Thứ Năm, 12 tháng 11, 2020

Giá trị bất diệt và vĩ đại cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga

 

Cách mạng Tháng Mười như một cơn địa chấn của thế kỷ 20, không chỉ mở ra một kỷ nguyên mới đối với nước Nga mà còn cổ vũ mạnh mẽ phong trào cách mạng của giai cấp công nhân các nước, chỉ ra cho họ con đường đi tới thắng lợi trong cuộc đấu tranh chống lại chế độ cũ, xây dựng chế độ mới tốt đẹp hơn.

Thực tế, sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười và tiếp đó là thắng lợi của nhân dân Liên Xô trong Chiến tranh thế giới thứ hai, chủ nghĩa xã hội từ một nước đã phát triển thành một hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới đầy sức sống và hùng mạnh, đã có vai trò to lớn và từng có tính chất quyết định đến vận mệnh và sự phát triển của thế giới. Hệ thống xã hội chủ nghĩa, đứng đầu là Liên Xô đã có những giai đoạn phát triển rực rỡ, đã đoàn kết các dân tộc, mọi tầng lớp nhân dân chung tay xây dựng một xã hội tốt đẹp, bình đẳng, công bằng, mang lại hạnh phúc cho đông đảo nhân dân lao động. Nhờ ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười và sự giúp đỡ, tác động của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới, từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến những năm 70 của thế kỷ 20, hàng loạt các dân tộc thuộc địa và lệ thuộc đã đứng lên giải phóng khỏi sự áp bức, bóc lột của chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa thực dân.

Cho nên có thể nói, Cách mạng Tháng Mười Nga mang tầm ảnh hưởng quốc tế to lớn, tính thời đại sâu sắc, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử phát triển của xã hội loài người. Đúng như lãnh tụ vĩ đại Lênin từng khẳng định trong tác phẩm “Bệnh ấu trĩ tả khuynh trong phong trào cộng sản”, năm 1920: “Ngày nay, chúng ta đã có trước mắt một kinh nghiệm quốc tế phong phú chứng thực hiển nhiên rằng một số đặc điểm cơ bản của cuộc cách mạng của ta không phải có ý nghĩa địa phương, ý nghĩa đặc biệt dân tộc, ý nghĩa riêng biệt cho nước Nga mà có ý nghĩa quốc tế”.

Đánh giá về giá trị và ý nghĩa của Cách mạng Tháng Mười Nga, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng Tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế”.

Dưới anh sáng của Cách mạng Tháng Mười Nga, cách mạng Việt Nam do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo đã giành thắng lợi vẻ vang trong sự nghiệp giải phóng, giành độc lập, tự do cho dân tộc, vững bước đi lên trong thời kỳ quá độ và đạt được những thành tựu có ý nghĩa lịch sử trong sự nghiệp đổi mới phát triển đất nước, phấn đấu vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, van minh”.

“Yêu thương con người” theo tư tưởng Hồ Chí Minh

 

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, yêu thương con người xuất phát từ truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ nghĩa nhân văn của nhân loại và chủ nghĩa nhân đạo cộng sản. Yêu thương con người thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân trong quan hệ xã hội, là phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Yêu thương con người là phải quan tâm đến những người lao động bình thường, chiếm số đông trong xã hội. Yêu thương con người là phải làm mọi việc vì con người, vì mục tiêu “ai cũng có cơm no, áo ấm để mặc, ai cũng được học hành”; dám hy sinh, dám dấn thân để đấu tranh giải phóng con người. Yêu thương con người là phải tin vào con người. Với mình thì chặt chẽ, nghiêm khắc, với người thì độ lượng, rộng rãi, nâng con người lên, kể cả với người lầm đường, lạc lối, mắc sai lầm, khuyết điểm. Yêu thương con người là giúp cho mỗi người ngày càng tiến bộ, sống cao đẹp hơn. Yêu thương con người là phải tự phê bình, phê bình chân thành, giúp nhau sửa chữa khuyết điểm. Song song đó, quan điểm đạo đức Hồ Chí Minh, với mọi người phải “Yêu thương con người, sống có nghĩa có tình”./.


 

Phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tại Lễ khai mạc Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 37 và các Hội nghị Cấp cao Liên quan

 

Dưới đây là toàn văn Phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tại Lễ khai mạc Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 37 và các Hội nghị Cấp cao Liên quan.

Thưa Quốc vương và Quý vị Lãnh đạo ASEAN,

Thưa Bà Nguyễn Thị Kim Ngân, Chủ tịch AIPA 41 và các vị khách quý,

Tôi nồng nhiệt chào mừng Quý vị Lãnh đạo các nước ASEAN và các nước Đối tác của ASEAN tham dự Lễ khai mạc Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 37 và các Hội nghị Cấp cao liên quan giữa ASEAN với các Đối tác. Do dịch Covid-19, chúng ta không có dịp gặp trực tiếp trong năm qua, nhưng trên các nền tảng kỹ thuật số hiện đại, chúng ta vẫn duy trì trao đổi và hợp tác, rút ngắn khoảng cách địa lý và không gian vật chất giữa các quốc gia.

Tôi trân trọng cảm ơn Ngài Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí Thư, Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam đã đến dự và có bài phát biểu quan trọng tại Lễ khai mạc hôm nay.

Thưa Quý vị,

Chúng ta đang trải qua những thời khắc vô cùng khó khăn khi cuộc sống và sinh mạng người dân bị đe dọa bởi COVID-19, đời sống kinh tế - xã hội bị đảo lộn, chất chồng thêm bởi thiên tai, bão lũ, hạn hán gay gắt,... Những tiến bộ xã hội và thành quả kinh tế tích lũy được hàng thập kỷ có nguy cơ bị cuốn trôi và các quốc gia cần nhiều năm nữa để khắc phục và vượt qua những tổn thất này.

Trăn trở với nỗi đau của người dân, đau đáu với nhu cầu khôi phục để vượt qua giai đoạn cam go này, Chính phủ các nước ASEAN chúng ta đã đoàn kết cùng hành động ngay từ những ngày đầu. Từ giữa tháng 2/2020, Chủ tịch ASEAN đã ra Tuyên bố về Ứng phó chung của ASEAN trước bùng phát dịch bệnh COVID-19. Giữa tháng 4/2020, khi dịch Covid-19 mới bùng phát, trên tinh thần Gắn kết và Chủ động thích ứng, đã diễn ra phiên họp Cấp cao đặc biệt ASEAN và ASEAN+3 về ứng phó với dịch COVID-19, Lãnh đạo các nước ASEAN và các đối tác đã có những cam kết mạnh mẽ, tiếp đó tới Cấp cao ASEAN-36, họp tháng 6/2020, các quốc gia thành viên ASEAN đã triển khai hành động mạnh mẽ ở cả cấp quốc gia và khu vực. 

Quỹ ứng phó COVID-19 của ASEAN công bố tại Hội nghị Cấp cao ASEAN 36 nhận được cam kết ủng hộ tới 10 triệu USD, sẵn sàng hỗ trợ nhu cầu chống dịch của các quốc gia. Tại Cấp cao ASEAN 37 lần này, chúng ta sẽ lập Kho dự phòng vật tư y tế khẩn cấp của ASEAN và thông qua Khung chiến lược ứng phó các tình huống y tế khẩn cấp của ASEAN. Với hỗ trợ của Nhật Bản, ASEAN thống nhất sẽ thành lập Trung tâm khu vực ứng phó các tình huống y tế khẩn cấp và dịch bệnh. Đây là những kết quả hợp tác thiết thực, có ý nghĩa nâng cao năng lực chung ứng phó các tình huống y tế khẩn cấp và nguy cơ dịch bệnh trong tương lai.

Khó khăn không chùn bước, thách thức chẳng sờn lòng, dịch bệnh COVID-19 đã không thể cản trở tiến trình xây dựng Cộng đồng ASEAN. Chúng ta  vui mừng thấy hợp tác trên 3 trụ cột vẫn được triển khai tích cực, đúng tiến độ qua kết quả đánh giá giữa kỳ các Kế hoạch tổng thể thực hiện Tầm nhìn Cộng đồng ASEAN 2025. Nhân đây, tôi cũng xin nhấn mạnh nhu cầu cần thiết nâng cao năng lực thể chế và khả năng vận hành hiệu quả của bộ máy ASEAN để thích ứng với các yêu cầu, đòi hỏi của tình hình mới. Rà soát triển khai Hiến chương ASEAN là rất cần thiết và tại Hội nghị Cấp cao ASEAN 37, các Nhà Lãnh đạo sẽ cho ý kiến chỉ đạo về nhiệm vụ quan trọng này.

Thực hiện nhiệm vụ kép vừa chống dịch, vừa thúc đẩy phục hồi, chúng ta sẽ chính thức thông qua tại Hội nghị lần này Khung phục hồi tổng thể ASEAN và Kế hoạch triển khai cụ thể cho cả 3 trụ cột. Các kế hoạch duy trì ổn định chuỗi sản xuất và cung ứng, đẩy mạnh kết nối và khôi phục giao thương trong khu vực đang được khẩn trương thúc đẩy. Hình thành khuôn khổ đi lại an toàn cho doanh nhân, nhà đầu tư trong bối cảnh Covid-19. Trước mắt, chúng ta có thể xem xét mở lại Lối đi chung cho công dân ASEAN tại các cửa khẩu.

Thưa Quý vị,

Ba phần tư thế kỷ đã trôi qua kể từ khi chiến tranh Thế giới thứ Hai kết thúc, nhưng hòa bình và an ninh thế giới chưa thực sự bền vững. Năm qua, hòa bình, ổn định càng trở nên mong manh bởi các nguy cơ chất chồng đến từ hành xử khó đoán định của các quốc gia, cạnh tranh, cọ xát giữa các nước lớn, hệ thống đa phương quốc tế chịu nhiều thách thức, các vấn đề an ninh phi truyền thống, các xu thế cực đoan ngày càng trở nên gay gắt. 

Nhận thức được lợi thế và nguy cơ đặt ra với khu vực, ASEAN trên tinh thần tự cường, đã tỉnh táo và kiên định tiếp cận cân bằng và hài hòa, giữ vững vai trò trung tâm, không bị chao đảo, cuốn vào các dòng xoáy biến động thế giới và khu vực. Tôi hoan nghênh Tuyên bố của các Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN nhân kỷ niệm 53 năm thành lập Hiệp hội, đã khẳng định quyết tâm duy trì khu vực Đông Nam Á hòa bình, an ninh, ổn định và trung lập. ASEAN cũng đã thể hiện nhất quán lập trường nguyên tắc và cam kết mạnh mẽ xây dựng Biển Đông, nơi có tuyến hàng hải huyết mạch của khu vực và toàn cầu, trở thành vùng biển hòa bình và ổn định, an ninh và an toàn cho tự do lưu chuyển hàng hóa, nơi mà khác biệt, tranh chấp được giải quyết bằng các biện pháp hòa bình, nơi pháp luật được tôn trọng, tuân thủ và các giá trị chung được khẳng định. Đề cao ý nghĩa của UNCLOS 1982, là khuôn khổ cho mọi hoạt động trên biển, chúng ta trông đợi sớm hoàn thành Bộ Qui tắc Ứng xử trên Biển Đông COC hiệu lực, hiệu quả, phù hợp với luật pháp quốc tế, UNCLOS 1982.

Trong 75 năm qua, với vai trò thúc đẩy của Liên Hợp Quốc thông qua các Tuyên bố và Nghị quyết quan trọng, thế giới và khu vực chúng ta đạt những tiến bộ đáng khích lệ trong thúc đẩy bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ. Nhân dịp này, chúng ta sẽ lần đầu tiên tổ chức Hội nghị Thượng đỉnh Lãnh đạo nữ ASEAN để đại diện lãnh đạo nữ từ các nước trực tiếp lên tiếng về vai trò của phụ nữ thúc đẩy phát triển bền vững trong thế giới hậu COVID-19.     

Khép lại năm 2020, Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 37 và các Cấp cao giữa ASEAN với các Đối tác sẽ có ý nghĩa quan trọng trong hoàn tất triển khai các ưu tiên đề ra của năm 2020 và định hướng hợp tác trong giai đoạn tới

Trước hết, ASEAN cần tập trung nguồn lực và nỗ lực ở mức cao nhất để từng bước đẩy lùi nguy cơ dịch bệnh COVID-19, sớm có vắc-xin phòng bệnh cũng như phương thức điều trị hữu hiệu, nâng cao năng lực y tế dự phòng để đáp ứng tốt nhất với các tình huống y tế khẩn cấp, bảo vệ sức khỏe và tính mạng người dân. Song song với đó, chúng ta cần đẩy mạnh các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp khôi phục sản xuất, kinh doanh, việc làm và sinh kế cho người dân. Các Hội đồng Cộng đồng ASEAN khẩn trương bắt tay thực hiện Khung phục hồi tổng thể của ASEAN và Kế hoạch triển khai ngay sau Hội nghị này. 

Góp phần tái định hình thế giới sau COVID-19, ASEAN cần xác lập vị trí của mình trong sự dịch chuyển sức mạnh kinh tế-chính trị giữa các quốc gia cũng như những điều chỉnh của chuỗi sản xuất-cung ứng toàn cầu. Lợi thế cạnh tranh sẵn có của ASEAN cần được bổ sung thêm các giá trị của khoa học công nghệ tiên tiến, năng lực chuyển đổi số, nguồn nhân lực chất lượng cao cũng như khả năng đa dạng hóa các thị trường đầu vào và đầu ra.

Thứ Hai, Phát triển đồng đều, bền vững, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong xây dựng Cộng đồng ASEAN, nhất là khi dịch bệnh, thiên tai đang đe dọa làm suy giảm tăng trưởng của cả khu vực. ASEAN khẳng định cam kết và tình đoàn kết trong thu hẹp khoảng cách phát triển, gắn kết và hài hòa các nỗ lực phát triển tiểu vùng, như Mê Công, khu vực phát triển Đông ASEAN, với tiến trình phát triển chung của ASEAN. 

Thứ Ba, hòa bình, ổn định là điều kiện tiên quyết để phục hồi và phát triển. Ổn định chỉ có được khi quan hệ quốc tế được duy trì dựa trên luật lệ, các quốc gia cùng tôn trọng, hiểu biết, đối thoại, hợp tác và tin cậy lẫn nhau. ASEAN sẽ tiếp tục phát huy vai trò trung tâm trong dẫn dắt các tiến trình đối thoại và hợp tác sâu rộng ở khu vực; gắn kết sự tham gia, đóng góp của các Đối tác vào các vấn đề thuộc quan tâm và lợi ích chung, ứng phó hữu hiệu với các thách thức. 

Trên tinh thần đó, chúng ta sẽ thông qua các Tuyên bố quan trọng với các Đối tác dịp này, trong đó có (i) Tuyên bố kỷ niệm 15 năm tiến trình EAS, (ii) Tuyên bố về tăng cường hợp tác ASEAN+3 trong nâng cao năng lực tự cường kinh tế tài chính trước các thách thức đang nổi lên. Chúng ta cũng sẽ chính thức (iii) kết thúc đàm phán và ký kết Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực (RCEP), khẳng định quyết tâm mạnh mẽ về tự do hóa thương mại và liên kết của ASEAN và các Đối tác.     

Chúng ta cũng sẽ tiếp tục nỗ lực kiến tạo cấu trúc hợp tác đa phương khu vực dựa trên luật lệ, hình thành và chia sẻ các chuẩn mực ứng xử được thừa nhận rộng rãi. Cuba, Cô-lôm-bia và Nam Phi đã tham gia Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á (TAC) tại Hội nghị lần này. 

Cuối cùng, bản sắc và tình đoàn kết, gắn bó của Cộng đồng ASEAN càng cần được đề cao trong giai đoạn khó khăn, thử thách này. Tôi hoan nghênh thông qua Bản tường trình về bản sắc ASEAN cũng như các khuyến nghị của Hội đồng Điều phối ASEAN về khuyến khích treo cờ ASEAN tại các quốc gia thành viên và sử dụng ASEAN ca trong các hoạt động chính thức của ASEAN. Để vinh danh các cá nhân, tổ chức đóng góp thiết thực cho sự phát triển của ASEAN, Hội đồng chấm Giải thưởng ASEAN đã quyết định trao giải thưởng năm 2020 cho Trung tâm nghiên cứu ASEAN trực thuộc Viện nghiên cứu Đông Nam Á của Trường Ai-sít U-sốp I-sác vì những công trình nghiên cứu góp phần thúc đẩy hợp tác khu vực và tăng cường nhận thức về Cộng đồng ASEAN. 

Thưa Quý vị,

Chúng ta sẽ có một lịch trình hoạt động dày đặc trong các ngày tới đây. Tôi tin tưởng vào tầm nhìn xa trông rộng và tư duy sáng suốt của các Nhà Lãnh đạo ASEAN, sự tham gia, đóng góp tích cực của các Đối tác, các tổ chức quốc tế hàng đầu như Liên Hợp Quốc, Ngân hàng Thế giới, Tổ chức y tế thế giới v.v. cho thành công của chuỗi Hội nghị chúng ta. 

Đoàn kết và tự cường, ASEAN sẽ vững vàng vượt lên các thách thức, hướng tới cuộc sống ấm no, thịnh vượng cho hơn 600 triệu người dân, đóng góp hiệu quả cho hòa bình, ổn định và phát triển ở khu vực và trên thế giới. 

Trên tinh thần đó, tôi xin tuyên bố khai mạc Hội nghị Cấp cao ASEAN 37 và các Hội nghị Cấp cao liên quan. 

Xin trân trọng cám ơn Quý vị./.


Cảnh giác với âm mưu của những kẻ lật sử chống phá thành quả Cách mạng Tháng Mười Nga

 Cách đây 103 năm, Cách mạng Tháng Mười Nga nổ ra làm “rung chuyển thế giới”. Kể từ đó, loài người trải qua biết bao biến cố, thăng trầm nhưng giá trị bất diệt, vĩ đại của cuộc Cách mạng Tháng Mười vẫn ngày càng được khẳng định. Vậy nhưng, mỗi khi đến ngày kỷ niệm cuộc cách mạng ấy, các thế lực thù địch, phản động, những phần tử cơ hội, bất mãn lại dùng mọi chiêu trò, thủ đoạn hòng bôi nhọ, xuyên tạc, bóp méo lịch sử. Chúng không coi Cách mạng Tháng Mười là cuộc cách mạng thực sự mà là “cuộc cách mạng mạo danh”, “là sự chệch hướng lịch sử”... Trần Quốc Quân, một kẻ trở cờ, viết bài đăng trên BBC, coi “Cách mạng Tháng Mười thực chất là một cuộc bẻ ghi đường tàu, khiến một phần nhân loại rẽ sang đường vòng”. Từ việc coi Cách mạng Tháng Mười là “sai lầm lịch sử” chúng phủ nhận những giá trị nhân văn, tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội, đánh đồng sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô, Đông Âu với sự thất bại của Chủ nghĩa Mác - Lênin và rêu rao cuộc cách mạng đó là “đẻ non”, “đã chết” và chủ nghĩa xã hội đã đến “hồi kết thúc”...

Bản chất sự xuyên tạc của những kẻ lật sử ấy không chỉ nhắm vào xuyên tạc một sự kiện lịch sử cụ thể, mà sâu xa hơn là qua đó phủ nhận học thuyết Mác - Lênin, phủ nhận chế độ xã hội chủ nghĩa, hướng lái các quốc gia, dân tộc đi theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản. Thực tiễn cách mạng thế giới đã cho chúng ta thấy hậu quả nghiêm trọng của âm mưu và sự chống phá đó.

Nhìn lại những biến cố lịch sử ở Liên bang Xô viết cuối thập niên 1980 với vai trò của A.Yakovlev, thì chính tuyên bố Cách mạng Tháng Mười là “sai lầm lịch sử” và những hành động phá hoại của kẻ lật sử A.Yakovlev là một trong những vũ khí tư tưởng trong chiến lược làm tan rã Liên Xô theo âm mưu, kịch bản của phương Tây. Vì vậy, bài học cảnh giác với âm mưu của những kẻ xuyên tạc, phủ nhận thành quả cách mạng đễn nay vẫn còn nguyên giá trị.

 

Tổng bí thư, Chủ tịch nước phát biểu khai mạc Hội nghị cấp cao ASEAN 37


TTO - Ngày 12-11, Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã phát biểu tại phiên khai mạc Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 37, tái khẳng định lập trường của Việt Nam về chính sách đối ngoại cũng như tính trung tâm và trung lập của ASEAN.

Tổng bí thư, Chủ tịch nước phát biểu khai mạc Hội nghị cấp cao ASEAN 37 - Ảnh 1.

Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng phát biểu tại phiên khai mạc ASEAN 37 sáng 12-11 - Ảnh: NHẬT ĐĂNG

"Việt Nam luôn chủ trương giữ vững độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại, là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, phần đấu vì hòa bình, hợp tác, phát triển.

Tinh thần đó đã đưa Việt Nam trưởng thành và lớn mạnh trong suốt 75 năm qua, và sẽ tiếp tục là kim chỉ nam trong chính sách đối ngoại của chúng tôi, đặc biệt trong bối cảnh thế giới đang biến chuyển phức tạp và khó lường như hiện nay", Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nói.

Hôm nay, 12-11, Hội nghị cấp cao ASEAN 37 và các hội nghị liên quan chính thức diễn ra. Năm nay sự kiện được tổ chức trực tuyến từ 12 tới 15-11 nhằm hạn chế ảnh hưởng của dịch bệnh do virus corona chủng mới (COVID-19).

Trong phát biểu khai mạc, Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng khẳng định quá trình gắn bó với ASEAN 25 năm qua là tiền đề để Việt Nam triển khai hiệu quả chính sách đối ngoại, hội nhập quốc tế của mình.

ASEAN đã trở thành ngôi nhà chung, Cộng đồng ASEAN là cơ sở quan trọng trong việc duy trì bản sắc của Đông Nam Á.

Hội nghị năm nay diễn ra trong bối cảnh Đông Nam Á cũng như các khu vực khác trên thế giới chịu nhiều ảnh hưởng, từ thiên tai, dịch bệnh COVID-19, cho tới cạnh tranh địa chính trị giữa các nước lớn.

Tổng bí thư, Chủ tịch nước phát biểu khai mạc Hội nghị cấp cao ASEAN 37 - Ảnh 2.

Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Mai Tiến Dũng (trái) và Phó thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh tại Hội nghị ASEAN 37 ngày 12-11 - Ảnh: NHẬT ĐĂNG

Trên vai trò chủ tịch luân phiên ASEAN và ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, trách nhiệm của Việt Nam rất nặng nề.

Tuy nhiên theo Tổng bí thư, Chủ tịch nước, điểm lạc quan là Việt Nam được hỗ trợ bởi tinh thần đoàn kết, hỗ trợ quý báu của các quốc gia thành viên, các đối tác, và bạn bè của ASEAN.

Ông khẳng định những sự hỗ trợ đó đã giúp "Cộng đồng ASEAN vững vàng vượt qua thách thức, giữ vững đà liên kết xây dựng cộng đồng và củng cố vai trò trung tâm của ASEAN, xây dựng khu vực Đông Nam Á hòa bình, hữu nghị, hợp tác, trung lập, và ổn định".

Theo Tuoitre.vn

“LỎM” - KẺ PHẢN ĐỘNG CHÍNH HIỆU

 


Trong bài viết với tiêu đề: “Phản động” rút cuộc là gì? Trên trang Boxitvn.net ngày 22/9/2020, kẻ có bút danh là “Lỏm” sau khi mượn học thuật, đưa ra những kết luận lệch lạc, sai trái, phản khoa học, “y đã hiện nguyên hình là một kẻ phản động chính hiệu, dùng chính những tri thức lệch lạc, sai trái, phản khoa học ấy của mình để đả phá cách mạng, bôi nhọ chế độ, phủ nhận thành tựu cách mạng của Đảng, nhân dân ta.

Hắn cho rằng “phản động tự thân nó không có nghĩa xấu”; “nhưng… phản động càng giỏi lại càng dễ bị ăn đòn”; rồi lại cho rằng “những người phản động không đơn giản là những người muốn đứng yên hay muốn quay ngược bánh xe lịch sử… họ hoàn toàn có thể là những người muốn tiến lên phía trước, vươn tới đỉnh cao mới, chỉ là không theo kiểu cách mạng đang diễn ra”.

Thật nực cười với lập luận vờ ngô nghê của “Lỏm”, đã là “phản động’ thì làm sao mà là hành động tốt mà y lại khẳng định “tự thân nó không có nghĩa xấu”?! Bởi nghĩa của “Phản động” là chỉ ý kiến hoặc hành động phản đối, chống đối các phong trào chính trị hoặc phong trào xã hội đúng đắn, tiến bộ - phản đối, chống cách mạng. Mà “cách mạng” là thay cũ đổi mới”, cái “mới” ở đây là cái đúng đắn, tiến bộ, hợp quy luật; nếu không mạng những đặc tính như thế thì dù cái nào đó thay cái cũng cũng không được coi là cái mới và như cái hành động để đưa tới sự ra đời của cái như thế cũng sẽ không thuộc phạm trù “cách mạng”, thậm trí nó đối lập với cách mạng - “phản động”.

Động cơ mục đích của “Lỏm” khi luận bàn về “Phản động” rút cuộc là gì? Chung quy là “…không theo kiểu cách mạng đang diễn ra”. Không hiểu “Lỏm” không đủ dung khí hay không đủ khả năng và trình độ để nói lên con đường mà “Lỏm” và những kẻ phản động như “Lỏm” “muốn tiến lên phía trước, vươn tới đỉnh cao mới”, nhưng “không theo kiểu cách mạng đang diễn ra” ấy rút cuộc là con đường nào? Chẳng phải lịch sử Việt Nam đã quá rõ ràng, sau biết bao tìm tòi thử nghiệm với mục đích “tiến lên phía trước, vươn tới đỉnh cao mới” dưới các ngọn cờ tư tưởng, “kiểu cách mạng” khác nhau đã chứng tỏ rằng “...đối với nước ta không còn con đường nào khác để có độc lập dân tộc thực sự và tự do hạnh phúc cho nhân dân ngoài con đường xã hội chủ nghĩa”. Lịch sử xã hội đang trải qua những bước quanh co, nhưng loài người tất yếu tiến lên chủ nghĩa xã hội, đó là quy luật tất yếu của lịch sử.

“Theo kiểu cách mạng đang diễn ra”, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo toàn thể dân tộc Việt Nam làm nên thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 "long trời, lở đất," thành lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Với tinh thần "thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ," "không có gì quý hơn độc lập, tự do"; trên cơ sở đường lối đúng đắn, sáng tạo của Đảng, với sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, quân và dân ta đã lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thu giang sơn về một mối vào ngày 30/4/1975. Sau hơn 35 năm tiến hành công cuộc Đổi Mới, từ một đất nước nghèo nàn, có cơ sở vật chất-kỹ thuật, kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội lạc hậu, trình độ thấp, đến nay, Việt Nam đã vươn lên trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình; văn hoá, xã hội tiếp tục phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện; công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị có bước đột phá; khối đại đoàn kết toàn dân tộc không ngừng được củng cố; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng-an ninh, độc lập, chủ quyền được giữ vững; vị thế và uy tín của đất nước ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. Đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay.

Còn có con đường nào khác “kiểu cách mạng đang diễn ra” mà có thể “tiến lên phía trước, vươn tới đỉnh cao mới” thực sự thì có lẽ lịch sử dân tộc cũng không đợi chờ đến lúc này để “Lỏm” có cơ hội suy ngẫm, tìm tòi. Đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là một tất yếu khách quan, sợi chỉ đỏ xuyên suốt cách mạng Việt Nam nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Bất cứ kẻ nào, thế lực nào đả phá cách mạng, bôi nhọ chế độ, phủ nhận thành tựu cách mạng của Đảng, nhân dân ta đều là phản động đáng vạch mặt, lên án./.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về “Trung với nước, hiếu với dân”

 

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, “Trung với nước, hiếu với dân” phải gắn bó với dân, gần dân, dựa vào dân, lấy dân làm gốc; phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, quan tâm cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, làm cho dân hiểu rõ trách nhiệm và quyền lợi của người làm chủ đất nước.



Về những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người Việt Nam, quan điểm đạo đức Hồ Chí Minh đã bao quát những mối quan hệ cơ bản của con người trong xã hội. Đó là với đất nước, với dân tộc phải “Trung với nước, hiếu với dân”. Trung, hiếu là phẩm chất đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam và phương Đông được Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển trong điều kiện mới. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, trung với nước, hiếu với dân là điều chủ chốt của đạo đức cách mạng. Trung với nước là trung thành vô hạn với sự nghiệp dựng nước và giữ nước, đấu tranh giành độc lập và làm cho đất nước “sánh vai với các cường quốc năm châu”. Nước là của dân, dân là chủ nước, cho nên trung với nước là trung với dân, trung thành với lợi ích của nhân dân, “bao nhiêu quyền hạn đều của dân”, “bao nhiêu lợi ích đều vì dân”… Hiếu với dân là Đảng, Chính phủ, cán bộ nhà nước phải là “đầy tớ trung thành của dân”, “phải tận trung với nước, tận hiếu với dân”./.

 


Sai lầm, khuyết điểm của các nước đi theo con đường xã hội chủ đã và đang mắc phải, không chứng tỏ lý luận về chủ nghĩa xã hội là sai lầm

 

Một số thế lực thù địch, phản động hiện nay cho rằng, “một loạt sai lầm, khuyết điểm mà các nước đi theo con đường XHCN, trong đó có nước ta đã và đang mắc phải, chứng tỏ lý luận về CNXH là sai lầm và lỗi thời”. Chúng ta thấy rằng, rocx ràng chúng đang cố tình đổ cho học thuyết Mác - Lênin có lỗi trong những khó khăn, hạn chế, sai lầm của quá trình xây dựng, phát triển đất nước theo con đường XHCN.

Sự bảo thủ, trì trệ trong nhận thức, những sai lầm, hạn chế và khó khăn trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước theo con đường XHCN không phải bắt nguồn từ chủ nghĩa Mác – Lênin. Chúng ta không hề giấu giếm những sai lầm, hạn chế và khó khăn trong quá trình xây dựng CNXH ở Việt Nam. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng trình bày tại Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Tăng trưởng kinh tế thấp hơn 5 năm trước, không đạt mục tiêu đề ra; năng suất, chất lượng, hiệu quả, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp... Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí chưa bị đẩy lùi... Dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ; kỷ cương, kỷ luật chưa nghiêm...”. Đảng cũng nghiêm khắc thừa nhận rõ rằng, tình trạng trên có những nguyên nhân khách quan nhưng “trực tiếp và quyết định nhất là nguyên nhân chủ quan”. Đó là những hạn chế trong đánh giá, dự báo tình hình, trong nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, trong công tác lãnh đạo, quản lý của các cấp ủy, chính quyền, v.v..

Việc có những sai lầm, khuyết điểm, khó khăn, hạn chế trong quá trình xây dựng đất nước là khó tránh khỏi. Xây dựng CNXH là công việc vô cùng khó khăn, phức tạp, có tính khoa học, đòi hỏi thời gian, nguồn lực to lớn và nhiều điều kiện khác. Chúng ta bắt tay vào xây dựng CNXH từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bị tàn phá nặng nề sau cuộc chiến tranh khốc liệt kéo dài suốt 30 năm. Cái khó khăn lớn nhất của chúng ta có lẽ trước hết không phải từ sự thiếu thốn về của cải, vật chất mà đa phần chính ở lối nghĩ, tác phong mang nặng tính chất của nền văn hóa nông nghiệp. Không có kinh nghiệm tiền lệ, không có sự hỗ trợ của phe XHCN như trước đây. Nhiều thế lực đang dòm ngó, chống phá. Trong điều kiện ấy, những thành tựu mà công cuộc đổi mớiđạt được là đặc biệt quan trọng. Chúng ta đã duy trì tốc độ tăng trưởng GDP cao trên 6,5% năm trong suốt 30 năm thực hiện chính sách đổi mới. Từ GDP bình quân đầu người chỉ 80USD đã tăng lên mức trên 2.100USD. Đời sống nhân dân đã được cải thiện một bước cơ bản. Những điều đó là không thể phủ nhận và mặc nhiên đã được nhiều tổ chức, cá nhân trên thế giới, trong đó có nhiều học giả phương Tây thừa nhận.

Để có được những thành tựu to lớn đó, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã có những bước đi dũng cảm về nhận thức, sự đổi mới mạnh mẽ về chính sách kinh tế - xã hội. Từ một nền kinh tế bao cấp hoàn toàn dựa trên sở hữu công cộng, chúng ta đã chuyển sang xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần sở hữu, rồi chuyển hẳn sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Từ một Nhà nước xây dựng theo mô hình nền chuyên chính vô sản, chúng ta đã chuyển sang xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Từ chỗ bị bao vây cấm vận, chỉ có quan hệ với các nước khối XHCN là chủ yếu, chúng ta đã mở cửa hội nhập quốc tế, thiết lập quan hệ ngoại giao với 185 quốc gia và vùng lãnh thổ trên tổng số 193 thành viên Liên Hợp quốc, trong đó có 2 đối tác toàn diện đặc biệt, 15 đối tác chiến lược, 11 đối tác toàn diện, hai đối tác chiến lược theo từng lĩnh vực.

Từ thực tế ấy, không thể có lý gì để nói rằng Đảng và Nhà nước Việt Nam bảo thủ, cố chấp hay định kiến mà không đổi mới nhận thức, đổi mới chính sách về CNXH và xây dựng CNXH, cũng như không thể đổ cho học thuyết Mác - Lênin có lỗi trong những khó khăn, hạn chế, sai lầm của quá trình xây dựng, phát triển đất nước.

Chủ nghĩa tư bản có thực sự ưu việt?

 


Hiện nay, một số nhà nghiên cứu phương Tây và một bộ phận cán bộ, đảng viên trong nước cho rằng: “điều kiện kinh tế và xã hội ở các nước tư bản phát triển được cải thiện rất nhiều so với ở các nước đi theo con đường XHCN, chứng tỏ CNTB là ưu việt”. Chúng cố minh chứng sự hơn hẳn về điều kiện vật chất, trình độ phát triển về kinh tế, khoa học - công nghệ và một số lĩnh vực khác của các nước tư bản phát triển so với các nước đi theo con đường XHCN hiện nay. Thật nực cười, tính ưu việt của một chế độ xã hội so với chế độ xã hội khác tại sao lại chỉ có thể duy nhất dựa vào điều kiện vật chất, trình độ phát triển về kinh tế, khoa học - công nghệ. Đó chỉ là cách nhìn thực tại, phiến diện, không thấy đằng sau và phía trước của sự phát triển ấy là gì.

Đúng là không ai có thể phủ nhận một thực tế là các nước TBCN phát triển đã có được những thành tựu phát triển về kinh tế, khoa học - công nghệ kéo theo những cải thiện nhất định về điều kiện sống của người dân. Nhưng trước hết, cần phải nhìn cho rõ những thành tựu đó do đâu mà có. CNTB đã có nhiều trăm năm phát triển. Trên con đường phát triển của CNTB, bánh xe vận hành của nó đã lăn đi trong ngập ngụa máu và nước mắt của nhân loại cần lao, thống khổ trên khắp các lục địa. “Những nước tư bản hiện đại là kết quả của một lịch sử nô dịch, diệt chủng, bạo lực và bóc lột một cách ghê tởm”, đó là lời tự thú có tính chất phản tỉnh của Terry Eagleton - một học giả người Anh. Chỉ cần giở lại các trang lịch sử của nước Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Hà Lan, Tây Ban Nha... sẽ thấy ngay những gì mà chế độ tư bản đã hành xử với đồng loại của mình. Những kẻ thực dân từ cựu lục địa châu Âu đã phá vỡ cuộc sống bình yên hàng nghìn năm của các bộ tộc người da đỏ, chiếm đoạt đất đai của họ bằng gươm, súng và cả sự tra tấn dã man, rùng rợn ngoài trí tưởng tượng, bằng cách lột da đầu. Trong cuốn sách Sự tàn sát khủng khiếp cuối thời Victoria(Late Victorian Holocausts), học giả người Anh đã viết rằng, hàng chục triệu người Ấn Độ, châu Phi, Trung Quốc, Braxin, Triều Tiên, Nga và nhiều nước khác đã chết do đói, hạn hán và dịch bệnh vào cuối thế kỷ XIX dưới chế độ thực dân xâm lược. Và ngay ở chính các nước tư bản giàu có hiện nay, có ai dám chắc mọi người dân đều có cuộc sống tốt đẹp. Hàng chục triệu người dân Mỹ không có bảo hiểm y tế chỉ có cách chờ tử thần khi mắc bệnh. Ở bang Caliphoócnia, quá nửa nam giới người da đen có ít nhất một lần trong đời phải đi tù...

Làm sao, là người Việt Nam mà ai đó có thể quên được nỗi thống khổ của nhân dân ta trong đêm trường nô lệ hơn 80 năm dưới ách đô hộ của CNTB thực dân Pháp? Bao nhiêu người dân Việt Nam đã chết trong các xưởng máy, hầm lò, trên các cung đường, các bến tàu. Những cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Trung Trực, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Yên Bái, Xô viết Nghệ - Tĩnh... bị dìm trong bể máu. Hơn hai triệu người chết đói năm 1945. Thực dân Pháp bóc lột người dân thuộc địa Việt Nam đến tận xương tủy, vơ vét hết vàng, than, sắt, đồng... mang về làm giàu cho chính quốc. Gần 20 năm, đế quốc Mỹ thay chân đế quốc Pháp thiết lập ách thống trị, dày xéo đất nước ta. Những nhà tù địa ngục trần gian ở Côn Đảo, Phú Quốc..., những vụ tàn sát ở Thái Bình (Bình Định) năm 1966, Bình Hòa (Quảng Ngãi) năm 1966, Mỹ Lai (Quảng Ngãi) năm 1968..., vụ B52 ném bom rải thảm khu phố Khâm Thiên, bệnh viện Bạch Mai (Hà Nội), phải chăng đó không phải là tội ác thấu trời của chế độ tư bản Mỹ? Ngỡ tưởng, không phải nhìn đâu xa, chính những trang lịch sử khắc nghiệt và đau thương ấy đã đủ để cho các thế hệ chúng ta và con cháu chúng ta hiểu được bản chất của chủ nghĩa tư bản! Vậy mà lạ lùng thay, vẫn có người bước ra khỏi biên giới đã hết lời khen hay, khen đẹp cho các nước tư bản, cho các thành phố hào hoa Tây Âu. Họ có biết đâu hoặc cố tình không biết rằng, những thành phố đó đã trải qua mấy trăm năm xây dựng bằng sức lao động và của cải của bao thế hệ người lao động và cả của cải bóc lột từ các thuộc địa mang về.

Việc xây dựng chế độ XHCN là công việc rất khó, mang tính khoa học, có tính quy luật, đòi hỏi thời gian, nguồn lực, sự lãnh đạo chính trị đúng đắn và các điều kiện không thể thiếu khác. Theo như C.Mác, CNXH chỉ có thể thành công ở một loạt nước tư bản phát triển ở trình độ cao. Nó như là tất yếu thay đổi quan hệ sản xuất xã hội khi lực lượng sản xuất dưới chế độ TBCN đã phát triển, xã hội hóa cao độ, không thể tiếp tục tồn tại trong khuôn khổ quan hệ sản xuất TBCN. Đối với Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu, tất cả đều có điểm xuất phát là các nước tư bản có trình độ phát triển thấp hoặc trung bình. Thời gian xây dựng chế độ XHCN hầu như còn rất ngắn. Liên bang Xô Viết (Liên Xô) được thành lập và bắt tay xây dựng CNXH năm 1921, khi vừa ra khỏi cuộc nội chiến. Mới chỉ có chưa đầy 20 năm hòa bình xây dựng, Liên Xô đã phải trải qua cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại với sự tàn phá vô cùng nặng về sức người và sức của. Hơn 20 triệu người chết, hàng loạt thành phố, làng mạc từ biên giới với Ban Lan cho đến phía Tây Mátxcơva bị san phẳng. Từ sau năm 1945, Liên Xô chỉ có hơn 30 năm xây dựng trong hòa bình, đồng thời phải đối mặt với cuộc chạy đua vũ trang do Mỹ và phe đế quốc khởi xướng. Tương tự như vậy, các nước XHCN ở Đông Âu cũng chỉ có xấp xỉ 30 năm xây dựng. Nhưng những thành tựu mà các nước này đạt được là vô cùng to lớn, thậm chí có lĩnh vực vượt qua cả Mỹ và các nước tư bản Tây Âu. Ngoài việc thiết lập cuộc sống công bằng, cải thiện nhanh chóng về nhà ở, giáo dục, văn hóa cho nhân dân, Liên Xô còn đi đầu thế giới về khoa học công nghệ vũ trụ. Vào thời hoàng kim, CHDC Đức là quốc gia bảo đảm điều kiện sống cho trẻ em tốt nhất thế giới. Một yếu tố không thể không nhắc tới, Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu đã trở thành đối thủ chính trị không đội chung trời của CNTB ở các nước phương Tây. Người dân các nước phương Tây và các dân tộc thuộc địa nhìn vào các nước XHCN như tấm gương, niềm hy vọng cho cuộc đấu tranh giành tự do, độc lập, đòi dân chủ, dân sinh. Các thế lực TBCN nhìn vào đó như mục tiêu phá hoại phải loại bỏ bằng được. Cho đến hôm nay, khi Chiến tranh lạnhđã lùi xa hơn 25 năm, nhưng hầu như cách ứng xử trước đây vẫn còn nguyên trong những trừng phạt kinh tế mà các nước tư bản phương Tây nhằm vào nước Nga.

Đối với Việt Nam, chúng ta bắt tay vào xây dựng đất nước thống nhất theo con đường XHCN sau cuộc chiến tranh tàn khốc kéo dài suốt 30 năm. Ngay sau đó, chúng ta lại phải đối mặt với cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc. Trên thực tế, đất nước chỉ ra khỏi cuộc chiến từ năm 1989. Chúng ta bắt tay vào xây dựng đất nước từ con số không khi tất cả những gì có được sau mấy năm hòa bình xây dựng ngắn ngủi đã bị tàn phá hoàn toàn. Hơn thế nữa, hậu quả chiến tranh vô cùng nặng nề. Hàng vạn thương, bệnh binh, người già, trẻ em không nơi nương tựa. Đồng ruộng đầy bom, đạn, mìn còn lại. Những gì chúng ta có được hôm nay sau 30 năm xây dựng là đáng trân trọng, đáng tự hào, mặc dù chưa phải đã được như mong đợi. Đương nhiên là không thể so sánh với các nước tư bản đã có mấy trăm năm phát triển mà không cần quan tâm đến sự thống khổ, hy sinh của lớp lớp người lao động thuộc địa và ở chính quốc. Tuy nhiên, công việc xây dựng một xã hội mới chưa từng có tiền lệ, không bao giờ là dễ dàng, có tính quy luật của nó, không thể xong trong thời gian ngày một, ngày hai, không thể đốt cháy giai đoạn.

Như vậy, rõ ràng là sai lầm khi chỉ nhìn vào bề ngoài những gì đang có ở các nước tư bản phát triển để so sánh, đánh giá tính ưu việt của chế độ TBCN so với chế độ XHCN. Chỉ có bằng sự phân tích sâu sắc, toàn diện, bằng cách nhìn công bằng, lịch sử mới thấy được nguồn gốc, bản chất của sự giàu có của các nước tư bản phát triển, mới thấy hết được những thành công và đóng góp to lớn của CNXH cho sự phát triển của nhân loại và tiến bộ xã hội.

Thật ngộ nhận khi cho rằng chủ nghĩa xã hội hiện thực sụp đổ do lý thuyết về chủ nghĩa xã hội sai lầm

 


Một trong những luận điệu của thế lực thù địch, phản động cố tình phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay là chúng cho rằng: “CNXH hiện thực được xây dựng theo học thuyết của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I. Lênin ở Liên Xô, các nước Đông Âu đã bị sụp đổ. Hiện thực sụp đổ có nghĩa là lý thuyết sai lầm”. Thật ngộ nhận, sụp đổ của mô hình CNXH hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu hiển nhiên không phải là bằng chứng của sự sai lầm, lỗi thời của chủ nghĩa Mác - Lênin và cùng với nó là con đường xây dựng CNXH. Không có một thứ lôgic nào cho sự suy luận như thế.

Trước hết, cần phải nói rằng mô hình CNXH hiện thực trên thực tế đã mang lại sự thay đổi rung trời chuyển đất, tạo ra một mảng sáng không thể phủ nhận ở Liên xô, Đông Âu và một loạt nước trên thế giới. Nó đã mang lại cuộc sống tốt đẹp cho một phần to lớn của nhân loại. Nó đã tạo nên một sức mạnh to lớn mà trước đó không thể tưởng tượng về nguồn lực vật chất và tinh thần, đủ sức để động viên sức người, sức của, tạo thành lực lượng chủ yếu đánh thắng cả những lực lượng to lớn của liên minh các thế lực tư bản trong Chiến tranh thế giới thứ nhất cũng như đội quân phát xít tàn bạo của trục ma quỷ trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Bằng thực tế sinh động tốt đẹp trên các đất nước xây dựng CNXH, nó đã động viên, thúc đẩy cuộc đấu tranh vì tự do, dân chủ, hòa bình, giải phóng dân tộc trên toàn trái đất. Hàng loạt dân tộc bị áp bức đã giành được độc lập tự do dưới ảnh hưởng và sự giúp đỡ vô tư của các nước XHCN do Liên Xô dẫn đầu. Chính CNXH và cuộc đấu tranh rộng lớn, mạnh mẽ của nhân dân lao động trên toàn thế giới đã là động lực thúc đẩy, buộc các thế lực tư bản, đế quốc phải, một mặt thừa nhận quyền tự do, độc lập của các dân tộc trong hệ thống thuộc địa rộng lớn của CNTB thực dân, đế quốc. Một mặt, tạo thành sức ép, buộc các thế lực tư bản có những cải cách xã hội, cải thiện đời sống của nhân dân lao động ở chính quốc. CNXH đã là một hiện thực hùng mạnh đủ để những chiến lược gia, các nhà lý luận tư sản phải run sợ, đã đưa ra những dự báo về sự thất bại, kết thúc không thể đảo ngược của chủ nghĩa tư bản. Những thừa nhận đắng cay của Henry Kitsingiơ, Brêginxki thời kỳ những năm 60, 70 thế kỷ XX vẫn còn nguyên đó trong các cuốn sách, bài báo của họ.

Tất nhiên, sự sụp đổ của mô hình CNXH hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu đã là một bài học đau đớn không chỉ cho những người cộng sản, mà còn cho cả nhân loại tiến bộ. Đó là kết quả của sự bảo thủ, không nhìn thẳng vào thực tế, chậm đổi mới nhận thức và đổi mới các chính sách cũng như những giải pháp cần thiết để giải quyết những vấn đề nảy sinh từ thực tiễn như những mâu thuẫn tất yếu nảy sinh trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Đó cũng chính là sự sai lầm do những người cộng sản ở Liên Xô và các nước XHCN trước đây mắc phải do không nhận thức đúng đắn những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về tính biện chứng và quan điểm lịch sử cụ thể trong quá trình lãnh đạo cuộc cách mạng XHCN, đã do cố chấp và thiên kiến mà bỏ qua bài học phương pháp luận quý báu của V.I.Lênin, không “Dùng cả hai tay mà lấy những cái tốt nhất của nước ngoài” để xây dựng, phát triển chế độ XHCN.

Mặt khác, sự sụp đổ của mô hình CNXH hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu chỉ là sự sụp đổ của một mô hình xây dựng CNXH cụ thể không hơn, không kém. Tuyệt nhiên đó không phải là sụp đổ của một học thuyết khoa học, càng không thể là sự sụp đổ về một tương lai tốt đẹp mà nhân loại tiến bộ đang hướng tới. Điều ấy không chỉ được minh chứng bằng việc ngay ở thời điểm hiện nay, một loạt nước ở tây bán cầu ngay cận kề nước Mỹ đang tìm tòi con đường và cách thức để xây dựng CNXH theo một mô hình mới. Nó cũng được minh chứng bởi một loạt quốc gia ở chính châu Âu, nhất là Bắc Âu đã và đang lấy CNXH làm mục đích và cảm hứng để xây dựng, phát triển đất nước mình. Không phải không có lý do, khi họ tự gọi mình là mô hình CNXH phúc lợi. Đương nhiên còn một minh chứng hiện hữu là một số nước kiên trì đi theo con đường XHCN, trong đó có Việt Nam đã đạt được những thành tựu có tính lịch sử trong xây dựng, phát triển.

Từ tất cả thực tế ấy, không thể nói rằng mô hình CNXH ở Liên Xô và các nước khác sụp đổ trong những năm cuối thế kỷ trước có nghĩa là học thuyết Mác - Lênin về CNXH là sai lầm và lỗi thời! Ngược lại, sẽ là ảo tưởng khi nghĩ rằng CNTB đang thắng thế. Thực tế đang chỉ ra rằng, chính CNTB đang đứng trước những thánh thức đầy nguy hiểm. Chính sự mâu thuẫn lợi ích, căn bệnh bản chất của CNTB đang làm nảy sinh sự chia rẽ khó tránh khỏi trong các liên minh tưởng chừng bền vững của họ. Hiện tượng Brexit của nước Anh chỉ là một dấu hiệu đầu tiên và tất yếu của sự khục khặc từ chính trong lòng của nó khi CNTB ở Tây Âu mất đi đối trọng là khối các nước XHCN. Khi không còn phải đối mặt với nguy cơ từ bên ngoài thì những mâu thuẫn không thể tránh khỏi về lợi ích sẽ hiện nguyên hình, phá vỡ mối liên kết yếu ớt của các thế lực TBCN. Mặt khác, những cuộc khủng bố đã hiện diện ngay trung tâm của châu Âu, đe dọa không chỉ an ninh mà tạo nên sự bất ổn sống còn của chế độ TBCN. Vụ khủng bố ở thành phố Nice giữa đêm Quốc khánh nước Pháp làm hơn 80 người chết và vụ khủng bố bằng phương thức như thế được lặp lại ở Berlin, thủ đô nước Đức ngày 18-12-2016 làm 12 người chết, gần năm chục người bị thương, không chỉ báo hiệu mối nguy lớn về an ninh của châu Âu. Nó còn là hệ quả tất yếu cho chính sách sai lầm, vụ lợi của CNTB trong cách hành xử với các nước nghèo, các quốc gia Bắc Phi và Trung Đông.

Có lẽ ai cũng có thể nhận thấy rằng, sự sai lầm của những người phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin thể hiện ngay trong chính những cơ sở, lý do để họ phản bác chủ nghĩa Mác - Lênin. Đó có thể là có sự hiểu nhầm về tính chất của học thuyết - chủ nghĩa Mác - Lênin, hoặc là biết nhưng vẫn cố tình xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin với định kiến và mục đích chính trị đen tối của những kẻ chuyên ăn bơ thừa sữa cặn của các thế lực thù địch với cách mạng.

Chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn là khoa học để nhận thức và cải tạo xã hội

 


Thời gian gần đây, một số nhà nghiên cứu phương Tây và một bộ phận cán bộ, đảng viên trong nước cho rằngchủ nghĩa Mác - Lênin ra đời từ những điều kiện kinh tế - xã hội của thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX nên không còn phù hợp với thực tiễn hiện nay. Bởi vậy, chúng ta không thể xây dựng được một xã hội mới tốt đẹp, dân giầu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh trên nền tảng của học thuyết lỗi thời đó”. Những ai đã từng nghiên cứu, chủ nghĩa Mác - Lênin một cách khách quan, đầy đủ và trách nhiệm thì đều nhận thấy nhận định đó thật hồ đồ.

Đúng là học thuyết của C.Mác và Ph.Ăngghen ra đời từ giữa thế kỷ XIX, trong điều kiện những mâu thuẫn của CNTB đã trở nên gay gắt, phơi bày tất cả bản chất giai cấp của nó cùng với sự bóc lột người lao động đến cùng cực. C.Mác và Ph.Ăngghen kế thừa những thành tựu nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước, tiếp thu có phê phán toàn bộ những giá trị tinh hoa của quá trình phát triển tư tưởng của nhân loại, đặc biệt là kinh tế - chính trị cổ điển Anh, triết học cổ điển Đức và CNXH không tưởng Pháp. Những học thuyết về giá trị lao động của Ađam Xmít và Đavít Ricácđô, phương pháp biện chứng của Hêghen, chủ nghĩa duy vật nhân bản của Phơbách, những tư tưởng tiến bộ về xã hội của các nhà tư tưởng Pháp như Sanh Simông, Phuriê cũng đóng góp những cơ sở nhận thức quan trọng vào quá trình hình thành học thuyết của C.Mác và Ph.Ăngghen. Cũng cần phải nói rằng, lần đầu tiên trong lịch sử tư tưởng nhân loại, C.Mác và Ph.Ăngghen đã phát hiện ra tính quy luật trong sự vận động của xã hội loài người, trong đó nhân tố quyết định là mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất. Đây chính là cơ sở để C.Mác và Ph.Ăngghen dự báo về tất yếu loài người sẽ tiến tới CNCS qua một giai đoạn quá độ là CNXH.

V.I.Lênin là người tiếp tục phát triển những tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen vào thời kỳ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, trong điều kiện mới khi CNTB đã chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. V.I.Lênin có nhiều đóng góp vào phát triển các tư tưởng triết học, kinh tế - chính trị của C.Mác và Ph.Ăngghen. Đặc biệt, V.I.Lênin đã phát triển tư tưởng về khả năng thắng lợi của cách mạng vô sản ở một nước tư bản riêng biệt; xây dựng học thuyết về một chính đảng mác xít kiểu mới; tổ chức cuộc cách mạng XHCN thắng lợi và vận dụng học thuyết của Mác để phân tích, giải quyết hàng loạt vấn đề trong quá trình xây dựng CNXH ở nước Nga và Liên bang Xô viết.

Đến giữa thế kỷ XX, Hồ Chí Minh là người vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin một cách sáng tạo vào thực tiễn Việt Nam để giải quyết những nhiệm vụ to lớn của cách mạng Việt Nam, đánh thắng những đế quốc to, những kẻ thù hung bạo để giành độc lập tự do cho dân tộc, bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Điều hiển nhiên và không thể chối cãi là, dù được hiểu theo nghĩa nào, chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn là khoa học về những quy luật chung nhất của sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy; quy luật về sự phát triển của sản xuất xã hội, về cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản và nhân dân lao động chống lại áp bức, bóc lột, mưu cầu tự do, hạnh phúc; quy luật về cách mạng XHCN và con đường xây dựng, phát triển đi tới CNCS. Vào thời điểm ra đời của học thuyết này, những tác giả của chủ nghĩa Mác - Lênin đã phê phán CNTB, chỉ ra bản chất bóc lột, tính quy luật trong sự tồn tại và phát triển của nó. Sự phê phán đó là sâu sắc và phản ánh đúng bản chất của thực tiễn xã hội đương thời. Đó là điều đã được thực tế kiểm nghiệm, được hầu hết các nhà nghiên cứu xã hội thừa nhận cho dù họ theo xu hướng chính trị nào. Từ sự phê phán CNTB đương thời, từ phát hiện tính quy luật của lịch sử xã hội loài người và từ cả thái độ nhân văn trước hiện thực tăm tối về sự thống khổ của người lao động dưới ách áp bức, bóc lột của CNTB, C.Mác, Ph.Ăngghen dự báo về một xã hội tương lai như một tất yếu lịch sử sẽ thay thế CNTB.

Cần nói rằng, những gì CNTB hiện đại đang thể hiện vẫn không đi ra ngoài tính quy luật mà chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra, càng minh chứng cho tính đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lênin. Sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, một mặt tăng thêm tiềm lực cho CNTB. Mặt khác, nó càng thúc đẩy nhanh hơn quá trình xã hội hóa của lực lượng sản xuất, dẫn đến những thay đổi chóng mặt về quy mô, tính chất của quan hệ sở hữu, quản lý, điều hành sản xuất và phân phối của cải xã hội. Quá trình toàn cầu hóa xuất phát trước tiên từ nền kinh tế TBCN, nói cho cùng cũng như cái “áo” trong khung khổ từng quốc gia đã quá chật hẹp, buộc phải nới ra trên phạm vi toàn thế giới. Sự áp bức bóc lột của CNTB theo đó cũng mở rộng mạnh mẽ ra ngoài chính quốc. Sự bóc lột ấy, về bản chất, chẳng khác gì hành vi xâm lược thuộc địa của các đế quốc - TBCN trước đây, chỉ có điều nó được che đậy dưới lớp vỏ hào nhoáng, mỹ miều hơn, nó đi vào các quốc gia nghèo khó bằng cửa chính và bóc lột người lao động bằng những lề luật văn minh, sạch sẽ hơn.

