Thứ Năm, 4 tháng 8, 2022

KHÔNG CÓ QUÂN ĐỘI NÀO “TRUNG LẬP VỀ CHÍNH TRỊ” HAY “ĐỨNG NGOÀI CHÍNH TRỊ”

 

Cần khẳng định ngay rằng, mục tiêu hướng tới của những thủ đoạn nói trên là thúc đẩy sự “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Quân đội, làm cho Quân đội nhân dân Việt Nam xa rời mục tiêu, lý tưởng cách mạng và sự lãnh đạo của Đảng; biến chất về chính trị, tiến tới vô hiệu hóa vai trò của Quân đội là chỗ dựa vững chắc của Đảng, Nhà nước và nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Những thủ đoạn đó thật tinh vi và thâm hiểm, nhưng sai cả về lý luận và thực tiễn.

Từ góc độ lý luận, trước hết, cần bắt đầu từ luận điểm “Chiến tranh là sự kế tục của chính trị”, mà quân đội xuất hiện để đáp ứng nhu cầu của chiến tranh (tiến công hoặc phòng ngự). Đây là luận điểm được Clau-dơ-vit (1780-1831) - nhà lý luận quân sự tư sản nổi tiếng của nước Phổ đã khái quát. Luận điểm này được thừa nhận rộng rãi trong cả khoa học quân sự tư sản lẫn khoa học quân sự vô sản, nên không thể bác bỏ. Chính V.I.Lênin cũng đánh giá cao luận điểm này. Một khi đã thừa nhận “chiến tranh là sự kế tục của chính trị”, thì tất yếu phải thừa nhận: không bao giờ và không ở đâu có thứ quân đội “trung lập về chính trị”, hoặc “không dính đến chính trị”, bởi bất cứ cuộc chiến tranh nào cũng có mục tiêu chính trị, phản ảnh lập trường chính trị của các bên tham chiến; và quân đội của các bên tham chiến đều được lực lượng chính trị cầm quyền tổ chức, giáo dục để thực hiện mục tiêu chính trị đó của cuộc chiến tranh.

Thứ hai, quân đội bao giờ cũng mang bản chất giai cấp của nhà nước đã tổ chức và nuôi dưỡng nó; bởi quân đội là một thành phần của nhà nước, là công cụ bạo lực vũ trang của nhà nước để bảo vệ thành quả mà lực lượng chính trị cầm quyền có được qua các cuộc đấu tranh giành quyền lực. 

Lịch sử xuất hiện quân đội gắn liền với sự ra đời của nhà nước; mà nhà nước là sản phẩm tất yếu của cuộc đấu tranh giai cấp, nên bất cứ nhà nước nào cũng có tính chất giai cấp. Ngày nay, ở các nước theo thể chế chính trị tư bản, với chế độ đa đảng, mặc dù có hiện tượng các đảng phái thay nhau cầm quyền, nhưng thực chất họ vẫn duy trì sự nhất nguyên về chính trị. Đó là thứ chính trị của giai cấp tư sản, bởi đảng chính trị nào cầm quyền cũng chỉ là sự đại diện cho các nhóm và tầng lớp khác nhau của giai cấp tư sản; nên chính phủ do các đảng chính trị cầm quyền chi phối vẫn đều phục tùng quyền lợi và bảo vệ lợi ích cơ bản của giai cấp tư sản là chủ yếu, mặc dù vẫn phải thực thi chức năng công quyền - một trong hai chức năng cơ bản (chức năng giai cấp và chức năng công quyền) của bất cứ nhà nước nào. Theo đó, với tư cách là các cơ quan chức năng của nhà nước, quân đội được lập ra để bảo vệ thể chế chính trị của giai cấp cầm quyền, không thể không mang bản chất giai cấp của nhà nước đã tổ chức, quản lý và nuôi dưỡng nó. Những người cổ súy cho quan điểm “quân đội phải trung lập về chính trị” đã không hiểu, hay cố tình không hiểu rằng: nói đến “chính trị” của một tổ chức, một lực lượng, là nói đến tính giai cấp mà tổ chức, lực lượng đó quán triệt và thực hiện trong thực tiễn xây dựng về mặt tư tưởng, tổ chức và thực thi chức năng, nhiệm vụ của mình. 

Với tư cách là một bộ phận của nhà nước, quân đội của bất cứ xã hội nào cũng đều phụ thuộc vào đường lối chính trị của giai cấp cầm quyền; đồng thời, các lực lượng chính trị cầm quyền bao giờ cũng tìm mọi cách để nắm chắc quân đội thông qua nhiều biện pháp về chính trị, tư tưởng, tổ chức và chính sách. Do vậy, ngay từ khi xuất hiện, quân đội đã “thấm đẫm” thứ chính trị của nhà nước và giai cấp nắm giữ quyền lực trong xã hội; không có và không thể có thứ quân đội “trung lập về chính trị”, hay “đứng ngoài chính trị” như giai cấp tư sản thường tuyên truyền, nhằm che giấu bản chất giai cấp của quân đội các nước tư bản. 

Phê phán sự che giấu bản chất giai cấp của quân đội tư sản. V.I.Lênin đã thẳng thừng vạch rõ: “Không lôi kéo quân đội vào chính trị - đó là khẩu hiệu của bọn tôi tớ giả nhân giả nghĩa của giai cấp tư sản và của chế độ Nga hoàng, bọn này trong thực tế bao giờ cũng đã lôi kéo quân đội vào chính trị phản động”. Công khai bản chất giai cấp công nhân của lực lượng vũ trang cách mạng, V.I.Lênin đề ra nguyên tắc xây dựng Hồng quân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. 

Vận dụng sáng tạo tư tưởng của V.I.Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, ngay từ năm 1930, trong Chánh cương vắn tắt của Đảng, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh - đã yêu cầu phải “Tổ chức ra quân đội công nông” và trong suốt quá trình tổ chức xây dựng, lãnh đạo, giáo dục Quân đội ta, Người luôn nhắc nhở: “Quân đội ta có sức mạnh vô địch, vì nó là một quân đội nhân dân do Đảng ta xây dựng, Đảng ta lãnh đạo và giáo dục”; do đó, “Phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong quân đội. Phải tăng cường giáo dục chính trị để nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa cho toàn quân”.

Từ góc độ thực tiễn của thế giới cũng cho thấy, từ trước đến nay không có quân đội của quốc gia nào “trung lập về chính trị” hay “đứng ngoài chính trị”; bởi đây là công cụ bạo lực vũ trang bảo vệ thể chế chính trị của lực lượng chính trị thắng thế cầm quyền duy trì. Không khó để nhận thấy sự tham chính của quân đội nhiều nước, khi người ta vẫn chứng kiến các vụ đảo chính quân sự ở nước này, nước khác, nhất là ở châu Á, châu Phi trong những năm gần đây. Ở các nước Mỹ, Anh, Pháp... quân đội không chỉ được dùng vào nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia, dân tộc, mà còn được dùng vào các hoạt động xâm lược, lật đổ, can thiệp quân sự vào các quốc gia có chủ quyền khác, nhằm mục tiêu chính trị là dựng lên ở đây các chính phủ thân phương Tây; thực chất là để phục vụ đường lối đối nội và đối ngoại của các đảng chính trị cầm quyền, mà suy cho cùng là phục vụ lợi ích của các thế lực tư bản độc quyền đứng đằng sau các chính phủ đương nhiệm. Chỉ tính từ năm 1990 đến nay, quân đội Mỹ đã liên tục can dự vào đời sống chính trị của các nước và các khu vực, kể cả tiến hành chiến tranh, như: ở vùng Vịnh Pec-xích năm 1991, Nam Tư năm 1999, Áp-ga-ni-xtan năm 2001, I-rắc năm 2003, Li Bi năm 2011, v.v. 

Nhìn vào thực tiễn lịch sử cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta chống lại ách nô dịch của thực dân Pháp, phát xít Nhật và đế quốc Mỹ cũng thấy rất rõ quân đội các nước này không bao giờ “trung lập về chính trị”, nhất là khi các quân nhân của họ được giáo dục “sứ mệnh” đến Việt Nam để “ngăn chặn làn sóng chủ nghĩa cộng sản lan ra toàn khu vực Đông Nam Á” (!).

Cũng cần thấy rằng, ở các nền chính trị có cấu trúc đa đảng đối lập, bất cứ đảng chính trị nào khi cầm quyền cũng tìm mọi cách để nắm quân đội; bởi khi nắm được quân đội, thì việc duy trì quyền lực của đảng đó sẽ thuận lợi hơn. Tuy vậy, khi mà sự tranh giành quyền lực giữa các đảng chính trị diễn ra gay gắt, dẫn đến khủng hoảng chính trị, thì thường xuất hiện lời kêu gọi “quân đội trung lập về chính trị”, nhưng trong thực tế, các đảng đều tìm sự hậu thuẫn từ quân đội. 

Thực tiễn lịch sử của cách mạng Việt Nam cũng chứng minh: Quân đội nhân dân Việt Nam ra đời từ các phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng, được Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức, lãnh đạo và giáo dục để giành và giữ chính quyền cách mạng; nên bản thân nó đã là một lực lượng chính trị. 

78 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam đã chứng minh rõ một thực tiễn lịch sử: Quân đội ta luôn là lực lượng chính trị trung thành tuyệt đối với Đảng, Tổ quốc và nhân dân. Điều đó được thể hiện trước hết ở sự thống nhất về mục tiêu chiến đấu của Quân đội với mục tiêu chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Vì thế, trái với sự hô hào “quân đội phải trung lập về chính trị”, Đảng và Nhà nước ta luôn chăm lo xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị làm cơ sở để nâng cao chất lượng tổng hợp, trình độ và khả năng sẵn sàng chiến đấu, thực hiện chiến đấu thắng lợi. Lãnh tụ Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhấn mạnh sự cần thiết phải chăm lo xây dựng Quân đội vững về chính trị. Người căn dặn: “Một quân đội văn hay võ giỏi, là một quân đội vô địch” và “Muốn cho quân đội ta quyết chiến quyết thắng hơn nữa thì phải săn sóc đời sống vật chất của họ, nâng cao trình độ chiến thuật và kỹ thuật của họ, nhất là giáo dục chính trị, làm cho có lập trường vững chắc, lập trường quân đội của nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo”. Trong lần về thăm Trường Chính trị trung cấp quân đội (nay là Học viện Chính trị) ngày 25/10/1951, Người nhắc nhở các học viên: “Phải cố gắng học tập về mọi mặt chính trị, quân sự. Phải học tập chính trị: Quân sự mà không có chính trị như cây không có gốc, vô dụng lại có hại”.

Xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, mà cốt lõi là tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, chăm lo xây dựng bản chất giai cấp công nhân gắn liền với xây dựng tính nhân dân và tính dân tộc của Quân đội ta là một bài học thành công của Đảng Cộng sản Việt Nam và của Lãnh tụ Hồ Chí Minh trong việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản ở một nước có nền kinh tế chậm phát triển. Lịch sử cách mạng Việt Nam đã kiểm nghiệm và khẳng định tính đúng đắn của bài học đó. Ngay từ ngày đầu thành lập, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân đã được tổ chức theo mô hình có chi bộ Đảng lãnh đạo; bên cạnh người đội trưởng, có một cán bộ chính trị chuyên làm công tác chính trị theo đường lối của Đảng.

Nhờ chăm lo xây dựng vững mạnh về chính trị, mà trước hết là giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, Quân đội ta luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình trong mọi giai đoạn cách mạng, xứng đáng với lời tuyên dương (năm 1964) của Bác: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.

Đấu tranh vạch trần sự lừa bịp của luận điểm “Quân đội phải trung lập về chính trị” và tăng cường các biện pháp xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị là hai nhiệm vụ gắn bó chặt chẽ với nhau trong quá trình xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Đó là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, trước hết là sự nỗ lực của bản thân cán bộ, chiến sĩ Quân đội ta.

HAIVAN

VẠCH TRẦN LUẬN ĐIỆU LỪA BỊP CỦA KỂ THÙ RẰNG “Quân đội phải trung lập về chính trị”

 

“Quân đội phải trung lập về chính trị” là luận điểm đã có từ lâu, mà các đảng chính trị đối lập ở những nước đi theo chế độ đa đảng thường sử dụng để hạn chế quân đội “can dự” vào những tranh giành chính trị của các đảng phái. Ngay từ năm 1905, V.I.Lênin đã chỉ rõ: “... những câu nói của bọn tôi tớ của nền chuyên chế về tính trung lập của quân đội, về sự cần thiết phải giữ cho quân đội đứng ngoài chính trị v.v. là giả dối, rằng những lời nói đó không thể mong được binh lính đồng tình một chút nào”.

Trong những thập niên cuối của thế kỷ XX, khi thấy rằng phương thức chống phá chủ nghĩa xã hội bằng biện pháp gây chiến tranh xâm lược không hiệu quả, chủ nghĩa đế quốc đã đẩy mạnh chống phá bằng chiến lược “diễn biến hòa bình”. Một trong các thủ đoạn mà họ sử dụng là đưa khẩu hiệu “quân đội phải duy trì tính trung lập về chính trị” vào các nước xã hội chủ nghĩa, nơi chỉ có một đảng (Đảng Cộng sản) lãnh đạo, nhằm thực hiện “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang cách mạng, mà thực chất là nhằm tách quân đội khỏi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, vô hiệu hóa vai trò của quân đội là công cụ bạo lực của Đảng, của Nhà nước trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Thủ đoạn này đã được họ áp dụng thành công ở Liên Xô trước đây; khi những người lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Quân đội Liên Xô tự rời bỏ nguyên tắc xây dựng quân đội về chính trị của chủ nghĩa Mác - Lênin, mắc những sai lầm rất nghiêm trọng, như: tự xóa bỏ cơ chế lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với quân đội, làm cho Quân đội Liên Xô bị “phi chính trị hóa” và bị vô hiệu hóa. 

Đối với nước ta, từ nhận định rằng, hiện nay Đảng Cộng sản Việt Nam còn nắm chắc quân đội, chưa thể xóa bỏ được vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, chưa thể xóa bỏ được chế độ xã hội chủ nghĩa, nên các thế lực thù địch với cách mạng nước ta ráo riết thực hiện chiêu bài “quân đội phải duy trì tính trung lập về chính trị”. Họ hy vọng rằng, một khi quân đội đã bị mê hoặc bởi khẩu hiệu đó, đội ngũ cán bộ quân đội đã dao động, mất phương hướng chính trị, họ sẽ ra tay lật đổ Đảng Cộng sản Việt Nam và thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam theo đúng kịch bản “không đánh mà thắng”(!). 

Năm 2013, lợi dụng việc Ủy ban Thường vụ Quốc hội tổ chức xin ý kiến nhân dân vào bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, các thế lực chống phá con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội xem đây là thời cơ để công khai đòi “phi chính trị hóa” quân đội. Họ đưa ra nhiều luận điểm, như: “quân đội phải duy trì tính trung lập về chính trị”, “quân đội phải trung thành với Tổ quốc và nhân dân chứ không cần trung thành với bất kỳ tổ chức nào”, mà áp dụng cụ thể vào Việt Nam là “không phải trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam”, v.v.. Đáng tiếc là, không ít người đã vào hùa với chúng, mà không tỉnh táo tự vấn mình rằng: tại sao những đề xuất về “quân đội phải trung lập về chính trị” lại được VOA, BBC, RFA, RFI... cùng những kẻ phản bội Tổ quốc, những người có thâm thù với cách mạng ở hải ngoại tung hô, cổ vũ nhiệt thành đến vậy (?). Khi bị chỉ trích những đề xuất đó là biểu hiện của sự “suy thoái về tư tưởng chính trị”, những người cổ xúy cho tư tưởng này vội “lấp liếm” rằng: “chúng tôi chỉ yêu cầu quân đội trung lập về chính trị, chứ đâu có đòi phi chính trị hóa quân đội”(?). 

Sự ngụy biện đó không đánh lừa được công luận; bởi xét về bản chất, yêu cầu “quân đội phải trung lập về chính trị” chỉ là một phiên bản của quan điểm đòi “phi chính trị hóa quân đội”. Nói đến “trung lập về chính trị”, nghĩa là “đứng giữa các lực lượng chính trị”, “đứng ngoài chính trị”, “không can dự vào chính trị”...; trong khi đó, Quân đội nhân dân Việt Nam đang được xây dựng theo phương hướng “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, lấy xây dựng vững mạnh về chính trị làm cơ sở, nền tảng để xây dựng vững mạnh toàn diện. Hơn nữa, bản thân Quân đội nhân dân Việt Nam đang là lực lượng chính trị, đặt dưới sự lãnh đạo “tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt” của Đảng Cộng sản Việt Nam, tức là đang “không đứng ngoài chính trị”; thì đòi hỏi “quân đội phải trung lập về chính trị” thực chất là đòi “phi chính trị hóa” Quân đội nhân dân Việt Nam.

Để thực hiện mưu đồ đòi “quân đội phải trung lập về chính trị”, các thế lực thù địch sử dụng mọi biện pháp, cả về lý luận, tư tưởng lẫn hành động thực tiễn.

Trên lĩnh vực lý luận, tư tưởng, họ thường lập luận rằng: quân đội là của nhà nước, nên chỉ phục tùng nhà nước, chứ không phục tùng và chịu sự lãnh đạo của bất cứ chính đảng nào; hoặc: hoạt động của quân đội chỉ để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia và phục vụ nhân dân, nên chỉ phải trung thành với Tổ quốc và nhân dân chứ không phải trung thành với bất kỳ tổ chức nào, v.v. Nghe thoáng qua, không ít người ngộ nhận sự có lý của lập luận này, mà không hiểu rằng: đây là thủ đoạn lừa bịp, nhằm chuyển lập trường chính trị của quân đội cách mạng sang lập trường của bọn cơ hội chính trị, của giai cấp tư sản. 

Trong hành động thực tiễn, những người cổ xúy cho tư tưởng “quân đội phải trung lập về chính trị” yêu cầu một khi có biến động chính trị, thì quân đội hãy án binh, bất động, không đứng về phe nào. Đối với những nước đi theo chế độ xã hội chủ nghĩa, chỉ có một Đảng Cộng sản lãnh đạo như nước ta, họ đòi xóa bỏ nguyên tắc “Đảng Cộng sản lãnh đạo quân đội”; hạ thấp, đi đến đòi xóa bỏ hoạt động công tác đảng, công tác chính trị cùng hệ thống cơ quan chính trị, cán bộ chính trị  (nhất là chế độ chính ủy, chính trị viên) trong quân đội - một trong những yếu tố riêng có của quân đội các nước xã hội chủ nghĩa, nhằm đảm bảo cho Đảng Cộng sản giữ vững sự lãnh đạo đối với quân đội. Họ xuyên tạc các sự kiện chính trị trong lịch sử có quân đội tham gia; thổi phồng khuyết điểm của một vài đơn vị quân đội và một bộ phận quân nhân trong quá trình làm nhiệm vụ; bôi nhọ đời tư của các tướng lĩnh, anh hùng lực lượng vũ trang... hòng qua đây, làm cho quân đội mất uy tín trong nhân dân, hạ thấp vị thế của quân đội trong xã hội..., từ đó mà vô hiệu hóa vai trò của quân đội trong cuộc đấu tranh bảo vệ chính quyền cách mạng.

Đối với Việt Nam, để thực hiện mục tiêu nhất quán là xóa bỏ thành quả cách mạng và lái con đường phát triển của đất nước sang quỹ đạo tư bản chủ nghĩa, trong nhiều năm qua, các thế lực thù địch đẩy mạnh các chiến dịch vận động đòi thực hiện chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập và lôgic tất yếu của tiến trình đó, nếu được thực hiện, sẽ là xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Quân đội nhân dân Việt Nam. Họ công khai đòi bỏ quy định sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội; bỏ quy định “lực lượng vũ trang nhân dân phải trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam” đã được ghi trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Lợi dụng tình cảm của nhân dân ta với Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, họ cố tình lờ đi hoàn cảnh lịch sử của sự kiện ngày 26/5/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh trao tặng Trường Võ bị Lục quân Trần Quốc Tuấn (nay là Trường Sĩ quan Lục quân 1) lá cờ “Trung với nước, hiếu với dân”, để xuyên tạc tư tưởng nhất quán của Người về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội nhân dân Việt Nam, bằng lý lẽ: “Cụ Hồ không yêu cầu quân đội phải trung thành với Đảng” (!). Đáng tiếc rằng, một bộ phận nhân dân, kể cả một số cán bộ, đảng viên ta đã dao động trước những lý lẽ này.

HAIVAN

LỜI BÁC HỒ DẠY NGÀY NÀY NĂM XƯA, NGÀY 05 THÁNG 8

 

LỜI BÁC HỒ DẠY NGÀY NÀY NĂM XƯA, NGÀY 05 THÁNG 8

 

Ngày 05 tháng 8 năm 1968

“Yêu xe như con

Quý xăng như máu

Vượt mọi khó khăn

Hoàn thành nhiệm vụ”.

Là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh thêu trên lá cờ đỏ, hiện đang được trưng bày trang trọng tại Bảo tàng Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam.

Đây là giai đoạn cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước có những bước ngoặt lớn sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta Tết Mậu Thân năm 1968 - một trận quyết chiến chiến lược chưa từng có trong cuộc kháng chiến; giao thông vận tải trở thành mặt trận quyết liệt, là mạch máu của chiến trường, là sợi dây kết nối hậu phương với tiền tuyến. Bác thường xuyên theo dõi hoạt động của bộ đội, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến trên các tuyến đường tiến ra mặt trận, Bác gửi tặng bộ đội vận tải những lẵng hoa xuân tươi thắm và khen thưởng các chiến sỹ lập thành tích xuất sắc huy hiệu của Người. Tháng 8 măm 1968, Tổng cục Hậu cần tổ chức hội nghị chiến sĩ lái xe giỏi và thợ sửa chữa xe giỏi toàn quân, đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng đến dự hội nghị và trao tặng cờ thưởng của Bác Hồ cho ngành xe quân sự, trên lá cờ thêu 12 chữ vàng: “Yêu xe như con, quý xăng như máu, vượt mọi khó khăn, hoàn thành nhiệm vụ”. Đây là nguồn cổ vũ, động viên lớn, là chỉ thị, là nhiệm vụ mà Bác tin tưởng giao cho bộ đội vận tải.

Vinh dự, tự hào với phần thưởng cao quý mà Bác Hồ trao tặng, nêu cao tinh thần: “mở đường mà tiến, đánh địch mà đi”, bộ đội vận tải đã có mặt trên khắp các chiến trường, vượt qua muôn vàn hy sinh, gian khổ, vận chuyển hàng triệu lượt cán bộ, chiến sĩ, hàng trăm triệu tấn vật chất, binh khí kỹ thuật,… bảo đảm kịp thời cho các hoạt động tác chiến, từ những trận đánh nhỏ, đến các chiến dịch quy mô lớn. Đó cũng là quá trình vừa tổ chức xây dựng lực lượng, vừa thực hiện nhiệm vụ và không ngừng trưởng thành của ngành vận tải quân sự; cùng quân và dân ta lập nên những chiến công vang dội, góp phần quan trọng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.

Bước sang thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, ngành vận tải quân sự tiếp tục phát huy truyền thống của Bộ đội Vận tải anh hùng, luôn tổ chức thực hiện tốt các mặt công tác vận tải, bảo đảm kịp thời cho nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, đặc biệt là nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo, phòng chống thiên tai, cứu hộ cứu nạn; đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động “Quản lý, khai thác vũ khí, trang bị kỹ thuật tốt, bền, an toàn, tiết kiệm và an toàn giao thông”, tạo sự chuyển biến toàn diện trong hoạt động của Ngành, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới./.

CẢ GIA ĐÌNH BÁC HỒ HÓA THÂN VÀO NON SÔNG ĐẤT NƯỚC

 CẢ GIA ĐÌNH BÁC HỒ HÓA THÂN VÀO NON SÔNG ĐẤT NƯỚC

Trong lịch sử, hiếm có một gia đình Việt Nam nào như gia đình của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đến thế hệ của Bác, Bác không có vợ, không có con. Chị của Bác, bà Nguyễn Thị Thanh cũng không có gia đình riêng. Anh trai của Bác, Nguyễn Sinh Khiêm, cũng không có vợ, con. Lịch sử ghi nhận, sau Cách mạng Tháng Tám, bà Thanh và ông Khiêm ra thăm Bác, sau đó về quê, tham gia các tổ chức kháng chiến chống Pháp và làm ăn nuôi nhau. Ông Khiêm mất 1950, bà Thanh mất 1954.

Cha Bác, ông Nguyễn Sinh Sắc, sinh ra trong một gia đình phú nông đã phá sản ở làng Kim Liên, xã Chung Cự , tổng Lâm Thịnh, tỉnh Nghệ An. Mới 3 tuổi, ông đã mồ côi cha, lên 4 tuổi mồ côi mẹ, phải ở cùng vợ chồng người anh trai cùng cha khác mẹ là Nguyễn Sinh Trợ, và phải lao động, chăn trâu, cắt cỏ như bao đứa trẻ cùng trang lứa ở quê. Do tư chất thông minh, ham học, ông được cụ tú Hoàng Xuân Đường xin đưa về nuôi dạy. Ông Sắc đến ở nhà cụ tú Hoàng Xuân Đường ở làng Hoàng Trù (làng Chùa) xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, được chăm lo cho việc học hành. Vợ chồng cụ Tú Đường không có con trai, chỉ có hai người con gái là Hoàng Thị Loan và Hoàng Thị An, nên vợ chồng ông Tú rất quý mến cậu Sắc và đã quyết định chọn cậu làm con rể. Năm 1881, cậu Sắc 18 tuổi kết hôn với con gái đầu lòng của cụ Tú là Hoàng Thị Loan 13 tuổi. Ba năm sau, năm Hoàng Thị Loan 16 tuổi, sinh cô con gái đầu lòng, chị Bác, Nguyễn Thị Thanh. Bốn năm sau sinh anh của Bác, Nguyễn Sinh Khiêm, và hai năm sau đó sinh Bác, Nguyễn Sinh Cung. Cũng như những thanh niên trí thức lúc đó, ông Sắc tham gia các kỳ thi của triều đình, năm 1894 (sau khi cụ Tú Đường mất 1893) ông thi đậu cử nhân tại kỳ thi Hương, trường thi Nghệ An. 1895 ông thi Hội ở triều đình, nhưng không đỗ. Đến 1901 sau khi vợ mất, ông thi đậu Phó bảng. Không ra làm quan ngay, trở về quê dạy học, ông sống trong sạch và cương trực. Mãi đến tháng 5-1906, ông mới vào Huế nhậm chức Thừa biện bộ Lễ. Tháng 5-1909 ông được bổ làm tri huyện Bình Khê, tỉnh Bình Định. Tại đây, căm ghét bọn tham quan, ô lại, ông thường thăm thú dân chúng, rồi những người tù bị bắt do oan khuất, do đấu tranh chống sưu, thuế nặng nề được thả. Bọn cường hào, ác bá ở Bình Khê đã tìm cách kiện ông ra triều đình. Ông bị triệu về triều, bị Hội đồng Nhiếp chính xử 100 trượng, giáng 4 cấp và bị triệt hồi. Không về quê, ông đi về Nam, vừa đi vừa bốc thuốc Nam chữa bệnh cho dân. Ông mất ngày 27-11-1929 tại Cao Lãnh (Đồng Tháp ngày nay).

Mẹ Bác, bà Hoàng Thị Loan là con cụ tú Hoàng Xuân Đường và cụ bà Nguyễn Thị Kép. Được học hành và được dạy dỗ trong gia đình nho học, bà là một điển hình của người phụ nữ thời đó, hết lòng hết sức lo sự nghiệp của chồng và con cái. Ông Sắc vào Huế học và thi cử lận đận. Bà và các con trai cũng vào, vừa dệt vải vừa chăm lo cho chồng cho con. Thuở thiếu thời, trong lời ru của mẹ, tình yêu quê hương đất nước đã được thấm đậm, in sâu trong lòng anh chị em Bác. Những tình cảm ấy được nhân lên, khắc ghi trong lòng Bác kính yêu suốt cả cuộc đời mình.

Năm 1901, bà Loan lâm bệnh nặng và qua đời. Phần mộ của bà sau này được bà Thanh và ông Khiêm mang từ Huế về đặt trên sườn núi Động Tranh, một trong những ngọn núi của dãy Đại Huệ thuộc địa phận xã Nam Giang, huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An.

Khi cha vào kinh thành nhậm chức, bà Thanh ở nhà tham gia phong trào yêu nước chống Pháp ở Nghệ An và miền Trung. Bị giặc bắt, chịu án phạt 100 trượng, tù khổ sai 9 năm, đày cách quê hương 3000 dặm. Bà là người phụ nữ cách mạng, kiên quyết, có nhan sắc mặn mòi, nhưng cũng không có chồng, con. Thời trẻ, nhiều đám mai mối, có cả những đám con của gia đình gia thế, đến những đám của những người đồng niên ở quê.

Nhà văn Sơn Tùng, thương binh 1/4 , người có nhiều tác phẩm rất hay và chi tiết về Bác và gia đình Bác, người đã từng gặp và trò chuyện với chị Thanh, anh Khiêm và với cả người yêu của Bác Hồ là Lê Thị Huệ kể lại, nhà văn có lần hỏi bà Thanh: vì sao cô không xây dựng gia đình? Bà Thanh trầm tư u uẩn, nhìn vào cõi xa xăm như không muốn nói, nhưng như nuốt những đau đớn vào trong, bà kể rằng: khi bị bắt, chúng khám thấy trong người và dưới vạt giường nằm của bà có giấu súng, chúng còn biết bà là con gái của Nguyễn Sinh Sắc, chị gái của Nguyễn Ái Quốc - người vừa gây tiếng vang lớn trên diễn đàn các nguyên thủ quốc gia ở Vécsai nước Pháp, chúng rất tức tối. Mọi ngón đòn tra tấn, đánh đập, bà chỉ nhận về mình, không khai bất kỳ chi tiết nào liên quan đến đồng chí mình. Một hôm để khuất phục bà, bắt bà phải khai, chúng dùng một chiếc mâm đồng, đặt lên lò than nung đỏ rực, lột trần bà ra, rồi đẩy bà ngồi bệt vào chiếc mâm nóng đỏ đó. Thịt da cháy xèo xèo, đến xương tủy, bà ngất đi. Sau đó nhiều tháng, nhờ sự thương cảm của các bạn tù, bà tự chữa bệnh bằng một số thứ thuốc nam kiếm được, vết thương lành, nhưng toàn bộ phần thịt cháy nham nhở, lồi lõm và luôn luôn tấy đỏ, đau đớn, mặc cảm hằng ngày. Bà không nghĩ đến việc lấy chồng. Những năm kháng chiến chống Pháp, bà tham gia Hội mẹ chiến sĩ ở quê, bốc thuốc nam chữa bệnh cứu người cho đến lúc đi xa.

Anh trai của Bác, Nguyễn Sinh Khiêm, tự Tất Đạt. Năm 1908, hai anh em Bác tham gia phong trào chống thuế của nhân dân Trung Kỳ, sau đó bị trường Quốc học Huế buộc thôi học; Cậu Thành đi về Nam, mưu cứu nước, cha bị đày đi làm tri huyện Bình Khê, ông Khiêm về quê, cùng chị hoạt động trong phong trào yêu nước chống Pháp của đội Quyên, ấp Võ. Năm 1914, ông Khiêm bị giặc Pháp bắt, bị chúng xử 9 năm khổ sai, đày vào tận Nha Trang. Mãi đến năm 1920, giặc Pháp mới đưa ông về giam lỏng ở Huế. Tiếp theo là những ngày gặp lại chị gái. Hai chị em tham gia các phong trào cứu nước ở quê cho đến lúc ra đi. Ông Khiêm cũng không lấy vợ, không có con. Giữa rừng già Việt Bắc, trong một đêm đông lạnh giá, ngồi bên đống lửa, chúng tôi chân tình hỏi Chủ tịch Hồ Chí Minh, tại sao chủ tịch không lấy vợ, không lập gia đình. Chủ tịch cười ôn tồn nói với chúng tôi rằng: lúc còn trẻ mải mê đi làm nhiệm vụ, không có điều kiện lập gia đình, bây giờ già rồi không còn nhu cầu ấy nữa.

Như vậy, Bác cũng như chúng ta, là con người bình thường, ai cũng khát vọng yêu thương, ai cũng mong muốn có một mái ấm gia đình. Nhưng Người đã trở nên vĩ đại bởi vì đã vượt lên trên cái bình thường của chính mình với mục đích đem lại cái bình thường và hạnh phúc cho nhân dân, cho các thế hệ mai sau.

Cả gia đình Bác đã hy sinh cho nhân dân, cho đất nước. Cả gia đình Bác đã hòa tan vào mỗi gia đình người Việt Nam hôm nay và mai sau. Mỗi gia đình Việt Nam như có Bác, có hình Bác. Trong trí óc trẻ thơ, tất cả các thiếu nhi Việt Nam đều có Bác. Cả dân tộc đi theo con đường Người chọn, học tập và làm theo lời Người dạy. Gia đình của Người, sống mãi trường tồn cùng sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam./.

TRÁCH NHIỆM TRONG HỢP TÁC, KIÊN TRÌ VỚI HÒA BÌNH, CAM KẾT VỚI ỔN ĐỊNH, BỀN VỮNG TRONG PHÁT TRIỂN

 

TRÁCH NHIỆM TRONG HỢP TÁC, KIÊN TRÌ VỚI HÒA BÌNH, CAM KẾT VỚI ỔN ĐỊNH, BỀN VỮNG TRONG PHÁT TRIỂN

Chiều ngày 4/8, Bộ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn tiếp tục các hoạt động trong khuôn khổ Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 55 (AMM-55) và các hội nghị liên quan, cùng các nước ASEAN họp với Hoa Kỳ, Ấn Độ, Australia, Canada, New Zealand, Liên minh châu Âu (EU) và Liên bang Nga. Bên cạnh đó, Bộ trưởng Bùi Thanh Sơn đã gặp Bộ trưởng Ngoại giao các nước Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Australia, EU, Bangladesh, Pakistan.

Bộ trưởng Bùi Thanh Sơn và Bộ trưởng các nước ASEAN đã cùng các đối tác dành nhiều thời gian kiểm điểm tiến độ hợp tác, thống nhất định hướng tương lai và trao đổi quan điểm về tình hình khu vực và quốc tế. ASEAN đề nghị đối tác phát huy cao độ lợi thế do các mối quan hệ đối tác chiến lược và chiến lược toàn diện mang lại, hợp tác với ASEAN xây dựng cộng đồng, cùng phấn đấu vì hòa bình, ổn định và phồn vinh chung.

Các nước đề xuất nhiều biện pháp hợp tác sâu rộng và đa dạng nhằm hỗ trợ ASEAN xây dựng cộng đồng, đẩy mạnh phục hồi, hướng tới phát triển bền vững. Trong số các sáng kiến này nổi lên những nội dung chiến lược, lâu dài, như trao đổi thương mại, kết nối liên vùng, thu hẹp khoảng cách, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, năng lượng, ứng phó biến đổi khí hậu, phát triển xanh và bền vững… Đồng thời, các nước đề cập các biện pháp đã và đang được triển khai như hợp tác về y tế, an ninh biển, chống khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia, an ninh mạng.

Chia sẻ về các vấn đề khu vực và quốc tế, các nước bày tỏ lo ngại về tình hình phức tạp. Bộ trưởng Bùi Thanh Sơn và ASEAN một lần nữa khẳng định lập trường nhất quán về các vấn đề Biển Đông, Myanmar, Ukraine, Bán đảo Triều Tiên, căng thẳng giữa các nước lớn… ASEAN tái khẳng định lập trường, đồng thời kêu gọi các bên đề cao luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc, Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS 1982) và Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á (TAC).

Các nước và các bên liên quan cần duy trì đối thoại, xây dựng lòng tin, lấy hòa bình làm mục tiêu, hợp tác làm công cụ, tôn trọng luật lệ, kiềm chế, tránh để bất đồng, mâu thuẫn trở thành xung đột. ASEAN cũng chia sẻ với đối tác những hoạt động của mình thực hiện Đồng thuận 5 điểm về Myanmar, tiến độ xây dựng bộ Quy tắc Ứng xử COC hướng tới xây dựng Biển Đông thành vùng biển hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển.

* Trong gặp gỡ với Bộ trưởng Ngoại giao các nước bên lề các Hội nghị, Bộ trưởng Bùi Thanh Sơn trao đổi phương thức thúc đẩy hợp tác với từng nước.

Các Bộ trưởng đều đánh giá cao vai trò của Việt Nam trong khu vực, khẳng định mong muốn mở rộng hợp tác với Việt Nam; đề xuất một số biện pháp như trao đổi đoàn, tăng cường quan hệ kinh tế-thương mại, khôi phục giao lưu nhân dân.

Các nước nhấn mạnh một số lĩnh vực hợp tác như tài chính, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, ứng phó biến đổi khí hậu, hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ…Các bên cũng bàn thêm về phối hợp tại các Hội nghị lần này.

Trao đổi với Ủy viên Quốc vụ, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị, hai Bộ trưởng khẳng định coi trọng việc củng cố quan hệ hữu nghị truyền thống và hợp tác toàn diện Việt-Trung; nhất trí tăng cường hợp tác mọi mặt và tin cậy chính trị, bao gồm trao đổi, tiếp xúc cấp cao và các cấp, ngành, địa phương; tháo gỡ vướng mắc trong thương mại, ứng phó dịch bệnh; kết nối đường bộ, đường sắt; giao lưu nhân dân.

Bộ trưởng Bùi Thanh Sơn khẳng định, Việt Nam kiên trì thực hiện chính sách “Một Trung Quốc”, cùng các nước ASEAN kêu gọi các bên liên quan kiềm chế, tránh làm phức tạp tình hình, leo thang căng thẳng, xử lý thỏa đáng bất đồng, vì hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới.

Gặp Bộ trưởng Ngoại giao Ấn Độ Jaishanka, Bộ trưởng Bùi Thanh Sơn đề nghị thúc đẩy hợp tác Tiểu vùng Mê Công. Hai bên nhất trí ưu tiên quản lý bền vững tài nguyên nước, ứng phó biến đổi khí hậu, và hợp tác giữa Ủy hội sông Mê Công và Cơ quan Quốc gia về lòng sông Hằng.

Bộ trưởng Bùi Thanh Sơn và Đại diện cấp cao EU về chính sách đối ngoại và an ninh Josep Borrell đánh giá cao kết quả trong triển khai Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-EU (EVFTA).

Bộ trưởng Bùi Thanh Sơn mong muốn EU và các thành viên sớm phê chuẩn Hiệp định Bảo hộ Đầu tư Việt Nam-EU (EVIPA), dỡ bỏ thẻ vàng đối với thủy sản Việt Nam, thiết lập quan hệ Đối tác Chuyển đổi năng lượng công bằng với Việt Nam.

Bộ trưởng Bùi Thanh Sơn và Bộ trưởng Bangladesh A.K Abdul Momen nhất trí tổ chức tốt kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ; phấn đấu đưa kim ngạch thương mại đạt 2 tỷ USD; tăng cường hợp tác về nông nghiệp, du lịch, văn hóa, giáo dục và giao lưu nhân dân.

Bộ trưởng Bùi Thanh Sơn đề nghị hai bên sớm tổ chức Tiểu ban Thương mại hỗn hợp lần thứ 3 và Tham khảo Chính trị lần thứ 2; đề nghị Bangladesh ủng hộ Việt Nam ứng cử Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023-2025.

Gặp Bộ trưởng Ngoại giao Pakistan Bilawai Bhutto Zardari, Bộ trưởng Bùi Thanh Sơn nhất trí cần triển khai các thỏa thuận, sớm tổ chức Tham vấn chính trị, họp Ủy ban liên Chính phủ và Tiểu ban thương mại... Bộ trưởng Bùi Thanh Sơn đề nghị Pakistan xem xét dỡ bỏ hạn chế nhập khẩu đối với thủy sản và điện thoại di động của Việt Nam. Hai Bộ trưởng nhất trí sẽ tổ chức quảng bá văn hóa nhân kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao.

-:- Báo Nhân Dân -:-

tỉnh Long Xuyên yêu cầu "Beer Club Marina" dừng mọi hoạt động tổ chức biểu diễn nghệ thuật kể từ ngày 5/8

 

Ủy ban Nhân dân tỉnh Long Xuyên yêu cầu "Beer Club Marina" dừng mọi hoạt động tổ chức biểu diễn nghệ thuật kể từ ngày 5/8 và phạt 80 triệu đồng

Theo báo Công An Nhân Dân (CAND) đưa tin, Ngày 4/8, bà Võ Thị Xuân Kiều, Phó Chủ tịch UBND TP Long Xuyên (An Giang) đã ký công văn gửi đến Công ty Cổ phần Đầu tư phát triển Marina Coffee & Beer Club yêu cầu dừng tổ chức biểu diễn nghệ thuật tại cơ sở kinh doanh Beer Club Marina (thuộc phường Mỹ Bình) kể từ ngày 5/8.

Nội dung công văn thể hiện, UBND TP Long Xuyên tiếp nhận thông báo tổ chức biểu diễn nghệ thuật ngày 1/7 của Công ty Cổ phần Đầu tư phát triển Marina Coffee & Beer Club. Sau khi kiểm tra thực tế và tình hình hoạt động của đơn vị trong thời gian qua, căn cứ tình hình thực tế tại địa phương, UBND TP Long Xuyên yêu cầu Công ty Cổ phần Đầu tư phát triển Marina Coffee & Beer Club dừng hoạt động tổ chức biểu diễn nghệ thuật.

Lý do yêu cầu dừng: Không đáp ứng điều kiện về an ninh trật tự, an ninh xã hội theo quy định tại điểm c, khoản 1, Điều 17 của Nghị định số 144/2020/NĐ-CP ngày 14 tháng 12 năm 2020 của Chính phủ quy định về hoạt động nghệ thuật biểu diễn. Ngoài ra, hoạt động của Công ty Cổ phần Đầu tư phát triển Marina Coffee & Beer Club thời gian qua đã gây dư luận bức xúc trong nhân dân, tác động xấu đến trật tự xã hội.

Địa điểm tổ chức biểu diễn nghệ thuật nằm sát chân cầu Hoàng Diệu, tiếp giáp với đường Trần Hưng Đạo (Quốc lộ 91) lưu lượng phương tiện giao thông qua lại rất đông và được bố trí ở không gian mở, sân khấu, hệ thống ánh sáng, âm thanh công suất lớn, màn hình led được bố trí hướng thẳng ra Quốc lộ 91 không có trang thiết bị, vật chất để che chắn ánh sáng, âm thanh, tiếng ồn. Khi hoạt động sẽ không đảm an ninh trật tự, gây sự chú ý đối với người điều khiển phương tiện giao thông và người dân hiếu kỳ sẽ tụ tập để xem sẽ gây cản trở giao thông và nguy cơ xảy ra tai nạn giao thông.

UBND TP Long Xuyên đề nghị Công ty Cổ phần Đầu tư phát triển Marina Coffee & Beer Club chấp hành nghiêm, kịp thời khắc phục những tồn tại gây bức xúc trong nhân dân, đáp ứng đủ, chấp hành các điều kiện kinh doanh như: an ninh, trật tự an toàn xã hội, môi trường theo quy định của pháp luật.

Trước đó, như CAND Online đã thông tin, chiều 20/5, Đội kiểm tra liên ngành văn hóa và phòng chống tệ nạn xã hội TP Long Xuyên đã lập biên bản vi phạm hành chính đối với Công ty Cổ phần Đầu tư phát triển Marina Coffee & Beer Club về 2 hành vi: tổ chức biểu diễn nghệ thuật phục vụ tại cơ sở kinh doanh mà không có văn bản chấp thuận của cơ quan có thẩm quyền; tổ chức biểu diễn nghệ thuật xúc phạm lãnh tụ, anh hùng dân tộc, danh nhân.

Dư luận bức xúc, việc sử dụng hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh, cờ Tổ quốc, cờ Đảng trong môi trường kinh doanh beer clup là không phù hợp. Nghiêm trọng hơn là việc Beer Club Marina lại trình chiếu ảnh Bác Hồ ở trên bên dưới lại biểu diễn nhảy nhót, trang phục hở hang gây phản cảm.

Do mức xử phạt vi phạm hành chính vượt thẩm quyền, nên UBND TP Long Xuyên đã gửi tờ trình đề nghị UBND tỉnh ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo quy định. Sau đó, UBND tỉnh An Giang đã ban hành quyết định xử phạt phạt chính công ty này số tiền 80 triệu đồng.

Trong đó, phạt tiền 25 triệu đồng đối với hành vi không thông báo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định tổ chức biểu diễn nghệ thuật phục vụ tại các cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch, vui chơi, giải trí, nhà hàng không bán vé xem biểu diễn nghệ thuật. Cùng với đó là phạt tiền 55 triệu đồng đối với hành vi biểu diễn nghệ thuật, thi, liên hoan có nội dung xuyên tạc lịch sử, độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ; phủ nhận thành tựu cách mạng; xúc phạm tín ngưỡng, tôn giáo; xúc phạm lãnh tụ, anh hùng dân tộc, danh nhân.

CHĂM SÓC ĐỜI SỐNG CỦA NGƯỜI CÓ CÔNG NGÀY MỘT TỐT HƠN

 

CHĂM SÓC ĐỜI SỐNG CỦA NGƯỜI CÓ CÔNG NGÀY MỘT TỐT HƠN

Trong hành trình 75 năm qua, công tác chăm sóc người có công với cách mạng đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Hệ thống pháp luật, chính sách về người có công dần được hoàn thiện; đối tượng chính sách và chế độ ưu đãi người có công với cách mạng từng bước được mở rộng.

Nhiều kết quả quan trọng

Tại Lễ kỷ niệm 75 năm Ngày Thương binh-Liệt sĩ (27/7/1947-27/7/2022) và tuyên dương đại biểu người có công với cách mạng tiêu biểu toàn quốc năm 2022 diễn ra ngày 24/7, Bộ trưởng Lao động-Thương binh và Xã hội Ðào Ngọc Dung cho biết, thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, 75 năm qua, công tác chăm sóc người có công với cách mạng đã được Đảng, Nhà nước và nhân dân cả nước triển khai đạt được nhiều kết quả quan trọng. Hệ thống pháp luật, chính sách về người có công từng bước được hoàn thiện; đối tượng chính sách và chế độ ưu đãi người có công với cách mạng từng bước được mở rộng.

Đến nay, cả nước đã xác nhận được hơn 9,2 triệu người có công, trong đó có 1,2 triệu liệt sĩ, hơn 139 nghìn Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, hơn 1.300 Anh hùng Lực lượng vũ trang, Anh hùng Lao động, gần 800 nghìn thương binh, bệnh binh và gần 320 nghìn người hoạt động kháng chiến và con đẻ của họ bị nhiễm chất độc hóa học, gần 111 nghìn người hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù, đày, gần 1,9 triệu người có công giúp đỡ cách mạng,…

Cuộc sống của các thân nhân, gia đình thương binh, liệt sĩ, người có công với cách mạng ngày càng đầy đủ, tốt đẹp hơn. Công tác xây dựng, nâng cấp, tu bổ mộ liệt sĩ, nghĩa trang liệt sĩ, công trình ghi công liệt sĩ được quan tâm đầu tư, công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ, xác định danh tính hài cốt liệt sĩ được triển khai tích cực.

Trong 5 năm qua, với tinh thần “không để người có công nào không được tri ân”, với quyết tâm cao và cách làm sáng tạo, các cơ quan chức năng đã rà soát hơn 7.000 hồ sơ tồn đọng. Qua đó, đã xác nhận được hơn 2.400 liệt sĩ, 2.700 thương binh và người hưởng chính sách như thương binh. Phần lớn những liệt sĩ được xác nhận đã hy sinh trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, nhiều trường hợp đã hy sinh cách đây hơn 70, 80 năm. Cá biệt có trường hợp hy sinh cách đây hơn 90 năm.

75 năm qua, phong trào chăm sóc thương binh, gia đình chính sách của các địa phương, các tổ chức xã hội và nhân dân trong cả nước trở thành công việc thường xuyên của toàn xã hội. Phong trào tặng nhà tình nghĩa; tặng sổ tiết kiệm; tặng vườn cây tình nghĩa; phụng dưỡng Bà mẹ Việt Nam Anh hùng; chăm sóc giúp đỡ con thương binh, con liệt sĩ; đi tìm đồng đội, quy tập hài cốt liệt sĩ; xác định danh tính hài cốt liệt sĩ còn thiếu thông tin… đã góp phần chăm sóc đời sống vật chất, tinh thần đối với người có công ngày một tốt hơn.

Dịp kỷ niệm 75 năm Ngày Thương binh-Liệt sĩ năm nay đã được các đồng chí Lãnh đạo Đảng, Nhà nước quan tâm chỉ đạo sát sao. Cùng với đó, các bộ, ban, ngành đoàn thể Trung ương, các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương, các tổ chức chính trị xã hội tổ chức nhiều hoạt động thiết thực, sâu rộng ngay từ cơ sở.

Đó là: tổ chức Lễ trao Bằng Tổ quốc ghi công, Lễ kỷ niệm và tri ân người có công, Lễ thắp nến tri ân tại các nghĩa trang liệt sĩ, viếng đài liệt sĩ, các hoạt động tưởng niệm tại các di tích lịch sử cách mạng như nhà tù, nhà lao Côn Đảo, Phú Quốc, Sơn La, Điện Biên, Kon Tum, Quảng Trị... các căn cứ địa cách mạng, các hoạt động thăm hỏi, tặng quà các gia đình chính sách...

Anh hùng trong chiến trận, gương sáng giữa đời thường

Với ý chí tự lực, tự cường, phát huy phẩm chất "Anh bộ đội Cụ Hồ", người “Chiến sĩ công an nhân dân”, thực hiện lời dạy của Bác Hồ “Tàn nhưng không phế”, nhiều thương binh, bệnh binh, thân nhân liệt sĩ và người có công đã vượt lên thương tật, khó khăn, hòa mình vào cuộc sống, tiếp tục cống hiến sức lực, trí tuệ, nêu những tấm gương sáng trong lao động, sản xuất, công tác, chiến đấu, học tập...

450 đại biểu người có công tiêu biểu toàn quốc dự lễ tuyên dương được chọn từ cơ sở. Họ là những điển hình trong phong trào đền ơn đáp nghĩa, hay là Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng Lao động, cũng là những người cả cuộc đời đi tìm hài cốt đồng đội hoặc gắn bó với anh linh các liệt sĩ. Đó cũng là những người mẹ, người vợ, người con trung hậu đảm đang; là những cựu chiến binh, cựu thanh niên xung phong, những người tham gia kháng chiến bị ảnh hưởng bởi chất độc hóa học và những thương binh, bệnh binh tiêu biểu cho ý chí vươn lên, tinh thần vượt khó, đã trở thành những nhà quản lý, nhà khoa học giỏi, những doanh nhân thành đạt, hình mẫu trong cuộc sống đời thường…

Những con người ấy không chỉ anh hùng trong chiến đấu, mà còn là người đi đầu trong công tác giảm nghèo, vươn lên làm giàu, xây dựng đất nước.

Đặc biệt, trong số các đại biểu dự lễ tuyên dương, có 41 đại biểu là người dân tộc thiểu số như: Tày, Nùng, Ba Na, Pa Kô, Cơ Tu, Cor, Giẻ Triêng, H’Rê, Khmer, Raglai.

Chương trình có sự tham gia của 3 đại biểu lão thành cách mạng, cán bộ tiền khởi nghĩa, 14 Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng Lao động trong thời kỳ kháng chiến, 8 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, hơn 300 thương binh, bệnh binh, 73 thân nhân liệt sĩ và các đại biểu người có công với cách mạng khác.

Đặc biệt, tham dự Chương trình còn có Mẹ Việt Nam Anh hùng Nguyễn Thị Điểm là đại biểu cao tuổi nhất. Năm nay, mẹ đã tròn 107 tuổi. 5 đại biểu khác đến nay đã hơn 90 tuổi, như các Mẹ Việt Nam Anh hùng Sơn Thị Kỷ (92 tuổi), Lê Thị Diệu (91 tuổi), mẹ liệt sĩ Lê Thị Nữ (91 tuổi)…

Mẹ Việt Nam Anh hùng Kiều Thị Nông, hiện đang sinh sống tại thành phố Hồ Chí Minh, là thương binh 4/4, mức thương tật 35%. Qua các cuộc chiến tranh, mẹ lần lượt mất đi người chồng, người con của mình. Cả cuộc đời cống hiến cho cách mạng, khi nước nhà thống nhất, mẹ cũng tích cực tham gia các hoạt động xã hội, đóng góp cho đất nước.

Đại biểu Byan, sinh năm 1931, người dân tộc Ba Na, là người hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến. Ông đã nhiều lần bị địch bắt tù đày, giam cầm và tra tấn dã man tại các nhà tù khác nhau như Pleiku, Phú Quốc, nhưng vẫn một lòng kiên trung với sự nghiệp cách mạng. Mang nặng những di chứng do chiến tranh để lại, nhưng hiện nay, ông vẫn tham gia tích cực vào các hoạt động tại địa phương, được nhân dân trong thôn làng suy tôn là già làng uy tín.

Đại biểu Ngô Thị Cẩm Tiên, sinh năm 1943, tham gia hoạt động cách mạng từ rất sớm trong nội thành Sài Gòn, Chợ Lớn. Bà bị địch bắt giam nhiều lần và hãm hại bằng rất nhiều hình thức tra tấn đau đớn tột cùng như dùi cui, quay điện, tra nước rải vôi bột… khiến bà mất đi thiên chức làm mẹ. Giữ vững phẩm chất người chiến sĩ cách mạng kiên trung, đến nay, dù tuổi cao, bà vẫn tích cực tham gia các hoạt động, có nhiều đóng góp tích cực cho xã hội.

Một tấm gương người có công tiêu biểu vượt khó vươn lên trong cuộc sống là thương binh Vũ Gia Nhưng ở Phú Thọ. Ông đã khắc phục khó khăn để làm kinh tế giỏi. Doanh nghiệp do ông thành lập và điều hành tại địa phương giải quyết việc làm thường xuyên cho 40-50 lao động với mức thu nhập cao, nộp ngân sách Nhà nước mỗi năm từ 2 đến 3 tỷ đồng. Ông cũng tích cực tham gia các hoạt động xã hội, làm công tác từ thiện như đóng góp xây nhà tình nghĩa, nghĩa tình đồng đội, giúp đỡ người nghèo, cận nghèo, người có công với cách mạng...

Trung tướng, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Văn Phiệt, sinh năm 1938, là thương binh thương tật 47%. Ông nhập ngũ năm 1960. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, ông đã tham gia bắn rơi 19 máy bay các loại. Đặc biệt, trong chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không” 12 ngày đêm tại Hà Nội năm 1972, ông đã chỉ huy bắn rơi 4 máy bay B52 của Mỹ. Khi về hưu, ông cùng đồng đội tham gia sáng lập và duy trì Trung tâm nhân đạo Hồng Đức cho trẻ em bị ảnh hưởng bởi chất độc da cam và những người kém may mắn. Cơ sở này đã hoạt động được hàng chục năm, tập trung dạy nghề và hỗ trợ cuộc sống cho các nạn nhân bị ảnh hưởng bởi chất độc da cam và khuyết tật.

Bà Nguyễn Thị Hà Ẩn (tỉnh Bình Định), sinh năm 1954, lớn lên trong một gia đình có truyền thống cách mạng. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, bà từng bị địch bắt, tù đày khi mới 17 tuổi. Chỉ trong hai năm, bà phải trải đi qua rất nhiều nhà lao, bị địch tra tấn dã man. Đến giờ, bao thương tổn của những năm tra tấn, tù đày đó vẫn thường xuyên ảnh hưởng tới sức khỏe của người phụ nữ nhỏ bé này. Bà cùng người chồng thương binh nuôi dạy ba người con thành đạt. Khi nghỉ hưu, bà thành lập doanh nghiệp trong lĩnh vực kinh doanh phân bón và vận tải hàng hóa. Công ty góp phần giải quyết việc làm cho hơn 40 lao động, với doanh thu hằng năm hơn 100 tỷ đồng. Tích cực tham gia đóng góp các quỹ và phong trào do địa phương phát động, bà Ẩn cũng góp sức trong nhiều hoạt động “đền ơn đáp nghĩa”, hỗ trợ người có công khó khăn trong cuộc sống, các chương trình an sinh xã hội.

Theo Báo Nhân dân

SỬ DỤNG MẠNG XÃ HỘI CẦN CÓ TẦM, CÓ TUỆ, CÓ TÂM

 

SỬ DỤNG MẠNG XÃ HỘI CẦN CÓ TẦM, CÓ TUỆ, CÓ TÂM

Mạng xã hội (MXH) là kênh giúp lan truyền, phổ biến rộng rãi các thông tin, phản hồi, nắm bắt và định hướng các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; ngăn chặn tin giả, bài viết, video clip có nội dung xấu, độc, xuyên tạc, bôi đen sự thật; đồng thời, tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của quần chúng, cư dân mạng về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng.

Hiện nay, bên cạnh mặt tích cực cần khai thác, MXH cũng đang có những tác động, ảnh hưởng tiêu cực từ mặt trái của nó đến công tác truyền thông, định hướng chính trị cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân. Điều này có thể nhận thấy trên các điểm sau:

(1) MXH đang bị các thế lực thù địch, cơ hội chính trị, phản động triệt để khai thác, sử dụng như một công cụ chủ yếu để thực hiện âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” quân đội, công an; tuyên truyền xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, kích động các phần tử bất mãn, cơ hội chính trị chĩa mũi nhọn tấn công, chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ thông qua việc khai thác, sử dụng, tung lên mạng các thông tin, bài viết, video clip có nội dung xấu, độc về các sự kiện chính trị - xã hội, quốc phòng - an ninh - đối ngoại, thổi phồng các hạn chế, khuyết điểm của một số cơ quan, đơn vị, biến nó thành “vấn đề nóng” nhằm chống phá, hạ thấp uy tín, vai trò, vị thế của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Quân đội, Công an; xuyên tạc bản chất, giá trị khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, lợi ích quốc gia - dân tộc.

(2) Lợi dụng số lượng người dân Việt Nam sử dụng MXH tăng lên nhanh chóng trong thời gian qua, không ít tài khoản ảo, nặc danh đã và đang gây nhiều khó khăn cho công tác quản lý. Với các phương tiện thông tin hiện đại, chỉ là cái điện thoại thông minh, ai cũng có thể trở thành người cung cấp thông tin cho MXH, khiến cho MXH trở thành “cái chợ” bị cư dân mạng “lũng loạn, làm nhiễu môi trường thông tin” thông qua việc tán phát các tin giả, tung bài viết, video clip có nội dung xấu, sai lệch, làm cho nó phủ kín, lan tràn trên mạng xã hội với đủ các chiêu trò, hình thức nhảm nhí được che đậy ngày càng tinh vi, xảo trá. Tình trạng này đang làm cho các nguồn thông tin chính thống, tin thật bị lấn át, bị lẫn lộn với tin giả.

Điều đó, đã và đang lôi kéo, thu hút, làm pha loãng bầu không khí chính trị ở nước ta bởi tâm lý “đám đông”, các luồng thông tin, “dư luận xã hội” xấu. Sự lây lan quan điểm, tư tưởng lệch lạc trong xã hội tạo thành các “đợt sóng”, các luồng dư luận xã hội thiếu lành mạnh, không có lợi cho việc tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước dẫn đến hiệu ứng “tẩy chay”, “quay lưng”, “ném đá giấu tay”, phản đối các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, Quân đội, dù người phản đối chưa hiểu rõ các thông tin trên MXH là thật hay giả, đúng hay sai, có lợi ích gì cho quốc gia - dân tộc và gia đình mình.

(3) Sự xuất hiện của các luồng tin sai trái, độc hại, nhất là các video clip xấu, độc lan tràn trên MXH đã và đang đặt ra sự cần thiết phải làm tốt hơn công tác bảo mật thông tin, nhất là các thông tin chứa đựng bí mật quân sự, quốc gia. Điều đáng quan tâm ở đây là một số tài khoản MXH của các tổ chức Đảng, Nhà nước, Quân đội, Công an và của cán bộ công chức, viên chức, sĩ quan quân đội, công an có thể bị tấn công hoặc bị xâm nhập trái phép, thậm chí bị đánh cắp thông tin, các dữ liệu. Thế nhưng, không ít chủ thể, vì nhiều nguyên nhân khác nhau, lại chưa nhận thức đầy đủ, sâu sắc vị trí, vai trò, tầm quan trọng của việc bảo mật thông tin, đặc biệt là tác hại, mức độ nguy hiểm của việc vô ý để lộ, lọt, đánh mất thông tin của cá nhân hoặc của tổ chức khi đăng tải hình ảnh, thông tin về hoạt động của đơn vị trên mạng xã hội.

Sự thiếu chuyên nghiệp, chưa hiểu biết về “kỹ thuật máy tính”, “công nghệ thông tin” và sự vô ý, tắc trách của chủ thể đã vô tình tiếp tay cho bọn cơ hội chính trị, các phần tử xấu để những người này lợi dụng sơ hở ấy, khai thác, sử dụng thông tin chế biến tin thật thành tin giả, đúng thành sai để chống lại Đảng, Nhà nước, chế độ, gây nên tình trạng nhiễu loạn thông tin, dư luận xã hội xấu, làm rối loạn tình hình, gây bất ổn chính trị - xã hội, an ninh quốc gia; làm xáo trộn đời sống tâm lý của cán bộ, chiến sĩ và người dân.

Rõ ràng là, MXH đã, đang và sẽ đem lại nhiều tiện ích và cơ hội lớn cho xã hội nhưng mặt trái của nó là không thể xem thường, bởi nó chứa nhiều nguy cơ, thách thức. Vì vậy, chủ thể sử dụng và khai thác thông tin trên MXH cần được trang bị đầy đủ tri thức lý luận chính trị, quân sự; kiến thức, kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin và các thiết bị máy móc liên quan đến MXH và tác chiến để không rơi vào tình trạng sử dụng máy móc, trang thiết bị công nghệ hiện đại nhưng lại chưa hiểu hết tính năng, tác dụng và tác hại của nó. Chủ động nghiên cứu, tích cực học tập; khắc phục sự thiếu hụt về mảng tri thức còn thiếu là phương cách tốt nhất để phòng tránh mọi sai lầm; sử dụng và khai thác hiệu quả mạng xã hội, biến nó thành vũ khí, trang bị tốt nhất để phục vụ công tác thông tin, tuyên truyền và chuyên môn của từng chủ thể.

Để phòng tránh việc rơi vào “vòng xoáy của bão thông tin mạng” và không bị mắc kẹt, hoặc bị mắc lừa bởi các tin giả, bài viết, video clip xấu; mỗi cán bộ, chiến sĩ, người dân cần thực hiện tốt các điểm sau:

(1) Lựa chọn các kênh MXH phù hợp với nhu cầu, sở thích, đúng với mục đích khai thác và sử dụng thông tin phục vụ công tác, chuyên môn nghiệp vụ, đời sống gia đình và của riêng mình. Vì vậy, chỉ nên lựa chọn những nền tảng MXH phổ biến, dễ khai thác, dễ sử dụng và có tính bảo mật cao, đặc biệt ưu tiên sử dụng các MXH trong nước... như kênh giao tiếp, kết nối chủ đạo để liên hệ với nhau trong cơ quan, đơn vị và xã hội với ý thức trách nhiệm cao. Cần tránh sử dụng các MXH không được coi trọng ở khâu bảo mật, dễ lộ, lọt, mất thông tin cho dù dễ sử dụng. Không nên sử dụng các MXH i chứa đựng nhiều thông tin, bài viết, video clip xấu, độc, không phù hợp với công tác học tập, công tác chuyên môn và truyền thông; đã đươc đơn vị cảnh báo.

(2) Tăng cường bảo vệ thông tin chính thống, bảo mật thông tin đường truyền mạng, bảo mật cổng thông tin, trang thông tin điện tử, nhất là báo điện tử. Cùng với đó, đề xuất các giải pháp, biện pháp bảo đảm an ninh, an toàn thông tin mạng tại gia đình, cơ quan, đơn vị và cá nhân; tạo dựng các “tường lửa” để phòng, chống tin tặc tấn công gây hậu quả xấu hoặc lấy cắp thông tin, nhất là thông tin mật, thông tin nội bộ và tin mật cấp quốc gia. Không được phép để rò rỉ hoặc phát tán thông tin về công tác tổ chức, cán bộ và các thông tin về tác chiến, bảo vệ, bảo mật các bí mật quân sự, quốc gia.

(3) Chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, nhân viên chuyên môn kỹ thuật, phụ trách MXH, cổng thông tin điện tử, báo điện tử. Để phòng tránh “từ sớm, từ xa” các sai sót, khuyết điểm; bảo đảm kết nối thông tin truyền thông, sử dụng MXH một cách hiệu quả, thiết thực hơn, nhất thiết phải nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ, nhân viên chuyên môn kỹ thuật, giúp họ không chỉ có bản lĩnh chính trị kiên định, vững vàng mà còn giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng sử dụng MXH. Có như vậy, họ mới tự tin, đủ trình độ, phương pháp xây dựng, chủ trì và duy trì các nền tảng xã hội phù hợp với đơn vị, phù hợp với tác chiến trong điều kiện sử dụng vũ khí công nghệ cao; giúp cán bộ, chiến sĩ và người dân lựa chọn và sử dụng MXH hiệu quả.

Mặt khác, cần thiết kế, thi công các tin, bài ngắn gọn, có hình ảnh đẹp, chứa đựng cảm xúc bởi một bộ phận cư dân mạng chưa có điều kiện quan tâm và hiểu sâu các vấn đê lý luận trừu tượng. Vì vậy, các nền tảng MXH chính thống cần kết hợp đưa lên MXH những thông tin lý luận chính trị ngắn gọn gắn với các sự kiện, sự việc thời sự, những câu chuyện giản dị, người thật, việc thật, dễ xem, dễ hiểu, dễ tiếp thu, dễ học tập và làm theo người tốt, việc tốt, gương điển hình tiên tiến. Đồng thời, tăng cường kích thích thông tin thị giác như hình ảnh, các video clip đẹp, các đồ họa sinh động; đặc biệt là hình thức live tream đang được công chúng mạng ở Việt Nam yêu thích bởi tính hấp dẫn, trực quan của nó. Đây là một trong những phương cách hữu hiệu nhất để giảm bớt sự phân tán tâm thức, tập trung thời gian, sự quan tâm của cư dân mạng vào các thông tin xấu, độc, có hại; chỉ hướng đến các thông tin chính thống, có tác dụng tốt.

(4) Chủ động, tích cực đề xuất các chủ trương, giải pháp, biện pháp mới, thiết thực, hiệu quả để phát huy vai trò của các kênh truyền thông chính thống, nhất là các báo, đài lớn, có uy tín, có tầm ảnh hưởng rộng rãi trong xã hội và trong quân đội để định hướng nhận thức, nhất là phát ngôn, viết bài, xây dựng các video clip, tiếp nhận thông tin, lan truyền thông tin chính thống, tích cực. Đồng thời, trừng trị và xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm thông tin sai trái, tuyên truyền sai sự thật, phát ngôn bừa bãi, thiếu ý thức xây dựng, lan truyền các tin giả, video clip có nội dung xấu, độc, phản động, chống đối Đảng, Nhà nước và chế độ.

(5) Kiên quyết đấu tranh, xử lý một số cơ quan báo đài, một số nhà báo, người dân nhân danh chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí, tệ nạn xã hội để đăng tải các tin bài, video clip với các thông tin, hình ảnh chưa được kiểm chứng, những ý kiến cá nhân trái chiều, đi ngược lại chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, làm tổn hại đến uy tín, vị thế của các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Quân đội, Công an, gây hại cho lợi ích quốc gia - dân tộc.

Vì vậy, mỗi cán bộ, chiến sĩ, người dân hãy cư xử có đạo đức, có văn hóa trên mạng xã hội, thực hiện nghiêm quy tắc ứng xử và những điều quy định của Đảng về những điều đảng viên không được làm, có thái độ, hành vi và phát ngôn đúng mực, góp phần đấu tranh vạch mặt những kẻ xấu, ném đá giấu tay, tung tin nhảm nhí, tràn lan trên mạng xã hội. Có làm như vậy, chúng ta mới hạn chế đến mức thấp nhất những tác động tiêu cực của tin giả, video clip xấu, độc, góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới./.

Nhân văn

QUÂN KHU 3 - "ĐẤT CĂN BẢN CỦA NƯỚC NHÀ"

 

QUÂN KHU 3 - "ĐẤT CĂN BẢN CỦA NƯỚC NHÀ"

Với diện tích 2 vạn cây số vuông, dân số gần 13 triệu người, sinh sống trên 9 tỉnh đồng bằng duyên hải…, Quân khu Ba như bức tường thành vững chắc ở phía Đông Bắc Tổ quốc, khởi đầu từ Móng Cái - Quảng Ninh, xuôi dần về phía Nam, dừng lại ở dẫy núi Tam Điệp - Ninh Bình.

Quân khu 3 là hình ảnh của đất nước thu nhỏ, bởi ở đây có rừng núi, biển khơi, duyên hải, trung du và đồng bằng. Biển, có Vịnh Hạ Long được xếp hạng di sản văn hoá thiên nhiên thế giới. Rừng, có Cúc Phương và Quần thể du lịch Tràng An, nằm trong danh sách cần bảo tồn của nhân loại. Đồng bằng Trung du đất đai màu mỡ, nước ngọt, khí lành. Những cánh đồng thẳng cánh cò bay, là vựa lúa khổng lồ với nhiều đặc sản nông nghiệp, tinh hoa, xuất khẩu ra quốc tế. Trong lòng đất có khoáng sản, tiềm tàng khí đốt và các loại vật liệu xây dựng. Sông ngòi dày đặc, thủy hải sản vô cùng phong phú, mạng lưới giao thông thủy bộ, đường sắt, đường không phát triển… Đó chính là tiềm năng, là tài sản thiên nhiên ban tặng, rất cần cho sự nghiệp hiện đại hóa, công nghiệp hóa đất nước…Cũng trên mảnh đất này, hàng nghìn năm nay gần 20 dân tộc anh em: Kinh, Tày, Nùng, Sán Dìu, Dao… sinh sống, gắn bó với nhau chống giặc ngoại xâm bảo vệ chủ quyền đất nước.

Đất thượng võ, nơi phát tích bậc đế vương

Từ thế kỷ X, đất Hồng Châu xưa (nay là huyện Ninh Giang, Hải Dương) đã xuất hiện hào trưởng Khúc Thừa Dụ, giành chính quyền trong tay nhà Đường, tự xưng Tiết độ sứ, thực quyền cai trị Đại Việt, mở đầu cho thời kỳ độc lập tự chủ. Cuối thế kỷ X, Đinh Bộ Lĩnh dẹp 12 sứ quân, chỉ huy công cuộc dựng xây kinh đô Hoa Lư, tiếp đến vua Lê Hoàn dẹp Chiêm, phá Tống, giữ yên bờ cõi. Một vùng đất có ba nhân vật anh hùng: Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn, Lý Công Uẩn nối tiếp nhau đăng quang, có thể coi là đất đế vương.

Tên làng đều gợi lại bản hùng ca: Vân Đồn, Bạch Đằng Giang, Lục Đầu-Vạn Kiếp, Tam Điệp. Vẫn còn vang vọng lời Hịch tướng sĩ của Quốc công Tiết chế Trần Quốc Tuấn…, vẫn nghe rõ tiếng gươm khua, ngựa hý, vẫn hừng hực lửa cháy trên sông Bạch Đằng đốt phá giặc Nam Hán, giặc Nguyên…

Mảnh đất ấy giàu truyền thuyết nhân văn. Hầu như nơi nào cũng có danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử văn hoá, kẻ cả lịch sử văn hóa đặc biệt của quốc gia. Sóng gió biển khơi đã làm nên phẩm giá con người miền duyên hải mạnh mẽ, thì rừng núi đã tạo nên cốt cách con người vùng Ninh Bình, Hoà Bình mộc mạc, son sắt… Nơi giao hòa, hội tụ những bản sắc dân tộc, nơi cất giấu kho tàng văn hóa, dân ca, dân vũ, diễn xướng dân gian, phong tục, lễ hội tạo nên sự phong phú trong dòng chảy văn hóa dân tộc...

Đất hiếu học, khoa bảng

Trải dài gần 900 năm, các triều đại Lý, Trần, Lê, Nguyễn đã tổ chức 183 khoa thi hội, cả nước chọn được gần 3.000 vị đỗ đại khoa, thì chỉ một làng Mộ Trạch (tỉnh Hải Dương) có 36 vị, được mệnh danh “làng Tiến sĩ”. Cả nước có 47 trạng nguyên, thì các tỉnh quân khu Ba có tới 20 vị, chiếm gần một nửa số trạng nguyên cả nước. Quân khu Ba thành vùng đất văn võ song kiệt của mọi thời đại.

Sinh thời, Đại tướng Võ Nguyên Giáp từng đánh giá: “Quân khu Ba - quân khu đồng bằng sông Hồng… là vị trí chiến lược quan trọng trong các cuộc chiến tranh chống ngoại xâm của dân tộc. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Quân khu Ba đã nêu cao vai trò vừa là hậu phương vừa là tiền tuyến...mãi mãi xứng đáng là một vùng đất văn hiến và cách mạng, đất căn bản của nước nhà. (Trích “Quân khu Ba-lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) - NXB - QĐND-1995”).

Kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, Quân ủy Trung ương đã biểu dương quân và dân Quân khu Ba với những chữ “Đoàn kết, nghiêm chỉnh, sáng tạo. Chi viện tiền tuyến hết lòng, chiến đấu dũng cảm, xây dựng lực lượng tốt, xây dựng hậu phương vững mạnh…”.

Thời bình, trong thế trận chiến tranh nhân dân, đây là tấm lá chắn của Thủ đô Hà Nội, trong bối cảnh thế giới biến động và phức tạp khôn lường.

Tầm xa, tiềm năng kinh tế biển

Bờ biển Quân khu Ba dài 516km từ Móng Cái đến huyện Kim Sơn, Ninh Bình với nhiều lợi thế để khai thác hải sản, công nghiệp chế biến và nuôi trồng. Quần thể Vịnh Hạ Long, được coi là tài sản thiên nhiên vô giá, gắn liền với kinh tế du lịch. Những bãi biển Vân Đồn, Quan Lạn, Cô Tô… đang trở thành ngành “công nghiệp không khói” mang lại siêu lợi nhuận.

Cùng với biển khơi, Quân khu Ba có nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng: Tràng An, Cúc Phương (Ninh Bình), Côn Sơn - Kiếp Bạc (Hải Dương)… Hầu như mỗi vách núi ở quần thể An Phụ - Kính Chủ - Nhẫm Dương, hay hang động Hạ Long, lưu giữ câu chuyện bi hùng trong trang sử đánh giặc. Nó càng tôn vẻ đẹp của tạo hóa và ý nghĩa nhân sinh giá trị văn hóa bản địa …

Do đặc điểm về địa chính trị, mà hàng ngàn năm qua ,Việt Nam luôn là mục tiêu của kẻ thù xâm lược dòm ngó, suốt thời kỳ Bắc thuộc. Quân khu Ba có đường biên giới đất liền gần 120km, biên giới biển hơn 190km, cũng là những điểm nóng không ngừng phải cảnh giác. Củng cố quốc phòng, an ninh lãnh thổ là nhiệm vụ thiêng liêng. Trên thực tế, Quân khu Ba đã làm bức tường thành vững chắc, là phên dậu che chắn, giữ gìn bảo vệ Thủ đô, trái tim Tổ quốc.

Sự kiện thành lập thôn Đảo Trần, xã Thanh Lân vùng biển ở huyện đảo Cô Tô, chương trình bộ đội giúp dân làm kinh tế, ổn định cuộc sống lâu dài, xây dựng “khu dân cư biên giới kiểu mẫu”, làm viên gạch lát đường biên giới hòa bình - đường biên giới bền vững từ lòng dân.. rất đáng chú ý. Một chủ trương có tầm xa, có sức sống lâu dài, là một ví dụ sống động về xây dựng thế trận lòng dân. Càng thấm thía nhận định của Đại tướng Võ Nguyên Giáp “Quân khu Ba mãi mãi xứng đáng là một vùng đất văn hiến và cách mạng, đất căn bản của nước nhà”.

Báo Quân khu 3

ÂM MƯU CŨ, THỦ ĐOẠN MỚI

 ÂM MƯU CŨ, THỦ ĐOẠN MỚI

 

Chống phá quân đội là âm mưu xuyên suốt trong “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Gần đây, mưu đồ này được chúng thực hiện bằng những thủ đoạn mới, thâm độc, xảo quyệt hơn trước thông qua mạng xã hội với “kỹ xảo” biến không thành có…

Mấy ngày gần đây, một số tài khoản trên các nền tảng mạng xã hội như YouTube, Facebook... xuất hiện một số hình ảnh, lời nói chứa đựng thông tin xuyên tạc, bôi nhọ một số tập thể, cá nhân trong quân đội. Chúng dựng chuyện như thật về “bão”, về “đấu đá nội bộ” trong Bộ Quốc phòng. Vẫn sử dụng chiến thuật “gắp lửa bỏ tay người”, nhưng chúng lại “diễn thuyết” qua giọng điệu như moi tin của “người trong cuộc” rồi “cắt dán” “đổi trắng thay đen”… Mục đích chúng hướng tới là làm mất uy tín đội ngũ cán bộ, gây chia rẽ mối quan hệ đoàn kết đồng chí, đồng đội, làm giảm niềm tin của nhân dân vào “Bộ đội Cụ Hồ”.

Điều đáng nói là chúng đã sử dụng phần mềm chỉnh sửa, cắt cúp, gán ghép hình ảnh các đồng chí lãnh đạo cấp cao và nguyên lãnh đạo cấp cao của quân đội làm hình ảnh nền, sắp xếp, trình bày theo ý đồ rồi đọc những lời bình xuyên tạc. Chiêu bài này thực chất là kiểu ngụy tạo chứng cứ để lừa bịp những người nhẹ dạ cả tin.

Những cái mà chúng gọi là “tin mật”, “nguồn tin riêng”, “nguồn tin đáng tin cậy”, “tin từ nội bộ”... mà các thế lực thù địch, phần tử phản động rêu rao, thực chất là mớ thông tin ngụy tạo, nhảm nhí, không đúng sự thật nhằm mục đích giật gân, câu view…

Số lượng các sản phẩm truyền thông độc hại này xuất hiện với tần suất lớn, lan truyền trên mạng xã hội khá nhanh gây bức xúc dư luận. Nhiều người dùng mạng xã hội, nhất là cán bộ trong quân đội, cựu chiến binh, học sinh sinh viên, cán bộ trong các cơ quan Nhà nước... đã lên tiếng đấu tranh, bác bỏ các luận điệu sai trái này ngay trong phần bình luận của các bài viết, hoặc trực diện đấu tranh trên các diễn đàn của mạng xã hội do phát hiện được sự xuyên tạc, những vô lý khi trích dẫn thông tin, ví dụ như gọi sai họ, tên, chức vụ của cán bộ; những chuyện bịa đặt…

Thực tế, thời gian qua, một số cán bộ, nguyên cán bộ cấp cao của quân đội đã vi phạm kỷ luật, vi phạm pháp luật bị xử lý, truy tố. Việc xử lý cán bộ vi phạm nói như lời đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là để cho Đảng ta mạnh thêm, trong sạch thêm. Các cơ quan thông tin đại chúng của Việt Nam, trong đó có những cơ quan thuộc Bộ Quốc phòng đã thông tin công khai, minh bạch vấn đề này và toàn quân đã nghiêm túc rút kinh nghiệm. Lợi dụng vấn đề đó, một số đối tượng thù địch lại xuyên tạc, bôi đen tình hình nội bộ quân đội, công kích, phá hoại mối quan hệ đoàn kết đồng chí, đồng đội, bóp méo truyền thống văn hóa “Bộ đội Cụ Hồ”; hạ thấp uy tín của quân đội trong tình hình mới.

Phát biểu tại hội nghị Quân ủy Trung ương lần thứ tư vào ngày 13-7 vừa qua, đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Bí thư Quân ủy Trung ương đã nhiệt liệt hoan nghênh và biểu dương những thành tích của Bộ Quốc phòng và cán bộ, chiến sĩ toàn quân đã đạt được trong 6 tháng đầu năm 2022.

Để tạo bước đột phá mạnh mẽ, phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ của năm 2022, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng yêu cầu Quân ủy Trung ương tập trung lãnh đạo, chỉ đạo công tác, triển khai chặt chẽ, kịp thời, hiệu quả chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ XI. Quân ủy Trung ương và các đơn vị trong toàn quân phải kiên quyết hơn nữa trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, các quan điểm sai trái, thù địch, chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ. Mỗi cán bộ, chiến sĩ, nhất là cán bộ lãnh đạo, chỉ huy các cấp phải luôn tự soi, tự sửa, giữ mình và rèn luyện, tu dưỡng, gương mẫu, đi đầu trong cuộc đấu tranh chống “giặc nội xâm”; góp phần công sức, trí tuệ, làm cho quân đội ngày càng mạnh hơn, trưởng thành hơn, mãi mãi xứng đáng là “Bộ đội Cụ Hồ”, xứng đáng với niềm tin yêu của Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Các thế lực thù địch hiểu rõ, quân đội ta chính là thành trì vững chắc về chính trị, tư tưởng của Đảng và nhân dân. Để phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng, chúng nhắm vào trận địa tư tưởng trong quân đội, xuyên tạc, phá hoại từ trung tâm bộ máy lãnh đạo. Đây là chiêu bài “rút gạch chân tường” hướng đến mục tiêu làm sụp đổ hệ tư tưởng của Đảng.

Mỗi cán bộ, chiến sĩ trong quân đội cần cảnh giác trước âm mưu, thủ đoạn thâm độc của các thế lực thù địch và sẵn sàng đáp trả.

lợi dụng vấn đề ngôn ngữ các dân tộc thiểu số để tung tin giả, xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước

 

Gần đây tại các khu vực có đồng bào dân tộc thiểu số, một số đối tượng xấu thường xuyên lợi dụng vấn đề ngôn ngữ các dân tộc thiểu số để tung tin giả, xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, kích động sắc tộc, chia rẽ vùng, miền, gây mất ổn định trật tự-an toàn xã hội... Vì vậy chúng ta cần hết sức cảnh giác, nhận diện rõ vấn đề này một cách kịp thời và đưa ra phương pháp đấu tranh, phòng chống hiệu quả...

Thời gian qua, bên cạnh việc bịa đặt, vu khống về tình hình tôn giáo và nhân quyền ở Việt Nam để chống phá Đảng, Nhà nước ta, một số cá nhân, tổ chức phản động, cực đoan, thiếu thiện chí còn thường xuyên lợi dụng và đẩy mạnh việc chính trị hóa, quốc tế hóa các vấn đề dân tộc nhằm tạo cớ gây sức ép và can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam.

Trong đó chúng lợi dụng những bất cập trong vấn đề bảo tồn và phát triển ngôn ngữ của các tộc người ở một vài địa phương, kêu gọi việc cần phải tổ chức hội thảo quốc tế về người dân tộc thiểu số nhằm khơi gợi, kích động tư tưởng dân tộc chủ nghĩa và ly khai tự trị ở một số tộc người. Nhiều nội dung xuyên tạc đã được chúng đăng tải trên một số tạp chí hải ngoại, mạng xã hội để kêu gọi dư luận quốc tế “lên tiếng” về vấn đề người dân tộc thiểu số tại Việt Nam.

Chẳng hạn, các đối tượng phản động đã đứng ra thành lập những hội nhóm trái pháp luật với khẩu hiệu “bảo tồn và phát triển lịch sử, tôn giáo và văn hóa người Khmer” nhưng thực chất hoạt động chủ yếu là tuyên truyền, xuyên tạc, chia rẽ đồng bào dân tộc Khmer Nam Bộ với người Kinh, bôi nhọ, hạ thấp uy tín những chức sắc, sư sãi yêu nước, tiến bộ, từ đó kích động ly khai, kêu gọi người dân tham gia đấu tranh thành lập cái gọi là “Nhà nước Khmer Krôm”...

Hay thông qua các chương trình về tiếng nói và chữ viết của người dân tộc thiểu số tại khu vực Tây Bắc và Tây Nguyên, một số đối tượng chống đối đã thực hiện thủ đoạn “diễn biến hòa bình” bằng việc bóp méo, xuyên tạc tình hình bảo tồn văn hóa của người dân tộc; xuyên tạc những vấn đề lịch sử để chia rẽ người dân tộc với người Kinh. Thâm độc hơn, chúng còn thường xuyên dùng các thủ đoạn mua chuộc, lôi kéo người có uy tín trong đồng bào dân tộc để qua đó tuyên truyền, xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước bằng chính tiếng nói của họ.

CẢNH GIÁC TRƯỚC NHỮNG THÔNG TIN XẤU ĐỘC TRÊN MẠNG XÃ HỘI Bên cạnh những lợi ích mà mạng internet và mạng xã hội mang lại thì các phần tử xấu, các thế lực thù địch đã lợi dụng mạng internet, mạng xã hội để tăng cường các thủ đoạn vu khống, bôi nhọ hình ảnh đất nước, hình ảnh lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước ta; ảnh hưởng tiêu cực đến niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng. Chúng tìm mọi cách để thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ của ta trên mọi lĩnh vực. Thời gian gần đây, trên các trang mạng xã hội và internet xuất hiện nhiều thông tin xấu độc, bịa đặt, xuyên tạc chống phá Quân đội. Hầu hết các thông tin đó là do một số kẻ cơ hội tạo dựng, hoặc tô vẽ, nhào nặn, gán ghép, trong đó đáng chú ý là thủ đoạn chiếm dụng tài khoản cá nhân nhằm xuyên tạc sự thật, bôi nhọ hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ. Thủ đoạn của chúng rất đa dạng, tinh vi, xảo quyệt như: “làm mới thông tin cũ, bịa đặt thông tin mới” được chúng tiến hành khá “bài bản”, chúng sử dụng điện thoại thông minh, máy quay phim, chụp ảnh, truyền tải video, livestream trực tiếp từ thực địa. Chúng chiếm dụng tài khoản cá nhân được thực hiện khá tinh vi, thông qua việc dẫn dụ cán bộ, chiến sĩ sử dụng mạng xã hội và internet vào xem các tin, bài viết, hình ảnh, tin nhắn “giật gân”, “câu like”… Qua đó, sử dụng các thao tác kỹ thuật để lấy cắp thông tin của người dùng, nhất là những thông tin có liên quan đến hoạt động quân sự, quốc phòng, quan hệ xã hội rồi đem gán ghép, trộn lẫn thông tin thật - giả, tán phát trên các trang mạng xã hội và internet. Gây hoài nghi, làm giảm sút lòng tin của một bộ phận cán bộ, đảng viên với Đảng, Nhà nước… gây bức xúc trong dư luận. Do vậy, để đẩy lùi, ngăn chặn thông tin xấu độc trên mạng internet, mạng xã hội, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp cần tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục để mỗi người sử dụng internet và mạng xã hội cần có cái nhìn khách quan, để không bị nhầm lẫn giữa hiện tượng cá biệt với bản chất sự việc và không nên tán phát, chia sẻ các thông tin, hình ảnh, clip... có nội dung xấu độc khi thông tin chưa kiểm chứng. Đồng thời, phải tăng cường kiểm tra, giám sát thông tin trên mạng internet, mạng xã hội để xử lý nghiêm những hành vi vi phạm quy định sử dụng, thiết lập mạng xã hội, phát tán thông tin xấu độc, tin nhắn rác trên môi trường mạng, ảnh hưởng đến phát triển kinh tế và quốc phòng, an ninh. Chúng ta phải tỉnh táo, kịp thời và chủ động vạch trần âm mưu thâm độc và những thông tin bịa đặt, xuyên tạc, góp phần vào sự ổn định tình hình, làm lành mạnh dư luận xã hội. Đây không chỉ là trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước mà còn là của mỗi người dân tham gia vào mạng internet nói chung và mạng xã hội nói riêng. Mặt khác, chúng ta phải nâng dân trí một cách toàn diện, qua đó có ý thức bảo vệ mình khi tham gia mạng internet; cần sàng lọc những thông tin xấu độc trong tiếp nhận thông tin để từ đó đấu tranh với những luận điệu sai trái, tiêu cực./. ST