Thứ Năm, 3 tháng 9, 2020

Cần “miễn dịch” trước thông tin xấu độc

Thời gian qua, chúng ta đã có nhiều giải pháp hiệu quả ngăn chặn, đẩy lùi thông tin xấu độc, giữ vững trận địa tư tưởng, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Tuy nhiên, gần đây, thông tin xấu độc tiếp tục có xu hướng diễn biến phức tạp, cần được tiếp tục nhận diện và đấu tranh kịp thời, hiệu quả để tạo ra sức đề kháng, "hệ miễn dịch" trước những loại thông tin đó.
“Núp bóng” hưởng ứng Nghị quyết Trung ương 4, tung tin bịa đặt
Những ngày gần đây, trên một số trang mạng phản động gia tăng các bài viết thông tin lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta “dính nhiều sai phạm”, “bảo kê” cho Công ty Formosa tàn phá môi trường.
      Núp dưới danh nghĩa “cung cấp thông tin cho Đảng trong triển khai Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII”, chúng cũng đơm đặt nhiều thông tin liên quan tới việc xử lý sai phạm của Trịnh Xuân Thanh vì biết việc xử lý này đang được toàn Đảng, toàn dân quan tâm, ủng hộ. Chúng đưa ra những “tâm thư” mang tên Trịnh Xuân Thanh để bịa đặt rằng các đồng chí Tổng Bí thư, nguyên Tổng Bí thư, Thủ tướng Chính phủ, nguyên Thủ tướng Chính phủ... “bảo kê” cho Formosa" (!).
Bùi Thanh Hiếu, biệt danh “Người Buôn Gió” trên mạng xã hội-một đối tượng lưu manh phản động ở nước ngoài-từ năm 2016 đến nay liên tục tung ra nhiều thông tin bịa đặt, gán ghép với vụ việc Trịnh Xuân Thanh để nói xấu lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta.
    Mới đây, chúng tung đơn của một người mà chúng ghi tên là Bùi Xuân Minh "cán bộ Bộ Công Thương nghỉ hưu" tố cáo Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc chỉ đạo cho Formosa thuê đất sai pháp luật, dù thực tế không có người nào như vậy. Chúng cũng bịa đặt Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã giới thiệu Công ty TNHH du lịch Sơn Lâm là “công ty sân sau” làm dự án nhạc nước ở Hải Phòng gây lãng phí hàng trăm tỷ đồng...
    Đáng tiếc là trước những thông tin bịa đặt, xấu độc như trên, có một số người, trong đó có cả cán bộ, đảng viên đã suy nghĩ giản đơn, sử dụng chính những thông tin đó để chia sẻ, bình luận trên mạng xã hội hoặc tán phát thông tin trong cộng đồng kiểu “câu chuyện làm quà”, gây dư luận xã hội không đúng về lãnh đạo Đảng, Nhà nước.
      Thông tin từ cơ quan chức năng cho biết, thời gian qua, đã xuất hiện một số trường hợp cán bộ, đảng viên dùng mạng xã hội và thông tin di động tán phát thông tin xấu, bôi nhọ, hạ thấp uy tín lãnh đạo, gây chia rẽ nội bộ. Trong đó, có người đến mức bị xử lý hình sự. Có người từ chỗ viết bài, đăng tải thông tin phản biện xã hội đã bị kẻ xấu lôi kéo, kích động trở thành đối tượng chống phá Đảng, Nhà nước theo kiểu “hóa mù ra mưa”. Những trường hợp này biểu hiện vi phạm "tự diễn biến", "tự chuyển hóa” đã rất rõ ràng.
      Nhưng hiện nay, còn xảy ra hiện tượng không ít người tuy chưa đến mức vi phạm “tự diễn biến", "tự chuyển hóa” nhưng đã rơi vào trạng thái “tiềm năng” của vi phạm khi hiếu kỳ, tò mò, thích đọc, chia sẻ, bình luận thông tin “lạ” từ những trang mạng xã hội xấu độc.
      Nắm bắt được tâm lý đó, thời gian qua, các đối tượng xấu đã liên tiếp cho ra lò những trang tin mạo danh lãnh đạo, mạo danh “báo chí độc lập”, “truyền thông lề dân” để tán phát thông tin xấu. Dù đã nhiều lần bị các cơ quan chức năng cảnh báo, ngăn chặn nhưng không ít người vẫn tò mò đọc thông tin.
Ngày 19-2-2017 vừa qua, kẻ xấu tung lên mạng xã hội clip “Formosa lại xả thải” sau đó qua xác minh cho thấy chỉ là clip giả, quay trước đó tại cảng Tiên Sa, Đà Nẵng và chỉ là nước bùn đất rửa xe thông thường nhưng có người đã vội tin theo, chia sẻ trên mạng gây hoang mang dư luận, trong đó có ý kiến vội quay ra đổ lỗi cho chính quyền tiếp tục buông lỏng quản lý. Sự việc trên thêm một lần cảnh báo tác hại của thông tin bịa đặt và sự cần thiết phải bình tĩnh, tỉnh táo khi tiếp cận thông tin từ mạng xã hội.
       Một cán bộ Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy Tập đoàn Viễn thông Quân đội (Viettel) bức xúc kể với chúng tôi: “Đơn vị chúng tôi là tập đoàn kinh tế mạnh của đất nước, cán bộ, công nhân viên, người lao động trong và ngoài nước ngày đêm miệt mài cống hiến bằng sự sáng tạo và lòng yêu nước, luôn nỗ lực cao để có sản phẩm và công nghệ, dịch vụ "Made in Vietnam" ngày càng nhiều, càng tốt. Thế mà gần đây, khi gặp một số bạn bè trí thức, tôi vô cùng ngạc nhiên khi thấy họ hỏi về một bài viết trên trang phản động nói Tập đoàn Viettel làm ăn thiếu trách nhiệm, “tiếp tay làm giàu cho nước ngoài”. Tôi vào tìm hiểu thì thấy đây là một trang tin hết sức bậy bạ, đầy rẫy thông tin bịa đặt, phá hoại cả về an ninh chính trị và kinh tế của đất nước. Không hiểu sao vẫn có những người đọc và tin theo những trang này và vì sao cơ quan chức năng chưa có biện pháp hiệu quả để ngăn chặn, xử lý những trang tin như vậy?”.
       Vừa qua, nhiều bạn đọc thông tin với tòa soạn: Không chỉ các đơn vị kinh tế Nhà nước, mà một số tập đoàn kinh tế tư nhân, trong đó có các Tập đoàn: FLC,Sungroup... cũng bị các trang mạng phản động, xấu độc (trang "Bluevn") tán phát thông tin xuyên tạc, bịa đặt về tình hình sản xuất kinh doanh. Các trang mạng này không chỉ bóp méo hình ảnh lãnh đạo tập đoàn mà còn bịa ra những thông tin tiêu cực, làm ảnh hưởng tới niềm tin của nhân dân vào đường lối phát triển kinh tế tư nhân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Người lao động ở các doanh nghiệp trên cho biết, qua hệ thống cập nhật, phân tích thông tin về tập đoàn từ internet, đơn vị này đã nhận được nhiều cảnh báo thông tin xấu độc chia sẻ từ cộng đồng mạng lấy từ các trang tin phản động. Qua tìm hiểu thì trang web này có máy chủ đặt tại nước ngoài nhưng những thông tin, hình ảnh cập nhật hằng ngày thì chắc chắn từ trong nước nên rất cần các cơ quan chức năng sớm vào cuộc điều tra, ngăn chặn những đường dây liên kết để tán phát thông tin xấu độc
       Trở lại với sự việc các trang mạng cung cấp thông tin bịa đặt về lãnh đạo Đảng, Nhà nước để “hưởng ứng Nghị quyết Trung ương 4”, qua tìm hiểu xác minh cho thấy những trang mạng trên có những ý đồ hết sức thâm hiểm.
Không phải ngẫu nhiên mà chúng tung ra nhiều thông tin liên quan đến các đồng chí Tổng Bí thư, nguyên Tổng Bí thư, Thủ tướng, nguyên Thủ tướng “bảo kê” cho Formosa. Những thông tin này được tung ra có chủ ý ngay sau thời điểm Ủy ban Kiểm tra Trung ương vừa công bố kết luận xử lý một số cán bộ liên quan đến vụ việc Formosa và trong bối cảnh Đảng ta đang quyết liệt triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII.
      Thực tế thông tin chúng tán phát trên là bịa đặt, vu cáo. Chẳng hạn với thông tin Trịnh Xuân Thanh tố cáo lãnh đạo Đảng, Nhà nước, chúng nhiều lần úp mở rằng “sẽ công bố bằng chứng” bảo kê cho Formosa nhưng hơn 1 năm qua, chúng vẫn không thể đưa ra được một chứng cứ nào. Còn với cái gọi là “Đơn tố cáo Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc” mà chúng tán phát mấy ngày gần đây, thực chất cũng chỉ là những thông tin không có cơ sở, nhào nặn, cắt ghép, suy diễn lung lung mang tính vu cáo như những lần trước chúng mạo danh "cán bộ Văn phòng Chính phủ" để  tán phát sai sự thật về đồng chí Nguyễn Xuân Phúc. Như thông tin liên quan đến dự án nhạc nước và công ty Sơn Lâm do “Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc giới thiệu”, “là công ty sân sau”, theo nguồn tin cơ quan chức năng cho biết cũng là sự bịa đặt trắng trợn. Trên thực tế, những sai phạm của dự án nhạc nước đã được làm rõ và xử lý với việc nhiều cán bộ bị kỷ luật, công trình bị tháo dỡ, không liên quan đến Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc.
Thực tế đó cho thấy, nếu như không bình tĩnh, cảnh giác trong xử lý thông tin, rất có thể sẽ mắc bẫy, tiếp tay cho những thủ đoạn chống phá, kích động “tự diễn biến", "tự chuyển hóa” trong nội bộ. Từ những “liều phóng” thông tin bịa đặt, chúng chủ ý khiến cho cán bộ, đảng viên và nhân dân mắc bẫy thông tin, từ đó suy luận, đồn đoán, nghi ngờ, suy giảm niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước. Cao hơn thế, từ thông tin, đơn thư bịa đặt có thể gây ra mâu thuẫn nội bộ.     
      Chiêu trò bịa đặt, vu cáo trắng trợn trên đây luôn có thể gây ra những tác hại nguy hiểm bởi thông tin xấu có thể là “vi-rút” đi liền với "tự diễn biến", "tự chuyển hóa”.
     Đảng, Nhà nước ta đã có các quy định nghiêm ngặt của pháp luật đối với việc xử lý đơn thư nặc danh cũng như hành vi tung tin sai sự thật, xúc phạm uy tín, danh dự của cá nhân, tổ chức. Vì vậy, để làm thất bại những âm mưu phá hoại bằng thông tin xấu độc và góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII của Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân cũng như các cấp bộ Đảng và đoàn thể cần có quan điểm vững vàng, kỹ năng tiếp nhận, xử lý thông tin một cách khoa học trong thời đại bùng nổ thông tin; kiên định, tỉnh táo, không chia sẻ, bình luận những loại thông tin xấu độc, xây dựng cho được “hệ miễn dịch” trước thông tin xấu độc. Đồng thời, cần chủ động hơn trong đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi loại thông tin này, như giải pháp mà Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) đã chỉ ra: "Chủ động chuẩn bị các phương án, biện pháp cụ thể, sát với tình hình; xây dựng lý luận sắc bén để đấu tranh, phản bác có hiệu quả đối với các quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội và bất mãn chính trị chống phá Đảng, Nhà nước và khối đại đoàn kết toàn dân tộc". "Hoàn thiện Quy chế về kỷ luật phát ngôn đối với cán bộ, đảng viên; xử lý nghiêm những cá nhân, nhóm người cấu kết với nhau, lợi dụng vấn đề "dân chủ", "nhân quyền", tôn giáo, dân tộc để tuyên truyền, xuyên tạc và có hành vi nói, viết, lưu trữ, tán phát tài liệu sai trái...".
Đối với các cơ quan pháp luật, phải chủ động, thường xuyên, kiên quyết, kịp thời, hiệu quả trong phát hiện những hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này, nhất là các đối tượng tạo lập, tán phát thông tin xấu độc, lợi dụng thông tin xấu độc để chống phá Đảng, Nhà nước, chính quyền, nhân dân và xử lý nghiêm minh theo đúng quy định của pháp luật hiện hành.

CHO NHỮNG KẺ CHUYÊN XUYÊN TẠC LỊCH SỬ

 

Chiến tranh qua đi, với truyền thống đạo lý uống nước nhớ nguồn, Đảng và Nhà nước ta cùng toàn thể dân tộc Việt Nam luôn trân trọng, biết ơn những người đã hi sinh vì nền độc lập, tự do của dân tộc và có chính sách đãi ngộ với các anh hùng liệt sỹ, thương binh, bệnh binh, người có công với cách mạng, qua đó giúp họ vươn lên trong cuộc sống. Tuy nhiên, không những không ghi nhớ công ơn của các thế hệ đi trước, các đối tượng đã đưa ra hàng loạt những luận điệu xuyên tạc, nói xấu, bôi nhọ hình ảnh, dựng lên những kịch bản không có thật về các anh hùng liệt sỹ trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Chúng “bàn tán, dè bỉu” về cuộc đời người con gái anh hùng đất đỏ Võ Thị Sáu, cho rằng chị Võ Thị Sáu là người không có thật, hình tượng đó là hư cấu, xuyên tạc rằng anh hùng Võ Thị Sáu trước lúc ra pháp trường bị tâm tâm thần… Những luận điệu “vong ân, bội nghĩa” này là không thể chấp nhận, không thể dung thứ, bởi tất cả những người đã hi sinh thân mình cho Tổ quốc như chị Võ Thị Sáu sẽ là bất tử, là những đấng anh hùng hào kiệt, là niềm tự hào, biểu tượng trường tồn cho sức mạnh to lớn của dân tộc Việt Nam trong quá khứ, hôm nay và mãi về sau.

Có thể thấy, những thủ đoạn trên của các thế lực thù địch là hết sức thâm độc nhằm tuyên truyền, hướng lái, làm thay đổi nhận thức của thế hệ trẻ Việt Nam hôm nay về lịch sử hào hùng của dân tộc, từ đó phai nhạt niềm tin vào chế độ xã hội chủ nghĩa, vào đường hướng chính trị Đảng, Nhà nước ta đã lựa chọn, tạo nên nguy cơ tiềm ẩn de đọa sự vững mạnh chế độ ta. Vì vậy, để bảo vệ sự trong sáng của lịch sử dân tộc Việt Nam, mỗi người dân, nhất là thế hệ trẻ cần cẩn trọng trong sử dụng Internet và mạng xã hội; cảnh giác trước các luồng thông tin xấu, độc; tiếp thu thông tin một cách có chọn lọc, tránh bị lừa phỉnh bởi những tin, bài viết phản động, xuyên tạc lịch sử, nói xấu Đảng, Nhà nước của các đối tượng chống đối. Cùng với đó, việc đẩy mạnh tuyên truyền, đăng tải, phát sóng các tin, bài, phóng sự trên các phương tiện thông tin đại chúng, mạng xã hội về các sự kiện lịch sử, truyền thống lịch sử kiên cường, bất khuất của dân tộc Việt Nam cần được quan tâm thực hiện bằng nhiều hình thức đa dạng, phong phú, thu hút sự quan tâm, hưởng ứng của quần chúng nhân dân, nhất là thế hệ trẻ. Ngoài ra, việc chú trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho học sinh, sinh viên là hết sức cần thiết, qua đó góp phần nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng cho thế hệ trẻ, không bị tác động, lôi kéo, tin theo những thông tin xấu độc, phản động, xuyên tạc lịch sử trước sự tác động ngày càng mạnh mẽ của mạng Internet và những luồng thông tin khó kiểm soát về mặt nội dung.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Chiến thắng Điện Biên Phủ 1954 lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu, chiến thắng Mậu Thân năm 1968, chiến dịch Điện Biên Phủ trên không năm 1972 và đỉnh cao là đại thắng mùa Xuân năm 1975… Tất cả đã làm nên một lịch sử hào hùng, vang dội trước sự ghi nhận, thán phục của cả thế giới. Việt Nam-Hai tiếng Tổ quốc vang lên thúc giục mỗi người trẻ hôm nay không ngừng cố gắng, nỗ lực hết mình cống hiến sự phát triển cường thịnh của quốc gia. Những kẻ chống phá cách mạnh, phản bội Tổ quốc, xuyên tạc, phủ nhận sự thật lịch sử sẽ không thể có một kết thúc tốt đẹp bởi chính họ đã chống lại quê hương, nơi chôn nhau cắt rốn, chống lại truyền thống vang dội mà đáng ra họ phải biết trân trọng, tự hào./.

THỦ ĐOẠN BÔI NHỌ, SUY DIỄN MỤC ĐÍCH LUẬT AN NINH MẠNG

Đã gần 2 năm kể từ khi Luật An ninh mạng chính thức có hiệu lực thực thi. Thế nhưng, đến nay trên các trang mạng xã hội và một số nhà dân chủ quá chớn đưa ra những bài viết có ý đồ xấu, cố tình suy diễn, bôi nhọ về mục đích  về bộ luật này.

Có bài viết rằng “Cũng vì Luật An ninh mạng mà người dân bị công an không cho nói những điều dân muốn nói”. Vậy xin hỏi: trong Luật An ninh mạng có điều, khoản hay câu chữ nào nói là công an ngăn cản người dân chia sẻ quan điểm, ý kiến lên mạng xã hội hay không? Một cô nàng hotgirl bốc phốt anh chồng diễn viên nổi tiếng ngoại tình lên mạng xã hội; rồi thì chuyện có người mua một chiếc xe hơi rồi cải hoán, xin cấp phép hoạt động, tự mình cầm lái chở bệnh nhân nghèo miễn phí; hay như chuyện kết quả thi tốt nghiệp THPT vừa qua có em học sinh đạt điểm 10 môn Văn… đều đang là đề tài được người dân bàn tán, tự do bày tỏ quan điểm riêng về những vụ việc trên Facebook, Twitter, Youtube… thì xin hỏi như vậy có gọi là Luật An ninh mạng ngăn cản quyền tự do ngôn luận, bịt miệng người dân không?

Lại có luận điệu là “vì Luật An ninh mạng mà đã có nhiều người dân bị công an đàn áp thẳng tay. Cũng vì Luật An ninh mạng mà nhiều người bị công an đẩy vào vòng lao lý”.  Ô hay, đó là những kẻ dùng mạng xã hội đăng tải những thông tin xuyên tạc, tin giả, ngăn cản con đường phát triển của đất nước, vi phạm pháp luật mới bị xộ khám, chứ đàn áp gì ở đây. Những bài viết sai sự thật, kích động đó vẫn còn đang nhan nhản trên mạng xã hội đó, làm sao chối cãi được. Hơn 65 triệu người dân Việt Nam đang sử dụng mạng xã hội hàng ngày, hàng giờ vẫn đang thoải mái chia sẻ hình ảnh, bài viết cả đấy, họ có bị “rơi vào vòng lao lý” hay không?

Còn nữa, có kẻ còn luận rằng “Luật An ninh mạng không phải của người dân”, lập luận này hoàn toàn là bịa đặt và xuyên tạc. Bởi theo quy định của Luật An ninh mạng ra đời để bảo vệ người dân khi tham gia hoạt động trên không gian mạng. Luật giúp bảo vệ người dân trước các hoạt động gián điệp mạng, bảo vệ bí mật cá nhân, tổ chức, bí mật gia đình và đời sống riêng tư trên không gian mạng; giúp bảo vệ người dân khỏi các hoạt động tội phạm mạng, như chiếm đoạt tài sản, trộm cắp thông tin thẻ tín dụng, tài khoản ngân hàng…; bảo vệ người dân khỏi hoạt động tấn công mạng, như phát tán mã độc, tấn công từ chối dịch vụ…”.  Vậy Luật An ninh mạng ra đời chính là phục vụ nhu cầu của người dân và doanh nghiệp, chứ nào phải cho ai.

Việc thông qua Luật An ninh mạng và có hiệu lực từ ngày 01/01/2019 là bước đi trước nước Mỹ của Việt Nam. Khi luật đi vào cuộc sống, môi trường mạng xã hội lành mạnh hơn, những người sử dụng mạng cảm thấy an tâm, được bảo vệ, quyền tiếp cận các thông tin sạch của người dân không bị hạn chế. Chỉ có những kẻ chống đối, cơ hội, đưa tin sai sự thật, với động cơ đen tối mới sợ Luật An ninh mạng./. 


Thứ Tư, 2 tháng 9, 2020

“DỰ ĐOÁN NHÂN SỰ” – LUẬN ĐIỆU CHỐNG PHÁ, GÂY NHIỄU TRƯỚC THỀM ĐẠI HỘI XIII CỦA ĐẢNG

Trước thềm Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, các thế lực thù địch, phần tử cơ hội chính trị, phản động đẩy mạnh các hoạt động chống phá, tuyên truyền xuyên tạc, tung tin sai trái, bịa đặt. Một trong những thủ đoạn nguy hiểm, thu hút sự chú ý của nhiều người là xuyên tạc công tác nhân sự, cán bộ của Đảng để chống phá.

👉CẢNH GIÁC TRƯỚC LUẬN ĐIỆU QUY CHỤP BẢN CHẤT CÔNG TÁC CÁN BỘ

Trên nhiều phương tiện truyền thông hải ngoại, trang mạng của tổ chức phản động, lưu vong và mạng xã hội, các đối tượng này tăng cường tung ra các luận điệu xuyên tạc, giả mạo, thất thiệt chống phá Đại hội XIII. Chúng ra sức thổi phồng, suy diễn, bóp méo, bịa đặt, quy kết thành những hạn chế, yếu kém của Đảng, Nhà nước trong công tác cán bộ. Chúng cho rằng công tác cán bộ, nhân sự Đại hội XIII là cuộc “tranh giành quyền lực”, “thanh trừng nội bộ”, “thủ tiêu đối phương”... Chúng cố tình dựng chuyện, quy chụp rằng, việc chuẩn bị đại hội như là hoạt động thay cho đại hội, là “xóa bỏ quyền của các đại biểu dự đại hội”; việc thực hiện công tác quy hoạch và đào tạo cán bộ cốt cán cho Đại hội XIII là Ban Chấp hành Trung ương đã “tước đi quyền tự do, dân chủ trong việc ứng cử, đề cử và bầu cử của các đại biểu dự Đại hội XIII”, “tổ chức đại hội đảng các cấp, Đại hội XIII chỉ mang tính hình thức, là dịp để hội hè, tốn kém tiền của nhân dân”….

👉XUYÊN TẠC CÔNG TÁC CÁN BỘ, NHÂN SỰ ĐẠI HỘI XIII CỦA ĐẢNG, NHỮNG THỦ ĐOẠN CỦA CHÚNG LÀ:

Suy diễn công tác cán bộ theo kiểu “trong nhà chưa tỏ ngoài ngõ đã thông” như: “Dự báo thay đổi nhân sự cấp cao Đại hội XIII”, “Ai sẽ vào “tứ trụ” Đại hội XIII”, “nhân sự Đại hội XIII: Gươm đã tuốt khỏi vỏ”… Thật nực cười, Đại hội còn chưa diễn ra, song những “con buôn” chính trị lại tỏ ra thông thái khoác lác như thật, khẳng định người này triệt hạ người kia để giữ vị trí này vị trí khác, sắp xếp bộ máy lãnh đạo của Đảng từ cao xuống thấp; từ đó suy diễn, đánh giá theo chiều hướng tiêu cực. Mánh lới thường thấy của chúng là “giật tít-câu khách” đánh trúng vào sự tò mò của nhiều người, từ đó đưa ra phân tích nhận định công tác cán bộ, nhân sự có sự “an bài”, “sắp xếp”, “thỏa hiệp”, cuối cùng là rêu rao, xuyên tạc chế độ mất dân chủ, độc đảng, chuyên quyền, toàn trị.

Ngoài thủ đoạn trên, chúng còn xuyên tạc đời tư, nói xấu, vu cáo cán bộ lãnh đạo cấp cao của Đảng. Thời gian gần đây, trên các mạng xã hội, các blog, không gian mạng xuất hiện nhiều thông tin vu cáo, xuyên tạc, rêu rao, bôi nhọ các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước. Chúng thường phát tán các thông tin, hình ảnh, clip giả tạo, sai lệch, biến không thành có, thật giả lẫn lộn, gây hoài nghi, hoang mang trong dư luận xã hội. Từ đó hòng tác động đến nhận thức, tâm lý, tư tưởng, tình cảm của nhân dân, cán bộ, đảng viên.

Nguy hiểm không kém, chúng tập trung tung ra những bài viết, nhận định xuyên tạc, đánh đồng công tác phòng chống tham nhũng là “thanh trừng nội bộ”, “tranh giành quyền lực” trước Đại hội XIII. Chúng lợi dụng vào một số vụ việc cụ thể như: Việc một số tướng lĩnh, sĩ quan bị Bộ Chính trị, Ủy ban Kiểm tra Trung ương kết luật, xử lý vừa qua; sự việc liên quan đến Chủ tịch UBND Thành phố Hà Nội Nguyễn Đức Chung hay thông tin khởi tố vụ án đối với ông Trần Vĩnh Tuyến – Phó Chủ tịch UBND Thành phố Hồ Chí Minh, ông Nguyễn Hồng Trường – cựu Thứ trưởng Bộ Giao thông Vận tải…để xuyên tạc đó là sự “đấu đá quyền lực” “tranh giành lợi ích”, “tiêu diệt phe nhóm”,“thanh trừng nội bộ”… Từ đó nhằm gây ra tình trạng nghi ngờ, hoang mang, lầm tưởng an ninh chính trị mất ổn định, nội bộ mất đoàn kết, làm suy giảm niềm tin đội ngũ cán bộ, công tác cán bộ dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước.

Đối với mỗi một đảng chính trị, đảng cầm quyền ở bất kỳ quốc gia hay thể chế chính trị nào, để xây dựng, bầu ra bộ máy lãnh đạo của đảng thì công tác tiến hành lựa chọn, bầu cử bộ máy lãnh đạo, người đứng đầu dưới hình thức nào (từ dân chủ trực tiếp hay gián tiếp) là việc bình thường. Một ví dụ của nền chính trị dân chủ tư sản, điển hình ở Mỹ thì đảng Dân chủ hay đảng Cộng hòa, định kỳ vẫn tổ chức đại hội toàn quốc để đảng viên bầu cơ quan lãnh đạo của đảng, chủ tịch đảng, đề cử đại biểu của đảng mình tham gia bầu Tổng thống Hoa Kỳ…Hay cũng ở hầu hết các nước, những công chức trong hệ thống chính trị dù ở cương vị nào, nếu tham ô, tham nhũng thì đều bị điều tra, truy tố, xét xử theo quy định của pháp luật. Lẽ nào, những điều thông thường, phổ quát như vậy cũng là“đấu đá”, “tranh giành”, “thanh trừng”, “tiêu diệt” nội bộ hay sao?

Nói về công tác nhân sự Đại hội XIII của Đảng, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng khẳng định: Công tác chuẩn bị nhân sự Đại hội XIII của Đảng không chỉ là nhiệm vụ của Tiểu ban Nhân sự, của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, của Ban Chấp hành Trung ương mà là nhiệm vụ quan trọng của cả hệ thống chính trị, của các cấp uỷ, tổ chức đảng, các cơ quan, đơn vị và các địa phương. Các cơ quan, tổ chức có liên quan, mà trước hết là Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương phải dày công chuẩn bị, phải xác định đây là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, là nhiệm vụ “then chốt” của “then chốt”, có liên quan đến sự sống còn của Đảng, vận mệnh của chế độ, sự phát triển, vững mạnh của đất nước. Từng cơ quan, địa phương, từng cán bộ trực tiếp tham gia vào công tác chuẩn bị phải nhận thức đầy đủ, sâu sắc trách nhiệm của mình, toàn tâm, toàn ý lo cho công việc chung, phải đặt lợi ích của Đảng, của đất nước, của nhân dân lên trên hết, trước hết. Phải tiến hành tổng kết, rút kinh nghiệm, chỉ ra những ưu điểm, kết quả cũng như những khuyết điểm, hạn chế của các khoá trước, nhất là của khoá XII gần đây, để có thêm cơ sở đề ra phương hướng, yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán bộ của khoá XIII.

Công tác nhân sự, cán bộ của Đảng được thực hiện trên một quy trình chặt chẽ, chuẩn bị công phu, cách làm cẩn trọng, dựa trên nguyên tắc xây dựng Đảng vốn là sức mạnh, tiến bộ, phát huy được nguyện vọng, ý chí tập thể là nguyên tắc tập trung dân chủ, thiểu số phục tùng đa số. Từ đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng là cơ quan cao nhất của Đảng sẽ dân chủ lựa chọn, sáng suốt bầu ra đội ngũ cán bộ là tinh hoa của Đảng, thật sự vững vàng, có đủ bản lĩnh, phẩm chất, trí tuệ và có uy tín cao để giải quyết những công việc, xử lý kịp thời, đúng đắn, có hiệu quả những tình huống phức tạp có quan hệ đến sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc, sự sống còn của chế độ.

Những luận điệu suy diễn, những thông tin giả mạo, thất thiệt ở trên là những chiêu trò xuyên tạc, “diễn biến hoà bình” công tác cán bộ của Đảng, đánh vào tâm lý tò mò của nhiều người, gây nhiễu loạn thông tin, dao động về tư tưởng chính trị. Mục đích của chúng là cố tình tạo ra sự mất đoàn kết nội bộ, hạ thấp uy tín của cán bộ lãnh đạo cấp cao. Làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào tầm quan trọng, ý nghĩa đặc biệt to lớn của Đại hội XIII, vào sự lãnh đạo của Đảng, tính ưu việt của chế độ và Nhà nước pháp quyền XHCN.
Hải Đăng st

Con số biết nói

 Năm 1990, GDP cả nước có 5 tỉ USD.

Năm 2019, GDP lên đến trên 250 tỉ USD. (Nếu tính theo số liệu vừa tính lại thì vượt 300 tỉ)

29 năm và GDP tăng: 25 lần.( tính lại là 30 lần) 

Một tốc độ tăng trưởng phải nói là: Kinh hoàng!!!


Đến nay Việt Nam đã dần hoàn thành các mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.


- Về công nghiệp nặng: VN đã có ngành luyện thép chất lượng cao với nhiều nhà máy như : Thép Hòa Phát, Việt Đức, Việt Nhật, Việt Ý, Pomina, Thái Nguyên, Vina Kyoiei, VNSteel, Nhà Bè, Nam Kim ...


- VN đã có ngành công nghiệp viễn thông, CNTT, công nghệ cao phát triển : Viettel, VNPT, FPT, Vingroup ... Ko chỉ làm chủ sân chơi trong nước mà còn vươn xa các khu vực trên thế giới.


- VN đã có nhiều công ty nhà nước và tư nhân sản xuất được smartphone : VinSmart, Bphone, Viettel....


- VN đã có công ty tư nhân sản xuất được máy thở Y tế: VinSmart, BKAV


- VN đã có ngành công nghiệp chế tạo ở mức khá như LILAMA, đã có công tư tư nhân sản xuất được ô tô : VinFast, Thaco, còn các công ty tư nhân lắp ráp, phụ trợ ô tô cũng khá nhiều.


- VN đã có ngành công nghiệp chế biến thực phẩm tương đối phát triển : Vinamilk giờ là công ty trong top 500 thế giới; cà phê Trung Nguyên với thương hiệu G7 v..v...v


- VN đã có ngành công nghiệp xây dựng trong top đầu châu Á, Coteccons đã tự thiết kế và xây dựng được tòa nhà cao 81 tầng, top 10 Thế giới. Cty Cơ khí Đại Dũng được Quatar lựa chọn thi công kết cấu thép sân vận Lusail phục vụ cho Worldcup 2022.

Còn nhiều các tập đoàn nổi lên từ tất cả các lĩnh thương mại dịch vụ du lịch, công nghiệp, ...

Và quan trọng nhất: chúng ta là nước sắp chiến thắng Covid lần 3.


"Ngày đó ngày đó sẽ không xa xôi, và chúng ta là người chiến thắng. Đường đến những ngày vinh quang ko còn xa ... Dù khó khăn vẫn còn" !!!

Sức mạnh của niềm tin

 

Trước 1945 dân số nước ta tầm khoảng 25 triệu người, cũng chừng đó con người trong khoảng thời đó, cũng học vấn địa vị như vậy. Nhưng Triều Đình nhà Nguyễn lại cam tâm tình nguyện làm tôi tớ cho Pháp. Năm 1945 cũng chừng đó con người Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh lại đứng lên giành độc lập cho nước nhà, điều mà nhiều lãnh đạo cách mạng tiền bối khác chưa bao giờ làm được trong vòng 100 năm đô hộ giặc tây. Vậy từ đâu người ta có thể lý giải được cũng những con người đó nhưng số phận họ lại chịu thay đổi đứng lên giành độc lập cho nước nhà mà điều trước đó họ không dám?

Đó chính là niềm tin, và sức mạnh của quần chúng nhân dân. Và hơn ai hết chính là người soi đường chỉ lối, tận dụng thời cơ ngàn năm có một để giành lại nền độc lập cho nước Nhà. Trong bối cảnh thời điểm đó Hồ Chủ Tịch đã vận dụng rất tốt giữa thiên thời- địa lợi- nhân hòa và tổng hợp sức mạnh của quần chúng nhân dân. Chỉ một câu tuyên bố " Phá kho thóc Nhật" cả nước ào lên như xung trận, có thể họ không biết Hồ Chí Minh thời điểm đó là ai, nhưng lời kêu gọi Phá Kho Thóc nó đánh đúng tâm lý đại bộ phận nhân dân đang nghèo khổ rền xiết dưới ách nô lệ . Và cũng chính sức mạnh nhân dân này đã đưa Việt Nam qua muôn trùng sóng gió, từ chiến hào Điện Biên Phủ, từ Đường Chín Khe Sanh, chiến trường Trị Thiên khói lửa và đích cuối cùng là Dinh Độc Lập cho tới ngày toàn thắng. Sức mạnh đó nó đã bảo vệ đất nước trong thời buổi ngàn cân treo sợi tóc " Tay giữ trời tay chống giặc bắc nam". Hồ Chủ Tịch từng nói " Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong" ngay từ thời buổi lập quốc người đã biết vận dụng vào sức dân cho công cuộc cách mạng sau này. Cũng như Đại Tướng Võ Nguyên Giáp từng nói " Chúng tôi chiến thắng người Mỹ bởi quân đội chúng tôi được sự ủng hộ không giới hạn của nhân dân".

Trong những năm gian lao nguy nan trong biển giáo rừng gươm, cách mạng vừa mới hình thành còn non trẻ, cán bộ bị truy lùng gắt gao, có những nơi " Trắng đảng viên" vậy tại sao trong những lúc dầu sôi lửa bóng như vậy, người dân vẫn đùm bọc che chở cho cán bộ, cho cách mạng. Bởi họ có niềm tin rằng, còn cán bộ còn Đảng và còn Đảng thì cách mạng chắc chắn sẽ thành công và đất nước sẽ thoát khỏi vũng bùn nô lệ. Không phải ngẫu nhiên bà Mẹ Liệt Sỹ miền nam cao hơn nhiều ở Miền Bắc vì họ có một niềm tin là mai đây cách mạng cứu nước thành công, họ sẵn sàng hiến dưng cả những người con cuối cùng cho mình ra tuyền tuyến. Ngược lại nếu không có sự che chở của nhân dân, cách mạng cũng không thể nào sống sót nổi trước những đòn thù tố cộng diệt cộng năm 59. Đó là một điều hiển nhiên " Bất khả phủ bác " mà lịch sử đã chứng minh, dù muốn xuyên tạc kiểu nào cũng không được.

Ngày nay, chúng ta thường hay nghe tới trong các cuộc họp giao ban, trong các cuộc họp chính đốn đảng, cụm từ " Làm mất niềm tin ở quần chúng nhân dân,hoặc thế lực thù địch xuyên tạc". Vậy tại sao trong những năm đầu cách mạng khi Đảng chưa có gì trong tay người dân đặt niềm tin vào Đảng vào Cách Mạng, ngày nay chúng ta giàu có hơn rất nhiều so với ngày trước, thì người dân lại mất niềm tin vào cán bộ đảng viên?

Đó chính là sự tha hóa của không ít cán bộ đảng viên trong nội bộ đảng. Sự phân hóa giàu nghèo giữa người đầy tớ và nhân dân, khi quan chức sống trong nhung lụa giàu sang sẽ khó lòng thẩu hiểu đời sống của đại bộ phận nhân dân. Việt Nam chưa phải là nước nghèo nhưng nhiều quan chức giàu lên đó là biểu hiện của sự xa rời quần chúng. Khi sự giàu có của quan chức vượt lên sự nghèo khó của đại bộ phận nhân dân, thì lúc đó các quan chức cần phải suy nghĩ lại. Không ai bắt các quan chức phải ăn bận rách rưởi, nhà ở lụp xụp. Nhưng những vị quan phụ mẫu có lối sống xa hoa, giống như ông hoàng bà chúa trong khi địa phương mình là một trong những tỉnh nghèo nhất nước. Hình ảnh đó đâm ra rất phản cảm và suy yếu lòng tin của đại bộ phận nhân dân đối với chính quyền. Hàng ngày anh mồm luôn đọc nghị quyết, túi có thẻ đảng hô hào cần kiệm liêm chính, trong khi vợ con đời sống xa hoa, thì tôi tin rằng người dân nào cũng xem những điều các ông nói là nói phét. Họ không dám nói ra vì khi quyền lực các ông nắm trong tay.

Sinh thời Hồ Chủ Tịch đã nói "Cán bộ mà "gầy", nhân dân mà "béo" đó là điều vinh hạnh cho Đảng ta...". Hình ảnh những vị quan chức phụ mẫu ớ trong những lâu đài xa hoa nó đối lập với những trẻ em vùng cao, lưng cõng em tấm áo không đủ che thân khi mùa rét tới, nó phán ảnh sâu rộng và mất niềm tin vô cùng ghê gớm đối với không ít đồng bào, nó đối lập với mục tiêu của đảng " dân giàu, nước mạnh công bằng và văn minh"

Lời Bác nói năm xưa vẫn không bao giờ thừa đối với nhiều quan chức bây giờ. Khi nhân dân ấm no thì đời sống cán bộ được nưng cao, nhưng khi nhân dân còn thiếu cái ăn cái mặc mà những vị cán bộ lại trong biệt thự này, căn hộ nọ nó mang tính chất phán cảm.

75 năm ngày khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. 51 Năm Hồ Chủ Tịch mất, thế hệ khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa cũng đã khuất núi. Đảng ta đã đi một chằng đường dài trong muôn vàn gian khổ và thử thách, và liệu những cán bộ đảng viên giữ những cương vị chủ chốt, đang chèo lái con thuyền nước nhà có nhớ những lời tiền nhân đã răn dạy./.




 

Thứ Ba, 1 tháng 9, 2020

Giá trị đich thực của dân chủ

         Dân chủ một giá trị rất quan trọng đối với sự phát triển của nhân loại, trong bất cứ thể chế chính trị nào, bất cứ quốc gia, dân tộc nào, trong bất cứ hoàn cảnh lịch sử nào. 

      Thời gian qua xuất hiện ngày càng nhiều các bài viết liên quan đến vấn đề dân chủ ở Việt Nam  hiện nay từ các góc độ khác nhau. Nhiều bài viết đã trắng trợn xuyên tạc, bịa đặt về tình hình dân chủ ở Việt Nam. Dưới các mác "các nhà hoạt động dân chủ", họ đã viện dẫn ra  những ví dụ về hiện tượng mất dân chủ, dân chủ hình thức ở chỗ này, chỗ kia trong thực tiễn đời sống. Từ đó học cho rằng, nền dân chủ mà chúng ta đang xây dựng và hướng tới là giả hiệu, hình thức

    Ai ai cũng biết rằng, giá trị đích thực của dân chủ là thúc đẩy sự phát triển của con người và xã hội ngày càng văn minh, tiến bộ hơn, tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn. Vì vậy, thước đo dân chủ ở Việt Nam  phải là dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; phải là sự tăng trưởng của kinh tế, phải là đảm bảo nhu cầu vận chất, tinh thần cho mọi người dân nagỳ càng tốt hơn; quan hệ với thế giới ngày càng gắn bó, hợp tác, chia sẻ, cùng có lợi vì mục tiêu hòa bình, độc lập dân tộc, dan chủ và tiến bộ xã hội. 

MLN

       


Kiên quyết xử lý nghiêm những đảng viên vi phạm

        Trong tiến trình lãnh đạo cách mạng, cùng với việc không ngừng phát hiện, bồi dưỡng, kết nạp vào đội ngũ những người ưu tú nhất, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng kiên quyết đưa ra khỏi đội ngũ của mình những đảng viên thoái hóa, biến chất, đi ngược lại lợi ích của nhân dân, của dân tộc.
       Tuy thời gian đã lùi xa nhưng vụ án Trần Dụ Châu được mang ra xét xử ngay trong lúc tình thế cách mạng đang ở giai đoạn cam go nhất chắc nhiều người vẫn nhớ; hoặc thế hệ đảng viên sau này ít nhiều cũng đã được đọc, được nghe. Dẫu có rất nhiều đắn đo, suy nghĩ xung quanh việc đưa ra công khai xét xử Trần Dụ Châu, nhưng Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn kiên quyết chỉ đạo, thực hiện. Kết quả, việc xử lý kiên quyết ấy không những có tác dụng răn đe, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng tham nhũng, lãng phí, suy thoái phẩm chất đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên mà còn tăng cường, củng cố, phát huy được sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tiến hành kháng chiến, kiến quốc thắng lợi. Bài xã luận đăng trên Báo Cứu quốc ngày 27-9-1950 khẳng định: “Trong tình thế kháng chiến và trong giai đoạn quyết liệt hiện nay, vụ án Trần Dụ Châu có một ý nghĩa lớn lao. Nó làm toàn thể nhân dân bằng lòng và thêm tin tưởng ở chính quyền và đoàn thể nhân dân. Nhân dân đã thấy rõ: Chính quyền và đoàn thể không bao giờ dung túng một cán bộ nào làm bậy, dù cán bộ cao cấp đến đâu đi nữa. Vụ án này còn làm vui lòng tất cả những cán bộ quân nhu ngay thẳng, chí công vô tư, đã không để Trần Dụ Châu lôi cuốn. Nó đã cho chính quyền và đoàn thể ta nhiều kinh nghiệm trong việc dùng cán bộ, giáo dục và kiểm soát cán bộ.
Có người e ngại: Chúng ta mở toang vụ án này, công khai vạch rõ nhưng tội lỗi nhơ bẩn của Trần Dụ Châu có thể làm một số dân chúng chê trách, hay kẻ địch bám vào đấy để nói xấu chính quyền, đoàn thể ta. Không! Chúng ta không sợ phê bình và tự phê bình những khuyết điểm của ta. Chúng ta khác bọn phản động và hơn hẳn chúng ở chỗ đó. Đấy là một sự khuyến khích nhân dân thẳng thắn, phê bình những sai lầm của cán bộ, của chính quyền, đoàn thể vì họ đã hiểu chính quyền, đoàn thể ta là chính quyền, đoàn thể của họ và họ nhất định không tha thứ những kẻ nào đi ngược quyền lợi của họ”.
        Bài xã luận khẳng định: “Cái chết nhục nhã của Trần Dụ Châu còn là một lời cảnh cáo những kẻ lén lút đang tính chuyện đục khoét công quỹ của Chính phủ, trục lợi của nhân dân. Tất cả những bọn ấy hãy coi chừng dư luận sắc bén của quần chúng và luật pháp nghiêm khắc của Nhà nước nhân dân! Chúng ta phải thẳng tay vạch mặt và trừng trị những bọn ấy, những kẻ tham ô, hoang phí, những kẻ mưu sống phè phỡn trên mồ hôi nước mắt người khác, để tiến tới xây dựng một nền tảng chính quyền nhân dân thật vững vàng. Đây không phải là việc riêng của Chính phủ, của đoàn thể mà đấy là bổn phận của tầng lớp đông đảo quần chúng nhân dân chúng ta”.
       Từ bài học lịch sử trên, triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng, công tác xây dựng Đảng đã đạt được những kết quả bước đầu khá toàn diện và rất đáng ghi nhận. Hàng chục nghìn đảng viên vi phạm kỷ luật đã được các cấp ủy, tổ chức Đảng xem xét, xử lý đúng Điều lệ Đảng, tạo được sự đồng thuận rất lớn trong dư luận xã hội. Với tinh thần kiên quyết, triệt để, trong nhiệm kỳ Đại hội XI, Ban Bí thư và cấp ủy các cấp đã thi hành kỷ luật gần 1.400 tổ chức Đảng và hơn 56.500 đảng viên. Cùng với đó, ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật 17.325 đảng viên. Đây là một con số khá lớn. Số đảng viên bị xử lý kỷ luật này có cả diện Ban Bí thư quyết định, có cả diện Ủy ban Kiểm tra Trung ương quyết định, có cả Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Thành ủy quyết định. Gần đây, những vụ việc, vấn đề liên quan đến phẩm chất, tư cách đảng viên đều được Trung ương chỉ đạo giải quyết quyết liệt, kịp thời, như trường hợp của cựu Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng; Trịnh Xuân Thanh; vụ việc ở Hải Dương, Thanh Hóa... Đặc biệt, tuần cuối tháng 3-2017, Đảng ủy Khối Các cơ quan Trung ương đã tiến hành họp xem xét và bỏ phiếu đề nghị kỷ luật bằng hình thức cách chức đối với ông Võ Kim Cự, Bí thư Đảng đoàn, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam (VCA), nguyên Bí thư Tỉnh ủy Hà Tĩnh do có những sai phạm liên quan đến sự cố môi trường ở 4 tỉnh miền Trung thời gian qua. Những con số, vụ việc nêu trên cho thấy: Nhận định của Đảng về “một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái” là hoàn toàn có cơ sở; đồng thời thể hiện quyết tâm “loại bỏ” những người không đủ tư cách, vi phạm kỷ luật Đảng, vi phạm pháp luật ra khỏi đội ngũ, dù người đó đảm nhiệm cương vị gì, đã nghỉ chế độ hay đương chức.
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) thông qua kiểm điểm tự phê bình và phê bình, các cấp ủy, tổ chức Đảng cũng đã kịp thời cảnh tỉnh, cảnh báo, ngăn chặn những trường hợp cán bộ, đảng viên có những biểu hiện dẫn đến vi phạm kỷ luật. Kết quả thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) không những góp phần quan trọng làm trong sạch đội ngũ, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các cấp ủy, tổ chức Đảng, mà còn giữ được cán bộ, tăng cường, củng cố niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng. Kết quả đó còn thể hiện quyết tâm chính trị rất cao của Đảng trong cuộc chiến đẩy lùi tham nhũng, lãng phí, quan liêu, cửa quyền nảy sinh trong một bộ phận cán bộ, đảng viên có chức, có quyền ở các cấp. Trên cơ sở kinh nghiệm và kết quả lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI), nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng công tác xây dựng Đảng, tại Hội nghị lần thứ 4, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 04-NQ/TW về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” (Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII). Nhận thức đúng vị trí, ý nghĩa, tầm quan trọng; đồng thời nắm chắc các nội dung cốt lõi của nghị quyết là cơ sở đặc biệt quan trọng tạo ra bước đột phá trong nâng cao chất lượng công tác xây dựng Đảng, trọng tâm là xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có đủ phẩm chất, năng lực, đạo đức, tuyệt đối trung thành với Đảng, Nhà nước, nhân dân, hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị trên từng cương vị công tác. Trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII), từng cấp ủy, tổ chức Đảng cần đặc biệt coi trọng nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật Đảng. Theo đồng chí Trần Quốc Vượng, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương, cần nhận thức đầy đủ và sâu sắc rằng: Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng xét cho cùng là để kịp thời nhắc nhở, ngăn chặn, phòng ngừa những cán bộ, đảng viên vi phạm chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thiếu gương mẫu trong cuộc sống; đồng thời kiên quyết xử lý những cán bộ, đảng viên cố tình vi phạm, ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, đến sự phát triển của đất nước. Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng phải góp phần ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, trong mỗi cán bộ, đảng viên; đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu.

      Từ thực tiễn và quan điểm chỉ đạo nêu trên, căn cứ vào tình hình thực tế ở từng địa phương, đơn vị, mỗi cấp ủy, tổ chức Đảng phải làm tốt hơn nữa công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật Đảng. Theo đó, cùng với việc nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, giáo dục; một trong những giải pháp đặc biệt quan trọng là cần kiên quyết đưa ra khỏi đội ngũ của Đảng những cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất. Lịch sử 87 năm qua đã để lại cho Đảng những bài học, kinh nghiệm quý báu, nhất là sau hơn 3 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI), đủ để từng cấp ủy, tổ chức Đảng triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) bảo đảm thực chất, hiệu quả.
      Sẽ là rất khó nếu phải đưa ra xem xét, kỷ luật một cán bộ, đảng viên mà hằng ngày, hằng giờ cùng công tác, cùng sinh hoạt. Lại cũng vô cùng khó khăn khi phải xem xét, kỷ luật một cán bộ, đảng viên mà trước đó cũng là đồng chí, đồng đội của mình. Khó, nhưng không thể không làm, bởi trên hết đó chính là giải pháp quan trọng nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, giữ vững uy tín của Đảng, củng cố lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước. Đảng càng mạnh nếu kỷ luật của Đảng càng được giữ vững và xử lý nghiêm minh những trường hợp đảng viên vi phạm. Uy tín và niềm tin của Đảng càng được củng cố, nếu đội ngũ trong sạch, tất cả suy nghĩ và hành động đều vì quyền lợi của nhân dân, của dân tộc. Sức mạnh của Đảng, uy tín của Đảng được biểu hiện thông qua lời nói và hành động của từng cán bộ, đảng viên. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) đã chỉ rõ 27 biểu hiện của sự suy thoái để mỗi cấp ủy, tổ chức Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên tự giác soi chiếu, để tự giác khắc phục, sửa chữa những hạn chế, khuyết điểm. Kỷ luật của Đảng là kỷ luật tự giác và nghiêm minh. Tuy nhiên, đối với những người cố tình vi phạm thì cấp ủy, tổ chức Đảng phải kiên quyết xử lý và xử lý kịp thời. Kết quả, kinh nghiệm từ thực tiễn công tác xây dựng Đảng thời gian qua là cơ sở để mỗi cấp ủy, tổ chức Đảng lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII), nhất là nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật Đảng.

Người đứng đầu và ngọn cờ tiên phong, gương mẫu

                Khi người đứng đầu không vững vàng, liêm chính
       Đánh giá tình hình, Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) nêu thực trạng trong công tác xây dựng Đảng: “Nhiều cán bộ, đảng viên, trong đó có người đứng đầu chưa thể hiện tính tiên phong, gương mẫu; còn biểu hiện quan liêu, cửa quyền, chưa thực sự sâu sát thực tế, cơ sở”.
       Nhận định trên đây là hoàn toàn có cơ sở. Một thực trạng đã tồn tại từ nhiều năm qua là có những người đứng đầu không phát huy trách nhiệm cá nhân trước tập thể, chưa thực sự là đầu tàu gương mẫu về phẩm chất, lối sống, tác phong công tác và tác phong sinh hoạt, không thể hiện rõ về năng lực trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành. Có những người đứng đầu buông lỏng vai trò, không làm tròn chức trách, công việc “khoán trắng” cho cấp phó hoặc cấp dưới thuộc quyền, “khoán trắng” cho bộ máy chuyên môn, cán bộ chuyên trách, từ đó sinh ra quan liêu, xa rời thực tế. Nhiều trường hợp, người đứng đầu xem nhẹ việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, duy trì không nghiêm việc thực hiện Điều lệ Đảng, chế độ sinh hoạt Đảng, xem nhẹ đấu tranh phê bình và tự phê bình, thậm chí độc đoán, chuyên quyền, lạm dụng quyền lực để vụ lợi, vi phạm kỷ luật Đảng và pháp luật.
       Trung tướng Nguyễn Quốc Thước, nguyên Tư lệnh Quân khu 4, cũng cho rằng: Những vụ việc mà dư luận bức xúc ở một số bộ ngành, cơ quan, đơn vị, địa phương thời gian gần đây là do người đứng đầu thiếu gương mẫu. “Ở đâu cũng vậy, nếu người đứng đầu mà không vững vàng, liêm chính thì ở đó sẽ có những nhũng nhiễu, tiêu cực, mất đoàn kết. Có thể thấy rõ ràng, hàng loạt các sai phạm của Bộ Công Thương nhiệm kỳ trước đều gắn với trách nhiệm của ông Vũ Huy Hoàng khi đó là Bí thư Ban Cán sự Đảng, Bộ trưởng. Người đứng đầu mà thiếu gương mẫu, có biểu hiện vụ lợi, lại buông lỏng lãnh đạo, chỉ đạo như thế thì nội bộ chắc chắn sẽ phát sinh tiêu cực, làm hư hỏng cán bộ mà đối tượng Trịnh Xuân Thanh là điển hình”-Trung tướng Nguyễn Quốc Thước nêu ví dụ.
Gần đây nổi cộm việc bổ nhiệm “cả nhà làm quan” ở nhiều địa phương, vụ bổ nhiệm “siêu tốc” nữ công chức ở Sở Xây dựng tỉnh Thanh Hóa… cho thấy tình trạng thao túng, lộng hành trong công tác cán bộ của một số cá nhân có chức, có quyền. Ngày 14-4 vừa qua, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã xem xét, kết luận về vi phạm của nhiều tập thể, cá nhân, có những người đứng đầu liên quan đến dự án Formosa Hà Tĩnh. Theo thẩm quyền, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã quyết định thi hành kỷ luật, đồng thời đề nghị Ban Bí thư xem xét, thi hành kỷ luật đối với Ban Cán sự Đảng Bộ Tài nguyên và Môi trường cùng các cá nhân, trong đó có ông Nguyễn Minh Quang, nguyên Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường; ông Võ Kim Cự, Bí thư Đảng đoàn, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Hà Tĩnh...
       Qua những sự việc nêu trên cho thấy, Đảng ta đã và đang quyết tâm cao trong xử lý các vi phạm gắn với trách nhiệm của người đứng đầu. Tuy nhiên, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống của cán bộ, đảng viên, trong đó có người đứng đầu vẫn rất nghiêm trọng và ngày càng tinh vi, phức tạp. Sự suy thoái ấy nếu không được phát hiện, ngăn chặn và xử lý sẽ nhanh chóng dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
       Nguyên nhân dẫn đến thực trạng một bộ phận người đứng đầu chưa phát huy được vai trò tiên phong, gương mẫu, dẫn tới suy thoái, như Nghị quyết Trung ương 4 khẳng định là do “bản thân những cán bộ, đảng viên đó thiếu tu dưỡng, rèn luyện; lập trường tư tưởng không vững vàng, hoang mang, dao động trước những tác động từ bên ngoài; sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, hẹp hòi, bị cám dỗ bởi các lợi ích vật chất, không làm tròn trách nhiệm, bổn phận của mình trước Đảng, trước dân”. Bên cạnh đó, “cơ chế kiểm soát quyền lực chậm được hoàn thiện, còn nhiều sơ hở. Thiếu cơ chế để xử lý, thay thế kịp thời những cán bộ lãnh đạo, quản lý yếu về năng lực, giảm sút uy tín, trì trệ trong công tác, kém hiệu quả trong phòng ngừa, đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực. Chậm ban hành quy định xử lý tổ chức, cá nhân có biểu hiện suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa".  Và, “việc thực hiện kỷ cương, kỷ luật của Đảng chưa nghiêm, còn có biểu hiện "nhẹ trên, nặng dưới"...
                      Xứng đáng là ngọn cờ tiên phong, gương mẫu
         Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao tinh thần nêu gương của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Bác chỉ rõ: “Nhân dân ta thường nói: Đảng viên đi trước, làng nước theo sau. Đó là lời khen chân thành đối với đảng viên và cán bộ chúng ta”. Để hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao, Bác yêu cầu phải nêu gương, trước hết về đạo đức cho tất cả cán bộ, đảng viên. Bởi, “một trăm bài diễn thuyết hay không bằng một tấm gương sống” và “quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”. Người xác định, nội dung nêu gương của cán bộ, đảng viên phải được thể hiện trên cả ba mối quan hệ: Đối với mình, đối với người và đối với việc…
          Trong tình hình hiện nay, việc nêu gương của người đứng đầu đòi hỏi phải thể hiện toàn diện trên các mặt về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tác phong; tự phê bình và phê bình; quan hệ với nhân dân; trách nhiệm trong công tác; ý thức tổ chức kỷ luật và đoàn kết nội bộ... Đặc biệt, đề cao năng lực tham gia, quyết định và tổ chức thực hiện tốt những nhiệm vụ trong phạm vi trách nhiệm lãnh đạo của mình; có bản lĩnh và năng lực điều hành, tập hợp quần chúng, biết sử dụng nhân tài, phối hợp công tác; có khả năng đúc rút kinh nghiệm và tổng kết thực tiễn; có tác phong dân chủ, phong cách làm việc khoa học, nói đi đôi với làm, sâu sát thực tế... Trung tướng Nguyễn Quốc Thước cho rằng, người đứng đầu phải như ngọn cờ để tập hợp, lôi cuốn tập thể, quần chúng. Ngọn cờ ấy phải tiêu biểu về phẩm chất, trí tuệ, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, thậm chí một mất một còn, để bảo vệ Đảng và đưa phong trào cách mạng đi lên.
          Trong cuộc đấu tranh phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến, tự chuyển hóa”, người đứng đầu phải xác định rõ trách nhiệm và quyết tâm chính trị trên cương vị được giao. Người đứng đầu phải nhận thức sâu sắc tầm quan trọng đặc biệt và quyết tâm cao độ khi tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng lần này. Ông Nguyễn Túc, Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cho rằng: Để Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) đi vào cuộc sống thì phải biến quyết tâm của nghị quyết thành quyết tâm của cả hệ thống chính trị, mà trước hết cần sự quyết tâm của người đứng đầu. “Thời gian vừa qua cho chúng ta thấy hiệu quả thực hiện nghị quyết không cao, do người đứng đầu nắm nhiều quyền lực nhưng thiếu trách nhiệm, thiếu sự quản lý, giám sát. Và phải quy định rõ là nếu để xảy ra bất cứ việc gì thuộc bất cứ lĩnh vực nào thì khuyết điểm trước hết là ở người đứng đầu và người đứng đầu phải chịu trách nhiệm”-ông Nguyễn Túc nhấn mạnh.
           Nhiều vụ việc tiêu cực, những sai phạm nghiêm trọng diễn ra thời gian qua có nguyên nhân quan trọng từ việc lạm dụng quyền lực của người đứng đầu. Việc cấp bách để ngăn chặn tình trạng đó là phải tiếp tục hoàn thiện các quy định, chế tài để giám sát thực hiện quyền lực và xác định rõ thẩm quyền, mối quan hệ của người đứng đầu và tập thể. Đồng thời, trong tổ chức sinh hoạt, hoạt động cần duy trì nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, các nguyên tắc, chế độ sinh hoạt tự phê bình và phê bình, thực hiện thực chất việc kê khai tài sản đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý. Bên cạnh việc tiếp tục bổ sung, hoàn thiện các quy trình, quy định, chế tài cần quán triệt và thực hiện nghiêm các văn bản hiện hành liên quan đến trách nhiệm, thẩm quyền của người đứng đầu. Cụ thể như: Nghị định số 157/2007/NĐ-CP ngày 27-10-2007 của Chính phủ về Quy định chế độ trách nhiệm đối với người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị của Nhà nước trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ; Điều 10, Luật Cán bộ công chức quy định nghĩa vụ, trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị của Nhà nước và mới đây là Quy định số 55-QĐ/TW ngày 19-12-2016 của Bộ Chính trị "Về một số việc cần làm ngay để tăng cường vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên"...
            Để người đứng đầu hoàn thành trách nhiệm chính trị và xứng đáng là ngọn cờ tiên phong, gương mẫu trong cuộc đấu tranh phòng, chống suy thoái, những biểu hiện “tự diễn biến", "tự chuyển hóa”, phải thường xuyên quan tâm xây dựng, bồi dưỡng, rèn luyện và quản lý toàn diện đội ngũ những người đứng đầu. Phẩm chất và năng lực, sự mẫu mực, nêu gương cũng như thái độ kiên quyết đấu tranh của những người đứng đầu có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở mỗi tổ chức, cơ quan, đơn vị. Đồng thời phải xử lý mạnh mẽ, kịp thời, liên quan đến trách nhiệm và các vi phạm của người đứng đầu, bất kỳ người đó là ai, giữ cương vị nào; khắc phục tình trạng xử lý “nhẹ trên, nặng dưới”... Trong cuộc đấu tranh này, phải kết hợp cả nhiệm vụ “xây” và “chống”, như quan điểm nêu trong Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII): “Xây” là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài; “chống” là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách”.

Nhận thức đúng về “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” hiện nay

       Nguồn gốc, nguyên nhân của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở nước ta hiện nay có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan. Trong đó, có âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch. Song, phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở Việt Nam hiện nay không phải là cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh địch-ta một mất, một còn như một số người đang rêu rao, mà là cuộc đấu tranh trong nội bộ tổ chức đảng, bộ máy nhà nước, các tổ chức chính trị-xã hội (CT-XH), trong các tầng lớp nhân dân và diễn ra trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội để chống lại cái ác, cái xấu, cản trở công cuộc đổi mới đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Vì vậy, Đảng, Nhà nước, các tổ chức CT-XH, đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhân dân ta vừa là chủ thể đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, đồng thời cũng là đối tượng của phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.

         Nội dung phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ bao gồm toàn bộ các nội dung công tác “phòng” và nội dung đấu tranh “chống” trong mối quan hệ chặt chẽ và thống nhất với nhau, cụ thể như sau:
Thứ nhất, ngăn ngừa, triệt tiêu nguồn gốc, nguyên nhân làm nảy sinh “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Trong đó, phải hết sức chú ý đấu tranh khắc phục tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch.
       Thứ hai, khắc phục những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên. Thực hiện nội dung này, cần tiến hành đấu tranh chống những tư tưởng, biểu hiện: Phản bác, phủ nhận Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các nguyên tắc tổ chức của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ; đòi thực hiện “đa nguyên, đa đảng”; phản bác, phủ nhận nền dân chủ xã hội chủ nghĩa (XHCN), Nhà nước pháp quyền XHCN; đòi thực hiện thể chế “tam quyền phân lập”, phát triển “xã hội dân sự”, phủ nhận nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, chế độ sở hữu toàn dân về đất đai... thực chất là đấu tranh khắc phục 9 biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII của Đảng.
       Thứ ba, ngăn ngừa, khắc phục tác hại “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong xã hội. Đó là việc thực hiện các nội dung đấu tranh để ngăn ngừa, khắc phục tác hại của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong mỗi con người và tổ chức; làm cho những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” mất khả năng gây tác hại, không còn lây lan trong đời sống xã hội, dần dần bị triệt tiêu, loại bỏ trong mỗi con người và tổ chức.
       Thứ tư, xây dựng con người, đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức theo chuẩn mực phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, năng lực, phong cách sống, làm việc khoa học. Trong nội dung này, đặc biệt cần thực hiện tốt nội dung xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức; nhất là xây dựng về phẩm chất, năng lực, đạo đức, lối sống, phong cách sống, tác phong công tác đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ, theo đúng chuẩn mực đạo đức xã hội chủ nghĩa, chuẩn mực đạo đức cán bộ, đảng viên.
       Thứ năm, xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh, hoạt động đúng chức năng, nhiệm vụ. Điều đó không những tạo nên khả năng đề kháng, miễn dịch, bảo đảm cho mỗi cán bộ, đảng viên, các tổ chức đảng và toàn Đảng không bị mắc vào “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, mà còn tạo nên động lực to lớn, sức mạnh nội sinh để giành thắng lợi trong phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
       Thứ sáu, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nhằm phát huy sức mạnh nội sinh của cả dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN, không để cho các thế lực thù địch lợi dụng những yếu kém, bất cập, bất đồng, bất hòa, mâu thuẫn giữa các dân tộc, tôn giáo, các giai cấp, các tầng lớp xã hội, giữa Đảng, Nhà nước, đoàn thể CT-XH với nhân dân; giữa đồng bào ở trong nước với đồng bào định cư ở nước ngoài để thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong xã hội ta.
       Để cuộc đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở nước ta hiện nay được đúng hướng và có hiệu quả, cần nhận thức đúng đắn và quán triệt sâu sắc quan điểm chỉ đạo của Đảng là: “Nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá đúng sự thật. Kết hợp giữa “xây” và “chống”; “xây” là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài; “chống” là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách”. Cụ thể bao gồm:
      Một là, phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ở Việt Nam hiện nay, thực chất là cuộc đấu tranh trong nội bộ cán bộ, đảng viên và nhân dân.
      Hai là, phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn dân.
     Ba là, phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ phải tiến hành đồng bộ trên tất cả lĩnh vực với những nội dung, hình thức, biện pháp đa dạng, linh hoạt, hiệu quả.
    Bốn là, phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ phải tiến hành thường xuyên, liên tục, lâu dài, có sự phối hợp chặt chẽ của các cấp, các ngành, các tổ chức và lực lượng.
    Năm là, phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ phải kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa “phòng” và “chống”, giữa “xây” và “chống”, trong đó lấy “phòng”, “xây” là chính.
    Việc xác định đúng đắn các hình thức, biện pháp đấu tranh là vấn đề đặc biệt quan trọng trong phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở nước ta hiện nay. Hình thức, biện pháp phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” rất đa dạng, phong phú, bao gồm các hình thức của công tác tư tưởng, tổ chức, chính sách; các hình thức, biện pháp về hành chính, kinh tế, pháp luật... trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, đồng thời thường xuyên được đổi mới phù hợp với sự phát triển của tình hình.

ĐẠI TÁ TRẦN DỤ CHÂU VÀ BẢN ÁN TỬ HÌNH ĐẦU TIÊN VỀ TỘI THAM NHŨNG



Cách mạng Tháng Tám thành công. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Nhân dân được hưởng nền độc lập chưa bao lâu thì thực dân Pháp quay trở lại lăm le cướp nước ta một lần nữa. Chính quyền cách mạng non trẻ cùng quân đội và nhân dân tạm rời Thủ đô Hà Nội lên Chiến khu Việt Bắc. Biết bao nhiêu khó khăn, thiếu thốn đến với chính quyền và quân đội trong khoảng thời gian này, trong khi Pháp tăng cường lực lượng.
Từ năm 1946 đến đầu năm 1950, thế và lực của ta là cầm cự và phòng ngự. Đây là giai đoạn quân đội thiếu lương thực, thuốc men, đạn dược... Chính trong giai đoạn nóng bỏng này, trong quân đội lại xuất hiện những sĩ quan biến chất, tham nhũng, sống phè phỡn, xa hoa trong khi những người lính ngoài mặt trận phải ăn đói, mặc rách; những chiến sĩ bị thương thiếu cả thuốc men chữa trị. Một số sĩ quan có chức có quyền ấy đã bị đưa ra trước vành móng ngựa…
Trần Dụ Châu sinh năm 1906 tại Nghệ An. Năm 1930 làm thư ký cho Tòa sứ Pháp, viết bài cho Báo Thanh Nghệ Tĩnh. Năm 1932, Châu làm nhân viên hỏa xa. Đến năm 1945 làm kế toán Quận Hỏa xa Bắc kỳ. Nhờ quan hệ và khôn khéo trong công việc, Châu trở nên giàu có và cũng đã hiến phần lớn tài sản của mình cho cách mạng.
Năm 1945, Châu được chính quyền cách mạng giao tập hợp cả ngàn tấn gạo, muối từ Hà Đông đưa lên Chiến khu Việt Bắc phục vụ quân đội.
Năm 1946, nhờ quá trình làm tốt việc cung cấp lương thực, quân trang cho bộ đội nên Châu được phong quân hàm Đại tá, giữ chức Giám đốc Nha Quân nhu, có nhiệm vụ chỉ đạo sản xuất quân trang, được giữ trong tay rất nhiều tiền bạc.
Chính vì có chức, có quyền, có tiền nhưng lại thiếu tự kiềm chế nên Trần Dụ Châu sa vào hưởng lạc, chiếm dụng tiền công bằng nhiều thủ đoạn khác nhau, nhận tiền biếu xén, nâng đỡ, bao che cho các thuộc hạ khi có sai phạm.
Điển hình, Châu đã nâng đỡ, dìu dắt Lê Sỹ Cửu (đồng hương miền Trung) vào Nha Quân nhu để Cửu trở thành tay chân đắc lực của Châu. Cửu đã chiếm đoạt hàng chục vạn đồng nhờ nâng khống giá mua vải và bóc tách giá vận chuyển, giá phụ liệu may mặc mà khi các nhà buôn cung cấp họ đã tính giá trọn gói. Cửu còn cấp con dấu giả Nha Quân nhu cho bọn buôn lậu qua mặt cơ quan chức năng. Cửu cũng đã hối lộ cho Châu hàng chục vạn đồng và nhiều tài sản có giá trị trong thời gian dài. Chính vì sự bớt xén cho nên các mặt hàng phục vụ chiến sỹ đều bị “rút ruột” như: Màn không đủ chiều cao như quy định, áo trấn thủ ít bông hơn, chăn đắp bị giảm bông độn thứ khác vào…
Ngoài các khoản nhận hối lộ, biếu tặng, cống nộp… Châu lấy cắp công quỹ 57.959 đồng Việt Nam, các tài sản khác trị giá 143.900 đồng Việt Nam. Châu còn tuyển người, thải người theo sở thích cá nhân, vung tiền bao gái…
Khi có lời xầm xì về lối sống của Châu thì Châu đã nhờ một nhân viên viết thư gửi Đại tướng Tổng Tư lệnh báo cáo rằng: “Trong Nha Quân nhu có một tổ chức gây chia rẽ và phá hoại quân đội ta”. Rõ ràng, Châu đã dằn mặt người có ý định tố cáo và mượn tay kẻ xấu viết bức thư hoàn toàn không có sự thật để che đậy sự xấu xa và “thanh toán” đồng đội. Đó là tâm địa hiểm độc của Châu.
Có điều, cái xấu không thể che đậy được mãi cho đến khi Châu đứng ra làm chủ hôn cho đám cưới của Lê Sỹ Cửu, một đám cưới sang trọng, mang phong cách quý tộc của châu Âu. Không gian cưới lung linh bởi cả trăm ngọn nến. Cỗ bàn toàn những thứ cao sang từ thực phẩm đến đồ uống, đồ hút đều là những thứ nổi tiếng của cả ta và Tây. Cặp uyên ương trong trang phục sang trọng như giới thượng lưu, có cả ban nhạc sống nổi tiếng về phục vụ… Đám cưới được tổ chức trên vùng đất Việt Bắc, nơi người dân còn quá nghèo và lạc hậu, nơi người lính đang thiếu thốn trăm bề.
Nhà thơ Đoàn Phú Tứ (Đại biểu Quốc hội khóa I, làm việc trong Tòa soạn Tạp chí Văn nghệ) là khách mời của đám cưới, khi ông cùng đoàn nhà văn vừa đi thăm và úy lạo các đơn vị bộ đội đánh giặc trở về, tận mắt thấy các chiến sỹ bị thương mà thiếu thuốc men, bông băng và hầu hết họ đều rách rưới “võ vàng đói khát”, “chỉ còn mắt với răng” trong khi mùa Đông năm đó băng giá. Đoàn Phú Tứ được Trần Dụ Châu mời đọc thơ chúc mừng đám cưới. Ông đã đứng lên nói to: “Bữa tiệc cưới chúng ta sắp chén đẫy hôm nay, được dọn bằng xương máu của chiến sĩ”. Rồi ông đã bỏ đám cưới ra về và sau đó viết một bức thư gửi Hồ Chủ tịch tố cáo vụ việc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạo Ban Thanh tra Chính phủ, Ban Kiểm tra Trung ương, Cục Tổng Thanh tra quân đội thành lập ngay đoàn thanh tra để làm rõ. Đoàn thanh tra do Thiếu tướng Trần Tử Bình, Phó Tổng Thanh tra quân đội làm Trưởng đoàn.
Đoàn đã tiến hành điều tra, xét hỏi, gặp gỡ nhiều nhân chứng, nghiên cứu tài liệu để thu thập chứng cứ. Đối tượng là một cán bộ cao cấp có cương vị và đang giữ trọng trách trong quân đội, lại lắm thủ đoạn, khôn khéo, biết che đậy nên đoàn thanh tra phải làm việc hết sức thận trọng. Sau gần 2 tháng thanh tra, điều tra, đoàn thanh tra đã có những chứng cứ đầy đủ về tội trạng của Trần Dụ Châu, Lê Sỹ Cửu và đồng bọn. Một số tội trạng của Trần Dụ châu, đoàn thanh tra đã kết luận như: Biển thủ 57.950 đồng bác việt Nam và 449 đôla Mỹ, 28 tấm lụa xanh; nhận hối lộ 20 vạn đồng của Lê Sỹ Cửu; bán một số súng lục lấy tiền ăn chơi; giam giữ công nhân quân giới trái phép. Một số tội trạng của Lê Sỹ Cửu gồm: Biển thủ 1.500 tấm vải nội hóa trị giá 700.000 đồng; tham ô 40.000 đồng, lấy 560.000đ tính tăng vào giá vải mua cho bộ đội và 1.155 tấm vải trị giá 660.000 đồng; ăn hối lộ của bọn buôn vải và hối lộ Trần Dụ Châu; giả mạo con dấu của nha quân nhu để cấp giấy tờ cho bọn buôn lậu.
Đoàn thanh tra đã báo cáo lên Chủ Tịch Hồ Chí Minh, Chính phủ và Bộ Quốc Phòng về tội trạng của Trần Dụ Châu và đồng bọn. Ngày 5/9/1950, tại thị xã Thái Nguyên, Tòa án Binh Tối cao mở phiên tòa đặc biệt xử vụ Trần Dụ Châu. Thiếu tướng Chu Văn Tấn ngồi ghế Chánh án, Thiếu tướng Trần Tử Bình đại diện Chính phủ ngồi ghế công cáo viên… Phòng xử án có khẩu hiệu “Nêu cao ánh sáng công lý trong quân đội”, “Trừng trị để giáo huấn”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phê duyệt bản án
Việc thanh tra làm rõ tội trạng của Trần Dụ Châu và vụ án xét xử y đã gây chấn động trong quân đội và nhân dân, đã củng cố niềm tin vào Đảng và Bác Hồ. Nhờ vậy, thế của quân đội ta từ cầm cự, phòng ngự đã chuyển sang tổng phản công đánh thắng địch ở Chiến dịch Biên giới Thu - Đông 1950 làm bàn đạp cho chiến thắng Điện Biên Phủ lẫy lừng năm 1954, kết thúc 9 năm trường kỳ kháng chiến.
Vụ án Trần Dụ Châu đã lùi vào lịch, nhưng tính thời sự, nghiêm minh pháp luật thì vẫn còn nguyên giá trị.
Theo: Cổng thông tin điện tử Thanh tra Chính phủ.


Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ, giải pháp đúng đắn, phù hợp với quy luật hiện thực khách quan


Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ, giải pháp đúng đắn, phù hợp với quy luật hiện thực khách quan
Dự thảo báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2016-2020 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2021-2025 đã đưa ra 12 nhiệm vụ giải pháp chủ yếu, trong đó có nhiệm vụ, giải pháp: Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là một nhiệm vụ chiến lược, là khâu đột phá quan trọng, tạo động lực để phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Bởi vì:
Thứ nhất là, theo Mác và Ăngghen, có hai tiền đề - điều kiện cơ bản của sự vận động hiện thực đó là: Tiền đề hiện thực đầu tiên là sự phát triển của nền đại công nghiệp (công nghiệp hóa) với phương thức sản xuất công nghiệp mang tính xã hội hóa cao. Thứ hai, là thể chế phát triển xoá bỏ ách áp bức, bóc lột, bất công, xây dựng một xã hội công bằng, bình đẳng, dân chủ. Hai điều kiện - tiền đề cơ bản này được hình thành - vận động - phát triển, có quan hệ biện chứng với nhau trong suốt chiều dài lịch sử đấu tranh - phát triển của nhân loại cũng như của mỗi dân tộc.
Loài người phát triển qua các hình thái kinh tế - xã hội tất yếu phát triển lên một trình độ cao hơn, văn minh hơn chủ nghĩa tư bản, gọi là chủ nghĩa xã hội (chủ nghĩa cộng sản); những giá trị tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội phải là những giá trị tiêu biểu chung của nhân loại (kinh tế thị trường), mà các quốc gia sẽ từng bước đi tới trong sự vận động, phát triển của mình. Do đó, sự phát triển của một quốc gia theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) không thể đối lập với những giá trị chung, tốt đẹp - tiến bộ của nhân loại.
Lênin cũng cho rằng cần “phải bắc những chiếc cầu nhỏ”, “trung gian”, “quá độ” lên chủ nghĩa xã hội, phải sử dụng cả chủ nghĩa tư bản và các giải pháp tích cực của nó để xây dựng chủ nghĩa xã hội (KTTT); chủ nghĩa xã hội là sản phẩm của nền đại công nghiệp cơ khí, nếu “không có kỹ thuật tư bản chủ nghĩa quy mô lớn được xây dựng trên những phát minh mới nhất của khoa học hiện đại… thì không thể nói đến chủ nghĩa xã hội được”.
Vấn đề Thứ hai là, thực tiễn phát triển KTTT đã thành công một số nước XHCN chứng minh tính tất yếu khách quan, cần thiết phát triển KTTT trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội; tiêu biểu là mô hình Trung Quốc xây dựng “chủ nghĩa xã hội mang mầu sắc Trung quốc” - nền kinh tế thị trường mang mầu sắc Trung quốc và “KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”. Phát triển KTTT của Việt Nam luôn luôn trong mối quan hệ biện chứng với sự phát triển KTTT trên thế giới; KTTT của Việt Nam là một bộ phận của KTTT thế giới. Quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, Việt Nam “đi vào” sân chơi quốc tế trong rất nhiều lĩnh vực và ở những cấp độ khác nhau. Điều đó có nghĩa là Việt Nam chấp nhận những giá trị chung, những “luật chơi” chung theo nguyên tắc mỗi nước đặt lợi ích quốc gia - dân tộc mình lên trước hết, đồng thời bảo vệ lợi ích phát triển chung và tôn trọng lợi ích chính đáng của các nước khác, của quốc tế. Thực tiễn phát triển KTTT ở Việt Nam cho thấy, Việt Nam coi hội nhập quốc tế sâu rộng là đòi hỏi khách quan, tạo cơ hội lớn cho sự phát triển đất nước. Do đó, đất nước qua 35 năm đổi mới đạt được những thành tựu to lớn, minh chứng rất thuyết phục điều đó (dù có không ít thách thức). Điển hình là tốc độ tăng tổng sản phảm trong nước (GDP) đạt khá cao, bình quân 5 năm 2016- 2020 ước đạt 6,8 %, thuộc nhóm các nước phát triển cao nhất khu vực và thế giới; bình quân đầu người năm 2020 ước đạt 3.000 USD, gấp 1,4 lần so năm 2015; năm 1993 Việt Nam có 53% hộ nghèo đến 2019 chỉ còn 4%. Quá trình phát triển KTTT các thể chế ngày càng được hoàn thiện; hệ thống pháp luật kinh tế khá đầy đủ; vai trò của Nhà nước được điều chỉnh phù hợp hơn với cơ chế thị trường; bộ máy thực thi pháp luật ngày càng hiệu quả, qua đó thúc đẩy KTTT ở nước ta phát triển. Như vậy, phát triển KTTT trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hộitất yếu khách quan, đúng đắn.
Hiện nay, các thế lực thù địch luôn ra sức tìm mọi cách xuyên tạc, công kích và phủ nhận chủ nghĩa Mác-Lênin; họ cho rằng sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên xô và Đông Âu là một tất yếu lịch sử vì nó bắt nguồn từ sự “lạc hậu, lỗi thời của bản thân chủ nghĩa Mác-Lênin,“chủ nghĩa xã hội mà Mác nêu ra chỉ là một lý tưởng, một chủ nghĩa xã hội “không tưởng”, không bao giờ thực hiện được, do đó hiện nay Việt Nam đang bế tắc về kinh tế và tinh thần; con đường Việt Nam đang đi là trái với quá trình lịch sử tự nhiên. Những luận điệu đó đã được những người cộng sản chứng minh, làm rõ tính chất phản động của nó bằng cả lý luận và thực tiễn khách quan thông qua những thành tựu phát triển KTTT định hướng XHCN của Việt Nam và “chủ nghĩa xã hội mang mầu sắc Trung quốc”. Chính những thành tựu đó, đặt ra nhu cầu cấp thiết cho nhiều nhà kinh tế, chính trị, sinh viên trên thế giới đi vào nghiên cứu học thuyết kinh tế của Mác và KTTT ở Việt Nam, Trung Quốc. Trong đại dịch covid 19, các nước trên thế giới, trong đó có Mỹ đã học hỏi kinh nghiệm của Việt Nam về phòng chống dịch covid 19 và phát triển kinh tế-xã hội trong điều kiện có dịch; điều đó thể hiện tính ưu việt của chế độ XHCN.
Vấn đề thứ 3, bên cạnh những thành tựu đạt được, trong quá trình phát triển nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam còn có những hạn chế, yếu kém cần được khắc phục, hoàn thiện đó là:
Hiến pháp đã quy định kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, nhưng cũng quy định các thành phần kinh tế là bình đẳng, cùng hợp tác và cùng cạnh tranh nhưng trên thực tế môi trường kinh doanh chưa thật sự bình đẳng, thông thoáng, minh bạch. Thể chế KTTT chưa đồng bộ, còn nhiều vướng mắc, bất cập chưa được tháo gỡ (nhất là thị trường quyền sử dụng đất và thị trường khoa học, công nghệ). Luật, cơ chế chính sách còn những quy định không thống nhất (còn chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu chặt chẽ, không ồn định, nhất là trong lĩnh vực đầu tư, kinh doanh, quy hoạch, đất đai, môi trường, vẫn còn các điều kiện đầu tư kinh doanh bất hợp lý, ban hành giấy phép con trái quy định). Xây dựng luật còn hạn chế, có luật ban hành một thời gian chưa thi hành đã phải sửa…
Chưa tạo được đột phá trong phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực; thể chế phát triển, điều phối kinh tế vùng chưa được quan tâm và cụ thể hóa bằng pháp luật nên liên kết vùng còn lỏng lẻo; khu vực kinh tế tư nhân còn gặp khó khăn khi tiếp cận vốn, đất đai, thông tin, tiếp cận thị trường; doanh nghiệp nhà nước vẫn được “ưu ái” hơn doanh nghiệp tư nhân; trong khi doanh nghiệp nhà nước chiếm nguồn lực lớn nhưng lại sử dụng hiệu quả không cao; nhiều dự án thất thoát, làm ăn thua lỗ, gây tổn hại lớn cho nhà nước và xã hội (Điển hình là 12 đại dự án thua lỗ của ngành Công Thương đã để thiệt hại hàng chục nghìn tỷ đồng, mất rất nhiều năm không thể giải quyết dứt điểm). Ngoài ra, cơ chế “xin - cho” trong khu vực nhà nước còn tồn tại, chưa được khắc phục dứt điểm; tình trạng tham nhũng còn nhiều; bộ máy còn tình trạng quan liêu, cồng kềnh; chi phí đầu tư công còn cao…
Từ thực tiễn trên, chúng ta thấy rằng: tiếp tục hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN là hoàn toàn đúng đắn, khách quan.
Để thực hiện nhiệm vụ giải pháp hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cần tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp. Trong đó, những giải pháp pháp quan trọng đó là:
 Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác xây dựng và thi hành nghiêm pháp luật bảo đảm tiến độ, chất lượng, đầy đủ, đồng bộ, khả thi, hiện đại, hội nhập, có sức cạnh tranh quốc tế; tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp, kinh tế hợp tác, hợp tác xã, các yếu tố, các loại thị trường.
Đổi mới mạnh mẽ hơn phương thức quản lý kinh tế của Nhà nước theo hướng chuyển giao những công việc Nhà nước không nhất thiết phải làm cho các tổ chức xã hội, chuyển đổi cung cấp trực tiếp dịch vụ công sang phương thức đặt hàng; đổi mới mạnh mẽ phân cấp, phân quyền và nâng cao hiệu quả phối hợp trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành.
Phát huy vai trò của người dân, doanh nghiệp, các tổ chức chính trị - xã hội, nghề nghiệp và cộng đồng trong tham gia xây dựng, phản biện và giám sát thực hiện chính sách, pháp luật.
Hoàn thiện thể chế tạo thuận lợi cho chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và quá trình chuyển đổi số; đẩy nhanh xây dựng khung chính sách, pháp luật đối với xây dựng chính quyền điện tử hướng tới chính phủ số.
Đổi mới cơ chế phân bổ nguồn lực đầu tư, ưu tiên thu hút các nguồn lực của xã hội phát triển các vùng kinh tế trọng điểm, các cực tăng trưởng, các đô thị lớn, các ngành mũi nhọn ... Rà soát, điều chỉnh, bổ sung các quy định pháp luật liên quan đáp ứng yêu cầu thực hiện các cam kết quốc tế; thực hiện chế độ kiểm toán, kế toán, thống kê phù hợp với chuẩn mực quốc tế và nâng cao chất lượng công tác phân tích, dự báo, cảnh báo phục vụ quản lý, điều hành.
Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ, giải pháp đúng đắn, phù hợp với quy luật hiện thực khách quan; để đi vào hiện thực, việc tổ chức thực hiện là vô cùng quan trọng; cần được tổ chức thực hiện chặt chẽ, khoa học, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, trên cơ sở nguyên tắc luôn luôn bám sát thực hiện mục tiêu bao trùm là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.




GANH TỊ, SUY BÌ – THÓI QUEN XẤU CỦA NHỮNG NGƯỜI CHƯA ĐỦTƯ CÁCH LÀ CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN


GANH TỊ, SUY BÌ – THÓI QUEN XẤU CỦA NHỮNG NGƯỜI CHƯA ĐỦTƯ CÁCH LÀ CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN
Ngay từ rất sớm, trong quá trình xây dựng Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cảnh báo rõ tác hại của tính gành tị,  suy bì. Nói chuyện với hội nghị cán bộ toàn tỉnh Nghệ An (ngày 14/6/1957), Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đầu óc tư tưởng người đảng viên là đưa hết tinh thần, lực lượng phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng. Thế nhưng, một nửa phục vụ nhân dân, một nửa lại suy tị, như thế là chưa toàn tâm, toàn lực, là chưa xứng đáng tư cách của người đảng viên”. Như vậy, theo Người, tư cách của người đảng viên không cho phép tồn tại bệnh “ganh tị”, “suy bì”. Không những vậy, Người còn nhận diện rõ những biểu hiện “lâm sàng” của bệnh “ganh tị”, “suy bì” trong từng lĩnh vực, từng đối tượng khác nhau, cụ thể:
Đối với cán bộ, đảng viên nói chung, Người giải thích rằng: “Khuyết điểm thứ hai là suy bì đãi ngộ và địa vị. Suy bì tức là so sánh, mà so sánh có nên không? Nên. Nhưng biết so sánh như thế nào cho tốt, so sánh như thế nào là không tốt. Đảng, Trung ương rất cảm thông với các đồng chí, nhất là các đồng chí ở xã gặp khó khăn nhiều, về sinh hoạt tinh thần cũng như vật chất. Nói về so sánh thì nên so sánh nhưng chúng ta cần phải so sánh với những đồng chí, những cán bộ có đạo đức cách mạng hơn mình, lập trường tư tưởng vững hơn mình, tác phong dân chủ và tinh thần trách nhiệm hơn mình. So sánh với những đồng chí như thế để mà học, để mà tiến bộ. Thế là nên so sánh. Còn so sánh về vật chất thì ngược lại nên so sánh với những đồng chí cố nông, bần nông, với những đồng bào thiểu số
Đối với cán bộ, chiến sĩ quân đội, Người chỉ rõ: “Có một số cán bộ, chiến sĩ có óc công thần, cho ta đây có thành tích, lâu năm, cho ta là trời, sa xuống cái hố cá nhân chủ nghĩa, suy bì đãi ngộ, quên rằng mọi cán bộ, mọi chiến sĩ quân đội nhân dân phải hết lòng phục vụ, không nên một nửa thì phục vụ, một nửa thì suy bì ghen tị”.
Đối với cán bộ, chiến sĩ công an, Người huấn thị: “Tư tưởng xã hội chủ nghĩa là thế nào? Là mỗi người hãy nghĩ đến lợi ích chung, lợi ích toàn dân trước. Phải chống chủ nghĩa cá nhân. Thế nào là chủ nghĩa cá nhân? Là so bì đãi ngộ: lương thấp, cao, quần áo đẹp, xấu, là uể oải, muốn nghỉ ngơi, hưởng thụ, an nhàn”.
Đối với cán bộ công đoàn, Người căn dặn: “Phải đặt lợi ích của giai cấp và dân tộc lên trên lợi ích cá nhân, chống thói kèn cựa, suy bì, ích kỷ. Phải có lề lối làm việc xã hội chủ nghĩa tức là siêng năng, khẩn trương, khiêm tốn, luôn luôn cố gắng tiến bộ làm tròn nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước giao cho”.
Đối với cán bộ phụ trách nông nghiệp, Người cho rằng, từ bệnh suy bì khiến cán bộ có biểu hiện “đứng núi này, trông núi nọ”: “Có một số cán bộ chưa thật yên tâm công tác, như vậy không đúng. Làm cán bộ không phải là để thăng quan, phát tài. Chính phủ là đày tớ của nhân dân. Cán bộ làm công tác gì cũng vì dân vì nước. Nếu làm tròn nhiệm vụ là vẻ vang, là anh hùng. Không nên đứng núi này, trông núi nọ”.
Đối với cán bộ, giáo viên, Người phê bình: “Công tác bình dân học vụ tuy không có gì tiếng tăm lừng lẫy, không kêu nhưng rất vẻ vang. Chớ đứng núi này trông núi nọ. Chớ có tư tưởng bỏ bình dân học vụ đi học kỹ thuật, đi dạy trường phổ thông, đi làm nghề khác là không đúng”…
ST.