Từng là một giáo viên dạy Văn học, Ngôn ngữ, lại có nhiều năm công tác tại các xã, huyện khó khăn ở vùng Tây Bắc, sau đó công tác tại các cơ quan báo chí, văn nghệ, rồi chuyên tâm nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh, PGS, TS Nguyễn Thanh Tú đặc biệt yêu thích tư tưởng nhân văn và ngôn ngữ biểu cảm trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
PGS, TS Nguyễn Thanh Tú cho rằng, Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh tích hợp cái thâm trầm, sâu lắng, ý tại ngôn ngoại của văn hóa phương Đông; cái chi tiết, cụ thể nhưng đầy hình tượng của lối tư duy phương Tây; bao trùm lên tất cả là tinh thần cách mạng, khoa học, chiều sâu nhân văn của lý luận Mác - Lênin. Phong cách tư duy, chất trí tuệ, ngôn ngữ giản dị, gần gũi với đời thường nhưng có sức lay động tâm can của nhà hiền triết Hồ Chí Minh.
Ấy thế nhưng, bình sinh Bác là người lạc quan, hài hước. Phong cách ngôn ngữ của Bác cũng là một phong cách giàu chất lạc quan. Ngay đến khi phải viết những lời cuối cùng để vĩnh biệt, Người vẫn luôn lạc quan, chan chứa tình cảm với dân với nước, tha thiết tình người, lòng cao thượng, trong sáng và đẹp đẽ.
Yếu tố ngôn ngữ trong Di chúc của Người từng chữ, từng lời đều chân thật, gần gũi, giản dị như chính con người của Người, vì thế mỗi câu, mỗi đoạn và cả bản Di chúc đã lay động, thấm đến triệu triệu trái tim nhân dân Việt Nam. “Cuối cùng tôi để lại muôn vàn tình thương yêu…”, một cách nói sao mà thân thuộc. Chỉ riêng hai tiếng “muôn vàn” thôi cũng đủ để toàn dân hiểu rằng, tình cảm của Bác với toàn thể nhân dân, cán bộ, chiến sĩ mọi miền Tổ quốc là không thể đo đếm.
Theo PGS, TS Nguyễn Thanh Tú, từ cách sử dụng ngôn ngữ như vậy làm toát lên trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bao trùm lên tất cả chính là chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh, luôn hướng về con người, giải phóng con người. Trong bản Di chúc, có thể thấy tình yêu thương con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện ở sự quan tâm tinh thần chủ nghĩa nhân văn cao cả cùng những việc làm thiết thực cho từng đối tượng, vì từng đối tượng.
Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình, Bác căn dặn: … “Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần “tự lực cánh sinh”. Đối với liệt sĩ, mỗi địa phương (thành phố, làng, xã) cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm... Đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sĩ) mà thiếu sức lao động và túng thiếu, thì chính quyền địa phương (nếu ở nông thôn thì chính quyền xã cùng hợp tác xã nông nghiệp) phải giúp đỡ họ có công ăn việc làm thích hợp...”.
Trong chiến lược về xây dựng con người, Hồ Chí Minh đặc biệt coi trong việc đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ. Người rất quan tâm tới những chiến sĩ trẻ tuổi trong các lực lượng vũ trang nhân dân và thanh niên xung phong đã được rèn luyện trong chiến đấu và căn dặn: “Đảng và Chính phủ cần chọn một số ưu tú nhất, cho các cháu ấy đi học thêm các ngành, các nghề, để đào tạo thành những cán bộ và công nhân có kỹ thuật giỏi, tư tưởng tốt, lập trường cách mạng vững chắc. Đó là đội quân chủ lực trong công cuộc xây dựng thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở nước ta”. Đây là tư tưởng thể hiện rất rõ sự thống nhất giữa tính nhân văn cộng sản và tầm nhìn chiến lược về lựa chọn, bồi dưỡng phát huy nhân tố con người của Bác.
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn dành sự quan tâm sâu sắc đến việc bồi dưỡng, cất nhắc, giúp đỡ phụ nữ, để họ tiến bộ, bình đẳng và thật sự được giải phóng. Người căn dặn: “Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo. Bản thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên. Đó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ". Đối với nông dân là những người luôn luôn trung thành với Đảng và Chính phủ, ra sức góp của góp người trong kháng chiến, Bác đề nghị: "Miễn thuế nông nghiệp 1 năm cho các hợp tác xã nông nghiệp để cho đồng bào hỉ hả, mát dạ, mát lòng, thêm niềm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất...".
Ngay cả đối với những người Việt Nam lầm lỡ, trước đây làm việc cho chế độ cũ hoặc không lương thiện trong chế độ xã hội cũ, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ gọi họ là "nạn nhân của chế độ xã hội cũ" và nhắc nhở: "Nhà nước phải dùng vừa giáo dục, vừa dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp họ trở nên những người lao động lương thiện".
Có thể thấy rõ, tính nhân văn trong Di chúc của Người không chỉ là lòng thương yêu con người sâu sắc. Mà đó còn là sự quan tâm, biết ơn, trân trọng, tin tưởng vào sức mạnh của con người, quyết tâm hành động để mang lại hạnh phúc, ấm no cho con người, giải phóng con người.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét