Thứ Tư, 3 tháng 8, 2022
HÀNH TRÌNH THEO CHÂN BÁC HỒ!
NHÀ NƯỚC CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng là vấn đề chính quyền. Vậy thì vấn đề cơ bản của chính quyền là gì? là chính quyền đó thuộc về ai? phục vụ cho ai?
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Chính quyền đó là của dân, phục vụ lợi ích của dân. Trong tác phẩm Đường cách mệnh, Người nói: “Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc”[1].
Sau khi chúng ta giành được độc lập tháng 8/1945, Người đã xác định: “Nước ta là một nước dân chủ, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân, công việc đổi mới xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại: Quyền hạn và lực lượng đều ở nơi dân”[2].
ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC LÀ VẤN ĐỀ CÓ Ý NGHĨA CHIẾN LƯỢC, QUYẾT ĐỊNH THÀNH CÔNG CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM
Đại đoàn kết dân tộc theo Hồ Chí Minh là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, là tư tưởng cơ bản, nhất quán xuyên suốt trong tiến trình của cách mạng Việt Nam. Đó là chiến lược để tập hợp lực lượng có thể tập hợp được nhằm tạo ra sức mạnh to lớn của dân tộc trong cuộc đấu tranh với kẻ thù của dân tộc của giai cấp. Khi Nói chuyện tại Hội nghị đại biểu Mặt trận Liên - Việt toàn quốc (10/1/1955), Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Đoàn kết là một chính sách dân tộc, không phải là thủ đoạn chính trị”[1].
11 Dự báo chính xác của Chủ tịch Hồ Chí Minh
11 Dự báo chính xác của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Trung tâm đầu não của địch.
VIỆT NAM LUÔN KIÊN ĐỊNH VỚI CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CNXH
Với mục tiêu xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở nước ta, các thế lực thù địch, những phần tử cơ hội, bất mãn về chính trị không từ một thủ đoạn nào nhằm xuyên tạc, chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Cho dù che giấu, ngụy biện như thế nào thì mục tiêu của chúng chủ yếu vẫn là phủ nhận bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phủ nhận con đường xã hội chủ nghĩa và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta.
NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM
Hiện nay, có quan điểm cho rằng chủ nghĩa Mác - Lênin đã trở nên lỗi thời và lạc hậu, ở Việt Nam chỉ cần tư tưởng Hồ Chí Minh là đủ.
TĂNG CƯỜNG QUỐC PHÒNG AN NINH, ĐỐI NGOẠI QUỐC PHÒNG TỪNG BƯỚC PHÁT TRIỂN TIỀM LỰC CHÍNH TRỊ TINH THẦN TRONG GIAI ĐOẠN CÁCH MẠNG HIỆN NAY
Sự lãnh đạo của Đảng không chỉ được thể hiện ở tầm vĩ mô,
mà còn phải được cụ thể hóa ở hoạt động của các cấp, các ngành trên mọi lĩnh
vực trong xây dựng tiềm lực chính trị-tinh thần của nền quốc phòng toàn dân.
Trước mắt, cần có giải pháp giải quyết có hiệu quả những bức xúc, khó khăn
trong đời sống nhân dân; tổ chức đấu tranh phòng chống quan liêu, tham nhũng,
lãng phí, ngăn chặn "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống của cán bộ, đảng viên có hiệu quả; rút ngắn khoảng cách
giầu nghèo trong các tầng lớp xã hội. Có như vậy mới tăng cường được khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, củng cố được niềm tin của nhân dân với Đảng, chế độ.
Đồng thời, để nâng cao chất lượng, hiệu quả công việc và
phát triển tiềm lực chính trị-tinh thần cần khơi dậy và phát động các phong
trào cách mạng của nhân dân, khai thác trí tuệ và tài năng sáng tạo của nhân
dân, đề cao trách nhiệm công dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Để thực hiện có hiệu quả những nội dung trên phải
đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống
cho cán bộ, đảng viên. Chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán
bộ chủ trì các cấp, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước và hội nhập quốc tế.
Theo đó, cần tiếp tục rà soát, đánh giá đúng cán
bộ, có kế hoạch xây dựng đội ngũ cán bộ và sử dụng, bổ nhiệm cán bộ cần coi
trọng cả đạo đức và tài năng, trong đó bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất
đạo đức trong sạch, năng lực chuyên môn, khả năng vận động quần chúng, sự hiểu
biết về quốc phòng, quân sự cần có sự chú ý thích đáng, vì nó có quan hệ đến
hiệu quả xây dựng tiềm lực chính trị-tinh thần của nền quốc phòng toàn dân.
khucvu4
NHỮNG THÀNH TỰU NỔI BẬT CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG TRONG NHỮNG NĂM QUA TRONG QUÂN ĐỘI
Công tác tư tưởng lý luận trong
quân đội những năm qua có thể khẳng định rằng: Công tác tư tưởng, lý luận đã
quán triệt sâu sắc đường lối quan điểm của Đảng, các nghị quyết của Trung ương,
Bộ Chính trị, của Đảng uỷ quân sự Trung ương, chỉ thị công tác đảng, công tác
chính trị của Tổng cục Chính trị vào nhiệm vụ và các mặt hoạt động của quân
đội. Công tác tưởng lý luận đã luôn luôn đi đúng quan điểm của Đảng, đúng sự
chỉ đạo của cấp trên, giữ vững định hướng chính trị và nguyên tắc hoạt động.
Các hoạt động công tác tư tưởng, lý luận được triển khai toàn diện, đồng
bộ; coi trọng chỉ đạo điểm, biết tập trung vào các nhiệm vụ trọng tâm, khâu
then chốt, thời điểm quan trọng; thường xuyên hoàn thiện quy chế hoạt động.
Không ngừng đổi mới toàn diện cả nội dung, hình thức, phương pháp và tác phong
công tác, chất lượng hiệu quả ngày càng tăng lên, có ý nghĩa chính trị xã hội
ngày càng sâu sắc.
Công tác tư tưởng, lý luận đã góp phần củng cố, xây dựng tổ chức đảng, tổ
chức chỉ huy, tổ chức quần chúng ngày càng vững mạnh; phát huy dân chủ, củng cố
kỷ luật, xây dựng mối quan hệ nội bộ, quan hệ quân dân ngày càng bền vững, góp
phần giải đáp những vấn đề bức xúc nảy sinh ở cơ sở, tạo sự chuyển biến mọi mặt
của đơn vị.
Công tác tư tưởng lý luận đã góp phần làm sáng tỏ nhiều
vấn đề lý luận và thực tiễn về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc
phòng an ninh; xây dựng lực lợng vũ trang về chính trị, cung cấp nhiều luận cứ
khoa học cho việc xây dựng đường lối quốc phòng- an ninh và xây dựng lực lợng
vũ trang trong thời kỳ mới.
Công tác tư tưởng lý luận đã chủ động kiên quyết đấu
trạnh trên mặt trận tư tưởng lý luận chống diễn biến hoà bình, bạo loạn lật
đổ, âm mưu phi chính trị hoá quân đội của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù
địch. Tích cực đấu tranh ngăn chặn, khắc phục những biểu hiện suy thoái về đạo
đức lối sống, tư tưởng cá nhân chủ nghĩa; trực tiếp góp phần làm trong sạch
chính trị tư tưởng nội bộ của quân đội.
khucvu3
TIẾP TỤC ĐỔI MỚI NÂNG CAO SỨC MẠNH QUÂN ĐÔI ĐÁP ỨNG YÊU CẦU, NHIỆM VỤ TRONG TÌNH MỚI
Phương thức lãnh đạo của Đảng là một bộ phận hữu cơ hợp
thành sự lãnh đạo của Đảng. Phương thức lãnh đạo của Đảng không chỉ là cách
thức, phương pháp mà còn là quan điểm, chủ trương, cơ chế vận hành sự lãnh đạo
của Đảng.
Trong lĩnh vực quốc phòng, xây dựng quân đội, phương thức
lãnh đạo của Đảng trước hết phải bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về
mọi mặt của Đảng về chiến lược, chiến dịch và chiến đấu, về tư tưởng và tổ
chức; về con người và trang bị vũ khí nhằm phát huy sức mạnh tập thể và sức
sáng tạo của mọi công dân, cán bộ, chiến sỹ, tăng cường được nền tảng chính
trị-tinh thần của lực lượng vũ trang nói chung, quân đội nói riêng.
Trong tình hình hiện nay, cuộc đấu tranh giai cấp, đấu
tranh dân tộc diễn ra ngày càng gay go, quyết liệt và phức tạp, nên Ban Chấp
hành Trung ương, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương phải lãnh đạo chặt chẽ sự
nghiệp xây dựng, củng cố quốc phòng, xây dựng quân đội theo phương hướng cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, lấy xây dựng quân đội vững mạnh
về chính trị làm cơ sở.
Nếu thiếu lãnh đạo cụ thể, không kiểm tra chặt chẽ việc
thực hiện quan điểm, chủ trương, nhiệm vụ tăng cường quốc phòng, an ninh và xây
dựng quân đội của Đảng và Nhà nước thì không những làm suy yếu sự lãnh đạo của
Đảng trong xây dựng nền QPTD bảo vệ Tổ quốc, mà còn đưa đến những hậu quả khôn
lường.
khucvu2
LỰC LƯỢNG VŨ TRANG TÍCH CỰC THAM GIA PHÒNG CHỐNG CÓ HIỆU QUẢ DIỄN BIẾN HÒA BÌNH CỦA ĐỊCH
Lực
lượng quân đội tham gia phòng chống âm mưu, thủ đoạn của các thế lực
thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá, bao gồm bộ đội chủ lực,
bộ đội địa phương, bộ đội Biên phòng... mỗi lực lượng có chức năng, nhiệm vụ
khác nhau. Vì vậy, tổ
chức, sử dụng lực lượng hợp lý, khoa học các lực lượng, phát huy đúng khả năng,
sở trường, thế mạnh của từng lực lượng sẽ góp phần tạo thành sức mạnh tổng hợp,
hình thành thế trận vững chắc ngăn ngừa, đẩy lùi âm mưu, thủ đoạn của các thế
lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá.
Thực
hiện yêu cầu này, các đơn vị bộ đội chủ lực, bộ đội Biên phòng và bộ đội địa
phương hoạt động trên địa bàn phải quán triệt sâu sắc đường lối, quan điểm của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phòng chống âm mưu, thủ đoạn của
các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá, khả năng về
lực lượng, phương tiện và thế mạnh của mình; biết phát huy những yếu tố thuận
lợi, khắc phục những khó khăn về lực lượng, phương tiện, môi trường hoạt động
để tiến hành các nhiệm vụ phòng chống phù hợp, đạt hiệu quả cao.
Đây là
yêu cầu chỉ đạo nghệ thuật phát huy sức mạnh tổng hợp trong phòng chống âm mưu,
thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá.
Hiệu quả Quân đội tham gia phòng chống âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù
địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá phụ thuộc vào rất nhiều yếu
tố, trong đó phải phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền địa phương để phát
huy sức mạnh tổng hợp để phòng chống đạt hiệu quả cao.
Kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện sa sút về tư tưởng chính trị, vô trách nhiệm, vụ lợi cá nhân, vi phạm những chuẩn mực đạo đức, lối sống. Chủ động phòng ngừa, đấu tranh, phê phán những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ Đảng. Giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội.
Thực
hiện yêu cầu này, các đơn vị quân đội hoạt động trên địa bàn phải bám sát nhiệm
vụ chính trị của địa phương, tham mưu, đề xuất với cấp ủy, chính quyền, phối
hợp chặt chẽ với các ban, ngành, đoàn thể địa phương tuyên truyền, vận động nhân
dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước; kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của địa
phương; tích cực tham gia các chương trình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội,
xây dựng nông thôn mới, giúp dân xóa đói, giảm nghèo, phòng tránh khắc phục hậu
quả thiên tai, tìm kiếm cứu nạn...
khucvu1
NGUYỄN
LÂN THẮNG - CHÁU TRAI GIA TỘC NGUYỄN LÂN
VƯỚNG
VÒNG LAO LÝ
Vậy
Nguyễn Lân Thắng là ai và phạm tội gì?
Thực ra, sẽ chẳng ai biết Nguyễn Lân Thắng là ai, nếu anh ấy không may mắn sinh ra
và lớn lên trong một gia tộc Nguyễn Lân danh giá - gia tộc mà cả đất nước Việt Nam kính trọng về trí tuệ cũng như là về những cống hiến đóng góp cho đất nước.
Nguyễn
Lân Thắng sinh ra trong một gia đình trí thức hàng đầu ở Việt Nam, là cháu của
Nhà giáo Nhân dân Nguyễn Lân; là con của Phó Giáo sư – Tiến sĩ Nguyễn Lân
Tráng, giảng viên bộ môn Hệ thống điện, khoa Điện, trường Đại học Bách khoa Hà
Nội; Là cháu của Giáo sư – Tiến sĩ Nguyễn Lân Dũng, Giám đốc Trung tâm vi sinh
vật học ứng dụng, đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa X, XI, XII, giảng viên khoa
Sinhhọc trường Đại học Khoa học tự nhiên - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Mặc
dù sở hữu lý lịch mà nhiều người mơ ước nhưng Nguyễn Lân Thắng đã chạy theo
danh lợi và bị những người đồng đảng sử dụng như một con cờ chính trị và sẵn sàng
quay lưng với tổ quốc.
Và vào chiều 5/7/2022, Cơ quan An ninh điều tra Công an TP.Hà Nội cho biết, cơ quan này đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can và thực hiện lệnh bắt bị can để tạm giam đối với Nguyễn Lân Thắng (47 tuổi, trú ngõ Thịnh Quang, P.Tịnh Quang, Q.Đống Đa, Hà Nội) để làm rõ tội “làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, quy định tại điều 117 Bộ Luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Mức phạt tù mà Nguyễn Lân Thắng có thể
chịu nếu phạm tội trên?
Căn cứ Điều 117 Bộ luật hình sự năm 2015, luật sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định về tội làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cụ thể như sau:
"Điều 117. Tội làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin,
tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
1. Người nào có một trong những hành vi sau đây nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm:
a) Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm có nội
dung xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân;
b) Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm có nội
dung bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân;
c) Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm gây
chiến tranh tâm lý.
2. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ 10 năm đến
20 năm.
3. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm".
Khái niệm tuyên truyền có thể hiểu là đi ngược lại, chống lại, khiến người khác hiểu sai lệch, mang tính chất suy diễn không có bằng chứng cụ thể. Các hành vi làm, tàng trữ, phát tán, tuyên truyền, xuyên tạc những nội dung lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam, Chính sách pháp lý của nhà nước hoặc phỉ báng chính quyền nhân dân, tuyên truyền bịa đặt gây hoang mang trong quần chúng nhân dân hoặc tạo ra, làm ra những tài liệu, văn hóa phẩm có nội dung chống phá nhà nước thì đều có nguy cơ bị xử lý hình sự với mức phạt tù từ 05 năm đến 12 năm, trong trường hợp đặc biệt nghiệm trọng có thể bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Trường hợp Nguyễn Lân Thắng bị bắt về tội làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền
thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì có thể chấp hành mức phạt tù từ 05 năm đến 20 năm tùy theo mức độ phạm tội.
Cảnh giác trước luận điệu đánh tráo bản chất “Tự do báo chí”
Lợi dụng việc
đối tượng tuyên truyền xuyên tạc, chống phá chính quyền nhân dân bị cơ quan
tiến hành tố tụng khởi tố, điều tra, xét xử, những phần tử cơ hội chính trị,
phản động và một số tổ chức thiếu thiện chí đã quy chụp, xuyên tạc vấn đề tự do
báo chí ở Việt Nam. Thủ đoạn đánh lận này tuy không mới nhưng thường được các
đối tượng chống phá “làm nóng”, tạo sóng dư luận.
Theo kế hoạch, ngày 4/11/2021, TAND TP
Hà Nội sẽ mở phiên tòa xét xử bị cáo Phạm Thị Đoan Trang (SN 1978, trú tại quận
Cầu Giấy, Hà Nội) về tội “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam”.
Theo cáo trạng, trong khoảng thời gian từ ngày 16/11/2017 đến 5/12/2018, Phạm
Thị Đoan Trang có hành vi làm, tàng trữ, lưu hành các tài liệu, bài viết có nội
dung nhằm chống Đảng, Nhà nước Việt Nam. Ngoài ra, đối tượng này cũng thường
xuyên trả lời phỏng vấn trên truyền thông nước ngoài với nội dung xuyên tạc
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, phỉ báng chính quyền
nhân dân, phao tin bịa đặt gây hoang mang dư luận.
TAND
cấp cao tại Hà Nội cũng đã có kế hoạch mở phiên tòa phúc thẩm xét xử Trịnh Bá
Phương, Nguyễn Thị Tâm (trú tại Dương Nội, Hà Đông, Hà Nội) về tội “Làm, tàng
trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà
nước Cộng hòa XHCN Việt Nam” theo Điều 117, BLHS năm 2015.
Theo
hồ sơ vụ án, do có tư tưởng tiêu cực, bất mãn, các đối tượng trên sử dụng tài
khoản Facebook cá nhân phát trực tiếp nhiều video có nội dung nhằm chống Nhà
nước, xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân.
Các
video trên sau khi đăng tải được nhiều đối tượng có tư tưởng chống chế độ, Nhà
nước theo dõi, bình luận, bôi nhọ, phỉ báng, kích động chống chính quyền; vu
khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, bôi nhọ lãnh đạo Đảng, Nhà nước.
Vừa
qua, Công an Lâm Đồng phối hợp với Công an TP Hồ Chí Minh đã thi hành quyết
định khởi tố bị can, lệnh bắt bị can để tạm giam và lệnh khám xét chỗ ở đối với
Nguyễn Đoàn Quang Viên (SN 1982, HKTT tại Đinh Văn, Lâm Hà, Lâm Đồng; cư trú
tại phường Bến Thành, quận 1, TP Hồ Chí Minh) về tội “Hoạt động nhằm lật đổ
chính quyền nhân dân”. Điểm chung của những đối tượng trên là đều lấy danh
nghĩa “tự do báo chí, ngôn luận”, “dân chủ, nhân quyền” để làm, tàng trữ, phát
tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Đảng, Nhà nước
hoặc nhằm lật đổ chính quyền nhân dân.
Đứng
ra bênh vực, bảo vệ cho những nhân vật mà họ gọi là “nhà báo độc lập”, “nhà báo
tự do”, “nhà báo không lề”, một số tổ chức, hội nhóm phản động rêu rao xuyên
tạc chính quyền Việt Nam đã “đàn ápbáo chí”, “tấn công vào nền tự do báo chí và
hoạt động báo chí độc lập”...
Một
số tổ chức có quan điểm, tư tưởng chống phá Việt Nam như Tổ chức phóng viên
không biên giới (RSF), Tổ chức Bảo vệ ký giả (CPJ), Tổ chức theo dõi nhân quyền
(HRW), Ngôi nhà tự do (Freedom House), Đài Á châu tự do (RFA)... đăng tải nhiều
bài viết, hình ảnh xuyên tạc, vu cáo Việt Nam “đàn áp tự do ngôn luận, tự do
báo chí”, vi phạm quyền con người, quyền tự do ngôn luận đã được nêu trong Công
ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị.Từ đó, họ lên tiếng đòi “phải trả
tự do ngay lập tức cho những “nhà báo tự do” đang bị giam giữ”.
Cần
khẳng định rằng, các cá nhân nêu trên là những đối tượng có hoạt động lợi dụng
vấn đề tự do báo chí, ngôn luận để có hành vi vi phạm pháp luật hình sự Việt
Nam, đã hoặc đang bị điều tra, xét xử. Một số tổ chức quốc tế đứng ra kêu gọi,
bảo vệ, bẻ lái vụ việc nói trên, núp bóng “tự do báo chí”, “bảo vệ nhân quyền”…
để bóp méo, xuyên tạc làm sai lệch bản chất vụ việc nhằm chống phá, chính trị
hóa các vụ việc hình sự nói trên.
Tự do báo chí phải đặt trong khuôn khổ pháp luật
Trước
hết cần thấy, tự do báo chí là quyền tự do cơ bản, thiêng liêng, biểu hiện cho
sự tiến bộ, phát triển của xã hội. Mặt khác cũng cần hiểu tự do báo chí không
phải là tự do chung chung, tự do vô bờ bến, tự do không có giới hạn mà bao giờ
nó cũng phải gắn và nằm trong khuôn khổ pháp luật.Vấn đề có tính nguyên tắc
trong tư tưởng lập pháp được mọi quốc gia thừa nhận, vận dụng, thể chế hóa
thành các quy phạm pháp luật là tự do luôn gắn liền với trách nhiệm, quyền lợi
luôn gắn liền với nghĩa vụ.
Mối
quan hệ phổ biến này nhằm mục tiêu chính đáng, khoa học, khách quan, bảo đảm
cho tự do của mỗi người không làm mất đi hay ảnh hưởng tiêu cực đến tự do của
người khác và của cộng đồng, xã hội. Do vậy, tự do báo chí phải đặt trong khuôn
khổ pháp luật và bao gồm cả những quy tắc đạo đức xã hội. Trong khuôn khổ, quy
tắc ấy, tự do báo chí được thừa nhận, tôn trọng và bảo vệ; báo chí sẽ thực hiện
tốt vai trò của mình, tạo môi trường thông tin lành mạnh, là phương tiện hữu
hiệu thúc đẩy phát triển xã hội, phục vụ mục tiêu tốt đẹp cho con người.
Nằm
ngoài điều đó, báo chí sẽ trở thành tự do vô chính phủ, trở thành công cụ chính
trị chống phá lẫn nhau giữa các đảng phái, giai cấp, nhà nước, giữa các quốc
gia, dân tộc, tác động tiêu cực đến độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Như vậy, tự do báo chí không thể
vượt ra ngoài khuôn khổ của pháp luật.
Thực
tế,tự do báo chí ở phương Tây mà một số người ca ngợi, cổ súy có phải là thứ tự
do không giới hạn, nằm ngoài khuôn khổ pháp luật? Theo Hiến pháp Hoa Kỳ (năm
1791) thì Quốc hội Mỹ không được phép ban hành bất cứ văn bản nào hạn chế tự do
ngôn luận và báo chí. Nhưng theo nhiều văn bản pháp luật khác, ví dụ đạo luật
năm 1798 thì sẽ là tội phạm nếu viết, in, phát biểu và phổ biến những văn bản
sai sự thật, cố ý xúc phạm hay chống lại chính quyền.
Ngay
trong Bộ luật Hình sự Mỹ ghi rõ: “Nghiêm cấm mọi hành vi in ấn, xuất bản, biên
tập, phát thanh, truyền bá, buôn bán, phân phối hoặc trưng bày công khai bất kỳ
tài liệu viết hoặc in nào có nội dung vận động, xúi giục hoặc giảng giải về
trách nhiệm, sự cần thiết tham vọng, tính đúng đắn của hành vi lật đổ hoặc tiêu
diệt bất kỳ chính quyền cấp nào tại Mỹ bằng vũ lực hay bạo lực”.
Hay
như ở Ðức, các quy định cụ thể về tự do báo chí thuộc thẩm quyền của các tiểu
bang. Thí dụ, Luật Báo chí ở tiểu bang Bavaria ghi rõ: “Chống lại các loại văn
chương bẩn thỉu và độc hại là nhiệm vụ của Nhà nước và các cơ quan địa phương.
Sự hưởng thụ tự do cho mỗi người đều phụ thuộc vào việc tất cả mọi người thực
hiện nghĩa vụ trung thành với nhân dân, Hiến pháp, Nhà nước và luật pháp”.
Ðức
còn có lực lượng của các cơ quan nhà nước theo dõi sách báo, tin tức do các cá
nhân và tổ chức phát tán trên mạng để thu thập tin tức và bằng chứng, khi cần
thiết sẽ phục vụ cho các thủ tục xét xử hình sự… Như vậy, tự do báo chí ở
phương Tây hay bất cứ quốc gia nào cũng không nằm ngoài khuôn khổ pháp luật.
Hiểu tự do ngôn luận, tự do báo chí như vậy sẽ giúp nhìn nhận, đánh giá khách
quan về tự do báo chí ở Việt Nam.
Thực
tiễnđược cộng đồng quốc tế đánh giá cao là tình hình nhân quyền ở Việt Nam nói
chung, tự do ngôn luận, báo chí nói riêng đã liên tục phát triển. Tuy nhiên,
bất chấp thực tế đó, các thế lực thù địch, phản động vẫn coi đây là một chiêu
bài để chống phá Việt Nam.
Thủ
đoạn của quan điểm, luận điệu này thể hiện ở chỗ:
(1).
Lợi dụng vào vấn đề tự do báo chí, những điểm khác nhau trong quy định của luật
pháp Việt Nam và các nước để xuyên tạc.Từ đó nhằmlàm mất niềm tin vào nền báo
chí, những thông tin, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước
mà báo chí chuyển tải.
(2). Cố tình đánh đồng hiện tượng để quy
kết thành bản chất. Lấy sự việc số đối tượng tự xưng là “nhà báo độc lập”, “nhà
báo tự do”, blocger… vi phạm pháp luật hình sự để quy kết thành bản chất là
Việt Nam không có tự do báo chí.
(3). Kích động, cổ súy, bảo trợ cho
những đối tượng lợi dụng tự do báo chí nói trên để chống phá Việt Nam.
(4).
Lợi dụng vấn đề tự do báo chí để công kích, lấy đó như một cái cớ để tổ chức
phản động và tổ chức khác vốn có cái nhìn thiếu thiện cảm đối với Việt Nam báo
cáo, suy diễn, xuyên tạc, làm méo mó hình ảnh đất nước, con người, tình hình
Việt Nam, từ đó gây sức ép lên nhiều vấn đề kinh tế, chính trị, ngoại giao của
Việt Nam.
Đằng
sau quan điểm, luận điệu xuyên tạc Việt Nam không có tự do báo chí là ý đồ sâu
xa cố tình phê phán thể chế chính trị, vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý
của Nhà nước và hệ thống chính trị trong đời sống xã hội ở Việt Nam; cố tình ca
ngợi, cổ súy, hướng lái, thúc đẩy cái gọi là giá trị “tự do, dân chủ, nhân
quyền” phương Tây. Do đó, vấn đề “tự do báo chí” cần được hiểu đúng và nhận
diện rõ âm mưu, ý đồ xấu để lên án, đấu tranh.
“Thưa bà, nếu nói về dân chủ, nhân quyền, Mỹ không đủ tư cách nói chuyện với Việt Nam đâu”.
Nhân Chủ tịch Hạ viện Mỹ Nancy Pelosi thăm chính thức Đài Loan, mình đăng
lại câu chuyện "Bà Chủ tịch Hạ viện Mỹ Pelosi và Nguyên Chủ tịch nước
Nguyễn Minh Triết".
Sau khi Mỹ và Việt Nam chính thức nối lại bang giao, nhiều người phía Mỹ
vẫn mạnh mẽ chống đối Việt Nam. Khi nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết qua
Mỹ vẫn còn gặp khó khăn, họ thiết kế một chương trình tiếp xúc, cuộc gặp gỡ đầu
tiên với - Chủ tịch Hạ viện Mỹ, bà Nancy Pelosi.
Vào cuộc gặp, chưa kịp ngồi, bà Nancy Pelosi đã tuôn một tràng rằng, Việt
Nam đã bình thường hóa quan hệ với Mỹ để cùng nhau phát triển. Nhưng Việt Nam
cứ vi phạm dân chủ, vi phạm nhân quyền, làm những việc sai trái, Mỹ không thể
chấp nhận.
Chờ bà Nancy Pelosi nói nói xong, nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Văn Triết mới
nhỏ nhẹ đáp lại thẳng thắn: “Thưa bà, nếu nói về dân chủ, nhân quyền, Mỹ không
đủ tư cách nói chuyện với Việt Nam đâu”.
Nghe như vậy, bà Pelosi sửng sốt: “Thế là thế nào ?”.
Nguyên Chủ tịch nước đanh thép trả lời: “Ngày trước, Mỹ mang bom đạn xâm
lược Việt Nam, gây bao nhiêu mất mát, đau khổ cho Việt Nam, Việt Nam đã bỏ qua.
Hôm nay, Việt Nam đã gác lại quá khứ, hướng đến tương lai. Còn hiện tại, Mỹ vẫn
còn có quân ở Iraq, Afghanistan, ở nhiều nơi khác trên thế giới. Bom đạn vẫn còn
nổ, máu vẫn còn đổ, người vẫn còn chết,… Mỹ cũng vi phạm dân chủ nhân quyền”.
Bà Pelosi im lặng, nhưng ông trợ lý ngồi bên cạnh liền cầm tấm ảnh chụp
Nguyễn Văn Lý bị bịt miệng đưa lên, rồi hỏi: “Ông có thấy tấm ảnh này không?”.
Nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết bình tĩnh trả lời rằng: “Đây là việc
làm sai trái của một cán bộ của chúng tôi và chúng tôi đã xử lý nghiêm khắc
rồi. Nhưng các ông có biết, hôm đó, tại phiên tòa, ông Lý cũng buông những lời
lẽ khó nghe như thế nào không? Vì những lời lẽ ấy nên cán bộ chúng tôi mới có
vi phạm như thế. Nhưng dù gì đi nữa, cán bộ của chúng tôi sai, chúng tôi đã
phải xử lý. Ngay tại Mỹ, cảnh sát Mỹ cũng sai phạm như đánh người, đánh dân, có
những hành động sai trái trên đường phố. Tôi nghĩ rằng, sai trái này chỉ là cá
biệt. Không phải là chủ trương của lãnh đạo, chúng ta phải xử lý, làm cho tốt
hơn”.
Sau cuộc gặp đó, mọi chuyện êm xuôi. Họ tiếp đoàn lãnh đạo cấp cao của Việt
Nam rất nồng hậu. Đặc biệt, hôm gặp Tổng thống Mỹ G.Bush (con), ông ấy không đả
động gì đến chuyện dân chủ, nhân quyền nữa. Cuộc trò chuyện diễn ra vui vẻ.