Thứ Sáu, 28 tháng 8, 2020

TRUNG QUỐC ĐANG LÀM GÌ Ở BIỂN ĐÔNG

Trong những năm gần đây, Trung Quốc liên tục có những hành động gây căng thẳng, tiềm ẩn những nguy cơ xảy ra xung đột trên Biển Đông. Trung Quốc ngang ngược đưa ra yêu sách “đường lưỡi bò” đòi chủ quyền trên phần lớn diện tích Biển Đông, từ năm 2014 đã tiến hành xây dựng các đảo nhân tạo, cải tạo mở rộng diện tích sử dụng các đảo do nước này chiếm hữu thuộc quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam. Thường xuyên có những hành động gây căng thẳng trên các vùng biển khu vực tranh chấp chủ quyền giữa Trung Quốc và các quốc gia khác trong khu vực như Nhật Bản, Việt NamPhilippinesMalaysiaĐài Loan và Brunei. Gần đây nhất, từ ngày 24 đến ngày 29.8.2020, Trung Quốc tổ chức tập trận quanh khu vực quần đảo Hoàng Sa với khu vực tập trận rộng khoảng gần 49.000 km2, trong đó, sáng 26.8.2020 Trung Quốc đã phóng 2 quả tên lửa đạn đạo chống hạm Đông Phong từ những vị trí bí mật ở hai tỉnh Chiết Giang, Thanh Hải ra Biển Đông.

Những hành động trên của Trung Quốc đã gặp sự phản đối, lên án của nhiều quốc gia trên thế giới. Các nước Mỹ, Úc, Malaysia, Indonesia, Philipin đã gửi công hàm lên Liên hợp quốc bác bỏ mọi yêu sách trên Biển Đông của Trung Quốc, trong đó có yêu sách đường lưỡi bò phi pháp của Trung Quốc. Những hành động và yêu sách về Biển Đông của Trung Quốc đang vi phạm nghiêm trọng Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS). Điều 60 của Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển năm 1982 phủ nhận quy chế cho các đảo nhân tạo (Artificial islands) nêu rõ: "Các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình không được hưởng quy chế của đảo. Chúng không có lãnh hải riêng và sự có mặt của chúng không có tác động gì đối với việc hoạch định ranh giới lãnh hảivùng đặc quyền kinh tế hoặc thềm lục địa".

 Việt Nam đã rất nhiều lần lên tiếng khẳng định lập trường cứng rắn về chủ quyền biển đảo của mình, Việt Nam có đầy đủ chứng cứ lịch sử và cơ sở pháp lý khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa phù hợp luật pháp quốc tế. Chủ trương nhất quán của Việt Nam là mọi tranh chấp quốc tế, trong đó có tranh chấp về vấn đề chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa phải giải quyết bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc. Phản ứng việc Trung Quốc ngang nhiên tiến hành tập trận ở Hoàng Sa từ ngày 24 đến 29.8.2020, phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng ngày 26-8 nêu rõ “Việc Trung Quốc liên tiếp tiến hành tập trận ở khu vực quần đảo Hoàng Sa đã vi phạm chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo này, đi ngược lại tinh thần Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), gây phức tạp tình hình, không có lợi cho quá trình đàm phán hiện nay giữa Trung Quốc và ASEAN về Bộ Quy tắc ứng xử giữa các bên ở Biển Đông (COC) và việc duy trì môi trường hòa bình, ổn định và hợp tác ở Biển Đông. Việt Nam yêu cầu Trung Quốc tôn trọng chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, hủy bỏ và không tái diễn vi phạm tương tự.”

Trong bối cảnh hiện nay, khi toàn thế giới đang oằn mình phòng chống dịch Covid-19 khởi phát từ Trung Quốc, bản thân Trung Quốc đang đối phó với thiên tai mưa lũ lịch sử, nền kinh tế Trung Quốc đang bị đe dọa nghiêm trọng trong cuộc chiến tranh thương mại với Mỹ với nguy cơ thoái hóa cao do bị phía Mỹ liên tục áp đặt các lệnh trừng phạt trong quan hệ kinh tế, những hành động mang yếu tố quân sự, chính trị của Trung Quốc trên Biển Đông đang gây phản tác dụng trong việc xoa dịu căng thẳng và duy trì sự ổn định, có thể khiến cho Mỹ và các nước trong khu vực gia tăng sức mạnh quân sự hiện diện trong khu vực, điều đó càng gây thêm bất ổn cho tình hình ở Biển Đông, quan hệ ngoại giao giữa Trung Quốc và các nước có nguy cơ càng xấu đi. Liệu Trung Quốc có phải đang tự làm khó mình, tự đưa đất nước vào vòng xoáy bất ổn và thoái trào?

NGUYỄN ĐÌNH CỐNG LẠI TỰ VẢ VÀO MẶT MÌNH


Trên thế giới ảo-internet, mạng xã hội nếu người ta muốn tìm xem những ai, kẻ nào đang chống chế độ thì có thể vào những trang mạng ngoài luồng (mà Hà Nội không thèm chặn,…) Gần đây, người ta thấy Nguyễn Đình Cống xuất hiện nhiều trên những mạng đó. Sau đây là một bài viết- một “ý tưởng lớn” của Y…

Bản Tuyên ngôn độc lập, mãi mãi trường tồn với thời gian

 

75 năm đã trôi qua nhưng những quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện trong bản Tuyên ngôn độc lập về quyền con người, quyền dân tộc, về khát vọng và tinh thần đấu tranh kiên cường để giữ vững nền độc lập, tự do, vẫn vẹn nguyên tính thời sự, có ý nghĩa đặc biệt sâu sắc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Đặc biệt, những giá trị về quyền con người do Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi xướng trong Tuyên ngôn độc lập là những giá trị bất hủ. Từ đó đến nay, nhân dân Việt Nam đã không ngừng phấn đấu cho quyền con người và đạt được nhiều kết quả tích cực, rất quan trọng.

Các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và luật. Với những thành tựu về việc bảo đảm quyền con người (cả trên lĩnh vực đối nội và đối ngoại), Việt Nam được bầu làm thành viên của Hội đồng Nhân quyền của Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2014-2016).

Kể từ ngày bản Tuyên ngôn độc lập ra đời đến nay, vị thế đất nước đã có nhiều đổi thay, lời thề lịch sử “Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy” luôn rọi sáng mọi trái tim, khối óc của người Việt Nam yêu nước trên mọi vùng, miền của Tổ quốc và định cư ở nước ngoài.

Những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Tuyên ngôn độc lập đã trở thành sức mạnh tinh thần to lớn của toàn dân tộc, giúp toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta vượt qua mọi khó khăn, giành được những thành tựu to lớn trong đấu tranh thống nhất đất nước, phát triển kinh tế-xã hội và hội nhập quốc tế.

Đặc biệt, sau gần 35 năm tiến hành đổi mới, nước ta đã thoát khỏi tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Tăng trưởng kinh tế bình quân đạt gần 7%/năm, quy mô và tiềm lực của nền kinh tế không ngừng tăng lên; tiến bộ, công bằng xã hội, phát triển văn hóa và công cuộc xây dựng nông thôn mới đạt được nhiều kết quả tích cực; Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam dần được cải thiện, hiện đang thuộc nhóm trung bình cao và đứng thứ 118/189 quốc gia (năm 2019); mức sống chung của người dân từng bước được nâng lên...

Cùng với đó, quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, có hiệu quả. Vị thế, uy tín quốc tế của nước ta tiếp tục được nâng cao. Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 185 quốc gia trên thế giới; gia nhập và tích cực xây dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN; tham gia có hiệu quả các liên kết kinh tế khu vực và quốc tế trên nhiều cấp độ...

Năm tháng sẽ qua đi, nhưng tinh thần bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vẫn luôn sống mãi trong lòng các thế hệ người Việt Nam, không chỉ bởi giá trị lịch sử, pháp lý mà còn bởi giá trị nhân văn cao cả về quyền con người, quyền của dân tộc được sống trong độc lập, tự do như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ấp ủ và cống hiến cả cuộc đời mình để thực hiện./.

HA200840


Quyền con người gắn liền với quyền dân tộc trong bản Tuyên ngôn độc lập

 

Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 2.9.1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập tuyên bố với toàn thể quốc dân đồng bào và thế giới về sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam).

Bản tuyên ngôn đã thể hiện mạnh mẽ ý chí và khát vọng của dân tộc Việt Nam “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ."

Trải qua 75 năm, Tuyên ngôn độc lập vẫn mang tính thời sự sâu sắc cả trên bình diện trong nước và quốc tế.

Tuyên ngôn độc lập là một tác phẩm đỉnh cao, tiêu biểu, phản ánh đầy đủ nhất, sâu sắc nhất quan điểm triết học, quan điểm chính trị và cả quan điểm nhân sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong đó chứa đựng cả những giá trị của văn minh nhân loại, những “lẽ phải không ai chối cãi được” về quyền con người, quyền dân tộc.

Mở đầu bản Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh trích dẫn những lời bất hủ trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791.

Từ việc đề cập đến quyền của con người như một sự tất yếu của tạo hóa, không ai có thể xâm phạm được, là quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh, bằng trí tuệ mẫn tiệp, bằng sự trải nghiệm thực tế và thực tiễn cách mạng Việt Nam, đã khéo léo phát triển sáng tạo, đưa ra một luận đề không thể bác bỏ về quyền của các dân tộc.

"Suy rộng ra câu ấy có nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”

Người đã đi từ khái niệm con người sang khái niệm dân tộc một cách tổng quát và đầy thuyết phục, khẳng định quyền dân tộc và quyền con người có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Dân tộc độc lập là điều kiện tiên quyết để bảo đảm thực hiện quyền con người và ngược lại thực hiện tốt quyền con người chính là phát huy những giá trị cao cả và ý nghĩa thật sự của độc lập dân tộc.

Nghiên cứu về Tuyên ngôn độc lập, giáo sư Shingo Shibata (Nhật Bản) cho rằng "cống hiến nổi tiếng của cụ Hồ Chí Minh là ở chỗ Người đã phát triển quyền lợi của con người thành quyền lợi của dân tộc. Như vậy, tất cả mọi dân tộc đều có quyền tự quyết định lấy vận mệnh của mình”

Bởi vậy, có thể nói Tuyên ngôn độc lập năm 1945 không chỉ là tuyên ngôn độc lập của dân tộc Việt Nam mà còn là tuyên ngôn về quyền con người, quyền của các dân tộc thuộc địa trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc. Việc nâng tầm quyền con người lên thành quyền dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là một cống hiến về nguyên lý lý luận của Người vào kho tàng tư tưởng nhân quyền của nhân loại.

"Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập"

Quyền độc lập dân tộc, quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc là những giá trị cơ bản nhất của nhân quyền. Nhưng dưới chế độ thực dân, phong kiến ở Việt Nam, những quyền đó bị tước bỏ và chà đạp.

Trong Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lên án đanh thép tội ác của thực dân Pháp “trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa."

"Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do, dân chủ nào... Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước, thương nòi. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của nhân dân trong những bể máu... Về kinh tế, chúng bóc lột công nhân, nông dân đến tận xương tủy... Chúng cướp không ruộng đất, rừng mỏ, nguyên liệu... Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho nhân dân ta, nhất là dân cày và dân buôn trở nên bần cùng...” 

Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng Cộng sản, nhân dân Việt Nam đã đứng lên đánh đuổi thực dân, phong kiến và đế quốc, giành lại độc lập, tự do và quyền con người. Như vậy, nhân quyền ở Việt Nam không phải là giá trị do ai ban phát mà là kết quả của cuộc đấu tranh trường kỳ của nhân dân Việt Nam. Cuộc đấu tranh đó đã làm cho “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hòa” 

Vì thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố “thoát ly hẳn quan hệ với Pháp, xoá bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xoá bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam” (5); đồng thời nhấn mạnh, “các nước đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các Hội nghị Têhêrăng và Cựu Kim Sơn, quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam”

Kết thúc bản Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng tuyên bố với thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”.

Với hệ thống lập luận chặt chẽ, sắc bén, lời lẽ đanh thép, đầy sức thuyết phục gói gọn trong hơn 1.000 chữ, Tuyên ngôn độc lập là một cơ sở pháp lý vững chắc khẳng định mạnh mẽ chủ quyền quốc gia của dân tộc Việt Nam trước toàn thế giới, đặt cơ sở cho việc thiết lập nhà nước pháp quyền ở Việt Nam với mục tiêu độc lập-tự do-hạnh phúc; soi sáng con đường cách mạng Việt Nam hướng lên tầm cao mới trong sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.

Bg200802

Thứ Năm, 27 tháng 8, 2020

Những thủ đoạn chống phá Đảng trên mạng xã hội


Thực tiễn trog thời gian qua cho thấy, chống phá Đảng, đòi đa nguyên đa đảng là một trong những mục tiêu trọng tâm mà các thế lực thù địch luôn hướng tới. Thông qua nhiều hình thức và phương thức khác nhau, đặc biệt là lợi dụng những ưu việt đặc biệt của mạng xã hội, hoạt động này đang có xu hướng gia tăng với thủ đoạn ngày càng tinh vi, phức tạp hơn. 
Tình hình đó đã và đang đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết, đặc biệt là việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trước thềm Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Một trong những vấn đề cốt lõi, sống còn nhất của việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng chính là bảo vệ Đảng, Cương lĩnh chính trị, đường lối của Đảng". Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng đã cho thấy âm mưu cơ bản, lâu dài của các thế lực thù địch, phản động là xóa bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, làm lu mờ và tiến tới xóa bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Để thực hiện âm mưu đó, thông qua các trung tâm phá hoại tư tưởng, các tổ chức phản động lưu vong đã tiến hành nhiều phương thức khác nhau, đặc biệt là lợi dụng những “ưu trội” của mạng xã hội để thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, tấn công trên mặt trận tư tưởng, văn hóa, tiến hành rêu rao những thắng lợi của chủ nghĩa tư bản, sự diệt vong của chủ nghĩa cộng sản... hòng làm tan rã niềm tin, gây hỗn loạn về lý luận và tư tưởng, tạo ra “những khoảng trống” để dần đưa hệ tư tưởng tư sản thâm nhập cán bộ, đảng viên, từng bước “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng.
          Từ những những vấn đề trên, chúng ta cần khẳng định việc nhận diện, phân tích và làm rõ hoạt động chống phá Đảng Cộng sản Việt Nam của các thế lực thù địch trên mạng xã hội góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch là nhiệm vụ của mọi ngành, mọi cấp, mọi lực lượng. Đó cũng chính là những yêu cầu bức bách đang đặt ra, có vai trò quyết định đến sự tồn vong và phát triển của Đảng, đến niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, đến đường lối đối nội và đối ngoại đúng đắn, khoa học mà Đảng đang dẫn dắt, lãnh đạo./.

Ngăn chặn những âm mưu, thủ đoạn chống Đảng của các thế lực thù địch


Hiện nay, khi chúng ta đang tiến hành tổ chức Đại hội Đảng bộ các cấp, tiến tới chuẩn bị Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, các đối tượng thù địch, phản động, cơ hội chính trị trong và ngoài nước tập trung ra sức công kích, tuyên truyền chống phá vào nền tảng tư tưởng của Đảng, vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng, nguyên tắc tổ chức, cán bộ, công tác nhân sự đại hội.
Các hoạt động này được chuẩn bị kỹ lưỡng, tiến hành bài bản, hệ thống với việc huy động cùng lúc nhiều phương tiện, lực lượng tham gia mà đứng đầu là các tổ chức khủng bố, phản động lưu vong ở ngoài như: Việt Tân, Chính phủ Quốc gia Việt Nam lâm thời, Đảng Dân chủ nhân dân, Đảng Vì dân, Tập hợp dân chủ đa nguyên…
Trong đó, chúng tập trung vào các nội dung: Phủ nhận, chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng, phủ nhận quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; phủ nhận vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và bôi nhọ lãnh đạo Đảng, Nhà nước; tuyên truyền xuyên tạc công cuộc đấu tranh chống tham nhũng, chống suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ của Đảng ta; đưa ra những thông tin xuyên tạc, bịa đặt về nguyên tắc tổ chức, cán bộ, công tác nhân sự Đại hội Đảng.
Trước những thông tin đó, đáng tiếc là một số người, trong đó có cả cán bộ, đảng viên do thiếu bản lĩnh chính trị, nhận thức chưa thấu đáo nên đã chia sẻ, bình luận làm thông tin có cơ hội phát tán trên không gian mạng. Nhiều người đã có những hành động thiếu suy nghĩ, lời lẽ thiếu khiêm tốn, vô tình tiếp tay để các thế lực thù địch, chống đối suy diễn, lợi dụng gây ảnh hưởng trong dư luận Nhân dân.
Chính vì vậy, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, chủ động nâng cao “sức đề kháng” đối với thông tin xấu độc, đấu tranh phản bác các thông tin sai trái, đặc biệt trên internet là nhiệm vụ thường xuyên của cấp ủy, tổ chức Đảng, của cả hệ thống chính trị và mỗi cán bộ, đảng viên./.

CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH - NHÀ NGOẠI GIAO XUẤT SẮC CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM

 

Suốt cuộc đời đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, vì độc lập, tự do của nhân dân, Hồ Chí Minh đã giao thiệp với rất nhiều bạn bè trên thế giới, có những người bạn cùng chí hướng, có cả những kẻ thù, trong nhiều hoàn cảnh và trên nhiều vị thế khác nhau. Phong cách ứng xử tài tình của Người trong hoạt động đối ngoại đã góp phần không nhỏ vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam cũng như phong trao đấu tranh cho nền hòa bình chung của nhân loại. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói "sự ứng xử linh hoạt của Hồ Chí Minh trong giao tiếp ngoại giao đã trở thành những câu chuyện huyền thoại".

Ảnh tư liệu

1. Phong cách ứng xử bản lĩnh, tự tin và khôn khéo của Hồ Chí Minh để giữ vững mục tiêu đấu tranh vì độc lập, tự do và hòa bình của dân tộc.

2. Ứng xử với phương châm “vừa là đồng chí, vừa là anh em”nhằm xây dựng khối đại đoàn kết giữa các quốc gia trên thế giới, tranh thủ sự ủng hộ quốc tế trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc, tự do cho nhân dân.

3. Chủ tịch Hồ Chí Minh không câu nệ đối đẳng chức vụ trong giao tiếp với các tầng lớp nhân dân trên thế giới ở những cương khác nhau, khiến cho mọi người cảm thấy gần gũi, thân tình.

4. Phong cách nói giản dị, thái độ chân thành dễ cảm hóa và thuyết phục lòng người.

5. Kết hợp nhuần nhuyễn văn hóa dân tộc và sự am tường phong tục tập quán các dân tộc trên thế giới tạo thành nghệ thuật ứng xử ngoại giao.

Phong cách ứng xử ngoại giao là biểu hiện đạo đức và nhân cách của mỗi con người, với Hồ Chí Minh đó là sự kết hợp hài hòa các giá trị truyền thống và hiện đại, sự kết tinh văn hóa ứng xử phương Đông và phương Tây, là hiện thân của chủ nghĩa nhân văn cao cả. Nhà thơ Xôviết Ôxíp Manđenxtam đã viết: “... qua cử chỉ cao thượng, tiếng nói trầm lắng của Nguyễn Ái Quốc, tôi thấy được ngày mai, thấy được viễn cảnh trời yên biển lặng của tình hữu ái toàn thế giới bao la như đại dương”./.

 

Những câu chuyện về nhà ngoại giao tài ba Lê Đức Thọ

 

Ông Lê Đức Thọ, tên thật là Phan Đình Khải, sinh ngày 10/10/1911 tại xã Địch Lễ, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định, nay là xã Nam Vân (TP Nam Định) trong một gia đình nho giáo, ở vùng đất có truyền thống yêu nước, hiếu học.

Ông nguyên là Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương, là một trong những học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, một chiến sỹ cách mạng kiên cường, một cán bộ lãnh đạo giàu kinh nghiệm của Đảng và Nhà nước.

Tháng 6-1968, ông Lê Đức Thọ (cố vấn cao cấp Đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hội nghị Paris) đến Paris, bắt đầu những chuỗi ngày đàm phán cam go và căng thẳng. Ông phải đối đầu trực diện với Henry Kissinger – một nhân vật ngoại giao tầm cỡ và có rất nhiều thủ đoạn ngoại giao, được mệnh danh là “cây đại vĩ cầm về địa – chính trị” của Mỹ. Kể từ đây, ông Lê Đức Thọ trở thành một nhà ngoại giao chuyên nghiệp và được cả thế giới biết đến.

Ảnh tư liệu

Lần đầu tiên ông Lê Đức Thọ và Kissinger gặp nhau là ngày 21-2-1970. Địa điểm hai người gặp gỡ là căn nhà số 11, phố Dathes, thị trấn Choisy Le Roi (Pháp). Ngay lần tiếp xúc đầu tiên, ông đã làm cho Kissinger có những ấn tượng khó quên.

Sổ nhật ký của Kissinger có đoạn : “Tóc hoa râm, đường bệ, Lê Đức Thọ bao giờ cũng mặc bộ đại cán xám hoặc marông. Ông lúc nào cũng tỏ ra rất bình tĩnh, thái độ bao giờ cũng không có điều gì chê trách được…”

Ông trực tiếp phụ trách đoàn ngoại giao Việt Nam đàm phán với Mỹ về Hiệp định Paris. Sau khi Hiệp định Paris được ký kết, ông Thọ từng được trao tặng giải Nobel Hòa bình cùng với cố vấn ngoại giao Henry Kissinger vào năm 1973, nhưng ông đã từ chối nhận giải với lý do đất nước Việt Nam chưa thể có được hòa bình chừng nào chưa đánh đổ được chế độ tay sai của Mỹ.

Đó là giải Nobel duy nhất dành cho người Việt cho đến nay. Năm 2002, nhân kỷ niệm 100 năm thành lập giải Nobel Hòa bình (1902 – 2002), Nevis đã cho phát hành một mẫu tem chân dung cố vấn Lê Đức Thọ và nhắc lại “sự kiện” ông không nhận giải thưởng này.

Cũng chính vì những lẽ đó mà ông là một trong những nhân vật được tôn vinh là “Nhà kiến tạo Hòa bình” xuất sắc của thế giới.

Các phiên họp riêng giữa các ông Xuân Thuỷ, Lê Đức Thọ và Kissinger, Cố vấn của Tổng thống Mỹ Nixon, đều là những ngày làm việc dài. Có ngày làm việc đến 13 tiếng đồng hồ, lấn sang cả đêm. Ông Lê Đức Thọ sinh năm 1911, lúc ấy hơn 60 tuổi, nhiều hơn Kissinger gần một giáp.

Kissinger rất mánh lới, vào đầu các cuộc họp riêng thì cứ đưa chuyện nọ – chuyện kia dài lê thê, và cứ nhè vào lúc chiều hay gần tối mới đưa việc chính ra tranh cãi.. Đó là lúc ông ta nghĩ rằng ông già kia (Lê Đức Thọ) mệt mỏi rồi, chắc dễ ừ, dễ gật.

Nhưng ông ta không biết gì về ông Thọ! Lúc nghỉ, ông Lưu Văn Lợi (thư ký) hỏi thăm, ông Thọ nói: “Mình phải cảnh giác, mình biết thằng này hoạt động theo kiểu tình báo, mình phải giữ…”.

Đàm phán càng muộn, ông Thọ càng tỉnh và thậm chí có lúc diễn thuyết làm cho Kissinger sau này phải nói là: “Ông Thọ ở Paris đã mổ xẻ tôi bằng con dao rất nhọn, với tay nghề của một nhà phẫu thuật. Có những lúc ông ấy nói cả tiếng đồng hồ, tôi bảo cái điều này tôi đã nghe nhiều lần rồi, thì ông Thọ bảo: Ông nghe nhiều lần nhưng chưa thuộc, tôi nói lại…”

Trên bàn đàm phán ở Hội nghị Pa-ri về chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam, có giai đoạn Mỹ đòi ta không được đưa thêm quân miền Bắc vào miền Nam. Mỹ còn đưa ra các bằng chứng để cáo buộc ta về việc này.

Có lần họp, Kissinger đưa cho Cố vấn Lê Đức Thọ khoảng 30 cái ảnh màu cỡ bằng cái khay, chụp từ vệ tinh rất rõ, trong đó chụp bộ đội của ta đang ở trong rừng không đội mũ tai bèo mà đội mũ cối, vai đeo lon, rõ cả sao trên mũ mà Mỹ cho là đang trên đường hành quân vào Nam. Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ rất nhanh, phản ứng trước tiên bằng tiếng cười to, chắc khỏe, có ý “khinh khi” sự bịa đặt của Mỹ. Rồi đồng chí nói, tình báo của các ông tồi lắm.

Lúc chúng tôi không đưa quân nữa thì các ông lại chụp ảnh này. Tôi nói với các ông chứ rừng Việt Nam chỗ nào chả giống chỗ nào. Các ông ra Bắc chụp quân mà đội mũ cối, sao vàng, đeo lon thế này là bình thường. Nhưng lúc chúng tôi đưa đại pháo và cả xe tăng vào Sài Gòn thì tình báo các ông lại chẳng biết tí gì cả. Cho nên các ông thua là phải. Kissinger ngồi không nói được câu nào!

* Tấm ảnh Mỹ đưa ra không hề chính xác, vì khi dàn trận, quân ta không đeo lon, đeo sao như thế. Sau đó, ta họp báo cũng nêu tình tiết này nhằm cho thế giới biết âm mưu và thủ đoạn của Mỹ.

Báo chí ở Pa-ri hồi ấy săm soi nhất cử nhất động của hai đoàn ta và Mỹ rất ghê, nhất là trong những cuộc đàm phán riêng giữa Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ và Kissinger. Họp trong phòng mà có phóng viên còn thuê nhà bên cạnh, dỡ cả mái ngói để trèo lên rồi chĩa máy ảnh sang.

Hai ông cố vấn họp xong đi ra ngoài cửa, có bắt tay không, có cười không, mặt lạnh hay cười…đều bị chụp lại rồi đưa lên báo. Có lần họp căng thẳng, quyết liệt, kết quả chưa ngã ngũ mà chẳng hiểu sao báo chí lại đồng loạt đăng tin nghe chừng đàm phán có tiến triển. Thì ra họ chụp được cảnh đồng chí Lê Đức Thọ đang cười, dẫu chưa biết ông cười vì cái gì, họp có kết quả không nhưng đã vội tung tin lên báo theo chiều hướng tích cực.

Ở Hà Nội theo dõi tin tức thấy vậy gọi sang hỏi tình hình thế nào, sao đồng chí Thọ lại cười ?

Lúc ấy, đồng chí Lê Đức Thọ mới lộ ra rằng: “Tôi không cười thì khóc à, vì Kissinger bắt tay tôi chặt quá!”.

Một hôm, sau buổi đàm phán, Henry Kissinger có nói với ông Lê Đức Thọ rằng: “Dù mới chỉ gặp được 45 phút nhưng ông hoàn toàn khiến chúng tôi bối rối”. Cách đây 1 năm, trong bài phát biểu trong hội thảo về lịch sử liên quan đến Đông Nam Á của Mỹ tại Bộ Ngoại giao Mỹ, ông Henry Kissinger còn thừa nhận Mỹ đánh giá thấp sự kiên cường của các nhà lãnh đạo miền Bắc Việt Nam thời bấy giờ; rằng người dân đất nước hình chữ “S” quá kiên cường và không hề nao núng trước kẻ địch.

“Washington muốn thoả hiệp nhưng Hà Nội nhất định giành chiến thắng”, ông thừa nhận. Trong buổi hội thảo, ông Kissinger còn bày tỏ sự thất vọng và tiếc nuối vì cuộc chiến đã “chôn vùi” cả một thế hệ người Mỹ.

Trong các cuốn hồi ký, ông Henry Kissinger từng nhiều lần nhắc đến đối thủ của mình trên bàn đàm phán là cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ. Ông này thừa nhận Lê Đức Thọ là người có phong cách đàm phán uyển chuyển, sắc sảo. Ông nhớ như in giây phút đầu tiên gặp nhà ngoại giao Việt Nam ngày 21-2-1970.

Ông miêu tả Lê Đức Thọ có mái tóc hoa râm, dáng vóc đường bệ, bao giờ cũng mặc bộ đại cán, đôi mắt mở to và sáng, ít khi để lộ suy nghĩ. Nhưng có một chi tiết mà không bao giờ thấy

Kissinger nhắc đến trong hồi ký là chiếc nhẫn sáng bóng mà cố vấn Lê Đức Thọ luôn đeo trong mỗi lần thương thảo. Đơn giản, nó là chiếc nhẫn được gò từ mảnh xác máy bay Mỹ bị bắn rơi trên miền Bắc Việt Nam!

Sau khi Hiệp định Paris được ký kết, ngày 8-2-1973, ông Henry Kissinger sang thăm Hà Nội. Ra đón cố vấn Mỹ không phải ai khác chính là người quen biết cũ của ông: cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ. Ông đã đưa Kissinger tới thăm Viện bảo tàng lịch sử.

Khi nghe giới thiệu dân tộc Việt Nam đã ba lần chiến thắng quân Nguyên, ông Kissinger thốt lên: “Với chúng tôi một lần đánh nhau với các ông cũng thấy là quá đủ!”.

Trong bữa cơm tiễn, được thưởng thức thứ rượu nếp cái hoa vàng cất ở vùng quê Nam Định, cố vấn Mỹ Kissinger cứ gật gù mãi và thích thú khi cố vấn Lê Đức Thọ tặng ông ta hai chai rượu trong văn vắt, nút lá chuối khô.

Trở lại Paris sáng 8-1-1973 trên đường đến chỗ họp ở Gifsur Yvette, Cố vấn Lê Đức Thọ kéo ông ra một góc: “Hôm nay toàn đoàn ta không thèm ra cửa đón đoàn Mỹ như thông lệ nữa. Và hôm nay mình sẽ nói mạnh đấy. Mình nói thong thả và cậu cố dịch theo đúng tinh thần”.

Dù đã được dặn trước và đã trực tiếp chứng kiến hàng chục lần Lê Đức Thọ “cương” (quyết liệt, dai dẳng, kiên trì và cả nổi nóng. Chắc đối phương cũng không ít lần nhầm vì Lê Đức Thọ với sắc mặt bừng đỏ! Ông Cố vấn vốn bị huyết áp cao, nhiều lần đoàn ta thảo luận trong phòng mật anh em đã phải tắt điều hoà mở cửa ra và thường bàn những thứ “đại sự” ở ngoài trời lúc đi dạo) nhưng chưa bao giờ ông thấy Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ trút cơn thịnh nộ lên đối phương như buổi sáng xuân Paris ấy! Lừa dối, ngu xuẩn, tráo trở, lật lọng…

Thôi thì đủ cả! Kissinger, “đạo diễn” chính của cuộc thảm sát bằng B52 với dân lành Khâm Thiên, An Dương… Chỉ biết cúi đầu đứng nghe.

Mãi sau ông ta mới lắp bắp: “Tôi có nghe thấy những tính từ… Tôi xin không dùng những tính từ đó ở đây. Xin ông Cố vấn nói khe khẽ thôi không các nhà báo ngoài kia nghe được lại đưa tin là ông mắng chúng tôi!”.

Kissinger một lần đã tò mò hỏi Lê Đức Thọ trong mấy phút nghỉ giải lao: “Bây giờ ông Cố vấn đàm phán với tôi, nói như mắng tôi. Thế còn sau này kết thúc đàm phán chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình rồi, ông Cố vấn mắng ai? Ngài có mắng cán bộ của mình như mắng tôi không?”.

Lê Đức Thọ điềm nhiên: “Xin Ngài chớ nặng lời lúc tôi trình bày với Ngài. Tôi chỉ nói lên tiếng nói của nhân dân tôi thôi. Cán bộ của tôi có quay quắt lật lọng tráo trở đâu mà tôi phải mắng!”.

Sau Hiệp định Paris 1973, cả cố vấn Lê Đức Thọ và Henry Kissinger được trao giải Nobel Hòa Bình vì đã đạt thỏa thuận ngừng bắn, tạo điều kiện rút quân Mỹ khỏi Việt Nam và tạo tiền đề cho kết thúc của cuộc chiến tranh đã tiêu tốn nhiều giấy mực của báo chí quốc tế.

Trước cơ hội trở thành người Việt Nam đầu tiên và duy nhất đạt giải Nobel , ông đã thẳng thừng từ chối vì lý do ở Việt Nam chưa có hòa bình thực sự .

Ông giữ im lặng, không giải thích thêm về quyết định này cho tới 20 năm sau, khi chính ông tiết lộ lí do chính xác trong bộ phim “From Hollywood to Hanoi” : “Họ trao giải cho cả người gây chiến tranh lẫn hòa bình, sự lẫn lộn đó khiến tôi không thể nhận giải Nobel được.”

Về phía Mỹ, giải Nobel Hòa Bình được đón nhận với tâm thế trái ngược. Kissinger rất vui vẻ khi biết tin, trong khi tổng thống Nixon thậm chí còn phát biểu cho rằng giải thưởng này là “sự tưởng thưởng xứng đáng cho nghệ thuật đàm phán của người Mỹ trong cuộc chấm dứt chiến tranh và mang lại hòa bình ở Việt Nam.”

Niềm vui đó không tồn tài được lâu vì truyền thông Mỹ hiển nhiên không đồng tình với Nixon và Kissinger. Tờ NYT gọi giải thưởng Nobel năm đó là “Nobel vì Chiến Tranh’.

Tờ Washington thì cho rằng “người Na Uy thực sự rất có khiếu hài hước”. Diễn viên hài nổi tiếng chuyên châm biếm chính trị Tom Lehrer thậm chí đã phát biểu: “Châm biếm chính trị đã trở nên lỗi thời kể từ khi Henry Kissinger được trao giải Nobel Hòa Bình’’.

Không chỉ dừng lại ở giới truyền thông Mỹ, sự phản đối còn thể hiện mãnh mẽ hơn khi hai thành viên Hội đồng xét duyệt giải Nobel đã lập đơn xin từ chức.

Và… Kissinger sau đó không tới dự buổi trao giải tại Oslo vì lo lắng sẽ trở thành mục tiêu đả kích của các nhóm biểu tình phản chiến.

Năm 1975, khi chính quyền Sài Gòn thất thủ, ông đề nghị trao trả lại kỉ niệm chương nhưng không được Hội đồng Nobel chấp nhận.

Lê Đức Thọ và Kissinger thường “ăn miếng trả miếng”, tranh cãi tay đôi để bảo vệ lập trường, quan điểm của mỗi bên. Với những nhân chứng từng tham gia đàm phán, Lê Đức Thọ là một nhà chiến lược tài ba, sắc sảo và rất quyết liệt, kiên trì trong việc bảo vệ lập trường của ta. Thêm vào đó, chính nghĩa thuộc về cuộc kháng chiến của quân dân ta nên Mỹ và Kissinger dù dùng nhiều thủ đoạn quân sự và ngoại giao khác nhau cũng không thể giành được “hòa bình trong danh dự” như họ mong đợi.

Ông Nguyễn Khắc Huỳnh, nguyên Đại sứ – thành viên phái đoàn VNDCCH tại Paris, kể có những buổi họp hai bên trao đổi lý lẽ, lập luận tương đối điềm tĩnh. Nhưng có những ngày không khí rất căng thẳng, thậm chí có cả chuyện đập bàn, đập ghế.

Ông kể Một lần, Kissinger nói: “Ông Thọ này, nếu các ông cứng như thế này thì có lẽ chiến tranh sẽ còn tiếp tục, bom đạn sẽ còn tiếp tục rơi ở miền Bắc”.

Nghe vậy ông Thọ “phang” ngay: “Tôi xin ngắt lời ông. Có phải tôi với các ông mới đánh nhau hôm qua đâu. Tôi với các ông đánh nhau bốn, năm năm rồi. Bom đạn rơi bốn, năm năm rồi. Các ông đem bom đạn ra dọa tôi hôm nay không được đâu!”.

Lấy ý tưởng từ Tam quốc chí, giới báo chí phương Tây đã ví von ngắn gọn về cuộc đối đầu đặc biệt này, rằng: “Trời đã sinh Kissinger sao còn sinh thêm Lê Đức Thọ”.

Còn người trong cuộc, TS Henry Kissinger, hơn 30 năm sau đã phải ngậm ngùi thừa nhận: “Tôi đã có thể làm tốt hơn nếu như người đối diện trên bàn đàm phán Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam không phải là ông Lê Đức Thọ”…

 

Các chiêu trò rẻ tiền

         Vừa qua, trước sự kiện một số các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo ở bộ, địa phương ở nước ta phải đình chỉ công tác để xem xét về liên quan trách nhiệm đến một số vụ án. Đây là một việc làm hết sức bình thường đối với mọi thể chế chính trị, mọi quốc gia dân tộc. Song, lợi dụng việc này một số phần tử đã xuyên tạc, bóp méo trằng trợn tình hình. Họ cho rằng, đây chính là sự xâu xé, đấu đá, tranh giành quyền lực chính trị giữa các phái, nhóm trong nội bộ Đảng Cộng sản Việt Nam  liên quan Đại hội Đảng XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây thực sự là một chiêu trò quá quen thuộc và rất rẻ tiền mà các thế lực thù địch đang áp dụng nhằm phá hoại đoàn kết trong Đảng, trong xã hội, trong Nhân dân ta. 

Bời vì, họ càng nói, càng bộc lộ rõ dã tâm chống phá Đảng, chống phá công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Những tình tiết họ đưa ra có vẻ như sự ly kỳ, mới mẻ, thâm cung bí sử... Nhưng tất cả  nhưng cái đó đều là chiêu trò cũ rích, rẻ tiền, trơ tráo.... không ai quan tâm đến những loại luận điệu như vậy khi bàn về câu chuyện chính trị!

                                                                                                             MLN

    

Thứ Tư, 26 tháng 8, 2020

BỨC TƯỜNG THÉP TRÊN BIỂN

 

Cùng với các lực lượng Kiểm ngư, Hải quân, Cảnh sát biển là lực lượng được ví như "BỨC TƯỜNG THÉP" bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Vai trò của Cảnh sát biển trong việc bảo vệ chủ quyền biển đảo là vô cùng quan trọng bởi hơn ai hết, chính họ là người thực thi luật pháp quốc gia trên biển. Nhiều chuyên án ma túy, buôn lậu, cướp biển... đến các tàu cá của ngư dân gặp nạn ngoài khơi xa đều được lực lượng Cảnh sát biển ra tay ứng cứu và phá án thành công.

Khi tình hình Biển Đông có những diễn biến phức tạp, Cảnh sát biển là một trong những lực lượng đầu tiên có mặt để ngăn chặn tham vọng bành trướng của Trung Quốc. Đặc thù là tác chiến trên Biển, tuy nhiên khi phải tác chiến trên bộ, thực chiến trực tiếp với kẻ địch, Cảnh sát biển Việt Nam cũng là những chiến binh cừ khôi.

Bản lĩnh và luôn giữ cho mình một sự điềm tĩnh cùng sự quyết đoán, dũng mãnh đó là ưu thế của Cảnh sát Biển Việt Nam. Năm 2014 khi Trung Quốc kéo giàn khoan và huy động nhiều tàu chiến xâm phạm chủ quyền của nước ta, ngay lập tức lực lượng CSB Việt Nam dàn thành thế "Dữ thành" án ngữ trước tiền duyên lãnh thổ. Trước sự hùng hổ của tàu Trung Quốc, CSB Việt Nam không hề nao núng mà rất điềm tĩnh, không mắc mưu gây hấn của địch nhưng rất kiên quyết không nhượng bộ, sẵn sàng đâm, va, húc nếu tàu Trung Quốc vượt qua làn ranh.

Trước sự kiên quyết, rắn mặt của các lực lượng chấp pháp của Việt Nam trong có lực lượng CSB, Trung Quốc dù kéo dài thời gian quấy nhiễu nhưng cuối cùng cũng phải rút về nước, bởi mục đích gây hấn thất bại, mục đích chiếm đóng cũng tiêu tan trước sách lược, sự kiên quyết của Việt Nam.

Ngày nay ngoài lực lượng CSB được huấn luyện bài bản, số lượng biên chế được tăng lên đủ sức thực hiện nhiệm vụ mọi lúc, mọi nơi. Ngoài ra chúng ta còn có nhiều phương tiện, vũ khí rất hiện đại luôn trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao và sẵn sàng ra đòn trừng phạt đích đáng nếu Tổ quốc bị xâm phạm.

Quân đội nhân dân Việt Nam không bao giờ phô trương, không bao giờ gây hấn nhưng sẵn sàng chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược./.


 

THƯỚC ĐO DÂN CHỦ



Nhân danh đổi mới, dân chủ, nhất là thời điểm này, khi chúng ta đang tiến hành đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, các thế lực phản động trong nước và quốc tế ra sức cổ xúy, hô hào đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Chúng ra vẻ chân thành “khuyên” chúng ta không muốn theo “vết xe đổ” của Liên Xô thì cần phải theo mô hình của phương Tây. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, đó chỉ là những luận điệu sáo rỗng, ngụy biện của các thành phần chống đối Đảng, Nhà nước ta.

ĐẰNG SAU NHỮNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC VỀ CÁCH MẠNG THÁNG TÁM VÀ QUỐC KHÁNH 02/9



Trong khi cả nước đang hướng tới 75 cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 02-9 thì một số Trang mạng của các thế lực thù địch và phản động đang cố gắng xuyên tạc và bóp méo tính và ý nghĩa của các sự kiện lịch sử này. Chúng cho rằng thành công của cách mạng tháng tám là một sự ăn may của hoàn cảnh lịch sử, thậm chí có kẻ còn cho rằng không cần thiết phải tiến hành cách mạng cũng có thể giành độc lập . Đây là một hành động xuyên tạc lịch sử, “đổi trắng thay đen”, với những dã tâm thâm độc nhằm phủ nhận thành quả của cuộc cách mạng của dân tộc Việt Nam. Chúng ta khẳng định rằng

Đảng ta lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công đã mở ra bước ngoặt vĩ đại của dân tộc Việt Nam và cho các dân tộc thuộc địa. Đây là thắng lợi có ý nghĩa dân tộc và thời đại lớn lao, đã đưa dân tộc ta từ thân phận nô lệ trở thành chủ nhân, đưa Việt Nam gia nhập đại gia đình vô sản quốc tế sánh vai với các cường quốc văn minh trên thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”.

CHÍ PHÈO CỦA ĐÁM DÂN CHỦ LẠI GIỞ TRÒ



Sau khi bị bắt ngày 24/6/2020 về tội: “Làm, tàng trữ, phát tán và tuyên truyền thông tin, tài liệu vật phẩm nhằm chống nhà nước CHXHCN Việt Nam” theo Điều 117 – Bộ luật hình sự năm 2015 thì Trịnh Bá Tư lại tiếp tục nhờ ông bố Trịnh Bá Khiêm loan tin với trò mèo tuyệt thực được 20 ngày mục đích chính là để kêu gọi đầu tư từ các tổ chức cá nhân ở bển. Gia đình “dân oan” Cấn Thị Thêu đang ngày càng nổi bật trên mạng xã hội với hàng loạt các trò mèo mà gia đình có truyền thống chống Đảng, chống Nhà nước gây ra. Gia đình Cấn Thị Thêu và con trai Trịnh Bá Tư ( Chí Phèo của đám dân chủ) đã nhiều lần đăng tải trên FB cá nhân nội dung xuyên tạc , bịp bợm thể hiện đúng bản chất truyền thống của gia đình y.