CẢ GIA ĐÌNH BÁC HỒ HÓA THÂN VÀO NON SÔNG ĐẤT NƯỚC
Trong
lịch sử, hiếm có một gia đình Việt Nam nào như gia đình của Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Đến thế hệ của Bác, Bác không có vợ, không có con. Chị của Bác, bà Nguyễn
Thị Thanh cũng không có gia đình riêng. Anh trai của Bác, Nguyễn Sinh Khiêm,
cũng không có vợ, con. Lịch sử ghi nhận, sau Cách mạng Tháng Tám, bà Thanh và
ông Khiêm ra thăm Bác, sau đó về quê, tham gia các tổ chức kháng chiến chống
Pháp và làm ăn nuôi nhau. Ông Khiêm mất 1950, bà Thanh mất 1954.
Cha
Bác, ông Nguyễn Sinh Sắc, sinh ra trong một gia đình phú nông đã phá sản ở làng
Kim Liên, xã Chung Cự , tổng Lâm Thịnh, tỉnh Nghệ An. Mới 3 tuổi, ông đã mồ côi
cha, lên 4 tuổi mồ côi mẹ, phải ở cùng vợ chồng người anh trai cùng cha khác mẹ
là Nguyễn Sinh Trợ, và phải lao động, chăn trâu, cắt cỏ như bao đứa trẻ cùng
trang lứa ở quê. Do tư chất thông minh, ham học, ông được cụ tú Hoàng Xuân Đường
xin đưa về nuôi dạy. Ông Sắc đến ở nhà cụ tú Hoàng Xuân Đường ở làng Hoàng Trù
(làng Chùa) xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, được chăm
lo cho việc học hành. Vợ chồng cụ Tú Đường không có con trai, chỉ có hai người
con gái là Hoàng Thị Loan và Hoàng Thị An, nên vợ chồng ông Tú rất quý mến cậu
Sắc và đã quyết định chọn cậu làm con rể. Năm 1881, cậu Sắc 18 tuổi kết hôn với
con gái đầu lòng của cụ Tú là Hoàng Thị Loan 13 tuổi. Ba năm sau, năm Hoàng Thị
Loan 16 tuổi, sinh cô con gái đầu lòng, chị Bác, Nguyễn Thị Thanh. Bốn năm sau
sinh anh của Bác, Nguyễn Sinh Khiêm, và hai năm sau đó sinh Bác, Nguyễn Sinh
Cung. Cũng như những thanh niên trí thức lúc đó, ông Sắc tham gia các kỳ thi của
triều đình, năm 1894 (sau khi cụ Tú Đường mất 1893) ông thi đậu cử nhân tại kỳ
thi Hương, trường thi Nghệ An. 1895 ông thi Hội ở triều đình, nhưng không đỗ. Đến
1901 sau khi vợ mất, ông thi đậu Phó bảng. Không ra làm quan ngay, trở về quê dạy
học, ông sống trong sạch và cương trực. Mãi đến tháng 5-1906, ông mới vào Huế
nhậm chức Thừa biện bộ Lễ. Tháng 5-1909 ông được bổ làm tri huyện Bình Khê, tỉnh
Bình Định. Tại đây, căm ghét bọn tham quan, ô lại, ông thường thăm thú dân
chúng, rồi những người tù bị bắt do oan khuất, do đấu tranh chống sưu, thuế nặng
nề được thả. Bọn cường hào, ác bá ở Bình Khê đã tìm cách kiện ông ra triều
đình. Ông bị triệu về triều, bị Hội đồng Nhiếp chính xử 100 trượng, giáng 4 cấp
và bị triệt hồi. Không về quê, ông đi về Nam, vừa đi vừa bốc thuốc Nam chữa bệnh
cho dân. Ông mất ngày 27-11-1929 tại Cao Lãnh (Đồng Tháp ngày nay).
Mẹ
Bác, bà Hoàng Thị Loan là con cụ tú Hoàng Xuân Đường và cụ bà Nguyễn Thị Kép.
Được học hành và được dạy dỗ trong gia đình nho học, bà là một điển hình của
người phụ nữ thời đó, hết lòng hết sức lo sự nghiệp của chồng và con cái. Ông Sắc
vào Huế học và thi cử lận đận. Bà và các con trai cũng vào, vừa dệt vải vừa
chăm lo cho chồng cho con. Thuở thiếu thời, trong lời ru của mẹ, tình yêu quê
hương đất nước đã được thấm đậm, in sâu trong lòng anh chị em Bác. Những tình cảm
ấy được nhân lên, khắc ghi trong lòng Bác kính yêu suốt cả cuộc đời mình.