Càng giàu mạnh, các thế lực tư bản càng hung hăng, tìm mọi cách để chiếm đoạt các nguồn tài nguyên, của cải của thế giới, quy phục các quốc gia nghèo khó, yếu thế nhằm phục vụ cho lợi ích của mình. Cuộc chiến tranh Irắc đã đẩy một quốc gia hòa bình vào cuộc chiến đẫm máu, huynh đệ tương tàn suốt hơn một thập niên, đến nay vẫn chưa thấy lối ra. Lý do để phát động cuộc chiến tranh chống lại một dân tộc có chủ quyền, độc lập cách xa nước Mỹ hàng vạn cây số là tàng trữ “vũ khí giết người hàng loạt”, nhưng từ sau chiến dịch Bão táp sa mạcđến giờ người ta đã đào bới, xới lộn cả nước Irắc mà không tìm thấy cái gì là “vũ khí giết người hàng loạt”. Nhưng thực tế thì chính nước Mỹ đang tàng trữ lượng vũ khí hạt nhân đủ phá hủy nhiều lần cuộc sống của nhân loại trên toàn cầu. Đất nước Libia hòa bình cũng trở thành hỗn loạn sau khi Mỹ và các đồng minh phương Tây can thiệp lật đổ chính quyền dân cử Mohamet Cadaphi. Cho dù Tổng thống Mỹ và Thủ tướng Anh đã xin lỗi nhưng điều ấy có nghĩa gì khi đất nước Irắc và Libia đã tan hoang, hàng vạn người dân lành đã chết, hàng triệu người dân đang sống trong những điều kiện tồi tệ nhất. Ngay với nước Mỹ, hàng chục nghìn thanh niên đã bỏ xác ở Irắc, ở Trung Đông một cách vô nghĩa. Chắc chắn trong số những thanh niên Mỹ đã chết vô ích ấy không và không thể có con cái các nhà tư bản, các ông chủ ngân hàng. Vậy, lý do cuộc chiến Irắc là gì nếu không phải là dầu mỏ và lợi ích của những ông chủ, các nhà tư bản Mỹ? Một loạt cuộc cách mạng màu do bàn tay Mỹ và các nước phương Tây phát động ở Libia, Siry, Ai Cập... đều có chung một hình thái bên ngoài, mục đích ẩn giấu bên trong và hậu quả tồi tệ không khác gì với cuộc chiến ở Irắc.

Mặt khác, nếu nhìn nhận từ góc độ nhân vănthì CNXH là ước vọng ngàn đời của tất cả những người dân lao động, của những con người có lương tâm cùng tình thương nhân loại, muốn sống trong hòa bình, nhân ái. C.Mác và Ph.Ăngghen đã phát triển CNXH từ không tưởng trở thành khoa học khi nhìn nhận nó từ quy luật vận động của lịch sử, như sự vận động tất yếu từ những cơ sở xã hội, những yếu tố kinh tế, vật chất vốn đã được hình thành ngay trong lòng CNTB. Như vậy, CNXH là phù hợp và hợp lý cả về phương pháp luận khoa học và tính mục đích nhân văn.

Với tính chất là một học thuyết khoa học, những người khai sinh ra chủ nghĩa Mác - Lênin chưa bao giờ muốn và chưa có bất cứ một mệnh đề phán đoán nào để quy các luận điểm trong học thuyết của mình về cách mạng xã hội hay về xã hội XHCN tương lai thành những tín điều siêu hình, cứng nhắc. Trong tác phẩm Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản, Ph.Ăngghen đã trả lời hàng loạt vấn đề lý luận liên quan trực tiếp đến chủ nghĩa xã hội khoa học như: thế nào là giai cấp công nhân và đảng cộng sản; quan hệ giữa giai cấp công nhân với đảng cộng sản; hiểu thế nào là xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN và xác lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất; mối quan hệ ra sao giữa giai cấp công nhân, dân tộc và quốc tế; các giải pháp cần thiết để tiến hành cách mạng XHCN,... Chính Ph.Ăngghen là người rất khách quan, khoa học khi luận giải rất tường minh CNXH từ không tưởng trở thành khoa học, đồng thời yêu cầu những người cộng sản rằng, “...chủ nghĩa xã hội trở thành khoa học mà ngày nay, vấn đề trước hết là phải nghiên cứu thêm, trong mọi chi tiết và mọi mối liên hệ của nó”.

Trong rất nhiều tác phẩm, C.Mác và Ph.Ăngghen đều nhấn mạnh tầm quan trọng của nhận thức, đánh giá, tổng kết thực tiễn để thường xuyên bổ sung, phát triển lý luận, nhất là lý luận về con đường hiện thực hóa CNXH, CNCS. Trong Lời đề tựa cho lần xuất bản Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản vào năm 1872, C.Mác và Ph.Ăngghen đã viết rằng: “...chính ngay “Tuyên ngôn” cũng đã giải thích rõ rằng bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, việc áp dụng những nguyên lý đó cũng phải tùy theo hoàn cảnh lịch sử đương thời, và do đấy không nên quá câu nệ vào những biện pháp cách mạng nêu ra ở cuối chương II”. Quan điểm lịch sử - cụ thể và quan điểm phát triển cũng luôn luôn được V.I.Lênin quán triệt vận dụng trong nhiều nhận thức thực tiễn giải quyết mối quan hệ gắn bó giữa lý luận với thực tiễn. Chính sách Kinh tế mới chính là một dẫn chứng thực tế sáng rõ về quan điểm đó. Chính V.I.Lênin đã có một định nghĩa đầy tính thực tiễn về CNXH mà lâu nay đôi khi những người hậu thế đã bỏ quên hoặc bảo thủ với những định kiến mà không nhìn nhận một cách đúng đắn và nghiêm túc. Người nói: “Dùng cả hai tay mà lấy những cái tốt nhất của nước ngoài: Chính quyền xô-viết + trật tự ở đường sắt Phổ + kỹ thuật và cách tổ chức các tơ-rớt ở Mỹ + ngành giáo dục quốc dân Mỹ etc. etc. + + = ∑= chủ nghĩa xã hội”. Nhận định của V.I.Lênin từ gần 100 năm trước vẫn còn nguyên giá trị phương pháp luận đối với chúng ta hiện nay, nhất là trong điều kiện toàn cầu hóa.

Vậy thì tại sao có thể nói rằng chủ nghĩa Mác - Lênin là lỗi thời, chủ nghĩa Mác - Lênin không thể lỗi thời mà chính những người cố tình phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin mới là những người nhầm lẫn, sai lầm, cố tình không nhìn thấy bản chất khoa học và nhân văn của chủ nghĩa Mác - Lênin. Hoặc giả, họ đã cố tình xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin vì một lý do chính trị, vì muốn xóa bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin để bảo vệ cho CNTB và quyền lợi của một nhóm người tư bản hoặc được hưởng lợi không chính đáng từ guồng máy của CNTB. Nếu có lỗi thời chăng, thì chính là lỗi thời ở cách mà chúng ta chưa nghiên cứu đủ sâu sắc, chưa vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin một cách đúng đắn vào thực tiễn để giải quyết các vấn đề trong quá trình xây dựng CNXH mà thôi. Tuyệt nhiên không thể là sự lỗi thời của chủ nghĩa Mác - Lênin!

VIỆT NAM THỰC HIỆN TỐT VẤN ĐỀ DÂN TỘC, TÔN GIÁO, DÂN CHỦ, NHÂN QUYỀN

         Dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền là những vấn đề phức tạp có liên quan chặt chẽ với nhau không chỉ ở Việt Nam mà ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, nhất là các quốc gia đa dân tộc, tôn giáo. Lịch sử thế giới cho thấy, khi nào vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền đ­­ược giải quyết thành công thì xã hội mới có sự ổn định và phát triển; nếu giải quyết không tốt sẽ dẫn đến xung đột, làm mất ổn định xã hội.

Nhà nước Việt Nam thường xuyên quan tâm thực hiện tốt công tác dân tộc, tôn giáo, phát huy dân chủ và bảo đảm nhân quyền, tạo động lực to lớn góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh trong những năm vừa qua.

         Thực tế cho thấy dưới chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam trong thời gian qua được thể hiện ở tính đoàn kết, thống nhất, thương yêu, đùm bọc lẫn nhau giữa các dân tộc, các tôn giáo; được thể hiện là sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt của Đảng, sự quản lý chặt chẽ, thống nhất của Nhà nước, sự đồng thuận của toàn xã hội đã tạo nên khối đoàn kết, thống nhất cùng dựng xây tổ quốc.

          Với những thành quả trên các lĩnh vực thời gian qua, nhất là qua chống dịch COVID-19, qua phòng chống bão lụt của các tỉnh Miền Trung đã thể hiện rằng Đảng, Nhà nước Việt Nam thực hiện tốt vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền.