Thứ Năm, 4 tháng 8, 2022

CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH TÊN NGƯỜI SỐNG MÃI VỚI NON SÔNG

 Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người hội tụ, kết tinh trí tuệ và tư tưởng, tình cảm và đạo đức, nhân cách và lối sống của con người và dân tộc Việt Nam. Người tiêu biểu cho cốt cách và bản lĩnh, lương tâm và khí phách của thời đại.

Nhà báo người Liên Xô Ô. Man-đen-xtam từng nói: “Từ Nguyễn Ái Quốc đã tỏa ra một thứ văn hóa, không phải văn hóa Âu Châu, mà có lẽ là một nền văn hóa của tương lai”. Đó là nền văn hóa độc lập, tự do, hạnh phúc cho dân tộc Việt Nam và nhân loại! Vì vậy, khi Người đi vào cõi vĩnh hằng, trong Điếu văn, Tổng Bí thư Lê Duẫn đã đọc trước nhân dân: “Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ tịch - Người anh hùng dân tộc vĩ đại, và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta”. Tên Người sống mãi với non sông Việt Nam, trường tồn cùng dân tộc.

Người tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, thành lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam - nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam

Tận mắt chứng kiến dân tộc Việt Nam chìm đắm trong “đêm trường nô lệ”  các phong trào đấu tranh yêu nước đều lần lượt thất bại, vì thiếu một đường lối cứu nước đúng đắn, với lòng yêu nước nồng nàn, nhãn quan chính trị thiên tài, ngày 5-6-1911, với tên gọi Văn Ba, người thanh niên Nguyễn Ái Quốc nhận làm phụ bếp trên con tàu A-mi-ran La-tu-sơ Tơ-rê-vin, rời Cảng Nhà Rồng với quyết tâm phải tìm bằng được con đường cứu nước, giải phóng dân tộc.

Quá trình bôn ba tìm đường cứu nướcNguyễn Ái Quốc đã hoà mình vào quần chúng cần lao, đến các vùng nông thôn hẻo lánh ở Niu Oóc, Luân-đôn, Pa-ri, Thái Lan, Trung Quốc... để tìm hiểu các phong trào cách mạng thế giới như: cách mạng Mỹ năm 1776, cách mạng Pháp năm 1789 và phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, phụ thuộc. Người sớm nhận thấy rằng: “Kách mệnh Mỹ cũng như kách mệnh Pháp nghĩa là kách mệnh tư bản, kách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực thì nó tước đoạt công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa”. Tháng 11-1917, cách mạng Tháng Mười Nga nổ ra và giành thắng lợi, phá vỡ mắt xích yếu nhất trong sợi dây chuyền đế quốc chủ nghĩa, lập ra Nhà nước công nông đầu tiên trên thế giới. Cuộc cách mạng vĩ đại năm 1917 đã đưa học thuyết cách mạng của Mác-Lênin trở thành hiện thực đầu tiên ở nước Nga Xô-viết, đưa cách mạng thế giới bước vào thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH.

Năm 1920, tại Pa-ri, Pháp đã diễn ra cuộc gặp gỡ lịch sử giữa Nguyễn Ái Quốc và Chủ nghĩa Mác-Lênin qua Bản Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lê-nin, đăng trên Báo Nhân đạo của Đảng Xã hội Pháp. Luận cương của V.I. Lê-nin đã chỉ ra con đường giải phóng dân tộc, nên Bác reo lên một mình như nói cùng dân tộc: “Cơm áo là đây! Hạnh phúc đây rồi!”. Người nói: Đề cương của Lê-nin làm tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ tin tưởng biết bao. Tôi vui mừng đến phát khóc lên; ngồi một mình trong buồng mà tôi muốn nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ, đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”.

Với lập trường yêu nước đúng đắn, Người vạch ra chân lí:“Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Và “Chỉ có CNXH, chủ nghĩa Cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức”. Kết luận này khẳng định sự chuyển biến sâu sắc trong tư duy của Nguyễn Ái Quốc, từ người yêu nước chân chính trở thành người cộng sản - người đảng viên cộng sản đầu tiên của Việt Nam; Người đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế III và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp; hình thành con đường cứu nước, giải phóng dân tộc Việt Nam.

Năm 1924, Nguyễn Ái Quốc bí mật trở về Quảng Châu (Trung Quốc). Trên cương vị mới, Người vừa làm phiên dịch cho đồng chí Bô-rô-din - cố vấn Liên Xô bên cạnh Chính phủ cách mạng Quốc dân đảng - vừa phụ trách mục tuyên truyền trong tờ báo Canon Gazette - Báo viết bằng tiếng Anh của Trung ương Quốc dân đảng. Đây là điều kiện thuận lợi nhất để Người truyền bá Chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam. Người tiếp xúc với những thanh niên yêu nước hăng hái nhất trong nhóm Tâm Tâm Xã như Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Phong... Tháng 5-1925, Người lập ra Hội Việt Nam cách mạng thanh niên - tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam. Với sự giúp đỡ tận tình của các đồng chí Trung Quốc, Hội bí mật đưa một số thanh niên trong nước sang Quảng Châu tham gia các lớp học chính trị. Hội ra tờ Báo Thanh Niên, bí mật truyền bá Chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào đấu tranh của công nhân và quần chúng nhân dân. Qua đó, Người tích cực chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập một đảng mác-xít ở Việt Nam.

Khi Chủ nghĩa Mác-Lênin đã thật sự thâm nhập sâu vào phong trào công nhân và chiếm ưu thế trong phong trào yêu nước Việt Nam, ba tổ chức cộng sản lần lượt ra đời, khẳng định bước phát triển quan trọng của phong trào cách mạng Việt Nam. Trước yêu cầu lịch sử, với tư cách là phái viên của Quốc tế cộng sản, Nguyễn Ái Quốc triệu tập Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản thành một đảng duy nhất: Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 3-2-1930 tại Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc). Hội nghị thông qua Cương lĩnh đầu tiên của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, chỉ rõ nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là đánh đuổi chủ nghĩa thực dân Pháp và phong kiến tay sai, giành độc lập cho dân tộc và ruộng đất cho dân cày… đã thể hiện rõ mục tiêu duy nhất của cách mạng Việt Nam “làm tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng để tiến tới xã hội cộng sản”(7). Lần đầu tiên, cách mạng Việt Nam có một cương lĩnh chính trị phản ánh đúng tình hình và quy luật khách quan của xã hội Việt Nam, phù hợp với xu thế thời đại: “Cương lĩnh ấy rất phù hợp với nguyện vọng thiết tha của đại đa số nhân dân ta là nông dân. Vì vậy, Đảng đã đoàn kết được lực lượng cách mạng to lớn chung quanh giai cấp mình”.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cách mạng Việt Nam đã vượt qua muôn vàn khó khăn thử thách, liên tiếp giành thắng lợi trong các giai đoạn 1930-1931, 1936-1939, tạo ra thế và lực mới, giành thắng lợi khi có thời cơ. Nguyễn Ái Quốc luôn theo sát từng bước phát triển của cách mạng Việt Nam, tìm mọi cách đề nghị với Quốc tế cộng sản bố trí công tác phù hợp để tham gia trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng trong nước. Được sự nhất trí của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc rời Mát-xcơ-va với nhiệm vụ “đến Trung Quốc để công tác trong Đảng Cộng sản Đông Dương”. Đây là điều kiện vô cùng quan trọng, thời điểm khảo sát, tiếp cận và chuẩn bị những tiền đề cần thiết cho cuộc “đột nội”, trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng Việt Nam. Ngày 28-1-1941, Nguyễn Ái Quốc về tới cột mốc 108, biên giới Việt - Trung thuộc xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng, Người đứng lặng hồi lâu bồi hồi, xúc động trào dâng “Bao nhiêu năm thương nhớ, đợi chờ, hôm nay mới bước chân về nơi non sông gấm vóc của mình”… Sự kiện lịch sử này đã được thực tiễn cách mạng minh chứng, Cao Bằng, nơi có suối Lê-nin, núi Các Mác đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ là trung tâm đầu não của phong trào cách mạng cả nước, mở ra một tương lai sán lạn của cách mạng nước nhà. Người quyết định chọn Cao Bằng là điểm đặt chân đầu tiên và làm trung tâm “cơ quan đầu não” chỉ đạo cách mạng Việt Nam sau ba mươi năm bôn ba tìm đường cứu nước.

Người trực tiếp tổ chức, lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành thắng lợi

Sau khi khảo sát, nghiên cứu, đánh giá tình hình, ngày 19-5-1941, tại Khuổi Nậm, Pác Pó, Cao Bằng, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ 8. Trên cơ sở đường lối chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng trong Hội nghị Trung ương 6 và 7, Hội nghị Trung ương 8 phát triển và hoàn chỉnh chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, đặt nhiệm vụ chống đế quốc giải phóng dân tộc lên hàng đầu, nhiệm vụ chống phong kiến và các nhiệm vụ dân chủ khác phải rải ra thực hiện từng bước. Người chỉ rõ: “Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi lửa nóng”. Vì vậy, “bước đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương không còn có con đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm, vô luận da trắng hay da vàng để giành lấy giải phóng độc lập”. Đây là sự chuyển hướng quan trọng nhất về chỉ đạo chiến lược. Đảng ta khẳng định: “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.

Hội nghị Trung ương 8 của Đảng là sự gặp gỡ giữa tư tưởng giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc với chủ trương giải phóng dân tộc của Trung ương Đảng. Đường lối này không những khắc phục quan điểm về đấu tranh giai cấp, mà còn tạo điều kiện cho tư tưởng giải phóng dân tộc của Bác Hồ tiếp tục phát triển, đưa lại thắng lợi cho cách mạng Việt Nam. Cũng từ đây, Mặt trận Việt Minh ra đời - một chủ trương mang tính chiến lược, sáng tạo của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, nhằm đoàn kết hết thảy các lực lượng yêu nước không phân biệt dân tộc, giai cấp, đảng phái, giai cấp, là người Việt Nam đoàn kết trong một mặt trận để cứu nước, giải phóng dân tộc. Thể hiện rõ chính sách “dân tộc tự quyết”, hợp với nguyện vọng của toàn thể nhân dân, giai cấp, các dân tộc Đông Dương, hợp với cuộc đấu tranh chung của toàn thế giới chống phát xít xâm lược, bảo đảm cho cách mạng Đông Dương thành công.

Trước sự biến đổi sâu sắc của tình hình, Đảng và Bác Hồ đã đưa ra một vấn đề hết sức cần kíp lúc này là chuẩn bị các lực lượng cách mạng. Trong đó, hướng phát triển lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang, căn cứ địa cách mạng và đưa Đảng vào hoạt động bí mật, các đội Cứu quốc quân I, II, III lần lượt ra đời, khẩn trương triển khai xây dựng các đội tự vệ, du kích, huy động nhân dân quyên góp tiền của để mua sắm vũ khí. Ngày 22-12-1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân ra đời đã liên tiếp đánh thắng hai trận Phai Khắt, Nà Ngần. Chiến thắng đầu tiên của Đội cùng với những thắng lợi của Cứu quốc quân, các đội du kích, tự vệ ở các địa phương đã góp phần củng cố, mở rộng khu căn cứ cách mạng Cao - Bắc - Lạng, Thái - Hà - Tuyên, cổ vũ, động viên toàn dân đẩy mạnh phong trào đấu tranh, chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang.

Ngày 9-5-1945, Đức đầu hàng Đồng minh. Ngày 15-8-1945, Nhật đầu hàng Đồng minh. Trong nước, Chính phủ tay sai Trần Trọng Kim tê liệt, phong trào đấu tranh của quần chúng phát triển mạnh mẽ. Đêm 13-8-1945, khi Ủy ban Khởi nghĩa ra Quân lệnh số 1 - hiệu triệu toàn dân đứng lên Tổng khởi nghĩa giành chính quyền “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Lúc Bác ốm nặng ở lán Nà Lừa và đã căn dặn đồng chí Võ Nguyên Giáp: Dù phải hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn, cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, cả dân tộc muôn người như một vùng lên “chớp thời cơ ngàn năm có một” giành chính quyền về tay mình.

Từ ngày 19-8-1945 đến ngày 28-8-1945, chính quyền trên cả nước đã hoàn toàn về tay nhân dân. Ngày 2-9-1945, tại vườn hoa Ba Đình (Hà Nội), thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, mở ra thời đại mới - Thời đại Hồ Chí Minh!

Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà non trẻ mới ra đời, vận mệnh nước ta lại rơi vào tình thế “như ngàn cân treo sợi tóc”. Trước tình thế đó, với nguyên tắc “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng đã bình tĩnh, sáng suốt phân tích tình hình, đề ra đường lối đúng đắn và những cách thức hành động khôn khéo, mềm dẻo, từng bước giải quyết giặc đói, thanh toán giặc dốt, nâng cao đời sống văn hóa của nhân dân. Lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, Người trực tiếp ký Hiệp định Sơ bộ 6-3-1946 và Tạm ước Việt - Pháp 14-9-1946, đuổi nhanh quân Tưởng về nước, buộc Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một nước tự do, có chủ quyền, tạo thời gian hòa hoãn cần thiết để xây dựng và phát triển lực lượng, chuẩn bị mọi mặt cho toàn quốc kháng chiến. Những quyết định lịch sử sáng suốt, vừa có tính nguyên tắc, vừa mềm dẻo và linh hoạt của Hồ Chí Minh giúp dân tộc vượt qua thời đoạn hiểm nghèo đã bước đầu phản ánh tầm ảnh hưởng cũng như vai trò dẫn đường của Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam.

Trong hai cuộc kháng chiến, Người đã xác định đúng kẻ thù cơ bản, đánh giá đúng so sánh lưc lượng giữa ta và địch. Trong tầng tầng, lớp lớp kẻ thù núp dưới danh nghĩa Đồng minh kéo vào nước ta sau Cách mạng Tháng Tám, Hồ Chí Minh đã nhanh chóng nhận ra kẻ thù cơ bản, chủ yếu của cách mạng Việt Nam. Người đề nghị quốc dân đồng bào: “Nhân dân Việt Nam hoan nghênh quân Đồng minh kéo vào Việt Nam để tước khí giới quân Nhật, nhưng cương quyết phản đối quân Pháp kéo vào Việt Nam, vì mục đích của họ chỉ là hãm dân tộc Việt Nam vào vòng nô lệ một lần nữa”. Cũng vì thế Người đã sớm kêu gọi “Đồng bào hãy sẵn sàng đợi lệnh Chính phủ để chiến đấu!”.

Hồ Chí Minh và Đảng ta đã hoạch định đường lối kháng chiến đúng đắn, phát huy sức mạnh tổng hợp, duy trì và dẫn dắt hai cuộc kháng chiến phát triển tới thắng lợi hoàn toàn. Đó là đường lối “kháng chiến, kiến quốc” không chỉ soi đường, dẫn lối cho cách mạng nước ta từng bước xây dựng mọi tiềm lực, đẩy lùi “giặc đói”, chống “giặc dốt”, mà còn làm nên một Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động đại cầu”, lập lại hòa bình ở Đông Dương. Đường lối tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng do Hồ Chí Minh khởi xướng tại Đại hội III, sau đó cũng đóng vai trò quyết định, dẫn dắt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước tới thắng lợi hoàn toàn. Thực hiện chiến lược cách mạng XHCN giúp xây dựng được hậu phương miền Bắc XHCN vững chắc, đóng vai trò quyết định nhất đối với thắng lợi của cuộc kháng chiến. Tiến hành chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã trực tiếp quyết định thắng lợi của sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà. Chủ trương thắng từng bước với việc “đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào” là phương hướng kết thúc chiến tranh trong quan điểm chủ đạo của Người. Quan điểm của Người đã dẫn đường cho cách mạng Việt Nam từng bước giành được những thắng lợi vững chắc nhất, làm cho quá trình đi tới thắng lợi hoàn toàn của dân tộc trong mùa Xuân năm 1975 như một tất yếu lịch sử không thể đảo ngược.

Thắng lợi vĩ đại của các cuộc kháng chiến, với việc hiện thực hóa mục tiêu độc lập, tự do và CNXH, một lần nữa khẳng định vai trò dẫn đường cùng sức sống mãnh liệt và giá trị trường tồn của Tư tưởng Hồ Chí Minh đối với dân tộc Việt Nam.

TỔ QUỐC MÃI KHẮC GHI SƯ HY SINH ANH DŨNG CỦA CÁC ANH

 Khoảng 13h30’ ngày 1/8, tại quán Karaoke ISIS số 231 bờ sông Quan Hoa, phường Quan Hoa quận Cầu Giấy xảy ra vụ cháy. Nguyên nhân ban đầu được xác định do quán đang sửa chữa, có hàn xì; quán không hoạt động.

Ngay sau khi nhận được tin báo, Công an quận Cầu Giấy huy động lực lượng PCCC đến chữa cháy. Quá trình chữa cháy, 3 CBCS Đội PCCC đã hy sinh. Ngay sau khi sự việc xảy ra, Bộ trưởng Bộ Công an đã cử Thiếu tướng Nguyễn Văn Long, Thứ trưởng Bộ Công an trực tiếp đến hiện trường, chỉ đạo công tác chữa cháy và CNCH.

Có mặt tại hiện trường vụ cháy còn có đồng chí Lê Hồng Sơn, Phó Chủ tịch Thường trực UBND TP Hà Nội; Trung tướng Nguyễn Hải Trung, Giám đốc Công an TP Hà Nội; Thiếu tướng Nguyễn Tuấn Anh, Cục trưởng Cục Cảnh sát PCCC và CNCH…

Danh tính 3 cán bộ hy sinh: gồm: Thượng tá Đặng Anh Quân, Thượng uý Đỗ Đức Việt và Hạ sỹ Nguyễn Đình Phúc, chiến sĩ nghĩa vụ.

Sự hy sinh của các anh không chỉ để lại nỗi đau cho người thân, cho đồng đội, bạn bè mà còn khiến tất cả mọi người xót xa. Trên các fanpage và diễn đàn của mạng xã hội, hàng nghìn người đã bày tỏ nỗi tiếc thương dành cho những người lính anh hùng.

Không chỉ là người thân, hoà cùng tâm trạng với bao sự tiếc thương vô hạn, nhà báo Lê Đạt, Báo Kinh tế đô thị đã xúc động tiễn biệt 3 chiến sĩ băng bài thơ với hình ảnh:

“Xin đừng khóc! Vì anh là người lính.

Lính ngại chi dẫu gian khổ hy sinh.

Lao vào lửa cứu 8 mạng người ở lại.

Chẳng đắn đo, anh quên bản thân mình…

Cả Hà Nội đang nín lặng chờ ngày tiễn biệt 3 chiến sĩ hoà vào đất mẹ.

Như lửa cháy trong tim, tên các anh còn vọng mãi bên tượng đài Công an nhân dân vì dân phục vụ.

Tổ quốc mãi khắc ghi sự hy sinh anh dũng của các anh”.


CẦN NHẬN THỨC TOÀN DIỆN NỘI DUNG XÂY DỰNG ĐẢNG VỀ ĐẠO ĐỨC THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

 Để xây dựng Đảng về đạo đức theo Tư tưởng Hồ Chí Minh cần nhận thức một cách toàn diện về nội dung xây dựng. Bên cạnh xây dựng những quy tắc, chuẩn mực đạo đức của cán bộ, đảng viên còn phải chú trọng đến xây dựng những quy tắc, chuẩn mực đạo đức của tổ chức đảng...

Xây dựng Đảng về đạo đức đã được Đảng ta quan tâm từ nhiều kỳ đại hội và chính thức được đặt ra tại Đại hội lần thứ XII của Đảng. Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, tích cực tổ chức thực hiện, tạo được những chuyển biến về đạo đức của cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng. Tuy nhiên, số lượng tổ chức đảng và đảng viên vi phạm đạo đức vẫn còn nhiều, hành vi suy thoái đạo đức ngày càng đa dạng, tinh vi, phức tạp; phạm vi và mức độ suy thoái ngày càng nghiêm trọng. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định một trong những quan điểm chỉ đạo của Đảng là kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh một cách toàn diện, trong đó có tăng cường và nâng cao hiệu quả xây dựng Đảng về đạo đức. Quan điểm đó là sự tiếp nối Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng nói chung và xây dựng Đảng về đạo đức nói riêng. Tuy nhiên, khi vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng về đạo đức hiện nay, cần nhận thức rõ xây dựng Đảng về đạo đức bao gồm những nội dung gì? Chỉ có nhận thức được đầy đủ chúng ta mới có cơ sở xác định các chủ thể và các giải pháp xây dựng Đảng về đạo đức một cách hiệu quả.

Trước đây, khi nói đến đạo đức trong Đảng, chúng ta mới chỉ quan tâm đến việc xây dựng, củng cố những phẩm chất, chuẩn mực đạo đức của cán bộ, đảng viên như: Trung với nước, hiếu với dân; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; thương yêu con người, tinh thần quốc tế trong sáng. Đó là một nội dung rất quan trọng nhưng chưa đầy đủ. Nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh có thể thấy, Người không chỉ đề cập đến đạo đức của cán bộ, đảng viên với tư cách là thành viên của tổ chức mà Người còn quan tâm đến đạo đức của tổ chức đảng, nơi mà mỗi cá nhân in đậm dấu ấn của mình, thể hiện tư duy, đạo đức và hành động của mình. Do đó, vận dụng tư tưởng của Người, bên cạnh việc xây dựng đạo đức của cán bộ, đảng viên còn cần phải chú trọng đến xây dựng đạo đức của tổ chức đảng. Có thể lý giải điều này như sau:

Về quan niệm

Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội bao gồm hệ thống các quy tắc, chuẩn mực nhằm điều chỉnh nhận thức, hành vi và đánh giá cách ứng xử của cá nhân và của tập thể, tổ chức trong quan hệ với nhau, quan hệ với xã hội và quan hệ với giới tự nhiên để bảo vệ lợi ích của cá nhân và của cộng đồng, đảm bảo sự phát triển hài hòa, bền vững.

Đạo đức dưới khía cạnh là hành vi đạo đức, là hành động của cá nhân thể hiện quan niệm của cá nhân về nghĩa vụ đối với xã hội và đối với người khác, thể hiện lương tâm hoặc bổn phận của cá nhân trong những hoàn cảnh khác nhau. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh không chỉ nói đến đạo đức cá nhân, mà Người còn nói đạo đức của cộng đồng, đạo đức của tổ chức. Người nhắc đến đạo đức của dân tộc: “Dân tộc ta là một dân tộc giàu lòng đồng tình và bác ái” hay “Một dân tộc đã tự cường, tự lập, dân chủ cộng hoà thì không làm những việc nhỏ nhen, báo thù báo oán” và “Một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm, là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh tiến bộ”. Nói về đạo đức của Đảng Cộng sản Việt Nam, người nói đến “tư cách của đảng chân chính cách mạng” và chỉ ra những tiêu chỉ cụ thể để đánh giá tính chân chính của tổ chức đảng. Đây là nét sáng tạo độc đáo của Hồ Chí Minh trong quan niệm về đạo đức.

Như vậy, về mặt nhận thức, Hồ Chí Minh không chỉ quan niệm xây dựng Đảng về đạo đức là xây dựng các chuẩn mực đạo đức của cán bộ, đảng viên, Người còn quan tâm đến các chuẩn mực đạo đức của tổ chức đảng. Hay nói cách khác, xây dựng Đảng về đạo đức là xây dựng các quy tắc, chuẩn mực đạo đức của người đảng viên cộng sản và của tổ chức đảng chân chính cách mạng trên quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tinh hoa đạo đức nhân loại. Đạo đức cách mạng là một nền đạo đức mang tính nhân văn và tiến bộ. Do đó, nếu xây dựng Đảng mà chỉ quan tâm đến đạo đức của cá nhân cán bộ, đảng viên, bỏ qua đạo đức của tổ chức đảng sẽ là chưa toàn diện.

Về nội dung

Thứ nhất, Hồ Chí Minh đã chỉ ra mối quan hệ giữa đạo đức của tổ chức đảng và đảng viên. Người nêu câu hỏi: “Đảng là ai” và Người trả lời: “Đảng là mỗi chúng ta", “Lãnh đạo là làm đầy tớ nhân dân và phải làm cho tốt”. Cán bộ, đảng viên cấu thành nên tổ chức đảng, mỗi đảng viên đều phải tham gia sinh hoạt chính trị trong tổ chức đảng. Do đó vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng phụ thuộc rất lớn vào chất lượng đội ngũ đảng viên. Đạo đức của Đảng thể hiện trực tiếp và sinh động thông qua đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng. Nhân dân cũng hoàn toàn có lý khi đánh giá đạo đức của Đảng thông qua đạo đức của những cá nhân đảng viên cụ thể, nhất là những đảng viên mà họ biết đến hay tiếp xúc nhiều nhất.

Tuy nhiên, Đảng là một tổ chức, một khối đoàn kết và thống nhất để lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo nhân dân. Một tổ chức đảng chân chính cách mạng là môi trường thuận lợi cho những cái tốt, cái đẹp, cái đạo đức sinh sôi, nảy nở và lan tỏa trong mỗi người cũng như trong cộng đồng. Đó cũng là nơi tổ chức việc tuyên truyền, giáo dục rèn luyện đạo đức cách mạng, là nơi kiểm điểm, phê bình, góp ý đảng viên, kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên về đạo đức. Công tác xây dựng Đảng về đạo đức vì thế có vai trò không thể thiếu của tổ chức đảng và cấp ủy các cấp. Hồ Chí Minh yêu cầu mỗi chi bộ, mỗi cấp ủy đảng phải luôn tăng cường công tác tư tưởng của Đảng, nâng cao đạo đức cách mạng, bảo đảm chặt chẽ kỷ luật và tổ chức của Đảng. Tổ chức đảng và cấp ủy phải chịu trách nhiệm tuyên truyền, giáo dục đạo đức của cán bộ, đảng viên. Người khẳng định: “Các cấp ủy phải quan tâm hơn nữa đến việc giáo dục đảng viên. Từ nay trở đi công tác giáo dục đảng viên phải là một điều quan trọng trong chương trình công tác của cấp ủy”. Tổ chức đảng các cấp cũng phải chịu trách nhiệm về việc suy thoái, vi phạm đạo đức của cán bộ, đảng viên trong tổ chức của mình. Nếu trong tổ chức đảng có đảng viên vi phạm thì trách nhiệm trước hết thuộc về cấp ủy của tổ chức. Khi nói với tội tham ô, lãng phí của cán bộ, đảng viên trong tổ chức đảng, Hồ Chí Minh khẳng định: “Các cấp ủy cùng với cán bộ cần tìm cho ra gốc rễ tham ô, lãng phí và xử trí đúng mức”.

Rõ ràng, xây dựng đạo đức của tổ chức đảng và đạo đức của đảng viên có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại với nhau, không thể bỏ qua mặt nào.

Thứ hai, Hồ Chí Minh không những đã chỉ ra những quy tắc, chuẩn mực đạo đức để cán bộ, đảng viên của Đảng phải tu dưỡng, rèn luyện mà Người còn chỉ ra những quy tắc, chuẩn mực đạo đức của tổ chức đảng cần phải xây dựng với cách tiếp cận về tiêu chí của “một đảng chân chính cách mạng”, gồm 12 điều trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc (1947). 12 điều cần phải xây dựng ấy có thể tóm gọn lại thành những tiêu chí đạo đức cụ thể như sau:

Xây dựng đạo đức trong tôn chỉ, mục đích hoạt động của Đảng: Đảng phải làm tròn sứ mệnh giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng. Đó là chuẩn mực đạo đức cao nhất.

Xây dựng đạo đức trong nghiên cứu, vận dụng nền tảng lý luận của Đảng: Sự giác ngộ về cách mạng, về Chủ nghĩa Mác - Lênin, về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là sự khởi đầu cho sự hình thành tư cách người cán bộ cách mạng. Lý luận đúng đắn sẽ giúp mỗi cá nhân nhận ra sai lệch trong tư tưởng, nhận thức và hành động; khắc phục những biểu hiện như: phai nhạt lý tưởng cách mạng; dao động, giảm sút niềm tin vào mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hoài nghi nền tảng tư tưởng của Đảng...

Xây dựng đạo đức trong đường lối của Đảng: Đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội để đạt mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, đó là điểm căn cốt, là vấn đề then chốt. Nắm vấn đề then chốt, giữ vững vấn đề then chốt, dựa trên cái then chốt để giải quyết linh hoạt, thiết thực, phù hợp với tình hình thực tế là yêu cầu đối với xây dựng đường lối của Đảng đó chính là đạo đức.

Xây dựng đạo đức trong mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với Nhân dân: Đảng phải phát huy vai trò của Nhân dân, “phải luôn luôn do nơi quần chúng mà kiểm soát những khẩu hiệu và chỉ thị”. Đảng phải chăm lo lợi ích của nhân dân, “luôn luôn xem xét lại tất cả công tác của Đảng. Mọi công tác của Đảng luôn luôn phải đứng về phía quần chúng”.

Xây dựng đạo đức trong tổ chức và kỷ luật của Đảng: Đảng phải chọn lựa những người rất trung thành và rất hăng hái, đoàn kết họ thành nhóm trung kiên lãnh đạo”, đồng thời phải tẩy bỏ những phần tử hủ hoá ra ngoài Đảng, phải giữ kỷ luật nghiêm minh từ trên xuống dưới.

Xây dựng bản lĩnh trước những sai lầm, khuyết điểm của Đảng: Sai lầm, khuyết điểm của Đảng, nhất là đảng cầm quyền là điều không thể tránh khỏi. Thái độ đúng đắn, khách quan, khoa học của Đảng trước những sai lầm, khuyết điểm đó là: công khai thừa nhận, “Đảng không che giấu những khuyết điểm của mình, không sợ phê bình. Đảng phải nhận khuyết điểm của mình” và kiên quyết sữa chữa.

Thứ ba, vì quan tâm đến nội dung xây dựng đạo đức của tổ chức đảng, cho nên trong quan niệm của Hồ Chí Minh chủ thể tiến hành xây dựng Đảng về đạo đức không chỉ là cán bộ, đảng viên mà còn từ phía tổ chức đảng và các cấp ủy. Đồng thời, Người đưa ra những chỉ dẫn quan trọng để tổ chức đảng và các cấp ủy phát huy vai trò của mình trong xây dựng Đảng về đạo đức. Nhìn lại toàn bộ di sản của Người, có thể thấy vai trò của cấp ủy và tổ chức đảng trong xây dựng và tổ chức thực hiện đường lối, trong công tác nghiên cứu và vận dụng lý luận, trong việc thường xuyên tuyên truyền, giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, trong phát huy dân chủ, tự phê bình và phê bình, trong công tác cán bộ, kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên… Đây đều là những giải pháp quan trọng để tổ chức đảng xây dựng những chuẩn mực đạo đức.

Thực trạng hiện nay

Những năm gần đây, bên cạnh việc suy thoái đạo đức của cán bộ, đảng viên ngày một gia tăng và mức độ ngày càng nghiêm trọng, còn có không ít các tổ chức đảng vi phạm đạo đức. Những vi phạm của tổ chức đảng diễn ra khá đa dạng, phức tạp, trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; dưới nhiều hình thức và được che giấu tinh vi, diễn ra nghiêm trọng ở nhiều ngành, nhiều lĩnh vực với phạm vi rộng, tính chất phức tạp, gây ra những hậu quả nghiêm trọng.

Theo báo cáo, trong năm 2017, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và cấp ủy các cấp sau khi kiểm tra các tổ chức đảng và đảng viên đã kết luận: 708 tổ chức đảng và 1.482 đảng viên có khuyết điểm vi phạm, phải thi hành kỷ luật 22 tổ chức đảng và 350 đảng viên, trong đó có nhiều đảng viên bị khai trừ khỏi Đảng. Ủy ban Kiểm tra Trung ương qua kiểm tra có dấu hiệu vi phạm 12 tổ chức đảng và 16 đảng viên, trong đó có 3 ủy viên Trung ương Đảng (nhiệm kỳ XI, XII); đã thi hành kỷ luật theo thẩm quyền đối với 18 đảng viên, đề nghị Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư thi hành kỳ luật 3 tổ chức đảng bằng hình thức cảnh cáo và 10 đảng viên từ cảnh cáo đến cách chức; đề nghị tổ chức đảng cấp dưới thi hành ký luật 2 tổ chức đảng. Ủy ban kiểm tra các cấp kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm 3.589 tổ chức đảng và 10.363 đảng viên, kết luận 2,398 tổ chức đảng và 8.453 đảng viên có vi phạm, phải thi hành kỷ luật 173 tổ chức và 3.761 đảng viên.

Phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 11 (khóa XII), Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng khẳng định: Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội khóa XII đến giữa năm 2019, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã thi hành kỷ luật hơn 70 cán bộ cao cấp thuộc diện Trung ương quản lý, trong đó có 1 ủy viên Bộ Chính trị và 4 ủy viên Trung ương Đảng khóa XII, 14 ủy viên Trung ương Đảng. Bộ Chính trị, Ban Bí thư cũng đã kỷ luật 7 tổ chức đảng (Ban Cán sự đảng Bộ Công thương, Ban Cán sự đảng Bộ Tài Nguyên và Môi trường, Ban cán sự đảng Bộ Thông tin và Truyền thông, Ban Cán sự đảng bộ Giao thông vận tải, Ban Thường vụ Đảng ủy Ngoài nước, Ban Thường vụ Thành ủy Đà Nẵng và Ban Thường vụ Tỉnh ủy Vĩnh Phúc).

Hơn thế nữa, vi phạm đạo đức của tổ chức đảng mang tính tập thể, có sự điều hành của người đứng đầu, có tổ chức chặt chẽ, có sự thỏa hiệp, do đó sẽ để lại những hậu quả nghiêm trọng. Những vụ án điển hình thời gian vừa qua phản ánh phần nào thực trạng trên như: Vụ án Vinalines do Dương Chí Dũng, nguyên Chủ tịch Hội đồng thành viên Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam Vinalines thực hiện với tội danh tham ô tài sản, cố ý làm trái quy định của Nhà nước và quản lý kinh tế, gây thiệt hại tài sản nhà nước 240.000 USD; vụ án Đinh La Thăng, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng thành viên PVN giai đoạn 2009-2015, lạm dụng quyền lực, thiếu trách nhiệm trong lãnh đạo, buông lỏng công tác kiểm tra, giám sát, quản lý tổ chức đảng và đảng viên dẫn đến nhiều khoản đầu tư bị tổn thất, khó thu hồi với tổng số tiền lớn; vụ án đánh bạc công nghệ cao liên quan đến Phan Văn Vĩnh, Nguyễn Thanh Hóa. Một số vụ án nghiêm trọng, phức tạp khác như: vụ án “Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát, lãng phí”, của Dự án 15 Thi Sách, Thành phố Hồ Chí Minh; vụ án “Vi phạm quy định về quản lý đất đai; vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát, lãng phí” xảy ra tại thành phố Đà Nẵng; vụ án “Vi phạm quy định về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng” xảy ra tại Tổng Công ty Viễn thông Mobifone, Bộ Thông tin và Truyền thông và các đơn vị có liên quan; vụ án “Giả mạo trong công tác; Sản xuất, buôn bán hàng giả” xảy ra tại Công ty Lũng Lô và một số công ty, tổ chức liên quan; vụ án “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ” xảy ra tại Bộ Thông tin và Truyền thông...

Từ những vấn đề lý luận và thực tiễn trên đây có thể thấy, để xây dựng Đảng về đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh giai đoạn hiện nay, chúng ta cần nhận thức một cách toàn diện về nội dung xây dựng, cụ thể là bên cạnh xây dựng những quy tắc, chuẩn mực đạo đức của cán bộ, đảng viên còn phải chú trọng đến xây dựng những quy tắc, chuẩn mực đạo đức của tổ chức đảng.

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

 Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta luôn thống nhất quan điểm coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu. Nhờ đó, thời gian qua, giáo dục và đào tạo nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng nhưng vẫn còn một số hạn chế cần khắc phục. Do đó, thời gian tới cần tích cực thực hiện đồng bộ một số giải pháp để nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo trên cơ sở tiếp tục thực hiện có hiệu quả Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước trong tình hình mới. 

Một là, tăng cường học tập và làm theo Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, coi đó là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho công cuộc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Gắn kết, phát triển Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục trong việc ban hành các chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về giáo dục và đào tạo phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền, Nhân dân và toàn xã hội về vị trí, vai trò, mục tiêu của giáo dục và đào tạo như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây/ Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. Người nhấn mạnh giáo dục và đào tạo có vai trò vô cùng quan trọng trong việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, là động lực của sự phát triển. Do đó, đầu tư phát triển giáo dục sẽ đem lại lợi ích bền vững cho dân tộc, góp phần đưa đất nước sánh vai với các cường quốc năm châu trên thế giới. Với quan niệm: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”, ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập đến một trong những nhiệm vụ cấp bách của nước ta lúc bấy giờ là diệt giặc dốt bởi khi đó hơn 90% đồng bào ta mù chữ. Trong Thư gửi các học sinh trong năm học đầu tiên khi nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời (tháng 9-1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ mục tiêu của nền giáo dục Việt Nam là “một nền giáo dục của một nước độc lập, một nền giáo dục nó sẽ đào tạo các em nên những người công dân hữu ích cho nước Việt Nam, một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của các em”. Đó là một nền giáo dục mang tính nhân dân sâu sắc, thực học, không chạy theo bằng cấp, không chạy theo khối lượng kiến thức mà cần chú trọng nâng cao chất lượng, là nền giáo dục độc lập, tiến bộ, dân tộc, thực hiện mục tiêu phát triển con người toàn diện, một nền giáo dục vì con người, cho con người phụng sự Tổ quốc và Nhân dân, làm rạng danh non sông. Người từng khẳng định: “Học để làm việc, để làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự Đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại”. Chính vì mục tiêu cao cả và vai trò to lớn của giáo dục mà Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra yêu cầu cần có tầm nhìn dài hạn trong chiến lược phát triển giáo dục của quốc gia, phải coi giáo dục là sự nghiệp của quần chúng, là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân.

Hai là, đổi mới tư duy và cơ chế quản lý giáo dục, nội dung chương trình, mô hình đào tạo và phương pháp dạy học, kiểm tra, đánh giá ở các cơ sở đào tạo theo hướng phát triển năng lực và phẩm chất người học, hài hòa đức, trí, thể, mỹ. Nội dung giáo dục theo hướng tinh giản, hiện đại, thiết thực, phù hợp với từng đối tượng học sinh. Tăng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Chú trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống, tri thức pháp luật và ý thức công dân, phát huy giá trị cơ bản của văn hóa, truyền thống và đạo lý dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại. Cần có tầm nhìn dài hạn trong quản lý giáo dục, phù hợp với từng loại đối tượng và cấp học, có trọng tâm, trọng điểm, lộ trình, bước đi phù hợp, bảo đảm tính hệ thống trên cơ sở thực hiện Tư tưởng Hồ Chí Minh. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh cần xác định nội dung và phương pháp giáo dục phù hợp với từng đối tượng học sinh và phù hợp với thực tiễn đất nước. Nội dung giáo dục phải toàn diện nhằm phát triển con người cả tài và đức, cụ thể gồm: “Thể dục: Để làm thân thể mạnh khỏe, đồng thời cần giữ vệ sinh riêng và vệ sinh chung. Trí dục: Ôn lại những điều đã học, học thêm những tri thức mới. Mỹ dục: Để phân biệt cái gì là đẹp, cái gì là không đẹp. Đức dục: Là yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, yêu trọng của công”. Nội dung của giáo dục cần phù hợp với mỗi lứa tuổi, mỗi cấp học, bậc học. Trong thư gửi giáo viên, học sinh, cán bộ và thanh niên ngày 31-10-1955, Người căn dặn: “Đại học thì cần kết hợp lý luận khoa học với thực hành, ra sức học tập lý luận và khoa học tiên tiến của các nước bạn, kết hợp với thực tiễn của nước ta, để thiết thực giúp ích cho công cuộc xây dựng nước nhà. Trung học thì cần bảo đảm cho học trò những tri thức phổ thông chắc chắn, thiết thực, thích hợp với nhu cầu và tiền đồ xây dựng nước nhà, bỏ những phần nào không cần thiết cho đời sống thực tế. Tiểu học thì cần giáo dục các cháu thiếu nhi: Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, trọng của công”. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh phương pháp giáo dục đúng đắn, hiệu quả là học đi đôi với hành, lý thuyết gắn liền với thực tiễn, việc học tập phải xuất phát từ yêu cầu thực tế thiết thực, không phô trương, hình thức, phải học cặn kẽ, thấu đáo, cụ thể và sâu sắc đến bản chất vấn đề. Người chỉ rõ: “Học phải suy nghĩ, học phải liên hệ với thực tế, phải có thí nghiệm và thực hành. Học với hành phải kết hợp với nhau” … “Lý luận phải đem ra thực hành. Thực hành phải nhằm theo lý luận. Lý luận như cái tên (hoặc viên đạn). Thực hành cũng như cái đích để bắn. Có tên mà không bắn, hoặc bắn lung tung, cũng như không có tên. Lý luận cốt để áp dụng vào thực tế”. Người từng khẳng định, học tập Chủ nghĩa Mác - Lênin nhằm trang bị cho mỗi người thế giới quan, phương pháp luận cách mạng và khoa học để nhận thức và hành động đúng đắn, kiên quyết, sáng tạo và hiệu quả, nhất là không học một cách giáo điều theo câu chữ mà là học tập tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình; là học tập những chân lý phổ biến của Chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta. Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, sự học không có trang sách cuối cùng, học trên ghế nhà trường, học trong cuộc sống, học tập là công việc suốt đời, do vậy giáo dục là sự nghiệp lâu dài, bền bỉ. Người nhấn mạnh: “Học không bao giờ cùng. Học mãi để tiến bộ mãi. Càng tiến bộ, càng thấy càng phải học thêm”.

Ba là, nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước về giáo dục và đào tạo. Thống nhất giữa hệ thống các chủ trương, chính sách và tổ chức thực hiện hoạt động giáo dục. Tăng cường phối hợp đồng bộ, chặt chẽ và có hệ thống giữa các cấp, các ngành, các tổ chức chính trị - xã hội, cơ quan, đoàn thể, sự phối hợp gia đình - nhà trường - xã hội trong hoạt động đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Hoàn thiện và triển khai cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành và địa phương trong quản lý Nhà nước về giáo dục theo hướng phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền gắn với trách nhiệm. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh vai trò kết hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội: “Bởi vì giáo dục trong nhà trường, chỉ là một phần, còn cần có sự giáo dục ngoài xã hội và trong gia đình để giúp cho việc giáo dục trong nhà trường được tốt hơn. Giáo dục trong nhà trường dù tốt mấy nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng không hoàn toàn” … “Các đoàn thể thanh niên, phụ nữ, các cơ quan chính quyền và các cấp ủy đảng phải thật sự quan tâm đến nhà trường, đến việc học tập của con em mình hơn nữa”. Hoạt động quản lý giáo dục luôn rất cần có sự phối hợp của các cấp, ngành và toàn xã hội. Người chỉ rõ, để có sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình và xã hội cần phát huy dân chủ, xây dựng mối quan hệ đoàn kết giữa thầy với thầy, giữa thầy và trò, giữa học trò với nhau, giữa nhà trường với Nhân dân, chú trọng các phong trào thi đua để tạo nên môi trường giáo dục lành mạnh. Người nhấn mạnh cần phải đi sâu vào điều tra nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn trong công tác quản lý giáo dục. Việc ban hành các chủ trương, chính sách về giáo dục phải cụ thể, thiết thực, đúng đắn, kết hợp chặt chẽ chủ trương, chính sách của Trung ương với tình hình thực tế và kinh nghiệm quý báu, phong phú của quần chúng, của cán bộ và của địa phương để nâng cao hiệu quả công tác quản lý giáo dục. Cần nâng cao trách nhiệm, tạo động lực và tính chủ động, sáng tạo của các cơ sở giáo dục và đào tạo. Xây dựng và hoàn thiện chiến lược quản lý chất lượng giáo dục, chất lượng nguồn nhân lực, cơ chế, chính sách tuyển dụng, quy trình tuyển chọn, bố trí, phân công nhiệm vụ, đánh giá và đãi ngộ lực lượng làm công tác giáo dục và quản lý giáo dục. Nâng cao hiệu quả việc quản lý tài chính, phân bổ nguồn lực, bảo đảm dân chủ, khách quan trong giáo dục và đào tạo. Đổi mới cơ chế tiếp nhận và xử lý thông tin trong quản lý giáo dục và đào tạo. Thực hiện quản lý theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển giáo dục và quy hoạch phát triển nhân lực của từng ngành, địa phương trong từng giai đoạn phù hợp tình hình phát triển kinh tế - xã hội. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, truyền thông nhằm nâng cao hiệu quả quản lý giáo dục ở các cấp.

Bốn là, chú trọng công tác xây dựng, bồi dưỡng và sử dụng hợp lý đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục - lực lượng cơ bản tham gia xây dựng và phát triển giáo dục, có vai trò quyết định đến chất lượng giáo dục và đào tạo. Xây dựng đội ngũ nhà giáo có phẩm chất đạo đức tốt, có sức khỏe, bản lĩnh chính trị vững vàng, đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ mới. Xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Việc tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ, tôn vinh nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục phải trên cơ sở đánh giá năng lực, đạo đức nghề nghiệp và hiệu quả công tác. Bởi theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thì vấn đề then chốt quyết định chất lượng giáo dục chính là xây dựng đội ngũ những người thầy giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Họ, người mang sứ mệnh cao cả là đào tạo lớp người kế cận cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc, truyền bá cho thế hệ trẻ lý tưởng đạo đức chân chính, hệ thống các giá trị, tinh hoa văn hóa của dân tộc và nhân loại, bồi dưỡng những phẩm chất cao quý và năng lực sáng tạo phù hợp với sự phát triển và tiến bộ của xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Có gì vẻ vang hơn là nghề đào tạo những thế hệ sau này tích cực góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản? Người thầy giáo tốt - thầy giáo xứng đáng là thầy giáo - là người vẻ vang nhất... những người thầy giáo tốt là những anh hùng vô danh... nghề thầy giáo rất là quan trọng, rất là vẻ vang”. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, để làm tròn sứ mệnh vẻ vang ấy, người thầy giáo cần phải có đạo đức, trí tuệ, tài năng, phải không ngừng trau dồi kiến thức, là tấm gương tốt cho các thế hệ học sinh noi theo: “Giáo viên phải chú ý cả tài, cả đức, tài là văn hóa, chuyên môn, đức là chính trị. Muốn cho học sinh có đức thì giáo viên phải có đức... Cho nên thầy giáo, cô giáo phải gương mẫu, nhất là đối với trẻ con”.

Năm là, đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục và đào tạo, tăng cường các nguồn lực đầu tư phát triển giáo dục, đa dạng hóa các loại hình giáo dục và đào tạo trên cơ sở quản lý thống nhất của Nhà nước, tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục, đào tạo. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, đánh giá, giám sát hoạt động giáo dục, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch. Chuẩn hóa các điều kiện bảo đảm chất lượng và quản lý quá trình đào tạo. Xây dựng hệ thống kiểm định độc lập về chất lượng giáo dục và đào tạo. Thực hiện cơ chế người học tham gia đánh giá hoạt động giáo dục; nhà giáo tham gia đánh giá cán bộ quản lý; cơ sở giáo dục, đào tạo tham gia đánh giá cơ quan quản lý Nhà nước. Tổ chức tốt, thực chất công tác thi đua khen thưởng, tạo động lực cho đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục, giáo viên, học sinh thi đua dạy tốt, học tốt. Nhân rộng những mô hình giáo dục và đào tạo hiệu quả trong nước, nghiên cứu chọn lọc áp dụng một số mô hình giáo dục và đào tạo của thế giới vào nhà trường, góp phần thúc đẩy sự phát triển của giáo dục và đào tạo nước ta trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG TÌNH HÌNH MỚI

 Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn căn dặn: "Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư", để giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, "xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân". Thực hiện lời dạy của Người, Đảng ta luôn chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, coi đó là "một việc hết sức quan trọng và rất cần thiết".

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta. Trong suốt quá trình hoạt động cách mạng, Người luôn chăm lo đến công tác xây dựng Đảng, trong đó giáo dục, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống của người cán bộ, đảng viên là cơ sở, nền tảng để xây dựng Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, người cán bộ, đảng viên có phẩm chất đạo đức tốt, có đời sống vật chất tinh thần lành mạnh, trước hết, phải là người có lập trường kiên định, vững vàng trước mọi thử thách, luôn nói và làm theo nghị quyết của Đảng. Là người biết lắng nghe ý kiến, tâm tư, nguyện vọng, biết tôn trọng quyền làm chủ tập thể của quần chúng nhân dân. Họ là những người có ý thức tổ chức kỷ luật, nói đi đôi với làm, có ý thức phê bình và tự phê bình, tác phong giản dị, lối sống trong sạch, lành mạnh. Trong cuộc sống gia đình, họ là những người biết lo toan, tổ chức một gia đình hạnh phúc.

Phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên được biểu hiện thông qua việc thực hiện nhiệm vụ theo cương vị, chức trách được phân công, giữ gìn kỷ luật; luôn đặt lợi ích của Đảng, của Nhân dân lên trên lợi ích cá nhân mình; hết lòng, hết sức phục vụ Nhân dân. Họ là những người luôn vì Đảng, vì Dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc; luôn dùng tự phê bình và phê bình để nâng cao tư tưởng, cải tiến công tác của mình và cùng đồng chí mình tiến bộ. 

Trong công tác xây dựng Đảng, Đảng ta đã nhiều lần chỉ ra những hạn chế, khuyết điểm chưa được khắc phục triệt để trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đó là một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Có những cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ chủ chốt các cấp yếu kém về phẩm chất, năng lực, thiếu tính chiến đấu, giảm sút ý chí, lòng tin, phai nhạt lý tưởng. Một số ít có biểu hiện bất mãn, nói và làm trái với quan điểm, đường lối của Đảng, vi phạm nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, vi phạm pháp luật Nhà nước. Bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân trong một bộ phận cán bộ, đảng viên có chiều hướng gia tăng, làm giảm sút lòng tin, uy tín, thanh danh của Đảng, tổn thương mối quan hệ giữa Đảng với Nhân dân, hạ thấp sức chiến đấu và vai trò lãnh đạo của Đảng. Đó là một nguy cơ lớn liên quan đến sự sống còn của Đảng, của chế độ.

Nguyên nhân của tình trạng suy thoái về phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên có cả yếu tố chủ quan và khách quan. Trước hết, những cán bộ, đảng viên này mắc bệnh chủ nghĩa cá nhân, mọi thói hư tật xấu, tha hóa, biến chất của cán bộ, đảng viên đều từ căn bệnh này mà ra. Trong khi đó công tác quản lý, kiểm tra, giám sát của một số tổ chức đảng với cán bộ, đảng viên có biểu hiện xem nhẹ, buông lỏng. Mặt khác, cấp ủy và tổ chức đảng có lúc, có nơi chưa coi trọng đúng mức, chưa có những biện pháp hữu hiệu để giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện, kiểm tra, giám sát đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Thực tế những năm gần đây cho thấy, một số chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước chậm đổi mới, hoặc đổi mới chưa đồng bộ đã tạo ra những kẽ hở cho căn bệnh chủ nghĩa cá nhân sinh sôi, nảy nở. Mặt trái của cơ chế thị trường chưa được ngăn chặn, đẩy lùi đã kích thích lòng ham muốn cá nhân, tiền tài, địa vị, lối sống thực dụng, hưởng thụ trong đội ngũ cán bộ, đảng viên… Trong khi đó các thế lực thù địch ở trong và ngoài nước luôn tận dụng triệt để mọi sai lầm, khuyết điểm, dùng mọi thủ đoạn tinh vi, nham hiểm để lôi kéo làm tha hóa, biến chất đội ngũ cán bộ, đảng viên. Từ những biểu hiện suy thoái về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của “một bộ phận không nhỏ” này đã làm ảnh hưởng đến uy tín, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng.

Đất nước ta đã bước sang một giai đoạn cách mạng mới, giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đây là cuộc cách mạng toàn diện nhất, sâu sắc nhất và triệt để nhất, diễn ra trên tất cả các lĩnh vực, đòi hỏi cần tăng cường hơn nữa công tác quản lý, bồi dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Để làm theo lời Bác, mỗi cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên cần thực hiện tốt một số giải pháp cơ bản sau:

Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị đối với công tác bồi dưỡng, rèn luyện nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Đây là giải pháp cơ bản, quan trọng hàng đầu giữ vai trò quyết định đến nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Bởi mọi hoạt động của con người đều bắt đầu từ nhận thức, trên cơ sở nhận thức, chỉ có nhận thức đúng mới có cơ sở cho hành động đúng. Do vậy, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp, lãnh đạo các cơ quan, đơn vị cần tổ chức quán triệt, giáo dục, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức cho mọi tổ chức, mọi lực lượng. Thường xuyên đổi mới nội dung, phương pháp trong bồi dưỡng, giáo dục, định hướng tư tưởng, nhận thức và hành động, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Để thực hiện có hiệu quả, chất lượng công tác này, cần phát huy tốt vai trò, trách nhiệm của các cấp uỷ, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Đồng thời, cần có những biện pháp kịp thời khắc phục triệt để những tư tưởng, nhận thức và hành động chưa đúng, chưa đầy đủ, trách nhiệm chưa cao trong công tác này. 

Hai là, thường xuyên đổi mới nội dung, hình thức phương pháp bồi dưỡng, giáo dục, rèn luyện nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Mục đích cao nhất của việc đổi mới nội dung bồi dưỡng, rèn luyện cán bộ, đảng viên là hướng vào nâng cao nhận thức cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, ý thức tổ chức kỷ luật cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Cần làm cho họ có động cơ phấn đấu rèn luyện đúng đắn, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc và Nhân dân; trung thành với Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; có trách nhiệm cao với công việc, với đơn vị và bản thân. Do vậy, nội dung bồi dưỡng, rèn luyện cần hướng trọng tâm vào nâng cao năng lực quán triệt và tổ chức thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng; thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ của đảng viên.

Đổi mới nội dung, hình thức phương pháp bồi dưỡng, rèn luyện đảng viên trước hết là đổi mới nhận thức và tư duy của các lực lượng, các đối tượng. Cùng với đó là đổi mới cách thức quán triệt và tổ chức thực hiện kế hoạch học tập lý luận chính trị theo quy định, học tập và triển khai thực hiện nghị quyết, các chuyên đề thông báo chính trị - thời sự, các đợt sinh hoạt chính trị tư tưởng… Tổ chức tốt hoạt động thực tiễn gắn với thực hiện các nhiệm vụ của đơn vị; đưa đội ngũ đảng viên vào hoạt động thực tiễn để thử thách, rèn luyện và đánh giá kết quả khách quan, chính xác. Cùng với đó đội ngũ cán bộ chủ chốt, bí thư cấp uỷ và những đảng viên lâu năm có uy tín trong đơn vị thường xuyên gần gũi, động viên, giáo dục, thuyết phục đội ngũ đảng viên khắc phục khó khăn, phấn đấu vươn lên hoàn thành nhiệm vụ. Lấy gương người tốt, việc tốt hằng ngày, những điển hình tiên tiến trong đội ngũ đảng viên để giáo dục lẫn nhau. Duy trì thực hiện nghiêm các nền nếp chế độ sinh hoạt, nhất là sinh hoạt tự phê bình và phê bình; thực hiện tốt việc phân loại đánh giá chất lượng tổ chức đảng và đảng viên hằng năm. Thông qua đó các cấp ủy, cán bộ chủ trì cơ quan chức năng nắm chắc điểm mạnh, điểm yếu, kết quả phấn đấu rèn luyện của từng tổ chức đảng và đảng viên; chỉ ra được nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót, đề ra nội dung biện pháp, giúp tổ chức đảng và từng đảng viên khắc phục hạn chế, khuyết điểm kịp thời góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên.

Ba là, mỗi cán bộ, đảng viên cần nêu cao tính tự giác, tích cực chủ động trong tự bồi dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống.

Tự bồi dưỡng, rèn luyện là nhân tố bên trong đóng vai trò hết sức quan trọng đối với việc củng cố, hoàn thiện và phát triển phẩm chất đạo đức, nhân cách của người cán bộ, đảng viên. Trong thực tiễn công tác cán bộ, đảng viên vừa là đối tượng, vừa là chủ thể của quá trình bồi dưỡng, giáo dục, rèn luyện. Với tư cách là chủ thể của quá trình đó, đòi hỏi từng cán bộ, đảng viên phải xác định đúng động cơ, đề cao tính tự giác, tích cực chủ động trong tự học tập, tu dưỡng rèn luyện nâng cao phẩm chất đạo đức, lối sống, năng lực, phương pháp, tác phong công tác. Mỗi cán bộ, đảng viên phải tự nhận thức, phân tích, đánh giá đúng, khách quan, toàn diện về bản thân, nhất là những hạn chế, khuyết điểm để khắc phục kịp thời, không ngừng phấn đấu vươn lên; gương mẫu trong học tập, rèn luyện, có sức đề kháng với những tác động tiêu cực nảy sinh từ mặt trái xã hội; luôn tiếp nhận thông tin, tri thức, kinh nghiệm chuyên môn, nghiệp vụ, tu dưỡng rèn luyện, chấp hành nghiêm kỷ luật Đảng, pháp luật Nhà nước, quy định của đơn vị; chống bệnh chủ nghĩa cá nhân. Thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền, vận động quần chúng, trước hết là động viên mọi người trong gia đình, người thân thực hiện nghiêm đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Bốn là, kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Mọi cấp ủy, tổ chức đảng phải thường xuyên quán triệt, tổ chức thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; Kết luận số 21-KL/TW ngày 25-10-2021 Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; Quy định số 37-QĐ/TW về những điều đảng viên không được làm. Đồng thời, gắn kết chặt chẽ việc thực hiện các nghị quyết của Trung ương với đẩy mạnh thực hiện học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Mỗi đảng viên cần quán triệt sâu sắc và nhận diện đúng sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; tích cực, chủ động, thực hiện có hiệu quả quan điểm, phương châm, chủ trương, giải pháp của Đảng về đấu tranh khắc phục tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên hiện nay.

Từng cán bộ, đảng viên cần có thái độ kiên quyết trong đấu tranh với những biểu hiện vi phạm; đề cao tính tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt đảng, trong công tác và trong cuộc sống hằng ngày; kết hợp chặt chẽ đấu tranh khắc phục tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” với đấu tranh phòng, chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, góp phần xây dựng trận địa tư tưởng vững chắc trong đơn vị, xây dựng các tổ chức đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức.

Năm là, thực hiện tốt việc kiểm tra, giám sát và phân tích đánh giá chất lượng đảng viên.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”4. Thực tiễn cho thấy, có làm tốt việc kiểm tra đảng viên thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, cấp ủy, chi bộ mới xem xét, đánh giá, phân tích, kết luận chính xác về trình độ, năng lực của cán bộ, đảng viên. Thông qua kiểm tra, giám sát là biện pháp giáo dục, góp phần chủ động ngăn ngừa vi phạm và cảnh tỉnh, cảnh báo, răn đe đối với mọi cán bộ, đảng viên; ngăn ngừa, hạn chế vi phạm kỷ luật đảng, làm trong sạch đội ngũ. Chính vì thế, công tác này có ý nghĩa hết sức quan trọng, phải được tiến hành thường xuyên, công tâm, khách quan, gắn với thi hành kỷ luật đảng.

Trong bối cảnh hiện nay, đạo đức con người đang chịu những ảnh hưởng to lớn bởi các lợi ích kinh tế, lợi ích cá nhân. Vấn đề đặt ra đối với các cấp ủy, tổ chức đảng phải thường xuyên làm tốt công tác kiểm tra, sàng lọc, kiên quyết đưa ra khỏi Đảng, xử lý nghiêm minh những đảng viên thoái hóa về tư tưởng chính trị, vi phạm đạo đức, lối sống, tham nhũng, cố tình vi phạm Điều lệ Đảng, pháp luật của Nhà nước. Đây được coi là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu, tạo nền tảng cho việc bồi dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng đối với cán bộ, đảng viên hiện nay, góp phần xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh, đơn vị vững mạnh toàn diện.

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TINH THẦN TRÁCH NHIỆM ĐỂ KHƠI DẬY KHÁT VỌNG PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC

 Tinh thần trách nhiệm là một giá trị văn hóa, được gọi là văn hóa trách nhiệm hay văn hóa bổn phận. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, tinh thần trách nhiệm “Là khi Đảng, Chính phủ, hoặc cấp trên giao cho ta việc gì, bất kỳ to hay nhỏ, khó hay dễ, ta cũng đưa cả tinh thần, lực lượng ra làm cho đến nơi đến chốn, vượt mọi khó khăn, làm cho thành công”.

Tinh thần trách nhiệm trong tư tưởng Hồ Chí Minh

Nêu cao tinh thần trách nhiệm, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân là tư tưởng xuyên suốt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh. Trách nhiệm đó được thể hiện trong mọi hoạt động của Người: trong học tập, lao động, nghiên cứu lý luận, hoạt động thực tiễn, cùng Đảng lãnh đạo toàn thể dân tộc Việt Nam tiến hành Cách mạng Tháng Tám thành công và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một đất nước có nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, kém phát triển...

Với thân phận của một người dân sống trong một đất nước mất độc lập, dân nô lệ, lầm than, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận rõ trách nhiệm của một người dân mất nước, quyết tâm đi tìm đường cứu nước, giải phóng đồng bào. Trách nhiệm đó thấm sâu vào từng suy nghĩ và hành động của Người, để rồi trong suốt 30 năm, chàng thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã tìm đến các nước tư bản phát triển, các nước thuộc địa, sẵn sàng làm nhiều nghề để vừa nuôi sống bản thân, vừa hoạt động cách mạng. Người đã thể hiện trách nhiệm và quyết tâm cháy bỏng tìm con đường cứu nước bằng cách khám phá thế giới, tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau khẩu hiệu “Tự do, Bình đẳng, Bác ái” rồi trở về giúp đồng bào. Không lo cho bản thân mình, Người sẵn sàng tranh luận, trao đổi các vấn đề lớn liên quan tới vận mệnh của nhân dân Việt Nam cũng như các dân tộc thuộc địa. Bản lĩnh và trách nhiệm của một chiến sĩ cách mạng dần hé lộ trong tư duy và hành động của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.

Khi trở thành người đứng đầu Đảng và Nhà nước, Bác vẫn thể hiện rõ trách nhiệm của một người đứng ở vị trí cao nhất. Người khẳng định: “chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi”. Người cũng chỉ rõ, muốn làm tròn bổn phận, chúng ta nên lợi dụng mấy khẩu hiệu của người Trung Hoa: “1. Khổ cán (làm việc hết sức mình). 2. Hạnh cán (làm việc chất lượng). 3. Thực cán (làm việc có hiệu quả, có năng suất)”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh thực thi công vụ với ý thức trách nhiệm của một người lãnh đạo chủ chốt, đứng đầu không phải bằng việc sử dụng hay lạm dụng quyền lực mà thuyết phục bằng cảm hóa, bằng phong cách nói đi đôi với làm. Ý thức trách nhiệm của Người thể hiện từ những việc lớn như hoạch định đường lối, chính sách đến những việc nhỏ như lo tương cà, mắm muối cho dân. Người sống đời sống của dân, cùng nhịp đập với trái tim của dân, lo toan, trăn trở khi dân ốm, dân đói, dân rét, dân bị bóc lột, bị mù chữ, nghèo nàn… Theo Bác, người nấu bếp, lo làm cho luôn luôn cơm lành canh ngon, bát đũa sạch sẽ. Không phí phạm của công. Tìm cách tăng gia trồng rau, nuôi gà… Khi anh em ốm yếu, thì có bát canh bát cháo. Khi bộ đội đang mải đánh giặc thì tìm cách đưa cơm đến nơi cho anh em ăn. Khi tiếp tế khó khăn thì tìm cách vượt qua, không để anh em thiếu thốn. Như thế là có tinh thần trách nhiệm.

Người cán bộ quân sự, thì luôn luôn học hỏi chính trị và kỹ thuật, chiến thuật. Luôn luôn săn sóc đến tinh thần và vật chất của đội viên. Đoàn kết nội bộ. Giúp đỡ nhân dân. Kiên quyết chấp hành mệnh lệnh trên giao xuống. Khi đánh giặc thì làm cho toàn đội thấm nhuần tinh thần quyết chiến, quyết thắng. Gặp việc khó khăn thì cố tìm cách giải quyết đúng. Như thế là có tinh thần trách nhiệm.

Đảng và Chính phủ đề ra chính sách. Cán bộ phải nghiên cứu, hiểu suốt, thấm nhuần chính sách ấy. Theo chính sách ấy mà điều tra, nghiên cứu, thấu hiểu hoàn cảnh thiết thực của đơn vị mình, địa phương mình. Rồi đặt kế hoạch rõ ràng, tỉ mỉ, thiết thực để giải thích, tuyên truyền, cổ động quần chúng, làm cho mọi người hiểu và ủng hộ chính sách của Đảng và Chính phủ như là của họ, rồi thi đua thực hiện đầy đủ chính sách ấy. Như thế là làm trọn nhiệm vụ.

Để thực hiện chính sách, làm tròn nhiệm vụ, cán bộ chẳng những phải chịu khó giải thích, tuyên truyền, cổ động mà còn phải đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết; liên hệ chặt chẽ với nhân dân; việc gì cũng bàn bạc với nhân dân, giải thích cho nhân dân hiểu rõ; có khuyết điểm thì thật thà tự phê bình trước nhân dân và hoanh nghênh nhân dân phê bình mình; sẵn sàng học hỏi nhân dân; tự mình là gương mẫu cần, kiệm, liêm, chính để nhân dân noi theo. Thế là có tinh thần trách nhiệm đối với Đảng, Chính phủ và đối với Nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, mọi suy nghĩ và hành động của cán bộ công chức phải đi đúng đường lối quần chúng. Đi đúng đường lối quần chúng là một nét đặc sắc trong tư duy Hồ Chí Minh về đạo đức công vụ. Người khẳng định: “Tinh thần trách nhiệm là: nắm vững chính sách, đi đúng đường lối quần chúng, làm tròn nhiệm vụ”.

Ý thức trách nhiệm, tinh thần trách nhiệm, hành động có trách nhiệm là nhân tố có tính quyết định trong hoạt động thực tiễn của con người, là khía cạnh quan trọng nhất của đạo đức nghề nghiệp. Ngày 20-5-1950, Người đã ký Sắc lệnh 76/SL ban hành Quy chế công chức Việt Nam, trong đó, Điều 2 quy định: “Công chức Việt Nam phải phục vụ Nhân dân, trung thành với Chính phủ, tôn trọng kỷ luật, có tinh thần trách nhiệm và tránh làm những việc có hại đến thanh danh công chức hay đến sự hoạt động của bộ máy nhà nước”. Theo đó, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, cán bộ công chức phải đặt lên hàng đầu ý thức và tinh thần trách nhiệm, hết lòng hết sức phục sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân.

Còn một số tập thể, cá nhân thiếu tinh thần trách nhiệm

Hiện nay, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đặt ra yêu cầu ngày càng cao. Đại đa số cán bộ, đảng viên và quần chúng đều nêu cao vai trò trách nhiệm, thực hiện nghiêm quy định, quy chế làm việc của tổ chức, cơ quan, đơn vị; giữ gìn đạo đức, phẩm chất cách mạng, sống mẫu mực, đoàn kết, gắn bó mật thiết với nhân dân… Tuy nhiên, vẫn còn một số cán bộ, đảng viên có biểu hiện thiếu tinh thần trách nhiệm, bớt xén giờ giấc, làm không đúng quyền hạn, chức trách, nói nhiều, làm ít. Đặc biệt, một số cán bộ, đảng viên có chức, có quyền đã thiếu tinh thần trách nhiệm trong quá trình thực thi nhiệm vụ gây thất thoát lớn tài sản của Nhà nước và Nhân dân như các vụ án liên quan đến: Đảng đoàn Hội Chữ thập đỏ Việt Nam đã thiếu trách nhiệm, buông lỏng lãnh đạo, chỉ đạo trong công tác tổ chức - cán bộ, quản lý tài chính, quy hoạch, sắp xếp và quản lý các cơ quan báo chí trực thuộc Cơ quan Trung ương Hội; Ban Thường vụ Đảng ủy Cảnh sát biển Việt Nam nhiệm kỳ 2015-2020 đã thiếu trách nhiệm, thiếu kiểm tra, giám sát trong công tác quản lý, sử dụng tài chính, thực hiện dự án đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm vật tư, trang bị kỹ thuật và trong đấu tranh phòng, chống buôn lậu, giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn trên biển; Ban Cán sự đảng Bộ Y tế đã thiếu trách nhiệm, buông lỏng lãnh đạo, chỉ đạo trong công tác xây dựng, ban hành thể chế, chính sách; trong việc cấp phép nhập khẩu thuốc, thực hiện liên doanh liên kết, đấu thầu, mua sắm thuốc, trang thiết bị y tế; để nhiều cán bộ, đảng viên bị kỷ luật, một số bị xử lý hình sự… Những vi phạm nêu trên đã gây hậu quả nghiêm trọng làm thất thoát, lãng phí tiền, tài sản của Nhà nước, gây bức xúc trong xã hội, ảnh hưởng xấu đến uy tín của tổ chức đảng, cá nhân và các ngành có liên quan.

Một số giải pháp nâng cao tinh thần trách nhiệm để xây dựng đất nước phồn vinh

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong thực hiện công việc người cán bộ, phải tích cực, tự giác thực hiện nhiệm vụ được giao, ý thức đúng đắn về trách nhiệm của mình trên mọi cương vị, vị trí công tác, “có gan phụ trách”, dám nghĩ dám làm, chủ động sáng tạo và đặc biệt phải có khát vọng vươn lên để có kết quả cao nhất. Nói đến khát vọng là nói đến yếu tố tinh thần, là sự mong muốn, khao khát, quyết tâm dồn sức lực, trí tuệ để đạt cho được mục tiêu; là nguồn động lực có sức mạnh vô biên để thực hiện những nhiệm vụ nặng nề nhằm đạt được ước mơ, không khuất phục trước mọi thử thách… là động lực để cho mọi tầng lớp nhân dân đem hết sức mình thực hiện khát vọng, mà cụ thể ở thời điểm này khát vọng của dân tộc Việt Nam là đưa đất nước đi tới phồn vinh, hùng cường, thịnh vượng. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng khẳng định: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con người Việt Nam, bồi dưỡng sức dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, có cơ chế đột phá để thu hút, trọng dụng nhân tài, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nhất là những thành tựu của của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thúc đẩy đổi mới, sáng tạo, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững đất nước”.

Trong thời gian tới, để góp phần nâng cao tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng viên nhằm thực hiện khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hùng cường, cần thực hiện tốt một số giải pháp sau:

Một là, tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị gắn với hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức; xác định rõ quan hệ giữa tập thể lãnh đạo với cá nhân phụ trách; quyền hạn đi đôi với trách nhiệm và đề cao trách nhiệm của người đứng đầu; có cơ chế, quy định cụ thể, rõ ràng và ràng buộc trách nhiệm của cá nhân trong hệ thống chính trị, hệ thống công quyền.

Hai là, mỗi cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu cấp ủy, cơ quan, đơn vị cần thực sự tiên phong, gương mẫu về tinh thần trách nhiệm trước công việc và nhân dân theo phương châm “nói đi đôi với làm”, nói ít làm nhiều, chủ yếu là hành động; cán bộ cấp trên nêu gương cho cán bộ cấp dưới; đảng viên nêu gương cho quần chúng noi theo.

Ba là, từng cán bộ, đảng viên cần nêu cao tính chủ động, sáng tạo trước công việc được giao. Khi thực hiện nhiệm vụ, công việc cần có chương trình, kế hoạch, tránh để chậm trễ gây tồn đọng, ách tắc, cấp trên hoặc lãnh đạo phải nhắc nhở hoặc nhân dân phải phàn nàn, chê trách, góp ý phê bình về ý thức và tinh thần trách nhiệm. Trong thực hiện nhiệm vụ cần thực hiện nghiêm chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đúng quy trình, thủ tục, đồng thời linh hoạt, sáng tạo, đổi mới, dám nghĩ, dám làm để hoàn thành công việc với hiệu quả cao nhất.

Bốn là, nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ, viên chức phải gắn với trao đổi, tự phê bình và phê bình, đóng góp ý kiến xây dựng cho cán bộ, đảng viên. Kịp thời khen thưởng, biểu dương những việc làm tốt và uốn nắn những hạn chế, khuyết điểm, có biện pháp phù hợp để cán bộ, đảng viên nhận thức được sai sót, hạn chế của mình, từ đó phấn đấu sửa chữa. Nghiêm túc đấu tranh chống bệnh tranh công, đổ lỗi cho khách quan hoặc đổ trách nhiệm cho người khác; những biểu hiện né tránh, bao biện hoặc kiểm điểm, phê bình một cách hình thức, chiếu lệ, qua loa.

Hơn 70 năm đã qua đi, nhưng những lời chỉ dẫn của Hồ Chí Minh trong tác phẩm Tinh thần trách nhiệm vẫn còn nguyên giá trị để Đảng và Nhà nước Việt Nam “Khơi dậy tinh thần và ý chí, quyết tâm phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; dân tộc cường thịnh, trường tồn; phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam” nhằm đưa đất nước cùng tiến bước, sánh vai với các cường quốc năm châu, thực hiện thành công tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh và ước vọng của toàn dân tộc.

XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CHÍNH UỶ, CHÍNH TRỊ VIÊN THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

 Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng xác định: “Xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Đến năm 2025, cơ bản xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh. Đến năm 2030 xây dựng một số quân chủng, binh chủng, lực lượng hiện đại”. Để đạt được mục tiêu này, một trong những biện pháp quan trọng là xây dựng đội ngũ chính ủy, chính trị viên các cấp trong Quân đội làm nòng cốt với phẩm chất chính trị, đạo đức, phương pháp, tác phong công tác theo Tư tưởng Hồ Chí Minh.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính ủy, chính trị viên trong Quân đội

Ngay từ những ngày đầu của cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã đặc biệt quan tâm đến xây dựng đội ngũ cán bộ chính trị trong những tổ chức mầm mống của lực lượng vũ trang cách mạng. Người nhấn mạnh: “Về mặt chính trị, cấp nào cũng có một người chính trị phái viên do đoàn thể cách mạng chọn trong bộ đội ấy hoặc phái người ngoài đến làm”. Từ đó đến nay, ở các đơn vị lực lượng vũ trang cách mạng (lúc đầu từ cấp trung đội, sau là từ cấp đại đội trở lên) bên cạnh người chỉ huy quân sự bao giờ cũng có người cán bộ chính trị - người tiêu biểu cho đường lối chính trị, quân sự của Đảng, được tổ chức đảng lựa chọn và giao nhiệm vụ chỉ đạo, trực tiếp tiến hành công tác đảng, công tác chính trị, chịu trách nhiệm chủ yếu trước Đảng về bản chất cách mạng của đơn vị vũ trang mà mình được phân công đảm nhiệm. Là đại biểu của Đảng bên cạnh người chỉ huy, hơn ai hết, họ là người giữ nghiêm kỷ luật Đảng, nắm vững và thực hiện tốt các nguyên tắc của Đảng, thật sự tiêu biểu cho sự đoàn kết thống nhất trong tổ chức đảng và trong toàn đơn vị.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, chính ủy, chính trị viên phải có ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm minh. Người chỉ rõ: “Kỷ luật phải được thi hành từ trên đến dưới. Trách nhiệm của người chỉ huy quân sự và người chính trị viên phải định rõ ràng”. Theo đó, chính ủy, chính trị viên không chỉ chấp hành nghiêm túc và triệt để mọi đường lối, chủ trương, nguyên tắc của Đảng, điều lệnh, điều lệ, kỷ luật của quân đội, mệnh lệnh, chỉ thị của cấp trên, mà phải thường xuyên chăm lo củng cố, giữ gìn và tăng cường đoàn kết, kỷ luật trong nội bộ đơn vị, đoàn kết quân dân. Mỗi chính uỷ, chính trị viên phải là hạt nhân, là trung tâm xây dựng khối đoàn kết thống nhất trong cơ quan, đơn vị. 

Chính ủy, chính trị viên cũng cần ham học hỏi, cầu tiến bộ. Bác Hồ cho rằng: “Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời. Suốt đời phải gắn liền lý luận với công tác thực tế. Không ai có thể tự cho mình đã biết đủ rồi, biết hết rồi. Thế giới ngày ngày đổi mới, nhân dân ta ngày càng tiến bộ, cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân dân”. Sự nỗ lực học tập vươn lên là một đòi hỏi tất yếu khách quan, phù hợp quy luật phát triển của xã hội. Với người cán bộ chính trị, chính uỷ, chính trị viên, người làm công tác lãnh đạo, công tác giáo dục, xây dựng “hướng dẫn, dìu dắt quần chúng trên con đường đấu tranh” càng phải tích cực học tập phấn đấu để không ngừng tiến bộ.

Là người lãnh đạo, quản lý, chỉ huy hằng ngày tiếp xúc với bộ đội, chính uỷ, chính trị viên phải trong sáng, gương mẫu về đạo đức lối sống. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát: “Tư cách của chính trị viên có ảnh hưởng rất quan trọng đến bộ đội. Người chính trị viên tốt, thì bộ đội ấy tốt. Người chính trị viên không làm tròn nhiệm vụ, thì bộ đội ấy không tốt”. Chính vì vậy, Người luôn yêu cầu người cán bộ chính trị, chính uỷ, chính trị viên phải biết đặt lợi ích của Đảng, của cách mạng, của Nhân dân, của tập thể lên trên lợi ích cá nhân; sống có hoài bão, có lý tưởng, có niềm tin yêu mãnh liệt đối với bộ đội và Nhân dân; có lối sống trong sáng, lành mạnh, thẳng thắn, trung thực, khiêm tốn, giản dị với mọi người; kiên quyết đấu tranh khắc phục mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, để luôn luôn xứng đáng với lời dạy: “Chính trị viên phải làm người kiểu mẫu trong mọi việc”(5).

Một số nhiệm vụ và giải pháp

Trong bối cảnh hiện nay, tình hình thế giới, khu vực, trong nước có những diễn biến phức tạp, các thế lực thù địch ra sức dùng mọi âm mưu, thủ đoạn thâm độc nhằm lung lạc niềm tin, lý tưởng, ý chí chiến đấu và lòng trung thành của cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội đối với Đảng, Nhà nước và chế độ. Xuất phát từ những lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ vị trí, vai trò của chính uỷ, chính trị viên và yêu cầu mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, việc thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao trình độ, phẩm chất đạo đức của đội ngũ chính uỷ, chính trị viên là một tất yếu khách quan. Trong thời gian tới, các cấp ủy, tổ chức đảng trong Quân đội cần tập trung làm tốt một số giải pháp cơ bản sau:

Một là, tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ chính ủy, chính trị viên, trong đó chú trọng nội dung xây dựng Đảng về đạo đức, truyền thống lịch sử, văn hóa của dân tộc; kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa đào tạo với rèn luyện trong thực tiễn. Chú trọng làm tốt việc giáo dục ý thức trách nhiệm, phổ biến, tuyên truyền các chuẩn mực đạo đức cách mạng theo quan điểm, Tư tưởng Hồ Chí Minh cho đội ngũ chính uỷ, chính trị viên, làm cơ sở cho việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người, đồng thời làm cơ sở để tuyên truyền, giáo dục, đạo đức cách mạng cho cán bộ, chiến sĩ trong cơ quan, đơn vị.

Hai là, quán triệt và tổ chức triển khai thực hiện tốt nội dung quan điểm về rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân theo Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Gắn chặt chẽ giữa bồi dưỡng đạo đức cách mạng của chính uỷ, chính trị viên với việc xây dựng bản lĩnh chính trị, bồi dưỡng kiến thức, nâng cao năng lực toàn diện, rèn luyện phương pháp, tác phong công tác khoa học, dân chủ, sâu sát bộ đội, gắn bó với Nhân dân, lời nói đi đôi với việc làm.

Ba là, làm tốt công tác kiểm tra sơ tổng kết, đánh giá đúng thực trạng kết quả bồi dưỡng, rèn luyện đạo đức của đội ngũ chính uỷ, chính trị viên, chỉ rõ nguyên nhân, kinh nghiệm, làm tốt công tác biểu dương, khen thưởng, kịp thời nhắc nhở, xử ký các trường hợp vi phạm phẩm chất đạo đức cách mạng.

Bốn là, mỗi chính uỷ, chính trị viên cần nêu cao ý thức, trách nhiệm, tân tụy với công việc, thực sự là tấm gương mẫu mực cả trong chiến đấu cũng như trong lao động và học tập, công tác. Phải thực sự là tấm gương, là điểm khởi phát, là chỗ dựa đáng tin cậy để đấu tranh khắc phục những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng, kịp thời ngăn chặn sự tha hóa về đạo đức, lối sống trong đơn vị và ngoài xã hội.