Hiện nay, một số nhà nghiên cứu phương Tây và một bộ phận
cán bộ, đảng viên trong nước cho rằng: “điều kiện kinh tế và xã hội ở các
nước tư bản phát triển được cải thiện rất nhiều so với ở các nước đi theo con
đường XHCN, chứng tỏ CNTB là ưu việt”. Chúng cố minh chứng sự hơn hẳn về điều
kiện vật chất, trình độ phát triển về kinh tế, khoa học - công nghệ và một số
lĩnh vực khác của các nước tư bản phát triển so với các nước đi theo con đường
XHCN hiện nay. Thật nực cười, tính ưu việt của một chế độ xã hội so với chế
độ xã hội khác tại sao lại chỉ có thể duy nhất dựa vào điều kiện vật chất,
trình độ phát triển về kinh tế, khoa học - công nghệ. Đó chỉ là cách
nhìn thực tại, phiến diện, không thấy đằng sau và phía trước của sự phát triển
ấy là gì.
Đúng là không ai có thể phủ nhận một thực tế
là các nước TBCN phát triển đã có được những thành tựu phát triển về kinh tế,
khoa học - công nghệ kéo theo những cải thiện nhất định về điều kiện sống của
người dân. Nhưng trước hết, cần phải nhìn cho rõ những thành tựu đó do đâu mà
có. CNTB đã có nhiều trăm năm phát triển. Trên con đường phát triển của CNTB,
bánh xe vận hành của nó đã lăn đi trong ngập ngụa máu và nước mắt của nhân loại
cần lao, thống khổ trên khắp các lục địa. “Những nước tư bản hiện đại là kết
quả của một lịch sử nô dịch, diệt chủng, bạo lực và bóc lột một cách ghê tởm”,
đó là lời tự thú có tính chất phản tỉnh của Terry Eagleton - một học giả người
Anh. Chỉ cần giở lại các trang lịch sử của nước Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Hà Lan, Tây
Ban Nha... sẽ thấy ngay những gì mà chế độ tư bản đã hành xử với đồng loại của
mình. Những kẻ thực dân từ cựu lục địa châu Âu đã phá vỡ cuộc sống bình yên
hàng nghìn năm của các bộ tộc người da đỏ, chiếm đoạt đất đai của họ bằng gươm,
súng và cả sự tra tấn dã man, rùng rợn ngoài trí tưởng tượng, bằng cách lột da
đầu. Trong cuốn sách Sự tàn sát khủng khiếp cuối thời Victoria(Late Victorian
Holocausts), học giả người Anh đã viết rằng, hàng chục triệu người Ấn Độ, châu
Phi, Trung Quốc, Braxin, Triều Tiên, Nga và nhiều nước khác đã chết do đói, hạn
hán và dịch bệnh vào cuối thế kỷ XIX dưới chế độ thực dân xâm lược. Và ngay ở
chính các nước tư bản giàu có hiện nay, có ai dám chắc mọi người dân đều có
cuộc sống tốt đẹp. Hàng chục triệu người dân Mỹ không có bảo hiểm y tế chỉ có
cách chờ tử thần khi mắc bệnh. Ở bang Caliphoócnia, quá nửa nam giới người da
đen có ít nhất một lần trong đời phải đi tù...
Làm sao, là người Việt Nam mà ai đó có thể
quên được nỗi thống khổ của nhân dân ta trong đêm trường nô lệ hơn 80 năm dưới
ách đô hộ của CNTB thực dân Pháp? Bao nhiêu người dân Việt Nam đã chết trong
các xưởng máy, hầm lò, trên các cung đường, các bến tàu. Những cuộc khởi nghĩa
của Nguyễn Trung Trực, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Yên Bái, Xô viết Nghệ -
Tĩnh... bị dìm trong bể máu. Hơn hai triệu người chết đói năm 1945. Thực dân
Pháp bóc lột người dân thuộc địa Việt Nam đến tận xương tủy, vơ vét hết vàng,
than, sắt, đồng... mang về làm giàu cho chính quốc. Gần 20 năm, đế quốc Mỹ thay
chân đế quốc Pháp thiết lập ách thống trị, dày xéo đất nước ta. Những nhà tù địa
ngục trần gian ở Côn Đảo, Phú Quốc..., những vụ tàn sát ở Thái Bình (Bình Định)
năm 1966, Bình Hòa (Quảng Ngãi) năm 1966, Mỹ Lai (Quảng Ngãi) năm 1968..., vụ
B52 ném bom rải thảm khu phố Khâm Thiên, bệnh viện Bạch Mai (Hà Nội), phải
chăng đó không phải là tội ác thấu trời của chế độ tư bản Mỹ? Ngỡ tưởng, không
phải nhìn đâu xa, chính những trang lịch sử khắc nghiệt và đau thương ấy đã đủ
để cho các thế hệ chúng ta và con cháu chúng ta hiểu được bản chất của chủ
nghĩa tư bản! Vậy mà lạ lùng thay, vẫn có người bước ra khỏi biên giới đã hết
lời khen hay, khen đẹp cho các nước tư bản, cho các thành phố hào hoa Tây Âu.
Họ có biết đâu hoặc cố tình không biết rằng, những thành phố đó đã trải qua mấy
trăm năm xây dựng bằng sức lao động và của cải của bao thế hệ người lao động và
cả của cải bóc lột từ các thuộc địa mang về.
Việc xây dựng chế độ XHCN là công việc rất
khó, mang tính khoa học, có tính quy luật, đòi hỏi thời gian, nguồn lực, sự
lãnh đạo chính trị đúng đắn và các điều kiện không thể thiếu khác. Theo như
C.Mác, CNXH chỉ có thể thành công ở một loạt nước tư bản phát triển ở trình độ
cao. Nó như là tất yếu thay đổi quan hệ sản xuất xã hội khi lực lượng sản xuất
dưới chế độ TBCN đã phát triển, xã hội hóa cao độ, không thể tiếp tục tồn tại
trong khuôn khổ quan hệ sản xuất TBCN. Đối với Liên Xô và các nước XHCN ở Đông
Âu, tất cả đều có điểm xuất phát là các nước tư bản có trình độ phát triển thấp
hoặc trung bình. Thời gian xây dựng chế độ XHCN hầu như còn rất ngắn. Liên bang
Xô Viết (Liên Xô) được thành lập và bắt tay xây dựng CNXH năm 1921, khi vừa ra
khỏi cuộc nội chiến. Mới chỉ có chưa đầy 20 năm hòa bình xây dựng, Liên Xô đã
phải trải qua cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại với sự tàn phá vô cùng nặng về
sức người và sức của. Hơn 20 triệu người chết, hàng loạt thành phố, làng mạc từ
biên giới với Ban Lan cho đến phía Tây Mátxcơva bị san phẳng. Từ sau năm 1945,
Liên Xô chỉ có hơn 30 năm xây dựng trong hòa bình, đồng thời phải đối mặt với
cuộc chạy đua vũ trang do Mỹ và phe đế quốc khởi xướng. Tương tự như vậy, các
nước XHCN ở Đông Âu cũng chỉ có xấp xỉ 30 năm xây dựng. Nhưng những thành tựu
mà các nước này đạt được là vô cùng to lớn, thậm chí có lĩnh vực vượt qua cả Mỹ
và các nước tư bản Tây Âu. Ngoài việc thiết lập cuộc sống công bằng, cải thiện
nhanh chóng về nhà ở, giáo dục, văn hóa cho nhân dân, Liên Xô còn đi đầu thế
giới về khoa học công nghệ vũ trụ. Vào thời hoàng kim, CHDC Đức là quốc gia bảo
đảm điều kiện sống cho trẻ em tốt nhất thế giới. Một yếu tố không thể không
nhắc tới, Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu đã trở thành đối thủ chính trị
không đội chung trời của CNTB ở các nước phương Tây. Người dân các nước phương
Tây và các dân tộc thuộc địa nhìn vào các nước XHCN như tấm gương, niềm hy vọng
cho cuộc đấu tranh giành tự do, độc lập, đòi dân chủ, dân sinh. Các thế lực
TBCN nhìn vào đó như mục tiêu phá hoại phải loại bỏ bằng được. Cho đến hôm nay,
khi Chiến tranh lạnhđã lùi xa hơn 25 năm, nhưng hầu như cách ứng xử trước đây
vẫn còn nguyên trong những trừng phạt kinh tế mà các nước tư bản phương Tây
nhằm vào nước Nga.
Đối với Việt Nam, chúng ta bắt tay vào xây
dựng đất nước thống nhất theo con đường XHCN sau cuộc chiến tranh tàn khốc kéo
dài suốt 30 năm. Ngay sau đó, chúng ta lại phải đối mặt với cuộc chiến tranh
biên giới Tây Nam và cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc. Trên thực tế, đất
nước chỉ ra khỏi cuộc chiến từ năm 1989. Chúng ta bắt tay vào xây dựng đất nước
từ con số không khi tất cả những gì có được sau mấy năm hòa bình xây dựng ngắn
ngủi đã bị tàn phá hoàn toàn. Hơn thế nữa, hậu quả chiến tranh vô cùng nặng nề.
Hàng vạn thương, bệnh binh, người già, trẻ em không nơi nương tựa. Đồng ruộng
đầy bom, đạn, mìn còn lại. Những gì chúng ta có được hôm nay sau 30 năm xây
dựng là đáng trân trọng, đáng tự hào, mặc dù chưa phải đã được như mong đợi.
Đương nhiên là không thể so sánh với các nước tư bản đã có mấy trăm năm phát
triển mà không cần quan tâm đến sự thống khổ, hy sinh của lớp lớp người lao
động thuộc địa và ở chính quốc. Tuy nhiên, công việc xây dựng một xã hội mới
chưa từng có tiền lệ, không bao giờ là dễ dàng, có tính quy luật của nó, không
thể xong trong thời gian ngày một, ngày hai, không thể đốt cháy giai đoạn.
Như vậy, rõ ràng là sai lầm khi chỉ nhìn vào
bề ngoài những gì đang có ở các nước tư bản phát triển để so sánh, đánh giá
tính ưu việt của chế độ TBCN so với chế độ XHCN. Chỉ có bằng sự phân tích sâu
sắc, toàn diện, bằng cách nhìn công bằng, lịch sử mới thấy được nguồn gốc, bản
chất của sự giàu có của các nước tư bản phát triển, mới thấy hết được những
thành công và đóng góp to lớn của CNXH cho sự phát triển của nhân loại và tiến
bộ xã hội.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét