Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người hội tụ, kết tinh trí tuệ và tư tưởng, tình cảm và đạo đức, nhân cách và lối sống của con người và dân tộc Việt Nam. Người tiêu biểu cho cốt cách và bản lĩnh, lương tâm và khí phách của thời đại.
Nhà báo người Liên Xô Ô. Man-đen-xtam
từng nói: “Từ Nguyễn Ái Quốc đã tỏa ra một thứ văn hóa, không phải văn
hóa Âu Châu, mà có lẽ là một nền văn hóa của tương lai”. Đó là nền văn hóa
độc lập, tự do, hạnh phúc cho dân tộc Việt Nam và nhân loại! Vì vậy, khi Người
đi vào cõi vĩnh hằng, trong Điếu văn, Tổng Bí thư Lê Duẫn đã đọc trước nhân
dân: “Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ
tịch - Người anh hùng dân tộc vĩ đại, và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta,
nhân dân ta, non sông đất nước ta”. Tên Người sống mãi với non sông Việt
Nam, trường tồn cùng dân tộc.
Người
tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, thành lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam
- nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam
Tận mắt chứng kiến dân tộc Việt Nam chìm đắm
trong “đêm trường nô lệ” và các phong trào đấu
tranh yêu nước đều lần lượt thất bại, vì thiếu một đường lối cứu nước đúng đắn,
với lòng yêu nước nồng nàn, nhãn quan chính trị thiên tài, ngày 5-6-1911, với
tên gọi Văn Ba, người thanh niên Nguyễn Ái Quốc nhận làm phụ bếp trên con tàu
A-mi-ran La-tu-sơ Tơ-rê-vin, rời Cảng Nhà Rồng với quyết tâm phải tìm bằng được
con đường cứu nước, giải phóng dân tộc.
Quá trình bôn ba tìm
đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã hoà mình vào quần chúng cần lao,
đến các vùng nông thôn hẻo lánh ở Niu Oóc, Luân-đôn, Pa-ri, Thái Lan, Trung
Quốc... để tìm hiểu các phong trào cách mạng thế giới như: cách mạng Mỹ năm
1776, cách mạng Pháp năm 1789 và phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc
địa, phụ thuộc. Người sớm nhận thấy rằng: “Kách mệnh Mỹ cũng như kách
mệnh Pháp nghĩa là kách mệnh tư bản, kách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa
và dân chủ, kỳ thực thì nó tước đoạt công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa”. Tháng
11-1917, cách mạng Tháng Mười Nga nổ ra và giành thắng lợi, phá vỡ mắt xích yếu
nhất trong sợi dây chuyền đế quốc chủ nghĩa, lập ra Nhà nước công nông đầu tiên
trên thế giới. Cuộc cách mạng vĩ đại năm 1917 đã đưa học thuyết cách mạng của
Mác-Lênin trở thành hiện thực đầu tiên ở nước Nga Xô-viết, đưa cách mạng thế
giới bước vào thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH.
Năm 1920, tại Pa-ri, Pháp đã diễn ra cuộc gặp
gỡ lịch sử giữa Nguyễn Ái Quốc và Chủ nghĩa Mác-Lênin qua Bản Sơ thảo lần thứ
nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lê-nin,
đăng trên Báo Nhân đạo của Đảng Xã hội Pháp. Luận cương của V.I. Lê-nin đã chỉ
ra con đường giải phóng dân tộc, nên Bác reo lên một mình như nói cùng dân tộc: “Cơm
áo là đây! Hạnh phúc đây rồi!”. Người nói: “Đề cương
của Lê-nin làm tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ tin tưởng biết bao. Tôi vui
mừng đến phát khóc lên; ngồi một mình trong buồng mà tôi muốn nói to lên như
đang nói trước quần chúng đông đảo: Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ, đây là cái
cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”.
Với lập trường yêu nước đúng đắn, Người vạch
ra chân lí:“Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác
con đường cách mạng vô sản”. Và “Chỉ có CNXH, chủ nghĩa
Cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức”. Kết luận này
khẳng định sự chuyển biến sâu sắc trong tư duy của Nguyễn Ái Quốc, từ người yêu
nước chân chính trở thành người cộng sản - người đảng viên cộng sản đầu tiên
của Việt Nam; Người đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế III và tham gia thành lập
Đảng Cộng sản Pháp; hình thành con đường cứu nước, giải phóng dân tộc Việt Nam.
Năm 1924, Nguyễn Ái Quốc bí mật trở về Quảng
Châu (Trung Quốc). Trên cương vị mới, Người vừa làm phiên dịch cho đồng chí
Bô-rô-din - cố vấn Liên Xô bên cạnh Chính phủ cách mạng Quốc dân đảng - vừa phụ
trách mục tuyên truyền trong tờ báo Canon Gazette - Báo viết bằng tiếng Anh của
Trung ương Quốc dân đảng. Đây là điều kiện thuận lợi nhất để Người truyền bá Chủ
nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam. Người tiếp xúc với những thanh niên yêu nước hăng
hái nhất trong nhóm Tâm Tâm Xã như Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Phong...
Tháng 5-1925, Người lập ra Hội Việt Nam cách mạng thanh niên - tổ chức tiền
thân của Đảng Cộng sản Việt Nam. Với sự giúp đỡ tận tình của các đồng chí Trung
Quốc, Hội bí mật đưa một số thanh niên trong nước sang Quảng Châu tham gia các
lớp học chính trị. Hội ra tờ Báo Thanh Niên, bí mật truyền bá Chủ nghĩa
Mác-Lênin vào phong trào đấu tranh của công nhân và quần chúng nhân dân. Qua
đó, Người tích cực chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành
lập một đảng mác-xít ở Việt Nam.
Khi Chủ nghĩa Mác-Lênin đã thật sự thâm nhập
sâu vào phong trào công nhân và chiếm ưu thế trong phong trào yêu nước Việt
Nam, ba tổ chức cộng sản lần lượt ra đời, khẳng định bước phát triển quan trọng
của phong trào cách mạng Việt Nam. Trước yêu cầu lịch sử, với tư cách là phái
viên của Quốc tế cộng sản, Nguyễn Ái Quốc triệu tập Hội nghị hợp nhất ba tổ
chức cộng sản thành một đảng duy nhất: Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 3-2-1930
tại Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc). Hội nghị thông qua Cương lĩnh đầu tiên
của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, chỉ rõ nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là
đánh đuổi chủ nghĩa thực dân Pháp và phong kiến tay sai, giành độc lập cho dân
tộc và ruộng đất cho dân cày… đã thể hiện rõ mục tiêu duy nhất của cách mạng
Việt Nam “làm tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng để tiến
tới xã hội cộng sản”(7). Lần đầu tiên, cách mạng Việt Nam có một cương lĩnh
chính trị phản ánh đúng tình hình và quy luật khách quan của xã hội Việt Nam,
phù hợp với xu thế thời đại: “Cương lĩnh ấy rất phù hợp với nguyện vọng
thiết tha của đại đa số nhân dân ta là nông dân. Vì vậy, Đảng đã đoàn kết được
lực lượng cách mạng to lớn chung quanh giai cấp mình”.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam,
cách mạng Việt Nam đã vượt qua muôn vàn khó khăn thử thách, liên tiếp giành
thắng lợi trong các giai đoạn 1930-1931, 1936-1939, tạo ra thế và lực mới,
giành thắng lợi khi có thời cơ. Nguyễn Ái Quốc luôn theo sát từng bước phát
triển của cách mạng Việt Nam, tìm mọi cách đề nghị với Quốc tế cộng sản bố trí
công tác phù hợp để tham gia trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng trong
nước. Được sự nhất trí của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc rời Mát-xcơ-va với
nhiệm vụ “đến Trung Quốc để công tác trong Đảng Cộng sản Đông Dương”.
Đây là điều kiện vô cùng quan trọng, thời điểm khảo sát, tiếp cận và chuẩn bị
những tiền đề cần thiết cho cuộc “đột nội”, trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo cách
mạng Việt Nam. Ngày 28-1-1941, Nguyễn Ái Quốc về tới cột mốc 108, biên giới
Việt - Trung thuộc xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng, Người đứng lặng
hồi lâu bồi hồi, xúc động trào dâng “Bao nhiêu năm thương nhớ, đợi
chờ, hôm nay mới bước chân về nơi non sông gấm vóc của mình”… Sự
kiện lịch sử này đã được thực tiễn cách mạng minh chứng, Cao Bằng, nơi có suối
Lê-nin, núi Các Mác đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ là trung tâm đầu não của
phong trào cách mạng cả nước, mở ra một tương lai sán lạn của cách mạng nước
nhà. Người quyết định chọn Cao Bằng là điểm đặt chân đầu tiên và làm trung tâm
“cơ quan đầu não” chỉ đạo cách mạng Việt Nam sau ba mươi năm bôn ba tìm đường
cứu nước.
Người trực tiếp tổ chức, lãnh đạo cách mạng
Việt Nam giành thắng lợi
Sau khi khảo sát, nghiên cứu, đánh giá tình
hình, ngày 19-5-1941, tại Khuổi Nậm, Pác Pó, Cao Bằng, Nguyễn Ái Quốc chủ trì
Hội nghị Trung ương lần thứ 8. Trên cơ sở đường lối chuyển hướng chỉ đạo chiến
lược của Đảng trong Hội nghị Trung ương 6 và 7, Hội nghị Trung ương 8 phát
triển và hoàn chỉnh chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, đặt nhiệm vụ
chống đế quốc giải phóng dân tộc lên hàng đầu, nhiệm vụ chống phong kiến và các
nhiệm vụ dân chủ khác phải rải ra thực hiện từng bước. Người chỉ rõ: “Trong
lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết
lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi
lửa nóng”. Vì vậy, “bước đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương
không còn có con đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống
tất cả ách ngoại xâm, vô luận da trắng hay da vàng để giành lấy giải phóng độc
lập”. Đây là sự chuyển hướng quan trọng nhất về chỉ đạo chiến lược. Đảng ta
khẳng định: “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải
phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc thì chẳng những toàn
thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận, giai
cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.
Hội nghị Trung ương 8 của Đảng là sự gặp gỡ
giữa tư tưởng giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc với chủ trương giải phóng
dân tộc của Trung ương Đảng. Đường lối này không những khắc phục quan điểm về
đấu tranh giai cấp, mà còn tạo điều kiện cho tư tưởng giải phóng dân tộc của
Bác Hồ tiếp tục phát triển, đưa lại thắng lợi cho cách mạng Việt Nam. Cũng từ
đây, Mặt trận Việt Minh ra đời - một chủ trương mang tính chiến lược, sáng tạo
của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, nhằm đoàn kết hết thảy các lực lượng yêu nước không
phân biệt dân tộc, giai cấp, đảng phái, giai cấp, là người Việt Nam đoàn kết
trong một mặt trận để cứu nước, giải phóng dân tộc. Thể hiện rõ chính
sách “dân tộc tự quyết”, hợp với nguyện vọng của toàn thể nhân
dân, giai cấp, các dân tộc Đông Dương, hợp với cuộc đấu tranh chung của toàn
thế giới chống phát xít xâm lược, bảo đảm cho cách mạng Đông Dương thành công.
Trước sự biến đổi sâu sắc của tình hình, Đảng
và Bác Hồ đã đưa ra một vấn đề hết sức cần kíp lúc này là chuẩn bị các lực
lượng cách mạng. Trong đó, hướng phát triển lực lượng chính trị, lực lượng vũ
trang, căn cứ địa cách mạng và đưa Đảng vào hoạt động bí mật, các đội Cứu quốc
quân I, II, III lần lượt ra đời, khẩn trương triển khai xây dựng các đội tự vệ,
du kích, huy động nhân dân quyên góp tiền của để mua sắm vũ khí. Ngày
22-12-1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân ra đời đã liên tiếp đánh
thắng hai trận Phai Khắt, Nà Ngần. Chiến thắng đầu tiên của Đội cùng với những
thắng lợi của Cứu quốc quân, các đội du kích, tự vệ ở các địa phương đã góp
phần củng cố, mở rộng khu căn cứ cách mạng Cao - Bắc - Lạng, Thái - Hà - Tuyên,
cổ vũ, động viên toàn dân đẩy mạnh phong trào đấu tranh, chuẩn bị khởi nghĩa vũ
trang.
Ngày 9-5-1945, Đức đầu hàng Đồng minh.
Ngày 15-8-1945, Nhật đầu hàng Đồng minh. Trong nước, Chính phủ tay sai
Trần Trọng Kim tê liệt, phong trào đấu tranh của quần chúng phát
triển mạnh mẽ. Đêm 13-8-1945, khi Ủy ban Khởi nghĩa ra Quân lệnh số 1 - hiệu
triệu toàn dân đứng lên Tổng khởi nghĩa giành chính quyền “Giờ quyết
định cho vận mệnh dân tộc đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà
tự giải phóng cho ta”. Lúc Bác ốm nặng ở lán Nà Lừa và đã căn dặn đồng chí
Võ Nguyên Giáp: Dù phải hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn,
cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác
Hồ, cả dân tộc muôn người như một vùng lên “chớp thời cơ ngàn năm có
một” giành chính quyền về tay mình.
Từ ngày 19-8-1945 đến
ngày 28-8-1945, chính quyền trên cả nước đã hoàn toàn về tay nhân dân. Ngày
2-9-1945, tại vườn hoa Ba Đình (Hà Nội), thay mặt Chính phủ lâm thời,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà, mở ra thời đại mới - Thời đại Hồ Chí Minh!
Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà non trẻ mới ra đời, vận mệnh nước ta lại rơi vào tình thế “như
ngàn cân treo sợi tóc”. Trước tình thế đó, với nguyên tắc “dĩ bất biến, ứng vạn
biến”, Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng đã bình tĩnh, sáng suốt phân tích tình
hình, đề ra đường lối đúng đắn và những cách thức hành động khôn khéo, mềm dẻo,
từng bước giải quyết giặc đói, thanh toán giặc dốt, nâng cao đời sống văn hóa
của nhân dân. Lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, Người trực tiếp ký Hiệp
định Sơ bộ 6-3-1946 và Tạm ước Việt - Pháp 14-9-1946, đuổi nhanh quân Tưởng về
nước, buộc Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một nước tự do, có
chủ quyền, tạo thời gian hòa hoãn cần thiết để xây dựng và phát triển lực
lượng, chuẩn bị mọi mặt cho toàn quốc kháng chiến. Những quyết định lịch sử
sáng suốt, vừa có tính nguyên tắc, vừa mềm dẻo và linh hoạt của Hồ Chí Minh
giúp dân tộc vượt qua thời đoạn hiểm nghèo đã bước đầu phản ánh tầm ảnh hưởng
cũng như vai trò dẫn đường của Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam.
Trong hai cuộc kháng chiến, Người đã xác định
đúng kẻ thù cơ bản, đánh giá đúng so sánh lưc lượng giữa ta và địch. Trong tầng
tầng, lớp lớp kẻ thù núp dưới danh nghĩa Đồng minh kéo vào nước ta sau Cách
mạng Tháng Tám, Hồ Chí Minh đã nhanh chóng nhận ra kẻ thù cơ bản, chủ yếu của
cách mạng Việt Nam. Người đề nghị quốc dân đồng bào: “Nhân dân Việt Nam
hoan nghênh quân Đồng minh kéo vào Việt Nam để tước khí giới quân Nhật, nhưng
cương quyết phản đối quân Pháp kéo vào Việt Nam, vì mục đích của họ chỉ là hãm
dân tộc Việt Nam vào vòng nô lệ một lần nữa”. Cũng vì thế Người đã sớm kêu
gọi “Đồng bào hãy sẵn sàng đợi lệnh Chính phủ để chiến đấu!”.
Hồ Chí Minh và Đảng ta đã hoạch định đường lối
kháng chiến đúng đắn, phát huy sức mạnh tổng hợp, duy trì và dẫn dắt hai cuộc
kháng chiến phát triển tới thắng lợi hoàn toàn. Đó là đường lối “kháng
chiến, kiến quốc” không chỉ soi đường, dẫn lối cho cách mạng nước ta
từng bước xây dựng mọi tiềm lực, đẩy lùi “giặc đói”, chống “giặc dốt”, mà còn
làm nên một Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động đại cầu”, lập lại hòa
bình ở Đông Dương. Đường lối tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng do Hồ
Chí Minh khởi xướng tại Đại hội III, sau đó cũng đóng vai trò quyết định, dẫn
dắt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước tới thắng lợi hoàn toàn. Thực hiện
chiến lược cách mạng XHCN giúp xây dựng được hậu phương miền Bắc XHCN vững
chắc, đóng vai trò quyết định nhất đối với thắng lợi của cuộc kháng chiến. Tiến
hành chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã trực tiếp quyết định
thắng lợi của sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà. Chủ trương
thắng từng bước với việc “đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào” là phương hướng
kết thúc chiến tranh trong quan điểm chủ đạo của Người. Quan điểm của Người đã
dẫn đường cho cách mạng Việt Nam từng bước giành được những thắng lợi vững chắc
nhất, làm cho quá trình đi tới thắng lợi hoàn toàn của dân tộc trong mùa Xuân
năm 1975 như một tất yếu lịch sử không thể đảo ngược.