng tôi nhưng không khai thác được gì, sau đó chúng đày chúng tôi ra Phú Quốc". 

Tháng 6-1968, Nguyễn Văn Mỹ vượt ngục Phú Quốc thành công và ở lại tham gia hoạt động cách mạng trên đảo, lấy tên Nguyễn Văn Toản, anh em gọi là Ba Toản. Được biên chế vào LLVT huyện Phú Quốc, Ba Toản đề xuất với Huyện ủy và Huyện đội Phú Quốc thành lập Phân đội Đặc công Phú Quốc để đánh đồn bốt, căn cứ quân sự và phục kích địch đồn trú ở địa phương. Ba Toản trực tiếp huấn luyện cách đánh và nghiệp vụ trinh sát đặc công cho Phân đội. Sau hai tháng huấn luyện, tháng 8-1968, Phân đội Đặc công Phú Quốc tổ chức đánh trận đầu, tiêu diệt địch ở đồn Suối Đá. Trận đánh thành công. Sau trận này, Phân đội Đặc công phối hợp với LLVT địa phương đánh địch ở đồn Cửa Cạn. Do công tác hiệp đồng chưa chặt chẽ, trận này ta hy sinh 9 đồng chí. Trước tổn thất đó, một số đồng chí cán bộ phân đội xin về đất liền công tác. Ba Toản ở lại đảo, trực tiếp tổ chức lại Phân đội Đặc công Phú Quốc và làm Phân đội trưởng.

Phân đội Đặc công Phú Quốc do Ba Toản chỉ huy, huấn luyện chu đáo, đã tổ chức nhiều trận đánh đạt hiệu suất chiến đấu cao, như: Trận đánh đồn địch ở cao điểm 106 (đồi Cây Thông); các đồn: Cây Đa, Bàu Chuối, Gành Gió, Bãi Trong, Bãi Ngoài và các trận đánh vào Nhà máy đèn, Nhà siêu tần số (Trung tâm thông tin), Dinh quận trưởng, Chi khu cảnh sát, sân bay, trung tâm hành chính Phú Quốc. Đặc biệt là trận đánh đồn Ấp Nùng, tiêu diệt và bắt sống toàn bộ địch ở đồn vào tháng 1-1975...

Sau ngày miền Nam giải phóng, ông Ba Toản ở lại đảo Phú Quốc tiếp tục xây dựng LLVT huyện đảo. Đến năm 1978, Thượng úy Nguyễn Văn Toản chuyển ngành sang công tác ở UBND huyện, làm Trưởng ban Xây dựng kinh tế mới Bắc đảo Phú Quốc. Năm 1983, Ba Toản nghỉ hưu, song ông vẫn tích cực tham gia công tác ở địa phương và gương mẫu chấp hành các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Ông là một trong những cựu chiến binh làm kinh tế giỏi của Phú Quốc, được Trung ương Hội Cựu chiến binh Việt Nam tặng bằng khen, giai đoạn 2016-2021.

Từ thủy thủ tàu không số đến nhiệm vụ rà phá thủy lôi

 

Ở tuổi ngoài 80 nhưng cựu chiến binh, Thượng tá Lê Hồng Chuyên, nguyên Phó tham mưu trưởng Vùng 5 Hải quân còn rất minh mẫn, nhanh nhẹn. Mỗi khi có dịp trò chuyện cùng ông là như thấy những năm tháng trận mạc trên biển đầy gian khó hiện về.

Tháng 2-1961, chàng thanh niên Lê Hồng Chuyên nhập ngũ, biên chế vào Tiểu đoàn 135, Cục Hải quân (nay là Quân chủng Hải quân). Sau đợt huấn luyện quân sự và nghiệp vụ, Lê Hồng Chuyên được biên chế làm thủy thủ Tàu 326 thuộc Tiểu đoàn 135. Mang truyền thống quê hương Bãi Sậy (Khoái Châu, Hưng Yên), thủy thủ Lê Hồng Chuyên luôn nỗ lực phấn đấu, hoàn thành tốt nhiệm vụ.

Đầu tháng 8-1964, anh được cử đi đào tạo sĩ quan tại Trường Hải quân Việt Nam (nay là Học viện Hải quân). Năm 1967, Lê Hồng Chuyên tốt nghiệp, được phong quân hàm thiếu úy và điều động về Tiểu đoàn 135 thuộc Trung đoàn 172 (nay là Lữ đoàn 172 Hải quân) công tác.

Năm 1968, Lê Hồng Chuyên được điều chuyển công tác về Đoàn 125-Đoàn tàu không số, Bộ tư lệnh Hải quân. Lúc này, Đoàn 125 làm nhiệm vụ bí mật, đã tổ chức nhiều chuyến vận tải vũ khí, hàng hóa quân sự chi viện cho chiến trường miền Nam. Từ năm 1968 đến 1972, Lê Hồng Chuyên là cán bộ của Đoàn 125, tham gia nhiều chuyến tàu vận chuyển vũ khí. Sau chuyến cùng Tàu 408 vận chuyển vũ khí vào Cửa Việt (Quảng Trị), tháng 2-1972, Lê Hồng Chuyên được điều động vào Đội rà phá thủy lôi ở cửa Nam Triệu (Hải Phòng). Đội rà phá thủy lôi gồm những cán bộ, chiến sĩ được lựa chọn từ Trung đoàn 172, Đoàn 125 và Đoàn đánh cá vũ trang 128 (nay là Hải đoàn 128, Quân cảng Sài Gòn).

Các đội viên được quán triệt rõ nhiệm vụ; có tinh thần sẵn sàng chiến đấu cao, sẵn sàng hy sinh khi làm nhiệm vụ để rà phá thủy lôi của Mỹ phong tỏa cảng và vùng biển Hải Phòng. Trong một lần đi rà phá thủy lôi năm 1972, thủy lôi nổ, Lê Hồng Chuyên bị thương, tổn thương cơ thể 37% (thương binh hạng 4). Sau khi điều trị, Lê Hồng Chuyên trở lại Đoàn 125 công tác.

"Năm 1974, Đoàn 125 cử tôi phụ trách lực lượng đi nhận 4 tàu vận tải loại mới do nước bạn viện trợ. Số tàu này sau khi nhận về biên chế cho Tiểu đoàn 3, Đoàn 125. Tôi là cán bộ của Tiểu đoàn 3, vinh dự tham gia vận chuyển quân và vũ khí trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975. Sau khi giải phóng Sài Gòn, tháng 5-1975, đơn vị tôi hành quân ra miền Bắc. Tháng 9-1975, tôi được bổ nhiệm Thuyền trưởng tàu LST-503 (tàu đổ bộ ta thu được của Mỹ). Tôi chỉ huy tàu làm nhiệm vụ vận tải phục vụ các tuyến đảo phía Nam, cùng các đơn vị tham gia chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam Tổ quốc và làm nhiệm vụ quốc tế giúp bạn Campuchia", Thượng tá Lê Hồng Chuyên kể.

Năm 1982, Thuyền trưởng Lê Hồng Chuyên được điều động làm trợ lý Phòng Tác chiến (Bộ Tham mưu Quân chủng Hải quân). Năm 1988, ông được bổ nhiệm Tham mưu phó Vùng 5 Hải quân. Năm 1993, Thượng tá Lê Hồng Chuyên nghỉ hưu tại phường Đông Hải, quận Hải An, TP Hải Phòng. Về địa phương, ông tích cực tham gia công tác ở Hội Cựu chiến binh phường Đông Hải, tham gia cấp ủy chi bộ khu phố. Ở vị trí, công việc nào, ông cũng nỗ lực, hoàn thành tốt nhiệm vụ, giữ vững phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ-Người chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam.

Nơi xuất phát chuyến “tàu không số” đặc biệt

 

Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Quảng Bình có vị trí chiến lược hết sức quan trọng: Tuyến đầu của miền Bắc xã hội chủ nghĩa và hậu phương trực tiếp của chiến trường miền Nam; là địa bàn trung chuyển chiến lược, chi viện sức người, sức của cho chiến trường... Quảng Bình cũng chính là nơi chuẩn bị và tổ chức chuyến vận tải hàng đầu tiên chi viện chiến trường miền Nam bằng đường biển của Tiểu đoàn vận tải thủy 603-Tập đoàn đánh cá sông Gianh (đóng tại thôn Thanh Khê, xã Thanh Trạch, huyện Bố Trạch).

Để chuẩn bị cho những chuyến vượt biển vào Nam của Tiểu đoàn 603, ngay từ đầu năm 1959, việc đóng mới tàu, thuyền đã được cấp trên đặc biệt ưu tiên và khẩn trương xúc tiến. Một số cán bộ cơ sở được giao nhiệm vụ bí mật thiết kế mẫu thuyền đánh cá của ngư dân vùng Trung Trung Bộ và đưa vào sản xuất. Quá trình thi công, ngoài việc bảo đảm chất lượng thì yêu cầu đặt lên hàng đầu là sau khi hoàn thành thuyền phải thật giống thuyền đánh cá của ngư dân. Song song với việc đóng thuyền, sau ngày thành lập và hành quân về vị trí đóng quân ở thôn Thanh Khê, được sự quan tâm, giúp đỡ của lãnh đạo chính quyền địa phương, Tiểu đoàn 603 khẩn trương ổn định nơi ăn ở, sinh hoạt, bắt tay vào học tập chính trị, huấn luyện quân sự và chuyên môn kỹ thuật, chuẩn bị cho những chuyến đi vào Nam.

Đầu tháng 7-1959, khoảng 70 cán bộ, chiến sĩ đơn vị với trang phục dân sự đã có mặt tại địa phương, được bố trí đóng quân ở xóm Thanh Gianh và xóm Chùa của thôn Thanh Khê. Tuy đóng quân ở hai vị trí, nhưng công việc hằng ngày của hai bộ phận này giống nhau. Buổi sáng tập thể dục, tập bơi, đan lưới, kết phao; buổi chiều sử dụng các loại thuyền nhỏ đánh cá gần bờ, rồi tập xà đơn, xà kép; buổi tối sinh hoạt và thả lưới. Tất cả hoạt động của đơn vị hết sức kín đáo, cách biệt hoàn toàn với bên ngoài, chỉ những cán bộ lãnh đạo chủ chốt của xã mới biết. Cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 603 phải thay đổi trang phục cho giống dân chài miền Trung Trung Bộ, tập giọng nói, xưng hô sao cho đúng là “dân ngư nghiệp chưa hề pha binh nghiệp”. Trong thời gian huấn luyện, lãnh đạo huyện Bố Trạch và xã Thanh Trạch mỗi tuần một lần bí mật tiếp tế khoai, rau, củ, quả và cá cho đơn vị. Nhờ sự giúp đỡ của chính quyền, nhân dân địa phương và Sư đoàn 325 (lúc này đang đóng quân tại Quảng Bình), đến giữa tháng 12-1959, Tiểu đoàn 603 đã có 20 chiếc thuyền buồm giống thuyền đánh cá của ngư dân Khu 5. 100% cán bộ, chiến sĩ đơn vị đều được cấp thẻ căn cước có đóng dấu nổi và chữ ký của Tỉnh trưởng tỉnh Quảng Nam, đồng thời triển khai công tác đánh bắt hải sản ven biển từ Nam Đèo Ngang đến Bắc Cửa Tùng, kết hợp vận chuyển, tiếp tế hàng cho bộ đội trên đảo Cồn Cỏ.

Đêm Giao thừa Tết Canh Tý 1960, 6 cán bộ, chiến sĩ của đơn vị cùng một chiếc thuyền và 5 tấn vũ khí, đạn, thuốc quân y lặng lẽ rời cửa sông Gianh lên đường thực hiện chuyến đi đầu tiên vào Nam để vừa thăm dò, tiền trạm, vừa rút kinh nghiệm. Đêm Giao thừa giữa mịt mùng biển khơi và những đợt gió mùa Đông Bắc thổi mỗi lúc một mạnh, khi đến vùng biển quốc tế, thuyền bẻ lái thẳng tiến về Nam. 3 ngày vật lộn với sóng to, gió lớn, mặc dù ý chí quyết tâm cao, nhưng những trận cuồng phong của biển khiến bộ đội không thực hiện được theo kế hoạch ban đầu là sẽ cập bờ tại địa điểm Hố Chuối dưới chân đèo Hải Vân chi viện cho Khu 5. Do bánh lái gãy nên thuyền mất phương hướng, trôi dạt đến đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi) và bị địch phát hiện, vây bắt. Trước tình thế không thể chống đỡ, kiên quyết không để hàng rơi vào tay địch, theo lệnh của thuyền trưởng, toàn bộ 5 tấn súng đạn, thuốc quân y đã nhanh chóng được thả xuống biển. Khi tàu địch tiếp cận được thuyền, 6 cán bộ, chiến sĩ bị bắt. Dù đã thống nhất lời khai là ngư dân đánh cá bị bão trôi dạt về đây và có thẻ căn cước của chính quyền ngụy, nhưng chúng không tin, giam riêng từng đồng chí và dùng mọi cực hình tra tấn dã man khiến 4 chiến sĩ anh dũng hy sinh trong nhà lao.

Chuyến đi đầu tiên không thành công, phải chịu tổn thất, Bộ Quốc phòng chỉ thị cho Phòng Nghiên cứu công tác chi viện quân sự miền Nam và Tổng cục Hậu cần tổ chức rút kinh nghiệm, tìm phương án mới để tiếp tục chi viện cho miền Nam. Cũng trong thời điểm ấy, Tiểu đoàn 603 sáp nhập với Tiểu đoàn 301 thuộc Đoàn 559 để thực hiện nhiệm vụ mới.

Đầu năm 1968, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên Chiến trường Trị-Thiên rất khó khăn, ác liệt, nhất là vấn đề bảo đảm vũ khí cho bộ đội đánh giặc. Bộ tư lệnh Mặt trận B5 đề nghị Quảng Bình triển khai chi viện gấp cho chiến trường. Nhiệm vụ vận chuyển vũ khí được lãnh đạo tỉnh chính thức giao cho huyện Quảng Trạch, mà trực tiếp là Đảng bộ và nhân dân xã Cảnh Dương, một địa phương làm nghề cá nằm ở phía Đông Bắc của tỉnh. Với tinh thần “Tất cả vì miền Nam thân yêu, vì Trị-Thiên ruột thịt”, lực lượng tham gia vận chuyển được tổ chức thành 12 thuyền, mỗi thuyền có trọng tải từ 2 đến 3 tấn và biên chế 6 thuyền viên (đây chính là “Đoàn tàu không số” của Quảng Bình). Ngày 26-2-1968, đoàn thuyền rời Cảnh Dương vào Quang Phú, Đồng Hới tiếp nhận vũ khí. Trong điều kiện gió mùa, mưa rét, trời tối, dù đã chủ động đưa thuyền vào tránh nấp và ngụy trang trước khi trời sáng nhưng vẫn bị địch phát hiện. Ngay lập tức, chúng huy động tàu chiến, máy bay bắn phá vào khu vực đoàn thuyền đang trú đậu, làm một chiếc bị chìm, một chiếc bị hỏng nặng. Trước tình hình trên, chỉ huy đoàn thuyền quyết định một số cán bộ ở lại cùng lực lượng dân quân, công an nhân dân vũ trang (nay là Bộ đội Biên phòng) trục vớt vũ khí, 8 thuyền còn lại tiếp tục tiến về Nam theo đúng kế hoạch. Sau khi liên lạc được với Mặt trận B5 và bàn giao xong vũ khí, để giữ bí mật, các thuyền viên ở lại cùng với nhân dân địa phương sản xuất và phối hợp với lực lượng du kích đánh giặc chống càn.

Trong chiến dịch vận tải VT5 từ năm 1968 đến 1969, quân dân Quảng Bình tổ chức thành các đội và sử dụng hầu hết các loại phương tiện vận tải, tiếp nhận và chuyển giao được 13,2 vạn tấn hàng hóa, vượt chỉ tiêu so với Trung ương giao hơn một vạn tấn...

Thứ Sáu, 1 tháng 11, 2024

 PHẢN BÁC LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC QUAN HỆ ĐỐI TÁC CHIẾN LƯỢC TOÀN DIỆN CỦA VIỆT NAM

Gần đây, trang Daploisongnui đăng tải bài viết: “Sự khác nhau giữa đối tác kiếm ăn và đồng minh ý thức hệ cộng sản”, xuyên tạc rằng: “Việt Nam có quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với 8 quốc gia, thì có 6 quốc gia dân chủ tư bản phát triển; Việt Nam vẫn là một quốc gia tụt hậu, hay không muốn nói là nghèo khổ so với các lân bang, chứ chưa cần với quốc gia phát triển; Việt Nam ký kết hợp tác chiến lược toàn diện, nó không giúp ích gì cho sự phát triển của quốc gia; mô hình chính trị của Việt Nam hoàn toàn khác biệt so với các quốc gia dân chủ; chế độ của chúng ta thiếu tôn trọng nhân quyền, không dặt con người là trung tâm của sự phát triển”...

1. Thực chất đây là những quan điểm sai trái, thù địch của một số người tự xưng là “người yêu nước”, “nhà dân chủ”, “học giả” thù địch; thường xuyên tung hỏa mù, “chọc gậy bánh xe”, vừa cố tình vu cáo, miệt thị lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta, vừa phá hoại đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước Việt Nam, hạ thấp uy tín, vai trò của Việt Nam với tư cách là thành viên của Liên hợp quốc. Lợi dụng các bài viết dưới mác “phân tích cơ sở khoa học” nhằm phủ định nền tảng tư tưởng, vai trò lãnh đạo, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; cố tình suy diễn, xuyên tạc, chống phá đường lối đối ngoại, quốc phòng, an ninh, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, tác động vào niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa. Chúng còn cho rằng, Việt Nam đang có sự điều chỉnh trong quan hệ đối ngoại nhằm tìm kiếm đối tác chiến lược toàn diện, thiết lập liên minh mới để đối phó với những quốc gia đang gây áp lực với mình... Lại có kẻ còn trắng trợn nói rằng, Việt Nam đang ngấm ngầm “theo chân” nước này để chống nước kia... bằng nhiều chiêu trò, chúng mưu toan đẩy mạnh tuyên truyền, phát tán những thông tin sai lệch, bịa đặt, nhằm mục đích tiếp tục chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam, đi ngược lại lợi ích quốc gia-dân tộc, chia rẽ mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước đối tác, nhất là các nước lớn, các nước láng giềng, phá hoại môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước của nhân dân Việt Nam. Dù có giở chiêu trò gì đi chăng nữa, các thế lực thù địch, phản động cũng không thể phủ nhận được những thành tựu trong công tác đối ngoại của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong những năm qua, đó là: Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, quan trọng trong công tác đối ngoại. Quan hệ của Việt Nam với các nước trong khu vực và trên toàn thế giới ngày càng được mở rộng, đi vào chiều sâu, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao. 

2. Chuyến công tác, làm việc của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm tại Hoa Kỳ càng có ý nghĩa quan trọng khi diễn ra vào thời điểm tròn một năm Việt Nam và Hoa Kỳ nâng cấp quan hệ lên Đối tác Chiến lược toàn diện vì hòa bình, hợp tác và phát triển bền vững, cũng như trước thềm kỷ niệm 30 năm quan hệ ngoại giao. Đây là dịp để hai bên cùng nhìn lại chặng đường đã qua, đúc rút, chia sẻ và lan toả những bài học, kinh nghiệm hay về quan hệ giữa các quốc gia, đồng thời tôn vinh và tri ân những thế hệ bạn bè đã và đang tích cực đóng góp cho quan hệ hai nước. Bên cạnh mở rộng, tăng cường hợp tác quốc tế theo tinh thần Việt Nam là đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, Đảng, Nhà nước ta luôn phát huy cao độ tinh thần đại đoàn kết toàn dân, chủ động tự lực, tự cường nhằm thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Như vậy, thực tế sự phát triển mối quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ hay giữa Việt Nam với quốc gia nào trên thế giới đều là tất yếu khách quan, phù hợp xu thế chung của thời đại.

Điều đó chứng minh đường lối, chính sách đối ngoại đúng đắn của Đảng ta, thể hiện nét đặc sắc “ngoại giao cây tre” vì lợi ích của mỗi quốc gia - dân tộc, đóng góp vào hòa bình, hợp tác, phát triển trong khu vực và trên thế giới, hoàn toàn không có chuyện “theo bên này, chống bên kia” như luận điệu những kẻ xấu, cố tình xuyên tạc, bịa đặt. Nếu ai đó nói rằng Việt Nam dựa vào nước này để chống nước kia thì đó là hành động cố tình xuyên tạc, bịa đặt nhằm mưu đồ xấu, can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của Việt Nam, hòng làm cho tình hình thêm phức tạp, gây hoài nghi, mất ổn định, ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Việt Nam cũng đã tích cực tham gia hầu hết các tổ chức quốc tế lớn và nghiêm chỉnh tuân thủ các cam kết quốc tế, đóng góp tích cực vào sự ổn định, phát triển của khu vực và thế giới; xây dựng mối quan hệ tôn trọng, tin tưởng lẫn nhau.

3. Quan điểm, chủ trương, chính sách đối ngoại của Việt Nam là rất rõ ràng, Việt Nam luôn kiên trì phương châm là bạn với tất cả các nước, đa phương hóa, đa dạng hóa trên cơ sở độc lập tự chủ và nguyên tắc của luật pháp quốc tế.

Mục đích của Việt Nam là tạo được lợi ích chung với các nước - đó là duy trì hòa bình, ổn định. Việt Nam đã nhiều lần khẳng định đường lối đối ngoại độc lập tự chủ. Việt Nam không bao giờ liên minh, liên kết với một nước khác để chống lại nước thứ ba, không đi với nước này để chống nước kia. Trong giải quyết những vấn đề nhạy cảm, phức tạp, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã nhiều lần khẳng định là phải trên cơ sở quán triệt và thực hiện tốt đường lối đối ngoại hòa bình hữu nghị, độc lập, tự chủ, bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế... Chủ trương và cách giải quyết đó của Đảng, Nhà nước ta đã tạo được sự đồng thuận cao trong nhân dân cũng như toàn xã hội, được dư luận quốc tế đồng tình ủng hộ. Trong đối ngoại của Việt Nam, Đảng ta luôn xác định, đối tác chiến lược toàn diện là một dạng thức quan hệ có tầm quan trọng lớn và có tính chiến lược, dài hạn giữa các quốc gia với nhau hoặc giữa quốc gia với tổ chức quốc tế và là một hình thức của quan hệ đối tác chiến lược bên cạnh các hình thức khác như đối tác chiến lược, đối tác chiến lược lựa chọn theo từng lĩnh vực, đối thoại chiến lược. Hiện nay đối tác chiến lược toàn diện là cấp cao nhất trong hệ thống thứ bậc đối tác ngoại giao ở Việt Nam. Với quan hệ đối tác chiến lược toàn diện, các bên xác định gắn bó lợi ích lâu dài, hỗ trợ lẫn nhau và thúc đẩy sự hợp tác sâu rộng và toàn diện trên mọi lĩnh vực mà các bên cùng có lợi và hướng tới lòng tin chiến lược. Việt Nam hiện đã có 8 quốc gia là đối tác chiến lược toàn diện gồm Trung Quốc, Liên bang Nga, Ấn Độ, Hàn Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Australia và Pháp; đồng thời ký kết và thực hiện nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, trong đó có Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA), Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP)... Tính đến tháng 9/2024, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao chính thức với 194 quốc gia. Đảng Cộng sản Việt Nam đã thiết lập quan hệ với 247 chính đảng ở 111 quốc gia. Quốc hội Việt Nam có quan hệ với quốc hội, nghị viện của hơn 140 nước. Các tổ chức hữu nghị nhân dân có quan hệ với 1.200 tổ chức nhân dân và phi chính phủ nước ngoài. Việt Nam cũng là thành viên tích cực và có trách nhiệm của hơn 70 tổ chức, diễn đàn quốc tế quan trọng. 

Đó là những vấn đề thực tế không thể chối cãi được, nó chứng minh đường lối, chính sách đối ngoại đúng đắn của Đảng ta, thể hiện nét đặc sắc “ngoại giao cây tre” vì lợi ích của mỗi quốc gia - dân tộc, đóng góp vào hòa bình, hợp tác, phát triển trong khu vực và trên thế giới, hoàn toàn không có chuyện “theo bên này, chống bên kia” như luận điệu những kẻ xấu, cố tình xuyên tạc, bịa đặt. Đó là minh chứng khách quan, sinh động, phản bác những luận điệu bôi nhọ, chống phá, những hành động trơ trẽn và lạc lõng của các thế lực thù địch./.

Sáng mãi niềm tin

 "CÁ NHÂN HÓA" TRUYỀN THÔNG CHÍNH TRỊ 

Truyền thông chính trị ngày càng đóng vai trò quan trọng, giúp người dân tiếp cận nhanh chóng các vấn đề chính trị. Những năm gần đây, dựa trên sự phát triển của khoa học-công nghệ, truyền thông chính trị hướng đến đối tượng là thanh, thiếu niên đã có nhiều thay đổi tích cực. Tuy vậy, để vấn đề chính trị thật sự đến được với người trẻ, vẫn còn cần thu hẹp những khoảng cách.

Phát biểu tại Phiên họp giả định "Quốc hội trẻ em" lần thứ 2 - năm 2024, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn đã bày tỏ sự hoan nghênh và đánh giá cao đối với Trung ương Đoàn và Hội đồng Đội Trung ương đã có sáng kiến tổ chức Phiên họp giả định "Quốc hội trẻ em" với mong muốn thúc đẩy sự tham gia sớm của trẻ em vào các hoạt động chính trị, xã hội; khơi dậy trong trẻ em khát vọng cống hiến, không ngừng tu dưỡng, rèn luyện, trau dồi tri thức để trở thành công dân có trách nhiệm, vừa có đức, vừa có tài, có ước mơ, hoài bão lập nghiệp trong tương lai và đóng góp thật nhiều cho sự phát triển của đất nước.

Phát biểu tại Phiên họp giả định "Quốc hội trẻ em" lần thứ 2 - năm 2024, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn đã bày tỏ sự hoan nghênh và đánh giá cao đối với Trung ương Đoàn và Hội đồng Đội Trung ương đã có sáng kiến tổ chức Phiên họp giả định "Quốc hội trẻ em" với mong muốn thúc đẩy sự tham gia sớm của trẻ em vào các hoạt động chính trị, xã hội; khơi dậy trong trẻ em khát vọng cống hiến, không ngừng tu dưỡng, rèn luyện, trau dồi tri thức để trở thành công dân có trách nhiệm, vừa có đức, vừa có tài, có ước mơ, hoài bão lập nghiệp trong tương lai và đóng góp thật nhiều cho sự phát triển của đất nước.

Truyền thông chính trị có sức mạnh to lớn trong việc tạo sự đồng thuận cũng như nâng cao nhận thức của mọi tầng lớp người dân nói chung, của người trẻ nói riêng, về hoạt động quản lý nhà nước, giúp người trẻ thấu hiểu hơn các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, góp phần hoàn thiện quá trình phân tích, hoạch định và thực thi chính sách, kiến tạo sự phát triển của xã hội. Vậy nên tìm ra phương thức phù hợp để truyền thông chính trị với người trẻ là đòi hỏi ngày càng cấp bách.

Những tín hiệu đáng mừng bước đầu

Trung tâm Báo chí và Hợp tác quốc tế, Cục Thông tin Đối ngoại, Bộ Thông tin và Truyền thông đã có những bước đi mang tính đột phá, khi ký kết thỏa thuận hợp tác truyền thông giai đoạn 2024-2027 với Công ty cổ phần Dịch vụ Quảng cáo và Truyền thông Schannel vào tháng 5 vừa qua. Các nội dung truyền thông về hình ảnh đất nước, con người Việt Nam sẽ được lan tỏa trên không gian mạng, đến với đông đảo công chúng trong nước và cộng đồng quốc tế, thông qua trang web và các kênh truyền thông mạng xã hội do Schannel Network Quản lý.

Từ khi thành lập, Schannel được biết đến là kênh thông tin được tạo nên bởi người trẻ, dành cho người trẻ, trên nhiều lĩnh vực khác nhau với cách truyền tải dễ gần và luôn "bắt trend".

"Chương trình hợp tác này có tầm quan trọng chiến lược đặc biệt với Schannel Network. Qua đó, Schannel hy vọng có thể dùng sức trẻ và tiếng nói của thế hệ trẻ lan tỏa, quảng bá thêm hình ảnh đẹp của thiên nhiên, văn hóa, con người Việt Nam trên nền tảng mạng xã hội trong và ngoài nước", anh Nguyễn Lạc Huy, Giám đốc, người sáng lập Schannel chia sẻ về thỏa thuận hợp tác này.

Để người trẻ "sống" trong không khí của những ngày lễ lớn của đất nước, để người trẻ đọc báo, tìm hiểu thông tin về chính trị trên các trang báo chính thống... những mục tiêu tưởng như đầy thách thức ấy đã được hiện thực từ những sáng tạo trong tiếp cận độc giả trẻ ở một cơ quan đứng đầu hệ thống báo Đảng. Trạm đọc Báo Nhân Dân đã trở thành một trong những địa điểm check-in hot nhất mạng xã hội của không chỉ giới trẻ. Ra mắt nhân dịp kỷ niệm 99 năm Ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam, không gian Trạm đọc Báo Nhân Dân nhanh chóng tạo nên làn sóng mới, khiến các bạn trẻ dù ít dù nhiều khi đến đây cũng có thể cảm thấy gần gũi hơn với tờ báo Đảng, và hàng loạt đầu báo, tiếp cận nhiều hơn các nội dung chính trị-xã hội mà Báo Nhân Dân muốn gửi gắm.

Trên phương diện rộng hơn, thu hút sự tham gia của thanh niên với những vấn đề thời cuộc, ngày 14/10, trong khuôn khổ Đại hội đại biểu Hội Liên hiệp Thanh niên Thủ đô Hà Nội lần thứ VIII, nhiệm kỳ 2024-2029, đồng chí Trần Sỹ Thanh, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Bí thư Thành ủy Hà Nội, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội đã có buổi đối thoại trực tiếp với thanh niên Thủ đô về chủ đề "Thanh niên tham gia xây dựng Thủ đô xanh, văn hiến, văn minh, hiện đại". Qua việc thảo luận quanh ba nhóm vấn đề: Hà Nội xanh, Hà Nội văn hiến, Hà Nội văn minh, hiện đại, 700 lượt ý kiến của đoàn viên, thanh niên các khối địa bàn dân cư, thanh niên trường học, công nhân, viên chức đã được thu thập thông qua Thành Đoàn Hà Nội.

Đặc biệt, nhóm vấn đề Hà Nội văn minh, hiện đại đã tập hợp được nhiều ý kiến, đề xuất, hiến kế của đoàn viên, thanh niên trong lĩnh vực xây dựng công dân số, chính quyền số, xã hội số; phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, cơ chế thu hút nhân tài, ứng dụng khoa học công nghệ trong kỷ nguyên số.

Hành trình chỉ mới bắt đầu

Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đang thay đổi nhanh chóng và sâu sắc thói quen tiếp nhận thông tin, truyền thông chính trị cũng đứng trước nhiều đòi hỏi mới mẻ. Để tăng tương tác với đa dạng đối tượng, nhất là giới trẻ, thay vì chủ yếu đăng lại các đường dẫn bài báo, tin hoạt động của đơn vị, tổ chức, mỗi cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị-xã hội cần đầu tư nghiêm túc về nhân lực, vật lực cho việc thiết kế, dựng chương trình truyền thông phù hợp. Về phương diện này, việc liên kết với các công ty truyền thông giới trẻ, như cách mà Trung tâm Báo chí và Hợp tác Quốc tế đã thực hiện, cho thấy hướng đi mới, mang lại hiệu quả.

Hiện nay, chính các cơ quan báo chí truyền thông cũng chuyển dịch từ xu hướng "online first" (ưu tiên các nội dung trên mạng trước) sang "mobile first" (ưu tiên các nội dung cho di động) và "social first" (ưu tiên các nội dung cho mạng xã hội) mỗi khi tuyên truyền các nội dung chính trị, kinh tế, xã hội.

Từ đây, theo TS Nguyễn Xuân Hạnh (Học viện Báo chí và Tuyên truyền), truyền thông chính trị có thể hướng đến "cá nhân hóa" thông tin, tăng cường tương tác, tiếp cận gần hơn với người trẻ. "Cá nhân hóa" có thể hiểu là một hình thức tương tác giữa người dùng với hệ thống, sử dụng các tính năng công nghệ để lựa chọn nội dung, phân phối và sắp xếp thông tin cho phù hợp sở thích của từng nhóm người tiêu thụ thông tin. Theo đó, ứng dụng tr.í tu.ệ nhâ.n t.ạo (AI) để "cá nhân hóa" thông tin, gửi tới mỗi người một phiên bản thông tin phù hợp nhu cầu và thị hiếu của họ... chắc chắn sẽ giúp tăng cơ hội tiếp cận và truyền tải thông điệp hiệu quả hơn. Điều này sẽ trở thành xu thế mà các cơ quan, đơn vị, tổ chức cần tính đến trong chiến lược truyền thông của mình./. 

Báo Nhân Dân

 MẠNH MẼ, ĐỘT PHÁ VÌ KỶ NGUYÊN VƯƠN MÌNH CỦA DÂN TỘC 

Đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng có ý nghĩa rất quan trọng khi đất nước đang chuẩn bị bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

“Đúng vai, thuộc bài” không chỉ là vấn đề của cán bộ, đảng viên, người đứng đầu mà cần được mở rộng và được hiểu trong mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước, tổ chức Đảng và chính quyền địa phương, tổ chức Đảng và bộ máy quản lý tại đơn vị… Đây cũng chính là một trong những yêu cầu, nhiệm vụ quan trọng khi đất nước đang đứng trước thời cơ mới, bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Không làm thay hoặc buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng

Bài viết “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, yêu cầu cấp bách của giai đoạn cách mạng mới” của Tổng Bí thư Tô Lâm đang nhận được sự quan tâm của dư luận và các chuyên gia, nhà nghiên cứu.

Một nội dung nhận được nhiều sự quan tâm đó chính là đảm bảo sự thống nhất giữa sự lãnh đạo của Đảng và tổ chức thực thi quyền lực quản lý của Nhà nước.

Đồng thời phải phân biệt những quyền hạn của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, tránh tình trạng chồng chéo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn dẫn đến tình trạng làm thay, hoặc buông lỏng, đùn đẩy trách nhiệm mỗi khi có hậu quả xảy ra. Điều này đã được lý giải trong bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm.

Sự thống nhất được nêu trong bài viết trên, đó là: “Đảng cầm quyền lãnh đạo Nhà nước; quyền lực của Đảng cầm quyền là quyền lực về chính trị, đề ra chủ trương, đường lối, còn quyền lực Nhà nước là quyền lực quản lý xã hội trên cơ sở pháp luật. Sự lãnh đạo của Đảng để đảm bảo quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, Nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân. Đảng lãnh đạo toàn diện đất nước và chịu trách nhiệm về mọi thành công, thiếu sót trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.

Song trọng tâm và vấn đề cần giải quyết, khắc phục chính là cần có những giải pháp phân định rõ quyền hạn của Đảng và Nhà nước, làm rõ “ranh giới giữa lãnh đạo và quản lý”.

Trong tình hình mới, Tổng Bí thư Tô Lâm đặt ra yêu cầu: Bảo đảm nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng không trùng với nhiệm vụ quản lý; phân biệt và quy định rõ nhiệm vụ cụ thể của các cấp lãnh đạo trong các loại hình tổ chức Đảng, tránh tình trạng bao biện làm thay, hoặc tồn tại song trùng, hình thức. Đổi mới mạnh mẽ tác phong, lề lối làm việc theo hướng khoa học, chuyên nghiệp, với phương châm “đúng vai, thuộc bài”.

Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật là nguyên tắc được ghi trong điều lệ Đảng và Điều 4, Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013: “Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Nguyên tắc này đã mang lại những thành tựu vĩ đại trong cơ chế vận hành "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ" ở nước ta.

Một số giải pháp cấp bách

Từ thực tế, đặc biệt qua các vụ án, vụ việc nổi cộm liên quan đến một bộ phận đảng viên, trong đó có nhiều đảng viên giữ chức vụ cao, có thể nhận thấy: Một bộ phận cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng chưa nhận thức rõ về nguyên tắc “Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” đã nêu.

PGS.TS Vũ Văn Phúc - Phó Chủ tịch Hội đồng Khoa học các cơ quan Đảng Trung ương - phân tích, một số biểu hiện của việc này đã được cấp có thẩm quyền chỉ ra, như: Một số cấp ủy lạm dụng quyền lãnh đạo, can thiệp sâu vào hoạt động chính quyền, tư pháp. Một bộ phận đảng viên vi phạm pháp luật, nhất là trong lĩnh vực kinh tế với tính chất, mức độ nghiêm trọng. Một số cán bộ, đảng viên lợi dụng chức quyền hạn để tham nhũng, tiêu cực, bao che cho các hoạt động kinh tế bất hợp pháp, để vợ con, người thân trục lợi từ chức vụ, quyền hạn...

Từ thực tế đó và qua các ý kiến phân tích, các chuyên gia, học giả nghiên cứu cho rằng, cần phải có những giải pháp để hạn chế, tiến tới ngăn chặn tình trạng nêu trên. Trong đó, cần tập trung một số nội dung:

Thứ nhất, tiếp tục thực hiện mạnh mẽ các nhóm nhiệm vụ, giải pháp mà Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII đã đề ra là tiến hành đồng bộ và quyết liệt hơn nữa công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị toàn diện, trong sạch, vững mạnh.

Bên cạnh đó là xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, xử lý nghiêm cán bộ sai phạm.

Thứ hai, tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức trách nhiệm cho cấp ủy các cấp và cán bộ, đảng viên về nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật; chú trọng thực hiện nghiêm quy định của Trung ương Đảng về những điều đảng viên không được làm.

Thứ ba, cụ thể hóa chi tiết vai trò lãnh đạo và hoạt động của Đảng, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa chấp hành Điều lệ Đảng với chấp hành pháp luật của đảng viên. Phát huy vai trò của người đứng đầu cấp ủy và chính quyền.

Thứ tư, tập trung tinh gọn bộ máy, tổ chức các cơ quan của Đảng. Nghiên cứu, đẩy mạnh việc hợp nhất một số cơ quan tham mưu, giúp việc của Đảng; sớm đánh giá toàn diện việc kiêm nhiệm chức danh của Đảng và hệ thống chính trị để có quyết sách phù hợp. Bảo đảm nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng không trùng với nhiệm vụ quản lý; phân biệt và quy định rõ nhiệm vụ cụ thể của các cấp lãnh đạo trong các loại hình tổ chức đảng.

Thứ năm, đổi mới, nâng cao chất lượng xây dựng, ban hành văn bản của Đảng đồng bộ, toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm, tính dự báo cao, bám sát thực tiễn.

Đồng thời hoàn thiện quy định về ban hành văn bản của Đảng bảo đảm khoa học, thực tiễn, hệ thống, chặt chẽ. Rà soát, phát hiện, khắc phục những nội dung còn chồng chéo, mâu thuẫn trong các văn bản của Đảng đã ban hành, hủy bỏ những văn bản không còn phù hợp.

Thứ sáu, tăng cường, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của Đảng. Phát huy vai trò, trách nhiệm của các cơ quan tham mưu, giúp việc của Đảng trong kiểm tra, giám sát các hoạt động thuộc lĩnh vực được giao. Phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với công tác thanh tra, kiểm toán, điều tra của Nhà nước.

Đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng là một quá trình thường xuyên, liên tục, quyết liệt, đồng bộ và xuyên suốt trong Đảng. Đây chính là yêu cầu, nhiệm vụ mang tính cấp bách hiện nay khi đất nước đang đứng trước thời điểm lịch sử mới, kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc./.

Báo Lao Động