Năm
1901, bà Loan lâm bệnh nặng và qua đời. Phần mộ của bà sau này được bà Thanh và
ông Khiêm mang từ Huế về đặt trên sườn núi Động Tranh, một trong những ngọn núi
của dãy Đại Huệ thuộc địa phận xã Nam Giang, huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An.
Khi
cha vào kinh thành nhậm chức, bà Thanh ở nhà tham gia phong trào yêu nước chống
Pháp ở Nghệ An và miền Trung. Bị giặc bắt, chịu án phạt 100 trượng, tù khổ sai
9 năm, đày cách quê hương 3000 dặm. Bà là người phụ nữ cách mạng, kiên quyết,
có nhan sắc mặn mòi, nhưng cũng không có chồng, con. Thời trẻ, nhiều đám mai mối,
có cả những đám con của gia đình gia thế, đến những đám của những người đồng
niên ở quê.
Nhà
văn Sơn Tùng, thương binh 1/4 , người có nhiều tác phẩm rất hay và chi tiết về
Bác và gia đình Bác, người đã từng gặp và trò chuyện với chị Thanh, anh Khiêm
và với cả người yêu của Bác Hồ là Lê Thị Huệ kể lại, nhà văn có lần hỏi bà
Thanh: vì sao cô không xây dựng gia đình? Bà Thanh trầm tư u uẩn, nhìn vào cõi
xa xăm như không muốn nói, nhưng như nuốt những đau đớn vào trong, bà kể rằng:
khi bị bắt, chúng khám thấy trong người và dưới vạt giường nằm của bà có giấu
súng, chúng còn biết bà là con gái của Nguyễn Sinh Sắc, chị gái của Nguyễn Ái
Quốc - người vừa gây tiếng vang lớn trên diễn đàn các nguyên thủ quốc gia ở
Vécsai nước Pháp, chúng rất tức tối. Mọi ngón đòn tra tấn, đánh đập, bà chỉ nhận
về mình, không khai bất kỳ chi tiết nào liên quan đến đồng chí mình. Một hôm để
khuất phục bà, bắt bà phải khai, chúng dùng một chiếc mâm đồng, đặt lên lò than
nung đỏ rực, lột trần bà ra, rồi đẩy bà ngồi bệt vào chiếc mâm nóng đỏ đó. Thịt
da cháy xèo xèo, đến xương tủy, bà ngất đi. Sau đó nhiều tháng, nhờ sự thương cảm
của các bạn tù, bà tự chữa bệnh bằng một số thứ thuốc nam kiếm được, vết thương
lành, nhưng toàn bộ phần thịt cháy nham nhở, lồi lõm và luôn luôn tấy đỏ, đau đớn,
mặc cảm hằng ngày. Bà không nghĩ đến việc lấy chồng. Những năm kháng chiến chống
Pháp, bà tham gia Hội mẹ chiến sĩ ở quê, bốc thuốc nam chữa bệnh cứu người cho
đến lúc đi xa.
Anh
trai của Bác, Nguyễn Sinh Khiêm, tự Tất Đạt. Năm 1908, hai anh em Bác tham gia
phong trào chống thuế của nhân dân Trung Kỳ, sau đó bị trường Quốc học Huế buộc
thôi học; Cậu Thành đi về Nam, mưu cứu nước, cha bị đày đi làm tri huyện Bình
Khê, ông Khiêm về quê, cùng chị hoạt động trong phong trào yêu nước chống Pháp
của đội Quyên, ấp Võ. Năm 1914, ông Khiêm bị giặc Pháp bắt, bị chúng xử 9 năm
khổ sai, đày vào tận Nha Trang. Mãi đến năm 1920, giặc Pháp mới đưa ông về giam
lỏng ở Huế. Tiếp theo là những ngày gặp lại chị gái. Hai chị em tham gia các
phong trào cứu nước ở quê cho đến lúc ra đi. Ông Khiêm cũng không lấy vợ, không
có con. Giữa rừng già Việt Bắc, trong một đêm đông lạnh giá, ngồi bên đống lửa,
chúng tôi chân tình hỏi Chủ tịch Hồ Chí Minh, tại sao chủ tịch không lấy vợ,
không lập gia đình. Chủ tịch cười ôn tồn nói với chúng tôi rằng: lúc còn trẻ mải
mê đi làm nhiệm vụ, không có điều kiện lập gia đình, bây giờ già rồi không còn
nhu cầu ấy nữa.
Như
vậy, Bác cũng như chúng ta, là con người bình thường, ai cũng khát vọng yêu
thương, ai cũng mong muốn có một mái ấm gia đình. Nhưng Người đã trở nên vĩ đại
bởi vì đã vượt lên trên cái bình thường của chính mình với mục đích đem lại cái
bình thường và hạnh phúc cho nhân dân, cho các thế hệ mai sau.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét