Chủ Nhật, 14 tháng 8, 2022

KHƠI DẬY NGỌN LỬA TINH THẦN "BA SẴN SÀNG" TRONG THANH NIÊN VIỆT NAM


Trong lịch sử phong trào thanh niên Việt Nam thế kỷ XX có một cuộc vận động có sức lôi cuốn mạnh mẽ, rộng khắp của tuổi trẻ Hà Nội, sau đó trở thành phong trào chung của cả nước, đó là phong trào thanh niên “Ba sẵn sàng”: “Sẵn sàng chiến đấu; sẵn sàng gia nhập các lực lượng vũ trang; sẵn sàng đi bất cứ nơi đâu, làm bất cứ việc gì mà Tổ quốc cần đến”.


58 năm từ khi được phát động, phong trào “Ba sẵn sàng” đã hun đúc nên lớp lớp thế hệ thanh niên với những phẩm chất tốt đẹp, đó là lòng yêu nước, biết hy sinh, sẵn sàng cống hiến tuổi thanh xuân cho cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc, sẵn sàng xả thân vì Tổ quốc. Đó cũng chính là cơ sở, nền tảng tinh thần để Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh phát động phong trào “Thanh niên tình nguyện”, để thanh niên thời đại mới tiếp bước cha anh, gánh vác sứ mệnh lịch sử, với bản lĩnh “Đâu cần thanh niên có, việc gì khó có thanh niên”.


Dấu son trong lịch sử chiến đấu của thanh niên Việt Nam


Năm 1964, thanh niên Trường Đại học Sư phạm Hà Nội có phong trào “Tam bất kỳ”. Lúc đó, đất nước ta đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: Vừa làm nhiệm vụ chiến đấu chống Mỹ - ngụy ở miền Nam, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, làm hậu phương lớn cho chiến trường miền Nam. Từ khí thế sôi nổi của các cơ sở Đoàn, Ban Chấp hành Đoàn trường đã phát động phong trào “Tam bất kỳ” với ba nội dung cơ bản, trong đó nhấn mạnh đến việc sẵn sàng nhận mọi nhiệm vụ công tác của sinh viên sau khi tốt nghiệp: “Bất kỳ đi đến nơi nào mà Tổ quốc cần đến. Bất kỳ làm nhiệm vụ gì mà Đảng và nhân dân yêu cầu. Bất kỳ chế độ hưởng thụ nào cũng chấp nhận.”


Năm 1964-1965, đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh ra toàn miền Nam, tiến hành đánh phá miền Bắc Việt Nam. Với tinh thần cả nước là chiến trường, thanh niên, học sinh, sinh viên ở miền Bắc vừa học tập, phục vụ xây dựng miền Bắc, vừa sẵn sàng chi viện cho miền Nam đánh Mỹ. Nhận thấy phong trào “Tam bất kỳ” trước đây không còn phù hợp nữa, tháng 4/1964, Đoàn trường Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã mở rộng thành phong trào “Ba sẵn sàng” với ba nội dung: Sẵn sàng chiến đấu; sẵn sàng nhập ngũ; sẵn sàng làm bất cứ việc gì khi Tổ quốc cần.


Phong trào sau đó được đoàn viên, thanh niên các trường đại học khác và nhiều cơ quan, đơn vị trên địa bàn Hà Nội hưởng ứng sôi nổi. Đêm 7/8/1964, Ban Thường vụ Thành đoàn Hà Nội đã họp bất thường, quyết định phát động phong trào “Ba sẵn sàng” với các nội dung: Sẵn sàng chiến đấu; sẵn sàng gia nhập các lực lượng vũ trang; sẵn sàng đi bất cứ nơi đâu, làm bất cứ việc gì mà Tổ quốc cần đến. Đêm 9/8/1964, khoảng 500 đoàn viên và trên 2 vạn thanh niên tập trung ngoài phố giương cao khẩu hiệu “Ba sẵn sàng”. Thành đoàn Hà Nội đã đọc lời kêu gọi và được thanh niên đáp lại “sẵn sàng, sẵn sàng, sẵn sàng” vang động cả góc trời. Ngày 9/8/1964 đi vào lịch sử phong trào thanh niên Thủ đô như một dấu son của tuổi trẻ.


Chỉ sau một tuần phát động, đã có 240.000 thanh niên ghi tên nguyện “Ba sẵn sàng”, trong đó có 80.000 thanh niên xung phong ra trận. Nhiều khẩu hiệu xuất hiện trên đường phố: “Đâu có giặc là ta cứ đi”, “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”... Tòng quân, đi thanh niên xung phong trở thành nguyện vọng thiết tha của tuổi trẻ Thủ đô và trên mọi miền đất nước lúc bấy giờ.


Phong trào “Ba sẵn sàng” đã phát triển mạnh mẽ và đi vào chiều sâu, đến với tất cả các đối tượng thanh niên. Được nhiều địa phương trong cả nước hưởng ứng, thậm chí nhanh chóng vượt ra khỏi biên giới, nhiều du học sinh đã viết đơn xin về nước để chiến đấu nếu Tổ quốc cần. Tháng 3/1965, Ban Chấp hành Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh chính thức kêu gọi thanh niên cả nước hưởng ứng phong trào “Ba sẵn sàng” của tuổi trẻ Thủ đô và bổ sung thêm nội dung của phong trào, đó là: “Sẵn sàng chiến đấu và gia nhập lực lượng vũ trang. Sẵn sàng học tập và lao động xây dựng cuộc sống mới. Sẵn sàng đi tới nơi nào mà Tổ quốc cần đến”.


Lúc này, nhiệm vụ trung tâm của cả nước là tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ, vì vậy “Ba sẵn sàng” gồm cả nhiệm vụ chiến đấu, sản xuất, học tập, xây dựng cuộc sống. Kể từ đó, “Ba sẵn sàng” đã trở thành một trong những phong trào hành động cách mạng lớn nhất của tuổi trẻ Thủ đô và tuổi trẻ Việt Nam trong thế kỷ XX, tạo nên một đội quân tình nguyện đông đảo nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc: Hơn 5 triệu lượt đoàn viên, thanh niên tham gia, trong đó gần 1,5 triệu người con ưu tú đã ngã xuống. Hàng vạn thanh niên đã để lại một phần xương máu của mình nơi chiến trường khốc liệt. Chính lớp thanh niên “Ba sẵn sàng” ra đi ngày ấy đã sát cánh chiến đấu quên mình cùng với lớp thanh niên “Năm xung phong” từ các vùng nông thôn, thành thị, góp phần giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Đó là dấu son trong lịch sử chiến đấu vẻ vang của thanh niên Hà Nội và Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. 


Cháy mãi ngọn lửa của tinh thần tình nguyện


Phong trào “Ba sẵn sàng” trong những năm tháng chống Mỹ được ví như "mồi lửa" thắp sáng tinh thần cách mạng của thanh niên, học sinh, sinh viên vốn đã như "củi khô" chờ được đốt cháy. Ngọn lửa ấy vẫn sáng mãi đến hôm nay, với những phong trào thi đua xung kích được tuổi trẻ cả nước đẩy mạnh triển khai trong nhiều năm qua. Trong đó, có thể nói phong trào Thanh niên tình nguyện là sự phát huy, kế thừa hiệu quả, thiết thực nhất từ phong trào “Ba sẵn sàng”, khơi dậy tinh thần xung kích, tự nguyện của thanh niên trong đáp ứng những yêu cầu, nhiệm vụ của đất nước.


Từ nhiều năm nay, phong trào “Thanh niên tình nguyện” đã trở thành một nét văn hóa đẹp thể hiện tinh thần cống hiến của hàng triệu đoàn viên, thanh niên Việt Nam. Lớp lớp đoàn viên, thanh niên đã xung phong đảm nhận những việc mới, việc khó, đến những nơi xa xôi hẻo lánh, góp sức trẻ của mình với mong muốn dựng xây đất nước trở nên giàu đẹp, hùng cường. Trong những dấu ấn nổi bật của phong trào Thanh niên tình nguyện qua các năm, phải kể đến Chiến dịch Thanh niên tình nguyện hè.


“Chiến dịch Mùa hè học sinh - sinh viên tình nguyện vì cuộc sống cộng đồng” năm 2000 là cột mốc đầu tiên đánh dấu chặng đường lịch sử với những mùa hè tình nguyện của thanh niên cả nước. Năm 2001, chiến dịch được đổi tên thành “Chiến dịch Thanh niên, học sinh, sinh viên tình nguyện hè” nhằm thu hút, tập hợp đông đảo thanh niên trong xã hội tham gia vào các hoạt động tình nguyện. Từ năm 2009 đến nay, tên gọi của chiến dịch được khát quát, rút gọn thành “Chiến dịch Thanh niên tình nguyện hè”.


Từ năm 2014, Chiến dịch Thanh niên tình nguyện Hè có sự đổi mới về mặt định hướng nội dung, đối tượng, được tổ chức gồm một chương trình và bốn chiến dịch, gồm Chương trình “Tiếp sức mùa thi”, Chiến dịch tình nguyện “Mùa Hè xanh” với nòng cốt là đoàn viên, sinh viên các trường đại học, cao đẳng, học viện, có sự tham gia đối ứng của lực lượng thanh niên địa bàn; Chiến dịch tình nguyện “Hoa phượng đỏ” dành cho đối tượng chính là học sinh và có sự tham gia của giáo viên trẻ; Chiến dịch tình nguyện “Kỳ nghỉ hồng” dành cho đối tượng là cán bộ, công nhân, viên chức trẻ; Chiến dịch tình nguyện “Hành quân xanh” dành cho đối tượng đoàn viên, thanh niên, cán bộ trẻ trong lực lượng vũ trang nhân dân.


Qua hơn 20 năm triển khai chiến dịch, đã có hơn nửa triệu công trình thanh niên được thực hiện. Các đội tình nguyện đã sửa chữa và làm mới hàng vạn ki lô mét đường giao thông nông thôn và sửa chữa, xây mới nhà ở cho người dân...


Năm 2022, 67/67 tỉnh, thành đoàn và đoàn trực thuộc đã tổ chức ra quân Chiến dịch Thanh niên tình nguyện hè với tổng số 39.100 đoàn viên, thanh niên tham gia. Chỉ riêng trong đợt 1 của Chiến dịch, toàn đoàn tổ chức 14.648 đội hình với sự tham gia của 543.385 đoàn viên thanh niên tham gia các phần việc trong các chương trình, chiến dịch nhánh.


Các hoạt động chủ yếu được tổ chức gồm: Dọn dẹp vệ sinh; tổ chức tập huấn phòng, chống đuối nước, tai nạn thương tích cho trẻ; khám chữa bệnh, cấp phát thuốc miễn phí cho người dân; khởi công xây dựng nhà tình thương, trao học bổng, sách giáo khoa; tổ chức các lớp tập huấn chuyển đổi số; khởi công các công trình thắp sáng đường quê… Trong đó, một số chỉ tiêu đạt kết quả tốt có thể kể đến như: Xây dựng mới các tuyến phố khu vực đô thị; tư vấn tâm lý cho đoàn viên, thanh thiếu nhi; xây mới nhà nhân ái, điểm vui chơi cho trẻ em; tập huấn kiến thức khởi nghiệp... Các địa bàn trọng tâm được các tỉnh, thành đoàn tiến hành khảo sát và triển khai các đội hình, hoạt động là tại 74 huyện nghèo; 54 xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo; làng thanh niên lập nghiệp; Đảo Thanh niên.


Tình nguyện, cống hiến sức trẻ cho Tổ quốc, ngọn lửa của tinh thần “Ba sẵn sàng” dù cách đây hơn nửa thế kỷ song vẫn luôn sáng mãi, nhắc nhở thế hệ thanh niên ngày nay không ngừng rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, góp phần xây dựng đất nước giàu mạnh, văn minh.


TTXVN

Tổng bí thư: Đề cao tinh thần "nói đi đôi với làm"

 Trong quá trình học tập, làm theo Chủ tịch Hồ Chí Minh và nêu gương của cán bộ, đảng viên, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu rõ cần đề cao tinh thần "nói đi đôi với làm".

Sáng 12/6, Ban Bí thư Trung ương Đảng tổ chức Hội nghị trực tuyến toàn quốc sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 05 "về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh".

Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng chủ trì hội nghị; tham dự có Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc; Thủ tướng Phạm Minh Chính; Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ; Thường trực Ban Bí thư Võ Văn Thưởng...

Sau khi phân tích thuận lợi, khó khăn của bối cảnh, tình hình trong nước và quốc tế, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nói thời gian tới cần tập trung làm tốt 3 vấn đề: Học tập, làm theo Chủ tịch Hồ Chí Minh và nêu gương của cán bộ, đảng viên.

Theo đó học tập Chủ tịch Hồ Chí Minh là học tư tưởng, thế giới quan và nhân sinh quan cách mạng, đạo đức cách mạng và phong cách của người chiến sĩ cộng sản chân chính.

"Thúc đẩy việc học tập trở thành lối sống, nếp nghĩ, cách làm của từng cán bộ, đảng viên và người dân, làm cho tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh thực sự thấm sâu vào đời sống xã hội", Tổng bí thư nói.

Làm theo Chủ tịch Hồ Chí Minh là thúc đẩy, tạo chuyển biến mạnh mẽ từ "học tập" sang "làm theo", chứ không chỉ nói suông, không chỉ học thuộc lòng. "Đừng nói một đằng mà làm một nẻo, nói trống rỗng, không thấm vào tim, vào gan, vào ruột mình, không biến thành hành động thì không phải là học Bác", Tổng bí thư nhấn mạnh.

Còn nêu gương là thực hiện đồng thời, gắn kết việc học tập với làm theo Chủ tịch Hồ Chí Minh và nêu gương, trong đó đề cao vai trò, trách nhiệm tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cấp uỷ, chính quyền, cơ quan, đơn vị, đặc biệt là Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Ban Bí thư, Uỷ viên Trung ương Đảng.

Tổng bí thư yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên cần nghiêm túc thực hiện trách nhiệm nêu gương; người có chức vụ càng cao, cương vị càng lớn càng phải gương mẫu trong tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, tác phong để quần chúng, nhân dân noi theo; phải thể hiện được tư tưởng vững vàng, quan điểm đúng đắn, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, hết lòng vì nước, vì dân... "Đưa việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trở thành việc làm thường xuyên, nhu cầu văn hoá tinh thần trong Đảng", ông nói.

Trong quá trình thực hiện ba nhiệm vụ nêu trên, cần kết hợp chặt chẽ giữa "xây" và "chống", trong đó "xây" là cơ bản, chiến lược; "chống" là quan trọng, cấp bách; đề cao tinh thần "nói đi đôi với làm", "rèn luyện suốt đời", thường xuyên "tự soi", "tự sửa"...

Trình bày báo cáo tóm tắt 5 năm thực hiện Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị khóa XII (ban hành ngày 15/5/2016), Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Nguyễn Trọng Nghĩa cho biết các cấp ủy Đảng đã chú trọng đưa nội dung thực hiện Chỉ thị vào nghị quyết, chương trình, kế hoạch thực hiện nghị quyết Đại hội XII của Đảng và nghị quyết đại hội đảng bộ các cấp.

Các ban, bộ, ngành, địa phương đã xác định khâu đột phá để tập trung lãnh đạo. Đó là xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; xây dựng tổ chức, bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; cải cách hành chính, xóa bỏ những thủ tục hành chính rườm rà, gây khó khăn cho doanh nghiệp, nhân dân...

Các cấp có thẩm quyền cũng đã chọn những vấn đề bức xúc, nổi cộm mà nhân dân quan tâm để tập trung khắc phục, giải quyết dứt điểm; đồng thời chỉ đạo thực hiện quyết liệt công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, xử lý sai phạm...

Nhờ xác định và thực hiện tốt các khâu đột phá, trong nhiệm kỳ Đại hội XII, các địa phương trong cả nước đã giải quyết được trên 50.700 vụ việc nổi cộm, tồn đọng, gây bức xúc dư luận xã hội, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước...

Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương khẳng định, việc thực hiện Chỉ thị 05 ngày càng đi vào thực chất, dần trở thành việc làm thường xuyên, nền nếp, lối sống của các cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Sáng 12/6, trước khi diễn ra Hội nghị, các đại biểu đã tham quan, nghe giới thiệu về triển lãm "Những tấm gương bình dị mà cao quý" trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

Nguồn: vnexpress.net

Cần tiếp tục thực hiện lời căn dặn của Bác về tình yêu biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc hôm nay

Biển, đảo là một phận lãnh thổ thiêng liêng của Việt Nam, có tầm quan trọng đặc biệt trong xây dựng và phát triển đất nước. Hơn ai hết Bác Hồ không những hiểu tầm quan trọng của biển đảo mà Người còn có tầm nhìn và tư duy chiến lược về vấn đề khẳng định chủ quyền biển đảo Tổ quốc. Sinh thời Bác Hồ rất quan tâm đến biển, đảo và dành nhiều tình cảm cho nhân dân vùng biển đảo và lực lượng vũ trang nhân dân bảo vệ biển đảo của Tổ Quốc. Sự quan tâm và tình cảm đó được thể hiện qua hàng trăm bức thư, bài viết, bài nói chuyện với quân dân vùng biển khi Người đến thăm. Những lời căn dặn của Bác vô cùng sâu sắc và có ý nghĩa to lớn đối với chúng ta trong công cuộc xây dựng và bảo vệ vùng biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc hôm nay. Ngay từ những ngày đầu Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước, Người đã chọn phương tiện đường thủy. Đường biển nhanh nhất và duy nhất lúc đó có thể giúp Người thực hiện ước mơ của mình. Đến mỗi quốc gia, Người đều có cảm nhận vẻ đẹp thiên nhiên của biển rất khác nhau, nhưng lúc nào Người cũng tự hào về bờ biển Việt Nam – Tổ quốc thân yêu của mình. Cách chúng ta hơn nửa thế kỷ, Người đã nhìn thấy vai trò kinh tế biển, đảo thật sớm của Vịnh Hạ Long và cách thu được lợi nhuận từ “ngành công nghiệp không khói”. Người đã nhiều lần thăm đảo Cô Tô và đây là nơi duy nhất và đầu tiên đồng ý cho phép dựng tượng đài khi Người còn sống. Tượng đài Hồ Chí Minh đứng uy nghiêm, lưng tựa vào núi, tay phải giơ cao vẫy chào, mắt nhìn ra Biển Đông. Việc Bác đồng ý xây tượng đài mình trên đảo Cô Tô đã thể hiện tầm nhìn chiến lược về khẳng định chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Việt Nam. Điều này cũng cho thấy Bác đặc biệt quan tâm đến bộ đội Hải Quân. Nhân dịp Hải quân ta vừa tròn 10 tuổi, Bác gửi thư cho cán bộ và chiến sĩ hải quân, vừa khen ngợi thành tích của Hải quân vừa vạch rõ sự cần thiết xây dựng Hải quân vững mạnh trong việc bảo vệ chủ quyền biển đảo của Việt Nam: “Tuy còn non trẻ, nhưng nhờ sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, sự tin yêu, giúp đỡ của nhân dân, sự cố gắng không ngừng của mình, hải quân ta đã anh dũng chiến đấu, tích cực diệt địch, bắn rơi máy bay và đánh đuổi tàu chiến Mỹ, đoàn kết lập công, bảo vệ nhân dân, bảo vệ vùng trời và vùng biển của Tổ quốc. Các chú đã nêu cao truyền thống anh hùng của dân tộc ta”. Với tài ứng phó, dí dỏm, thông minh, Người đã khẳng định chủ quyền dân tộc nói chung và chủ quyền biển, đảo nói riêng. Bác cũng nhiều lần đưa những bạn bè quốc tế đến thăm nhiều biển, đảo Việt Nam như một cách giới thiệu vẻ đẹp của đất nước mình với thế giới và đồng thời khẳng định chủ quyền vùng biển, đảo Tổ quốc. Tháng 10/1957, khi đến thăm Quảng Ninh, đứng trước vẻ đẹp của Vịnh Hạ Long, Người nói: “Cảnh đẹp một người không thể truyền lại cho nhiều người. Tất cả các chú phải cùng Bác thưởng thức”. Lần khác, khi đến thăm Quảng Ninh, Bác hỏi đồng chí Chủ tịch tỉnh: “Chú có muốn làm giàu kiếm nhiều đô la không?” Vị lãnh đạo tỉnh còn chưa kịp hiểu ý, thì Người đã nói tiếp: “Chú dùng trực thăng, sáng chở khách ra đảo chơi, tối chở họ về thì tha hồ mà hốt bạc”. Là vị lãnh tụ có tầm nhìn chiến lược, Bác Hồ cũng đã sớm nhìn thấy tầm quan trọng của biển, đảo. Nhiều lần Người nói: Biển ta là “biển bạc”, biển nước ta dài và rộng chứa nhiều tài nguyên phong phú và quý hiếm là nguồn lực to lớn góp phần phát triển KT-XH. Vì vậy, Người khuyên mỗi người dân Việt Nam phải biết giữ gìn và bảo vệ biển, đảo của Tổ quốc. Người nhiều lần đến thăm công nhân và thủy thủ hàng hải, thăm đồng bào ngư dân đánh cá trên biển. Bác Hồ đã sớm có tư duy hướng ra biển và đặc biệt quan tâm đến biển, đảo. Cùng với tinh thần luôn luôn học hỏi, Người đã tiếp thu được nhiều tư tưởng mới của nhân loại giúp cho dân tộc Việt Nam thoát khỏi khủng hoảng về đường lối cách mạng. Đặc biệt, nhờ sự quan tâm sâu sát của Người mà chiến sỹ Hải quân nhân dân Việt Nam đã luôn nỗ lực, tự lực, tự cường, đoàn kết nhất trí, vượt qua mọi khó khăn gian khổ giữ vững chủ quyền biển, đảo. Suy ngẫm tư tưởng của Bác về biển, đảo để chúng ta có kinh nghiệm xây dựng kinh tế biển và thế trận chiến tranh nhân dân trên biển. Ngày nay, vấn đề chủ quyền biển Đông đang thu hút sự quan tâm của toàn xã hội, bảo vệ chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đang trở thành vân đề cấp bách đối với nước ta. Vì vậy, những kinh nghiệm của Người về biển, đảo càng có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp giữ vững an ninh, chủ quyền biên giới. Bảo vệ biển, đảo là công việc của toàn dân, toàn quân, đặc biệt là các chiến sỹ hải quân. Hơn lúc nào hết chúng ta cần thấm nhuần lời dạy lịch sử của Bác Hồ: “Bờ biển nước ta dài tươi đẹp, ta phải biết giữ gìn lấy nó” và quyết tâm phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về kinh tế biển, giàu lên từ biển, bảo đảm vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia trên biển, đảo./.

Bộ Quốc phòng ưu tiên chuyển đổi số toàn diện

Ngày 11/8, Bộ Quốc phòng tổ chức Hội nghị Ban soạn thảo Đề án chuyển đổi số trong Bộ Quốc phòng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 (Đề án). 

Để đẩy nhanh tiến trình chuyển đổi số trong Bộ Quốc phòng, ngày 12/7 vừa qua, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã ban hành quyết định thành lập Ban soạn thảo, Tổ biên tập Đề án. Đây là phiên họp đầu tiên của Ban soạn thảo nhằm đánh giá những kết quả đạt được trong chuyển đổi số của Bộ Quốc phòng thời gian qua, thảo luận, đóng góp các nội dung liên quan đến nhiệm vụ xây dựng dự thảo Đề án để sớm triển khai thực hiện trong thời gian tới.

Góp phần tích cực vào tiến trình hiện đại hóa quân đội

Thời gian qua, Bộ Tư lệnh 86 - Cơ quan Thường trực Ban soạn thảo và các thành viên Tổ biên tập đã phối hợp với các cơ quan, đơn vị xây dựng Đề án bảo đảm theo kế hoạch đề ra; tích cực triển khai khảo sát thực trạng, nhu cầu về chuyển đổi số trong toàn quân và xin ý kiến các cơ quan đầu ngành để bổ sung, hoàn thiện dự thảo Đề án. 

Thượng tướng Lê Huy Vịnh, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Trưởng Ban soạn thảo nhấn mạnh, chuyển đổi số là chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước, là quá trình tất yếu khách quan trong tiến trình phát triển của xã hội hiện nay.

Việc triển khai xây dựng Đề án là bước cụ thể hóa về thực hiện chủ trương chuyển đổi số mà Chính phủ đang tập trung đẩy mạnh, góp phần trực tiếp nâng cao hiệu quả các mặt công tác trong Bộ Quốc phòng, nhất là hoạt động quản lý, chỉ huy, chỉ đạo, điều hành. 

Việc sớm hoàn thiện, triển khai Đề án chuyển đổi số trong Bộ Quốc phòng sẽ góp phần tích cực vào tiến trình hiện đại hóa, giúp quân đội đủ sức hoàn thành nhiệm vụ được giao trong tình hình mới.

Xác định lộ trình chuyển đổi số cụ thể

Thượng tướng Lê Huy Vịnh yêu cầu nội dung Đề án cần thể hiện được tầm nhìn và các mục tiêu của Bộ Quốc phòng trong chuyển đổi số một cách toàn diện, xác định được lộ trình cụ thể, thứ tự ưu tiên các nhiệm vụ, bảo đảm tính khả thi cao. 

Đồng thời, phải tập trung giải quyết các tồn tại, vướng mắc trong toàn quân để thực hiện chuyển đổi số thành công. Trước mắt, cần ưu tiên các vấn đề về nâng cao nhận thức cho lãnh đạo, chỉ huy và toàn thể cán bộ, nhân viên các cơ quan, đơn vị; tập trung phát triển hạ tầng số, xây dựng dữ liệu số và bảo đảm an toàn thông tin phục vụ quản lý, điều hành, cải cách hành chính.

Các thành viên ban soạn thảo theo các nội dung được phân công cần tiếp tục phát huy tinh thần trách nhiệm, xây dựng dự thảo Đề án với chất lượng cao nhất nhằm thúc đẩy nhanh tiến trình chuyển đổi số trong Bộ Quốc phòng.

Nhật Nam

(Thông tin Chính phủ)

Nhân văn Hồ Chí Minh qua lời dạy "Thương binh tàn nhưng không phế"

 

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành tình yêu thương vô hạn và sự trân quý cho tất cả mọi người, đặc biệt là đối với thương binh, liệt sĩ.

Người là tấm gương sáng thể hiện lòng biết ơn sâu sắc đối với thương binh, liệt sĩ. Đó cũng chính là thể hiện rõ nét nhất về tính nhân bản, nhân đạo và nhân văn trong di sản tư tưởng của Người.

Năm 2022 chúng ta kỷ niệm 75 năm Ngày Thương binh - Liệt sĩ (27/7/1947 - 27/7/2022), cũng là 66 năm thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Thương binh tàn nhưng không phế", với lòng thành kính, tưởng nhớ và biết ơn sâu sắc sự cống hiến, hy sinh cao cả của các anh hùng, liệt sĩ, các thương, bệnh binh và những người lính. "Uống nước nhớ nguồn", "Đền ơn đáp nghĩa",... là truyền thống đạo lý, đạo nghĩa thiêng liêng của dân tộc Việt Nam, thôi thúc chúng ta hướng về các Bà mẹ Việt Nam anh hùng.

Kỷ niệm Ngày Thương binh - Liệt sĩ là dịp để chúng ta bày tỏ lòng biết ơn những người có công với nước, các gia đình có công với cách mạng. Kết tinh những tình cảm, những tấm lòng ấy của nhân dân ta là tình thương yêu rất đỗi chân thành, là sự chăm sóc ân cần, chu đáo, trọn nghĩa vẹn tình của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với thương binh, liệt sĩ, với gia đình và thân nhân của họ. Những giọt nước mắt của Người đọng trên mu bàn tay những người thương binh hỏng mắt khi Người tới thăm Trường thương binh hỏng mắt Hà Nội vào đêm giao thừa Tết Bính Thân năm 1956 đủ nói lên tất cả. Không còn ánh sáng từ đôi mắt để nhìn rõ khuôn mặt của Người, nhưng, những người thương binh hỏng mắt ấy đã nhìn và cảm nhận tình thương mênh mông của Người tự trái tim mình, lắng nghe để nuốt lấy từng lời nói hiền từ, ấm áp đầy cảm thông và chia sẻ của Người: "Thương binh tàn nhưng không phế".Bảy mươi lăm năm Ngày Thương binh - Liệt sĩ đưa ta về với những kỷ niệm sống động thuở ban đầu, một thời đạn bom bão lửa. Sự hồi tưởng này cho ta thêm một lần thấu hiểu và thấu cảm về Chủ tịch Hồ Chí Minh, về tư tưởng, tình cảm của Người với thương binh, liệt sĩ. Người từng nói, chỉ có đế quốc, thực dân là một lũ ác quỷ phải đánh đuổi nó đi, còn mọi người lao khổ cùng có chung cảnh đời và số phận, đều là bạn bè, đồng chí của nhau: "vàng đen trắng đỏ đều là anh em", "Đã là máu thì máu nào cũng đỏ", "Đã là nước mắt thì nước mắt nào cũng có vị mặn". Nhưng trong thế giới, còn chiến tranh xâm lược, còn kẻ thống trị và muôn nỗi thống khổ của nhân dân thì phải chiến đấu để bảo vệ lương tri và phẩm giá con người: "thà hy sinh tất cả nhất định không chịu làm nô lệ", "không có gì quý hơn độc lập tự do". Trong chiến tranh Vệ quốc vĩ đại, những mất mát hy sinh là khó tránh khỏi. Thương binh, liệt sĩ là nỗi đau chung không của riêng ai. Dẫu biết rằng "Quyết tử để tổ quốc quyết sinh", nhưng Hồ Chí Minh vẫn tìm mọi cách để tránh đổ máu, ít thương vong nhất, còn khi buộc phải cầm súng chiến đấu, thì thương binh, liệt sĩ sẽ nhiều thêm, Người không khỏi đau đớn như đứt từng khúc ruột.

Trong các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, từ năm 1946 cho đến khi qua đời, Người đã bao lần viết thư thăm hỏi, an ủi và động viên, kêu gọi đồng bào cả nước giúp đỡ thương binh và các gia đình liệt sĩ. Sự săn sóc ân cần và tình thương yêu của Người là nguồn động viên to lớn đối với thương, bệnh binh và thân nhân các liệt sĩ. Đó còn là động viên tinh thần yêu nước, đoàn kết, ra sức thi đua, huy động mọi khả năng, sức lực của toàn dân làm cho kháng chiến tất thắng, kiến quốc tất thành, phấn đấu cho độc lập của Tổ quốc, tự do cho dân tộc và hạnh phúc của nhân dân. Theo Người, đó là cách thiết thực nhất để đền ơn đáp nghĩa đối với thương binh, liệt sĩ. Những ngày đầu xây dựng chính thể Cộng hòa dân chủ muôn vàn khó khăn, thù trong giặc ngoài, vận nước ngàn cân treo sợi tóc. Toàn quốc kháng chiến bùng nổ, Người ra lời kêu gọi đồng bào chiến sĩ cả nước đồng lòng chống giặc để bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc. Lời kêu gọi của Người như chuyển đi một thông điệp lịch sử, quyết giành độc lập, tự do cho Tổ quốc và nhân dân, thà hy sinh tất cả quyết không chịu làm nô lệ. Ngày 07/11/1946, Người thông báo một quyết định quan trọng thấm đẫm tình thương yêu: "Vì muốn thay mặt Tổ quốc, toàn thể đồng bào và Chính phủ cảm ơn những chiến sĩ đã hy sinh tính mệnh cho nền Tự do, Độc lập và Thống nhất của nước nhà, hoặc trong thời kỳ cách mệnh, hoặc trong thời kỳ kháng chiến. Tôi gửi lời chào thân ái cho gia đình các liệt sĩ đó, và tôi nhận con các liệt sĩ làm con nuôi của tôi"(1).

Đặc biệt, bức thư đầy xúc động Người viết tháng 01/1947 gửi Bác sĩ Vũ Đình Tụng, một nhân sĩ, trí thức công giáo, Bộ trưởng Bộ Cứu tế xã hội, chia buồn về việc người con trai của Bộ trưởng đã hy sinh: "Tôi được báo cáo rằng: con giai ngài đã oanh liệt hy sinh cho Tổ quốc. Ngài biết rằng tôi không có gia đình, cũng không có con cái. Nước Việt Nam là gia đình của tôi. Tất cả thanh niên Việt Nam là con cháu của tôi. Mất một thanh niên thì hình như tôi đứt một đoạn ruột,… Ngài đã đem món của quý báu nhất là con của mình, sẵn sàng hiến cho Tổ quốc. Từ đây chắc ngài sẽ thêm ra sức giúp việc kháng chiến để bảo vệ nước nhà thì linh hồn cháu ở trên trời cũng bằng lòng và sung sướng. Tôi thay mặt Chính phủ cảm ơn ngài, và gửi ngài lời chào thân ái và quyết thắng"(2). Bức thư này là một điển hình cho tình cảm thân thiết, máu thịt của Người đối với thương binh, liệt sĩ và gia đình họ. Đau đớn mà không ủy mị, tôn vinh sự hy sinh cao quý vì Tổ quốc của các liệt sĩ; đồng thời, nêu cao lòng tin và đức tin vào sự nghiệp kháng chiến, nói rõ đồng bào và Tổ quốc sẽ mãi khắc sâu công lao của các liệt sĩ và không bao giờ quên ơn họ.

Ngày 17/7/1947, Người có thư gửi Ban Thường trực của Ban Tổ chức "Ngày thương binh toàn quốc" nhằm vận động lấy ngày 27/7 hằng năm trở thành Ngày Thương binh - Liệt sĩ. Người viết : "Thương binh là những người đã hy sinh gia đình, hy sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ đồng bào. Vì lợi ích của Tổ quốc, của đồng bào, mà các đồng chí chịu ốm yếu, què quặt. Vì vậy Tổ quốc, đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy"(3). Người đề nghị và tin tưởng "Bây giờ chống nạn ngoại xâm, tôi chắc đồng bào ta sẽ vui lòng vài ba tháng nhịn ăn một bữa để giúp đỡ chiến sĩ bị thương. Ngày 27/7 là một dịp cho đồng bào ta tỏ lòng hiếu nghĩa bác ái, là tỏ ý yêu mến thương binh,… Luôn luôn tin vào lòng nhường cơm, sẻ áo của đồng bào ta, tôi chắc rằng "Ngày thương binh" sẽ có kết quả mỹ mãn. Tôi xin xung phong gửi một chiếc áo lót lụa của chị em phụ nữ đã biếu tôi, một tháng lương của tôi, một bữa ăn của tôi, và của các nhân viên tại Phủ Chủ tịch, cộng là một nghìn một trăm hai mươi bảy đồng (1.127đ.00)"(4).

Tháng 7/1948, trong Thư gửi anh em thương và bệnh binh, Người động viên, an ủi và căn dặn anh em, nên một mặt nuôi lại sức khỏe, một mặt cố gắng học tập. Khi đã khôi phục sức khỏe, các đồng chí sẽ hăng hái tham gia công tác, tăng gia sản xuất để giúp ích cho Tổ quốc cũng như các đồng chí đã anh dũng giữ gìn non sông, các đồng chí sẽ trở nên người công dân kiểu mẫu ở hậu phương cũng như các đồng chí đã làm người chiến sĩ kiểu mẫu ở ngoài mặt trận.

Tháng 09/1951, Người viết Thư gửi anh em thương, bệnh binh trại dệt chiếu (Tuyên Quang)(5) cám ơn đã gửi biếu mình bốn chiếc chiếu và mong anh em mạnh khỏe, cố gắng, tiến bộ mãi. Trong thư Người ân cần hỏi thăm anh em thương, bệnh binh mất bao nhiêu thời gian, công sức để dệt được một chiếc chiếu và nghề dệt chiếu có đủ ăn đủ mặc không. Và Người gửi biếu lại anh em thương, bệnh binh bộ áo mà chị em phụ nữ biếu mình, để làm giải thưởng thi đua. ­­­­­­­­Với bức thư này, đã minh chứng lời Người "Thương binh tàn mà không phế". Đặc biệt, ngày 05/06/1952, Người còn viết trong loạt bài tuyên dương công trạng các anh hùng, chiến sĩ thi đua, có bài viết cảm động về người thương binh trở thành anh hùng lao động số một, Ngô Gia Khảm - người đúc quả lựu đạn đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam - bị thương ba lần vì cứu nhà máy, lần thứ ba hỏng cả mắt, tay, mũi, miệng, què cả hai tay vẫn không nản chí, đêm ngày cố gắng tiến bộ, không sợ khổ, vượt mọi khó khăn, kiên quyết vượt mức nhiệm vụ. Một lần nữa minh chứng cho câu nói của Người "Thương binh tàn mà không phế".

Ngày 27/7/1959, trong thư gửi anh em thương binh và gia đình liệt sĩ, Người chúc các gia đình liệt sĩ trở thành gia đình cách mạng gương mẫu. Đó là sự tôn vinh và tình cảm cao quý của Người. Người còn khen ngợi những gương thương binh điển hình: đồng chí Lê Danh ở tập đoàn Sao Mai (Hải Dương), Lưu Văn Bổng ở tập đoàn Quang Vinh (Quảng Bình) được thưởng Huân chương và những thương binh cụt tay, chân vẫn có thành tích sản xuất, được tín nhiệm bầu làm Chủ tịch xã, chủ nhiệm hợp tác xã ở Thái Bình, Hòa Bình, Thanh Hóa, v.v. Đủ thấy sự quan tâm tỉ mỉ, sâu sắc và sự tin cậy, nâng niu giá trị con người mà Người dành cho những "Thương binh tàn nhưng không phế".

Người cũng ân cần nhắc nhở anh em thương binh về sống với dân không nên có những đòi hỏi quá đáng, không được tỏ ra công thần vì có thành tích chiến đấu. Phải luôn gần dân, tôn trọng nhân dân, khiêm tốn học hỏi, cố gắng tùy theo sức của mình mà tham gia công tác sản xuất, công tác xã hội ở địa phương, luôn phấn đấu giữ vững truyền thống "Bộ đội Cụ Hồ", đoàn kết thương yêu giúp đỡ lẫn nhau. Những anh em an dưỡng, điều dưỡng ở các trại vì thương tật nặng hãy yên tâm điều trị, không được bi quan chán nản. Người cũng nhiều lần gửi thư cho Bác sĩ, Bộ trưởng Vũ Đình Tụng vào Ngày Thương binh - Liệt sĩ hằng năm, đề nghị chuyển một tháng lương của mình, cùng áo và khăn tay mà đồng bào gửi biếu để làm quà cho thương binh. Người còn gợi ý về việc động viên đồng bào đón thương binh về xã để nuôi dưỡng, trích một phần đất công hoặc mượn đất của những điền chủ hảo tâm, hoặc vỡ đất hoang, tổ chức sản xuất, lấy lương thực, thực phẩm để đảm bảo đời sống cho thương binh. Đây là nghĩa vụ đền ơn đáp nghĩa chứ không phải "làm phúc"; thể hiện sự chu đáo, ân tình và hết sức tỉ mỉ, cụ thể trong tư duy lãnh đạo, quản lý của Người mà cũng từ đó ta thấy thấm thía tình cảm tình yêu thương của Người dành cho thương binh, liệt sĩ.

Trong những ngày ốm nặng, trên giường bệnh, anh em phục vụ đem quạt máy vào phòng, nhưng Người nói đem quạt này cho các chú thương binh trong trại điều dưỡng, nơi đó cần hơn, ở đây mình có gió mát của cây vườn là được rồi. Từ những điều bình dị ấy ta càng cảm nhận sâu thêm tầm vóc vĩ đại và hơn tất cả là tình thương yêu của Người dành cho mỗi chúng ta, đặc biệt là đối với thương binh, liệt sĩ.

Trên đây là một vài ví dụ trong vô số việc làm thể hiện tình cảm cao quý của Người đối với thương binh, liệt sĩ. Để tư tưởng nhân văn cao đẹp của Người và chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước đối với thương binh, gia đình liệt sĩ và người có công với cách mạng được thực hiện tốt hơn, cổ vũ, động viên thương binh, gia đình liệt sĩ và người có công với cách mạng tiếp tục cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân cần thực hiện tốt một số nội dung sau:

Trước hết, cần tích cực tuyên truyền, giáo dục sâu rộng về giá trị, tư tưởng nhân văn cao đẹp của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với thương binh, gia đình liệt sĩ. Cần làm cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta nhận thức sâu sắc, tích cực làm theo tấm gương Hồ Chủ tịch, luôn thực hiện tốt chính sách ưu đãi đối với người có công, là tình cảm thiêng liêng, trách nhiệm cao cả của thế hệ hôm nay, vừa là yếu tố bảo đảm thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, thể hiện sâu sắc tính ưu việt và bản chất tốt đẹp của chế độ ta, góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước. Đồng thời, tuyên truyền cho các thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ thấm nhuần lời dạy của Bác Hồ, như lời động viên, khích lệ, tích cực tham gia các hoạt động xã hội, phát triển kinh tế, mở rộng sản xuất kinh doanh; góp phần ổn định và nâng cao đời sống, xứng đáng với lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh "Thương binh tàn nhưng không phế".

Thứ hai, Đảng, Nhà nước tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tiếp tục hoàn thiện hệ thống chủ trương, chính sách, pháp luật đối với thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, người có công và triển khai thực hiện hiệu quả. Trong đó, cần quan tâm hơn đối với thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ có hoàn cảnh khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ địa cách mạng, không chỉ dịp lễ, Tết, mà trở thành việc làm thường xuyên, hằng ngày. Hiện nay, một cách thiết thực nhất mà cũng là quan trọng nhất để không phụ công lao cống hiến, hy sinh của các thương binh, liệt sĩ là tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, sao cho Đảng ta thực sự xứng đáng là người lãnh đạo, cầm quyền, thật sự trong sạch, vững mạnh; cán bộ, đảng viên thật sự là người đầy tớ trung thành, công bộc tận tụy của nhân dân, luôn được nhân dân tin, yêu.

Thứ ba, chăm lo giáo dục truyền thống, đạo đức cách mạng cho thế hệ trẻ. Đào tạo, bồi dưỡng thanh niên là sự chủ động chuẩn bị cho tương lai của dân tộc, như Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định, đây là một công việc vô cùng quan trọng và cần thiết. Trong đó, giáo dục truyền thống, đạo đức cho thanh niên giữ vai trò hàng đầu, nhất là làm cho thế hệ trẻ thấy được công lao to lớn của thương binh, liệt sĩ, người có công với cách mạng với nền độc lập của dân tộc; về truyền thống, đạo lý "Uống nước nhớ nguồn" của dân tộc, công tác chăm sóc thương binh, gia đình chính sách và người có công của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội. Chúng ta phải nghiêm túc thấy rằng, những hạn chế, lệch lạc trong lối sống của thanh niên hiện nay có một phần trách nhiệm rất lớn từ gia đình đến nhà trường và xã hội, chưa làm tốt công tác giáo dục, rèn luyện thanh niên. Do đó, cấp ủy, chính quyền các cấp, các ngành, tổ chức, đoàn thể phải tiếp tục quán triệt sâu sắc các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, nâng cao nhận thức, trách nhiệm, thường xuyên làm tốt việc giáo dục, rèn luyện cho thanh niên; làm cho thế hệ thanh niên Việt Nam giàu lòng yêu nước, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức cách mạng, ý thức chấp hành pháp luật, sống có văn hóa, vì cộng đồng; có năng lực, tri thức, kỹ năng và tác phong công nghiệp trong lao động, trở thành những công dân tốt của đất nước. Đồng thời, làm cho họ nhận thức sâu sắc, tích cực học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, hưởng ứng, thực hiện tốt các hoạt động "Đền ơn đáp nghĩa",… chăm sóc, giúp đỡ thương, bệnh binh nặng, bố mẹ liệt sĩ già yếu, cô đơn, phụng dưỡng Bà mẹ Việt Nam anh hùng, vừa là đạo lý, vừa là bổn phận, trách nhiệm, việc làm thiết thực kỷ niệm Ngày Thương binh - Liệt sĩ của mỗi người Việt Nam chúng ta. 

_______________

1 - Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 4, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 486.

2 - Sđd, Tập 5, tr. 49.

3 - Sđd, tr. 204.

4 - Sđd, tr. 204.

5 - Sđd, Tập 7, tr. 200. 

Theo tapchiqptd.vn

Việt Nam nêu lập trường về vấn đề Đài Loan

(Dân trí) - "Lập trường của Việt Nam về vấn đề Đài Loan là nhất quán. Trên cơ sở kiên trì nguyên tắc một Trung Quốc, Việt Nam mong muốn các bên kiềm chế, không làm gia tăng căng thẳng" - bà Lê Thị Thu Hằng nói.

Chiều 11/8, tại cuộc họp báo thường kỳ Bộ Ngoại giao, các cơ quan truyền thông quan tâm đặc biệt tới vấn đề Đài Loan và quan hệ Mỹ - Trung trở nên căng thẳng sau chuyến thăm của Chủ tịch Hạ viện Mỹ Nancy Pelosi tới hòn đảo này từ ngày 2-3/8.

Thông tin về vấn đề này, Người phát ngôn Lê Thị Thu Hằng nhấn mạnh, Việt Nam quan tâm và theo dõi sát tình hình tại eo biển Đài Loan hiện nay. Việt Nam cho rằng, hòa bình, ổn định và hợp tác ở eo biển có ý nghĩa quan trọng đối với khu vực và thế giới trong bối cảnh khu vực và quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp như hiện nay.

"Lập trường của Việt Nam về vấn đề Đài Loan là nhất quán, được thể hiện trong các văn kiện chung nhân các chuyến thăm cấp cao giữa Việt Nam và Trung Quốc. Trên cơ sở kiên trì nguyên tắc một Trung Quốc, Việt Nam mong muốn các bên liên quan kiềm chế, không làm gia tăng căng thẳng tình hình eo biển Đài Loan, đóng góp tích cực vào việc duy trì hòa bình ổn định thúc đẩy hợp tác và phát triển của khu vực cũng như trên toàn thế giới" - bà Hằng khẳng định.

Trước tình hình quan hệ Mỹ - Trung trở nên căng thẳng sau chuyến thăm Đài Loan của Chủ tịch Hạ viện Mỹ Nancy Pelosi, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao cũng nêu rõ quan điểm của Việt Nam.

Theo bà Hằng, Mỹ và Trung Quốc đều là các cường quốc và đối tác quan trọng hàng đầu của Việt Nam. Quan hệ hai nước có ảnh hưởng đến hòa bình, ổn định và thịnh vượng trên phạm vi toàn cầu.

"Việt Nam mong muốn hai nước duy trì quan hệ lành mạnh, ổn định, giải quyết mọi bất đồng thông qua đối thoại dựa trên luật pháp quốc tế. Về phần mình, Việt Nam sẽ tiếp tục thúc đẩy quan hệ với hai nước trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, tự chủ, tôn trọng lẫn nhau, hợp tác cùng có lợi, vì lợi ích của người dân, vì hòa bình, ổn định, thịnh vượng của khu vực cũng như trên thế giới" - người phát ngôn Bộ Ngoại giao nêu rõ.

Vấn đề Đài Loan trở nên căng thẳng khi Chủ tịch Hạ viện Mỹ Nancy Pelosi tới thăm Đài Loan và có hoạt động tiếp xúc với lãnh đạo hòn đảo Thái Anh Văn, làm việc với cơ quan lập pháp của Đài Loan.

Bộ Ngoại giao Trung Quốc cáo buộc chuyến thăm Đài Loan của bà Pelosi đã vi phạm chính sách "một Trung Quốc" và cảnh báo "đây là hành động rất nguy hiểm". Bắc Kinh cho rằng, Mỹ muốn kiềm chế Trung Quốc với sự hỗ trợ của Đài Loan.

Từ ngày 4-7/8, Trung Quốc tiến hành cuộc tập trận chưa từng có tiền lệ tại 6 khu vực xung quanh đảo Đài Loan. Động thái này của Trung Quốc nhằm đáp trả chuyến thăm Đài Loan của Chủ tịch Hạ viện Mỹ Nancy Pelosi. Cuộc tập trận rầm rộ gồm nhiều nội dung khác nhau, trong đó có phóng thử tên lửa đạn đạo, mô phỏng tấn công trên không và trên biển.

Trong một thông báo phát đi ngày 10/8, Bộ tư lệnh Chiến khu miền Đông của quân đội Trung Quốc cho biết, các hoạt động diễn tập chung xung quanh Đài Loan đã hoàn tất nhiều nhiệm vụ và kiểm tra hiệu quả năng lực tác chiến hỗn hợp của binh sĩ. Quân đội nước này sẽ theo sát những biến động tình hình ở eo biển Đài Loan, tiếp tục công tác huấn luyện và sẵn sàng tác chiến, tổ chức các đợt tuần tra định kỳ theo hướng eo biển Đài Loan và quyết tâm bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ.

Cũng trong ngày 10/8, Bắc Kinh đã ra Sách trắng về các vấn đề Đài Loan, trong đó khẳng định hòn đảo đã thuộc về Trung Quốc từ thời cổ đại và tuyên bố này có cơ sở đúng đắn về lịch sử và luật học.

Trong khi Trung Quốc thông báo ngừng tập trận thì Đài Loan vẫn duy trì tình trạng sẵn sàng chiến đấu.

Nguồn: Dân Trí

VẪN LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC CỦA CÁC THẾ LỰC PHẢN ĐỘNG VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐỔI MỚI KINH TẾ VÀ ĐỔI MỚI CHÍNH TRỊ CỦA ĐẢNG TA

 Công cuộc đổi mới của Việt Nam đã diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng - an ninh, đối ngoại,... trong một tổng thể thống nhất. Mặc dù, bước đi của đổi mới là vấn đề vô cùng nhạy cảm và hệ trọng. Theo đó, quan điểm của Đảng ta là đổi mới toàn diện, nhưng đặt trọng tâm vào đâu, lĩnh vực nào đi trước, lĩnh vực nào đi sau,... để bảo đảm cho đổi mới vận hành đúng hướng, giành thắng lợi, đòi hỏi một tư duy lý luận sâu sắc và nghệ thuật lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Đứng vững trên lập trường, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Đảng ta đã cân nhắc cẩn trọng, lựa chọn và ưu tiên tập trung giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Đảm bảo, xuyên suốt quá trình đó, Đảng ta luôn nhấn mạnh, quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là một “nội dung cốt lõi quan trọng trong các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng ta từ khi đổi mới đến nay”.

Trên phương diện tổng thể, “Đảng ta bắt đầu công cuộc đổi mới từ đổi mới về tư duy chính trị trong việc hoạch định đường lối và các chính sách đối nội, đối ngoại. Không có sự đổi mới đó thì không có mọi sự đổi mới khác”. Mặt khác, Đảng cũng nhấn mạnh: “Đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, chính là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm cho công cuộc đổi mới nói chung đi tới thắng lợi”. Đó còn là ban hành Hiến pháp mới (năm 1992 và năm 2013), hàng trăm đạo luật, pháp lệnh bảo đảm cho đổi mới kinh tế; đổi mới tổ chức và hoạt động của Nhà nước, cả về lập pháp, hành pháp và tư pháp; phát huy tốt hơn vai trò của nhân dân, thực hành dân chủ về chính trị, huy động nhân dân vào công tác quản lý nhà nước, giám sát và phản biện xã hội. Những đổi mới đó chính là đổi mới chính trị. Không có những đổi mới chính trị đồng bộ đó thì không thể có thành tựu đổi mới kinh tế như ngày nay. Song, đổi mới chính trị không có nghĩa là thay đổi chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa, đúng như Đảng ta đã xác định rõ: “Đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị không phải là hạ thấp hoặc thay đổi bản chất của nó, mà là nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân”. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định trong bài phát biểu bế mạc Hội nghị lần thứ mười Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI (tháng 1-2015): Đổi mới chính trị không phải là làm thay đổi chế độ chính trị, thay đổi bản chất của Đảng ta, Nhà nước ta mà là đổi mới cơ chế, chính sách, tổ chức bộ máy, kiện toàn nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đổi mới phương thức công tác, lề lối làm việc, cải cách hành chính, chống tệ quan liêu, lãng phí, tham nhũng gây phiền hà cho dân, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của các cơ quan trong hệ thống chính trị, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh, giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia, dân tộc.

Suy cho cùng, thực chất của đổi mới chính trị là đổi mới tư duy nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; đổi mới cơ chế, chính sách mà hạt nhân cơ bản là giải quyết hợp lý, hài hòa quan hệ lợi ích; đổi mới cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành của hệ thống chính trị để xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa ngày càng tươi đẹp, thực hiện tốt nền dân chủ xã hội chủ nghĩa nhằm phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế - xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Điều đó một lần nữa khẳng định, công cuộc đổi mới ở Việt Nam vừa có đổi mới kinh tế, vừa kết hợp đổi mới chính trị.

Thực tiễn lịch sử Việt Nam đã minh chứng, xét về mặt kinh tế, không hề có cơ sở để nảy sinh chế độ chính trị đa nguyên. Vì, trong các thành phần kinh tế ở nước ta, kinh tế tư bản (nhất là kinh tế tư bản tư nhân) chưa bao giờ giữ được vị trí thống trị. Chế độ phong kiến ở Việt Nam tồn tại hàng nghìn năm cũng không tạo ra được thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa trong lòng nó. Kinh tế tư bản chủ nghĩa kiểu thực dân ở nước ta được du nhập cùng với chế độ thuộc địa trước đây. Do đó, những nhà tư sản đầu tiên là tư sản Pháp, sau đó dần dần mới xuất hiện các nhà tư sản người Việt. Tuy nhiên, giai cấp tư sản này ngay khi mới hình thành đã bị tư sản Pháp chèn ép, cùng với đó là hoàn cảnh của một nước thuộc địa nửa phong kiến, nên giai cấp tư sản Việt Nam bị phân hóa thành hai bộ phận: tư sản mại bản và tư sản dân tộc.

Sau gần 40 năm đổi mới, gắn với nền kinh tế nhiều thành phần, ở Việt Nam đã và đang định hình khu vực kinh tế tư nhân ngày càng lớn mạnh, được Đảng và Nhà nước tôn trọng, khuyến khích phát triển, đem lại nhiều kết quả ích nước, lợi nhà, nhưng phần lớn vẫn là doanh nghiệp vừa và nhỏ, thậm chí siêu nhỏ. Đội ngũ doanh nhân ngày càng đông đảo, có vai trò quan trọng cho phát triển kinh tế đất nước. Chúng ta  cần thấy rằng, trong điều kiện có Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, chính quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, thì mối quan hệ kinh tế, quan hệ giai cấp (kể cả quan hệ giữa chủ sử dụng lao động và người lao động trong doanh nghiệp tư nhân) không giống như trong chế độ do giai cấp bóc lột nắm chính quyền. Bằng hàng loạt các công cụ trong tay của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, từ hệ thống pháp luật, chính sách (quy hoạch, thuế, tín dụng, thương mại, đầu tư...), kinh tế nhà nước gắn với nguồn lực nhà nước (đất đai, đầu tư công, vốn trong doanh nghiệp nhà nước) đến các biện pháp hành chính, tuyên truyền, giáo dục, vận động nhân dân,... bảo đảm phát huy mặt tích cực, giảm thiểu mặt tiêu cực của kinh tế tư nhân, giữ vững định hướng đóng vai trò quyết định bảo đảm cho sự thắng thế của yếu tố xã hội chủ nghĩa đối với yếu tố phi xã hội chủ nghĩa, trong đó có yếu tố tư bản chủ nghĩa, vốn vẫn tồn tại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đấu tranh rất khó khăn, phức tạp.

Chúng ta luôn khẳng định rằng, thực hiện đổi mới nhưng kiên trì mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội đích thực. Đổi mới để có chủ nghĩa xã hội nhiều hơn chứ không phải quay lại chủ nghĩa tư bản. Kinh tế thị trường tự do, nhà nước pháp quyền (tư sản) và đa nguyên chính trị là đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa tư bản hiện đại. Chúng ta không đi theo hướng đó vì nó không phù hợp và không đáp ứng nguyện vọng của cả dân tộc Việt Nam. Chúng ta thực hiện kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, gắn với cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”... Với những cơ sở lý luận và thực tiễn sinh động, đầy thuyết phục, có thể nhất quán khẳng định rằng, chúng ta thực hiện kinh tế đa thành phần nhưng vẫn bảo đảm nhất nguyên về chính trị, giữ vững vai trò và sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam là hoàn toàn hợp lý và là bước đi đúng đắn.

Hơn một phần 3 thế kỷ, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng “Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới. Như lời đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã từng nói: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Thành tựu đó là kết quả của nhiều nguyên nhân, nhiều nhân tố, nhưng giữ vai trò chủ đạo, có ý nghĩa quyết định là sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong đó, nổi bật là sự sáng tạo và độc đáo của Đảng về giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị.

Tuy nhiên, vẫn còn một số hạn chế nhất định trong quá trình nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta, song nếu chỉ nhìn phiến diện một chiều vào những khiếm khuyết (mặt thứ yếu, không cơ bản) của vấn đề này mà lại vội vàng quy chụp cho rằng, ở Việt Nam chỉ có đổi mới kinh tế, không có đổi mới chính trị; hoặc đổi mới chính trị “lệch pha” so với đổi mới kinh tế,... thì quả là một sự “quy chụp” lố bịch; một sự xuyên tạc, bóp méo trắng trợn, thô thiển thiếu khách quan của các thế lực thù địch. Bởi vì, sự kết hợp chặt chẽ, nhuần nhuyễn giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, sự thống nhất biện chứng giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là nét “độc đáo” riêng có của Việt Nam, hoàn toàn khác với Liên Xô, với các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu trước đây, và Trung Quốc hiện nay.

Ngay trong bước đầu của cải tổ, Đảng Cộng sản Liên Xô đã phạm phải những sai lầm, đi vào cải tổ chính trị vô nguyên tắc, nêu ra “dân chủ hóa”, “công khai hóa”, thúc đẩy vô chính phủ, làm xuất hiện các lực lượng đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, tách Đảng khỏi Nhà nước, tách Nhà nước ra khỏi Đảng. Xét đến cùng, đây là sự vô hiệu hóa Đảng, nên đã dẫn đến tan vỡ Đảng, sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa và sự tan rã của Liên bang Xô-viết. 

Còn đối với chúng ta, ngay từ khi đề ra đường lối đổi mới cũng như trong quá trình lãnh đạo công cuộc đổi mới, Đảng ta xác định: “Đồng thời với đổi mới kinh tế, phải từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị”; “Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị”; “Đổi mới chính trị phải đồng bộ với đổi mới kinh tế theo lộ trình thích hợp”... Điều đó có nghĩa, ở Việt Nam, đổi mới kinh tế không phải là đổi mới một cách tùy tiện, vô nguyên tắc mà theo một định hướng chính trị nhất định, một cơ sở khoa học đầy đủ. Đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị vừa là cơ sở của nhau, vừa là điều kiện để triển khai sâu rộng và vững chắc công cuộc đổi mới trên các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, đối ngoại, quốc phòng - an ninh,... Đổi mới, phát triển kinh tế tạo ra môi trường và điều kiện để củng cố cơ sở kinh tế cho đổi mới chính trị, là nhân tố suy đến cùng quyết định sự ổn định chính trị - xã hội. Ngược lại, đổi mới chính trị tạo ra cơ sở chính trị - pháp lý cho sự phát triển kinh tế; đồng thời, tạo động lực và gia tăng sức mạnh tổng hợp để phát triển kinh tế.

Bằng những luận cứ, cơ sở lý luận và thực tiễn nói trên đã minh chứng một cách rõ ràng rằng, đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam luôn song hành, hỗ trợ, bổ sung cho nhau; làm cơ sở, tiền đề, điều kiện của nhau; giữa hai mặt luôn có mối quan hệ biện chứng và thống nhất hữu cơ với nhau, không như các luận điệu xuyên tạc, bóp méo sự thật của các thế lực thù địch./.

ĐẤU TRANH PHẢN BÁC CÁC LUẬN ĐIỆU SAI TRÁI, XUYÊN TẠC CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH, PHẢN ĐỘNG VỀ THÀNH TỰU TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI CỦA VIỆT NAM

 Công cuộc đổi mới của đất nước Việt Nam trong gần 40 năm qua, do Đảng khởi xướng và lãnh đạo không những được toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta hào hứng đón nhận, mà còn được cộng động quốc tế đánh giá rất cao. Vậy mà, vẫn có một số phần tử xấu cho rằng, đổi mới đến nay đã hết động lực, vậy nên từ sau Đại hội XIII không đổi mới nữa, hoặc nếu có đổi mới thì chính là thay đổi về chế độ chính trị mà thôi. Luận điệu xuyên tạc này hết sức phản động và nguy hiểm, chống phá trắng trợn của các thế lực thù địch, muốn chèo lái con thuyền Việt Nam đi theo hướng khác. Nhưng chúng ta có đủ bằng chứng để bác bỏ luận điệu sai trái đó.

Điều đáng nói, các thế lực thù địch chúng không biết rằng; Mục tiêu nhất quán của Đảng và nhân dân ta là đấu tranh giành độc lập, tự do, thống nhất đất nước, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sợi chỉ đỏ xuyên suốt của cách mạng Việt Nam kể từ khi có Đảng. Trong gần một thế kỷ đấu tranh, lao động, sáng tạo, Đảng và nhân dân ta đã từng bước nhận thức đầy đủ hơn, định hình rõ ràng hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Chúng ta thực hiện mục tiêu, lý tưởng đó trong bối cảnh gặp nhiều khó khăn, thách thức. Song dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng đã đưa đất nước ta vượt qua khó khăn, đề ra Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và khởi xướng đường lối đổi mới, mở cửa hội nhập với thế giới mà thành quả to lớn đó thì mọi người dân đều thấy được.

Đổi mới là một cuộc vận động mang tính cách mạng, khoa học, thay cái cũ bằng cái mới tốt hơn. Không phải bây giờ, mà trong suốt quá trình cách mạng, chúng ta luôn thực hiện; song, công cuộc đổi mới lần này mang tính toàn diện, tổng thể, sâu sắc, liên tục, được chuẩn bị bài bản, theo cách thức của ta và cân nhắc kỹ lưỡng từng bước đi cụ thể. Đổi mới đồng bộ, hài hòa giữa kinh tế và chính trị, với mục tiêu giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đổi mới để phát triển, đồng nghĩa với phát triển, nhưng là sự phát triển trong thế ổn định, theo đúng định hướng và con đường chúng ta đã chọn.

Về động lực, nguồn lực của đổi mới. Nếu quan niệm động lực, nguồn lực là những yếu tố tạo nên sức mạnh thúc đẩy sự phát triển, thì động lực của đổi mới bao gồm nhiều yếu tố mà chúng ta có thể nhận biết được.

Một là, yếu tố khơi nguồn động lực của đổi mới chính là việc định hướng, phát động đúng thời điểm. Chúng ta xác định đổi mới phải theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là định hướng đúng vừa hợp thời, hợp quy luật, hợp lòng dân, vừa có sự chắc chắn và niềm tin tưởng vào đó.

Hai là, những thành quả của sự nghiệp đổi mới gần 40 năm qua tiếp thêm luồng sinh khí mới, tăng thêm động lực, tạo cho đất nước ta thế mới, lực mới, gia tốc mới. Thế mới, lực mới là tổng hợp những thành tựu to lớn về kinh tế - xã hội, là kết quả của việc phát triển mọi mặt với sự thông thoáng trong nước và mở rộng quan hệ hợp tác với bên ngoài. Gia tốc mới là khả năng vượt trội, là độ tăng trưởng liên tục ở mức khá cao, tạo đà cho giai đoạn tiếp theo. Cả ba vấn đề này mới tạo ra tầm vóc và khả năng mới của đất nước. Đó không chỉ là khả năng đất nước vươn tầm mà còn là năng lực mới mạnh mẽ để tiếp tục thúc đẩy sự nghiệp đổi mới phát triển mạnh mẽ hơn.

Ba là, động lực quan trọng phục vụ và thúc đẩy công cuộc đổi mới là tổng hợp các nguồn lực trong nước, bao gồm không chỉ có vốn, tài sản đã tích lũy được mà còn là tài nguyên chưa đưa vào sử dụng, là lợi thế về địa kinh tế, địa chính trị và quan trọng hơn hết là nguồn lực con người, bao gồm cả sức lao động trí tuệ và tinh thần gắn với truyền thống văn hóa dân tộc. Trong các nguồn lực đó, nguồn lực về tài nguyên là khá phong phú; nguồn lực về đất đai, vị trí địa lý là khá thuận lợi; nguồn lực về truyền thống là sâu sắc, đặc thù; nguồn lực về con người và trí tuệ vô cùng to lớn.

Bốn là, những nguồn lực từ bên ngoài là yếu tố quan trọng; nếu biết cách tranh thủ sẽ tạo nên động lực cho công cuộc đổi mới đất nước. Bao gồm: vốn, kỹ thuật - công nghệ, kinh nghiệm quản lý, chất xám, tinh hoa văn hóa nhân loại. Trên cơ sở phải phát huy mọi nguồn lực trong nước, chúng ta có đầy đủ điều kiện để có thể thu hút nguồn lực bên ngoài. Với việc mở rộng nhiều hình thức, có bước đi, biện pháp và chính sách ưu đãi thích hợp, sẽ khuyến khích mạnh mẽ việc hợp tác về kinh tế, văn hóa, khoa học, kỹ thuật, công nghệ. Đặc biệt là thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài trên cơ sở đôi bên cùng có lợi.

Năm là, sự phù hợp giữa “ý Đảng” và “lòng dân” là động lực mang tính quyết định đối với sự nghiệp đổi mới của đất nước. Động lực đó bắt nguồn từ năng lực sáng tạo, bản lĩnh trí tuệ của Đảng và nhân dân ta, thể hiện ở trình độ quyết đoán, nắm bắt những yếu tố và những vấn đề của thời cuộc, dự kiến đúng tình huống, có chiến lược, sách lược rõ ràng, sẵn sàng tạo lập và nắm bắt thời cơ, khắc phục nguy cơ, vượt qua thách thức đưa đất nước đi lên giành được nhiều thành tựu quan trọng.

Thành tựu của sự nghiệp trong công cuộc đổi mới đất nước của Việt Nam sáng tỏ như ban ngày, không thế lực đen tối nào có thể phủ nhận được. Trong công cuộc đổi mới này; Đảng và nhân dân ta không chỉ đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử, mà còn tiếp tục được đẩy mạnh với những nguồn lực phong phú, hết sức to lớn, trong đó có những nguồn lực không bao giờ cạn. Hành trình của sự nghiệp cách mạng và công cuộc đổi mới phù hợp “ý Đảng” và “lòng dân” đã và đang kết hợp tất cả ba yếu tố: thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Đó là động lực lớn nhất, yếu tố cơ bản nhất tạo nên những thành tựu mới to lớn hơn nữa thực hiện mục tiêu, lý tưởng cao cả: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Những kẻ dân chủ “cuội”, những tổ chức phản động “hèn hạ” đừng hòng xuyên tạc, bịa đặt hoặc phủ nhận thành tựu to lớn đó của dân tộc Việt Nam. Bởi vì, hơn 90 triệu người dân Việt Nam không nghe những luận điệu xuyên tạc nhảm nhí đó./.

NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐẤU TRANH PHÒNG CHỐNG CHIẾN LƯỢC “DIỄN BIẾN HOÀ BÌNH” CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH, PHẢN ĐỘNG

 Tiếp tục thực hiện chiến lược “Diễn biến hoà bình” đối với các nước xã hội chủ nghĩa còn lại trên thế giới, chủ nghĩa đế quốc coi Việt Nam là một trọng điểm tập trung chống phá. Vì vậy, chúng ta không thể lơ là với những âm mưu, thủ đoạn thâm độc, xảo quyệt của chúng, phải luôn nêu cao cảnh giác cách mạng, đi sâu tìm hiểu âm mưu, thủ đoạn của địch là vấn đề cấp thiết trong tình hình hiện nay, từ đó đề ra đường lối chiến lược, sách lược, những biện pháp cụ thể để ngăn chặn, đẩy lùi, tiến tới đánh bại hoàn toàn chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực phản động, thù địch trong giai đoạn cách mạng hiện nay.

Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã nhấn mạnh “Chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột, từ sớm, từ xa; phát hiện sớm và xử lý kịp thời những yếu tố bất lợi, nhất là những yếu tố, nguy cơ gây đột biến; đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch”. Đây là sự cụ thể hóa một số khía cạnh trong phương hướng về quốc phòng, an ninh; trong đó, có đấu tranh làm thất bại âm mưu “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Để chống phá cách mạng Việt Nam, các thế lực thù địch thường tiến hành trên các mặt sau:

Xét về mức độ: Khi chuyển sang chiến lược “diễn biến hòa bình”, chủ nghĩa đế quốc đã đề ra mục tiêu cụ thể, là phải tiêu diệt chủ nghĩa xã hội trong những năm còn  lại của Thế kỷ XX. Về quy mô, các chiến lược chống cộng trước đây của chủ nghĩa đế quốc mới giới hạn trong phạm vi giành giật từng địa bàn cụ thể với chủ nghĩa xã hội. Trong chiến lược “diễn biến hoà bình”, chúng đặt ra vấn đề phải “cạnh tranh hữu hiệu” với chủ nghĩa xã hội trên tất cả các vấn đề và ở mọi khu vực địa lý - chính trị, đặc biệt là ngay tại các nước xã hội chủ nghĩa, tiến tới xoá bỏ hoàn toàn chủ nghĩa xã hội ở các nước còn lại trên thế giới. Rõ ràng là, mục tiêu chiến lược của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động đề ra trong chiến lược “diễn biến hoà bình” lần này chứa đựng đầy tham vọng, vượt xa các chiến lược chống cộng của chúng từ trước đến nay.

 Chiến lược “Diễn biến hoà bình” khi mũi nhọn chúng tập trung chống phá cách mạng Việt Nam mà các thế lực phản động đứng đầu là đế quốc Mỹ đã chủ trương, tổ chức thực hiện từ rất sớm và tăng cường lực lượng, phương tiện, cường độ cao hơn, tính chất, thủ đoạn nham hiểm, thâm độc và ngày một tinh vi, xảo quyệt hơn nhằm phá hoại, làm suy yếu và tiến tới lật đổ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, chèo lái Việt Nam đi theo chế độ tư bản chủ nghĩa. Đây thực sự là nguy cơ và thách thức lớn đối với cách mạng nước ta đang trên con đường đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Các kỳ đại hội Đảng ta đều chỉ rõ: Đất nước ta phải đối mặt với nhiều thách thức. Bốn nguy cơ mà Đảng đã chỉ ra vẫn tồn tại, có mặt gay gắt hơn. Nguy cơ tụt hậu, rơi vào bẫy thu nhập trung bình còn lớn...

Về chính trị tư tưởng: Địch tập trung xuyên tạc, phủ nhận học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chủ trương, chính sách của Đảng hòng làm lung lay, tan rã trận địa tư tưởng vô sản, coi đây là khâu đột phá quan trọng. một mặt đế quốc và bọn phản động ra sức bôi nhọ xuyên tạc chủ nghĩa xã hội, đả kích nói xấu, làm mất uy tín của Đảng và Nhà nước ta, bôi nhọ uy tín của các đồng chí lãnh đạo cao cấp, mặt khác chúng luôn ca ngợi, khuếch trương chủ nghĩa tư sản, lối sống Mỹ, sử dụng chiêu bài “nhân quyền” kích động đòi Đảng và Nhà nước ta thực hiện “đa đảng đối lập”, “đa nguyên chính trị”, kích động tư tưởng dân tộc cực đoan, tín ngưỡng tôn giáo phản động, chia rẽ nội bộ Đảng, Nhà nước, các đoàn thể chính trị xã hội và khối đại đoàn kết dân tộc hòng gây hoài nghi, giảm sút lòng tin của quần chúng vào chủ nghĩa xã hội... Đặc biệt chúng khai thác triệt để những sai lầm của Đảng và Nhà nước ta trong quá trình đổi mới nhằm kích động xu hướng bài xích, chống đối con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Từ năm 1986, nước ta thực hiện công cuộc đổi mới, mở cửa, tăng cường quan hệ kinh tế với các nước trên Thế giới thì địch lợi dụng các quan hệ đó như là công cụ, con bài để đặt điều kiện, gây sức ép về chính trị đối với ta; đồng thời, thông qua các hoạt động kinh tế để cài cắm, nhen nhóm các lực lượng phản động, chống đối trong lòng chế độ ta; chúng tìm cách thúc đẩy nhanh quá trình tư nhân hoá, hỗ trợ cho kinh tế tư nhân phát triển, hạn chế vai trò chủ đạo của nền kinh tế nhà nước xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy khả năng chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình liên doanh, liên kết, các thế lực thù địch chú ý đến các hoạt động mua chuộc, lợi dụng, lôi kéo làm tha hoá đội ngũ cán bộ. Cũng thông qua các hoạt động hợp tác, giao lưu kinh tế để chúng tăng cường các hoạt động tình báo, thu thập tin tức, tài liệu, lấy cắp các bí mật quốc gia, bí mật quân sự, nhằm phục vụ cho chiến lược chống phá cách mạng Việt Nam lâu dài.

Thực hiện chiến lược này, địch rất coi trọng phá ta trên lĩnh vực văn hoá - xã hội, thực hiện “thẩm thấu hoà bình” về văn hoá, thúc đẩy sự phát triển văn hoá ngoại lai, lấn át, làm suy yếu văn hoá truyền thống, thực chất đó là sự xâm lăng về văn hoá của chủ nghĩa đế quốc đối với Việt Nam. Đối tượng quan trọng của địch trên lĩnh vực văn hoá là tập trung vào thế hệ trẻ trong mọi tổ chức, cơ cấu xã hội thiếu từng trải, thiếu kinh nghiệm sống và hay ngộ nhận; thủ đoạn của chúng là bằng nhiều con đường để truyền bá những quan điểm “tự do”, “dân chủ”, “nhân quyền” kiểu phương Tây. Xuyên tạc vấn đề nhân quyền ở Việt Nam. Truyền bá lối sống thực dụng, kích động tâm lý chán chường, bế tắc, bất mãn, chống đối, quậy phá gây mâu thuẫn, chia rẽ xã hội, phân tán nhân tâm; từ đó, tạo khoảng trống cho sự xâm lăng của văn hoá độc hại, làm cho văn hoá phản động lấn sâu, chiếm ưu thế dẫn đến sự tha hoá bản sắc văn hoá tốt đẹp của dân tộc.

Trên lĩnh vực ngoại giao; kẻ địch thường lợi dụng chủ trương đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ hợp tác đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta để chống phá, tuyên truyền, xuyên tạc, bôi nhọ nhằm hạ uy tín của Đảng và Nhà nước ta trên trường quốc tế, gây áp lực chính trị, vi phạm thô bạo độc lập tự chủ của dân tộc ta. Chúng lợi dụng xu thế hội nhập để thực hiện âm mưu hòa tan chủ nghĩa xã hội, lái Việt Nam theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa.

Trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh; chúng phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng ta đối với lực lượng vũ trang, với âm mưu “phi chính trị hoá” quân đội nhằm vô hiệu hóa quân đội và công an, hỗ trợ cho các hoạt động bạo loạn lật đổ. Thủ đoạn của địch thường đẩy mạnh các hoạt động ngầm, mua chuộc, dụ dỗ, lôi kéo cán bộ, chiến sĩ; đẩy mạnh các hoạt động chống phá tư tưởng và tổ chức, chia rẽ đoàn kết nội bộ và sự đoàn kết của các tổ chức trong hệ thống chính trị, khi có điều kiện lôi kéo một bộ phận quân đội và công an vào hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Chủ nghĩa đế quốc coi Việt Nam là một trọng điểm để xúc tiến chiến lược “Diễn biến hoà bình”; chúng cho rằng, quân đội là trở lực lớn nhất để chúng thực hiện âm mưu xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; do đó, chúng đã và đang tập trung đánh phá quân đội trên nhiều mặt, ở mọi lĩnh vực; nhằm chia rẽ quân đội với Đảng, với Nhân dân một truyền thống tốt đẹp của Quân đôi ta; đồng thời, chúng đòi “phi chính trị hoá” Quân đội; thực chất là tách Quân đội ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng, tiến tới vô hiệu hoá công cụ bạo lực sắc bén của Đảng, Nhà nước ta, với các thủ đoạn đánh vào tư tưởng, mua chuộc, lôi kéo, dụ dỗ, đe doạ, moi tin bí mật quân sự, phá hoại cơ sở vật chất kỹ thuật...

Quân đội nhân dân Việt Nam, do Đảng Cộng sản Việt Nam và Bác Hồ kính yêu sáng lập, tổ chức, giáo dục và rèn luyện. Trải qua thử thách các cuộc đấu tranh chống đế quốc xâm lược và bảo vệ Tổ quốc, càng chứng tỏ vai trò to lớn của Quân đội đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc ta. Hơn lúc nào hết, Quân đội phải luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, sẵn sàng đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn của địch trong mọi tình huống. Trong tình hình hiện nay, khi chiến lược “Diễn biến hoà bình” đã và đang xâm nhập chống phá cách mạng nước ta ngày càng quyết liệt; đòi hỏi Quân đội không thể đứng ngoài cuộc chiến này, mà phải nhận thức đúng đắn, đầy đủ vị trí, vai trò tầm quan trọng của nhiệm vụ này, coi đây là nhiệm vụ thường xuyên, cấp bách trong tình hình hiện nay.

Để thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của mình, góp phần đánh bại âm mưu, thủ đoạn “Diễn biến hoà bình” của các thế lực phản động, thù địch, các đơn vị trong Quân đội, nhất là đơn vị ở cơ sở cần quán triệt nâng cao hơn nữa quá trình thực hiện các giải pháp cơ bản sau:

Một là, Thường xuyên giáo dục nâng cao nhận thức tư tưởng, xây dựng tinh thần cảnh giác cách mạng cho cán bộ, chiến sĩ trong đấu tranh phòng chống “Diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch.

Chúng ta đều biết: Cội nguồn sức mạnh chiến đấu của mỗi đơn vị, của Quân đội là lòng quả cảm, đức hy sinh quên mình của người chiến sĩ, đó chính là sự giác ngộ chính trị sâu sắc, niềm tin sắt đá vào mục tiêu, lý tưởng con đường chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ kính yêu và Nhân dân ta đã lựa chọn.

Ngày nay, Quân đội ta đang đứng trước nhiệm vụ hết sức nặng nề, vừa sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; đồng thời, phải gắn với bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa; thực chất chính là bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong điều kiện mới; mặt khác, sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc đang đặt ra nhiều vấn đề mới cần giải đáp, tạo sự thống nhất về nhận thức, lập trường tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ, nhất là lực lượng tuổi trẻ đang thực hiện nhiệm vụ ở các đơn vị cơ sở. Cán bộ, chiến sĩ ở các đơn vị cơ sở đa số còn trẻ tuổi, kinh nghiệm thực tiễn trong xây dựng và chiến đấu còn ít, bản lĩnh chính trị, kinh nghiệm sống còn hạn chế ...do đó, càng phải coi trọng và làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; phải thường xuyên tuyên truyền giáo dục để nâng cao giác ngộ, nhận thức sâu sắc bản chất, âm mưu, thủ đoạn “Diễn biến hoà bình” của địch, xây dựng tinh thần cảnh giác sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao, không để Tổ quốc bị bất ngờ, đánh thắng địch trong mọi tình huống.

Hai là, Củng cố và phát huy vai trò các tổ chức, quản lý chặt chẽ đơn vị về mọi mặt thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ phòng chống “Diễn biến hoà bình”.

Các đơn vị cơ sở trong Quân đội trong quá trình thực hiện nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, phải thường xuyên làm tốt công tác xây dựng địa bàn, trực tiếp tiếp xúc với các thành phần xã hội và tiến hành công tác vận động quần chúng, đấu tranh với âm mưu, thủ đoạn “Diễn biến hoà bình” của địch; đồng thời, cán bộ, chiến sĩ cũng là đối tượng mà địch chú ý tác động phá hoại; kẻ địch thường lợi dụng những kẽ hở, khâu yếu, điểm yếu của ta, những địa bàn, đơn vị có những vấn đề phức tạp, bộc lộ những yếu kém để chọn làm điểm đột phá từ đó phát triển chống phá ta trên phạm vi rộng hơn. Chăm lo xây dựng và phát huy vai trò tiền phong của đội ngũ đảng viên, thực sự trở thành lực lượng nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ phòng chống “Diễn biến hoà bình”.

Ba là, Chấp hành nghiêm kỷ luật, các chế độ phòng gian bảo mật, chế độ sẵn sàng chiến đấu, chăm lo đời sống vật chất tinh thần của bộ đội, góp phần thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ.

Kẻ địch muốn chống phá ta từ bên trong, chúng thường lợi dụng những kẽ hở, những điểm yếu của ta như: Buông lỏng, yếu kém trong quản lý đơn vị về kỷ luật ...Từ đó, đặt ra những yêu cầu cao về lãnh đạo, tổ chức đơn vị chấp hành các chế độ phòng gian bảo mật, quản lý đơn vị về mọi mặt, bảo đảm phòng ngừa có hiệu quả mọi âm mưu phá hoại của chúng. Thường xuyên tăng cường khả năng sẵn sàng chiến đấu và sức mạnh chiến đấu của đơn vị, đáp ứng yêu cầu trong mọi tình huống, xây dựng đơn vị vững mạnh về kỷ luật.

Bốn là, Hiệp đồng chặt chẽ với địa phương và các lực lượng liên quan trong xây dựng địa bàn an toàn, sẵn sàng chiến đấu, tạo sức mạnh tổng hợp trong phòng chống “Diễn biến hoà bình” của địch.

Lãnh đạo chỉ huy đơn vị cần chủ động phối hợp với địa phương và các lực lượng có liên quan trong các hoạt động nắm địch, xây dựng, giữ vững địa bàn an toàn vững mạnh, đời sống văn hoá - xã hội trong sạch lành mạnh; xây dựng các phương án sẵn sàng chiến đấu, tổ chức luyện tập thường xuyên nhằm chuẩn bị mọi mặt, bảo đảm sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi khi có tình huống xẩy ra. Phối hợp chặt chẽ với nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, làm tốt công tác dân vận, giúp đỡ địa phương thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội như: Xóa đói giảm nghèo, phòng chống thiên tai, cứu hộ cứu nạn, xây dựng các điểm sáng văn hóa ở xã, phường, cụm dân cư, phòng chống các tệ nạn xã hội chính là biện pháp tốt nhất nhằm chủ động ngăn ngừa, đẩy lùi các hoạt động chống phá của chiến lược “Diễn biến hoà bình” của chúng, góp phần xây dựng đơn vị, xây dựng địa phương vững mạnh toàn diện, thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, chính trị - xã hội trên địa bàn đóng quân.

Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII tiếp tục khẳng định: “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Do đó, đấu tranh phòng chống “Diễn biến hoà bình” đối các thế lực phản động; nhằm bảo vệ nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và nền tảng tư tưởng của Đảng, là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với sự tồn vong của Đảng, của chế độ. Chúng ta không được một phút lơ là mất cảnh giác, luôn kiên định lập trường tư tưởng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vững tin vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà chúng ta đã lựa chọn, sẵn sàng chiến đấu cao để kịp thời đối phó với mọi tình huống có thể xảy ra./.

QUYẾT LIỆT ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG CỦA ĐẢNG LÀ MINH CHỨNG SỐNG ĐỂ THẾ GIỚI HIỂU CHÚNG TA TA HƠN

 Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần khẳng định: Chống tham nhũng “không có vùng cấm”, “không có ngoại lệ”, không có khái niệm hạ cánh an toàn, kỷ luật cán bộ sai phạm là điều không ai mong muốn, nhưng vì sự nghiệp chung và vì sự tồn vong của Đảng, chúng ta phải làm, kiên quyết làm. Báo cáo tại Hội nghị toàn quốc tổng kết công tác phòng, chống tham nhũng giai đoạn 2013 - 2020 đã chỉ ra: “Từ năm 2013 đến nay, các cơ quan tiến hành tố tụng Trung ương và địa phương đã khởi tố, điều tra trên 14.300 vụ/24.410 bị can, xét xử sơ thẩm hơn 11.700 vụ/22.600 bị cáo về tham nhũng, kinh tế, chức vụ”… Từ những kết quả đó chúng ta có thể khẳng định, cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng của Đảng ta đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, tạo hiệu ứng tích cực, lan tỏa sâu rộng trong toàn xã hội, được cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình, ủng hộ, đánh giá cao, được quốc tế ghi nhận. Kết quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo là minh chứng sống bác bỏ tất cả những tổ chức, cá nhân có quan điểm sai trái, thù địch với cách mạng Việt Nam.

Cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng là nhiệm vụ lâu dài, khó khăn, phức tạp, cần sự vào cuộc của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, với phương châm: kiên quyết, kiên trì, “không có vùng cấm”, “không có ngoại lệ”, “không ngừng”, “không nghỉ”, được thực hiện với các giải pháp đồng bộ như sau:

Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, đảng viên và nhân dân tạo sự thống nhất cao về ý chí, hành động trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, trên cơ sở đó nhận diện, vạch trần những quan điểm sai trái của các thế lực thù địch chống phá cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở nước ta. Đây là giải pháp rất quan trọng, giúp cán bộ, đảng viên và nhân dân có nhận thức đúng đắn, tin tưởng, ủng hộ cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng của Đảng và Nhà nước, còn là cơ sở đấu tranh bác bỏ quan điểm sai trái của các thế lực thù địch. Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục sâu rộng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư; về mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ, giải pháp, quy định của Đảng và Nhà nước về phòng, chống tham nhũng; công khai, minh bạch thông tin về cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tạo sự đồng thuận, thống nhất cao cả về ý chí và hành động trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Bên cạnh đó, cần “chỉ mặt”, “điểm tên” những quan điểm sai trái, định hướng cho cán bộ, đảng viên và người dân tin theo đường lối, quan điểm, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, để không nghe, không tin, không mắc mưu, không phát tán thông tin xấu độc, đồng thời tích cực đấu tranh phản bác những quan điểm sai trái chống phá cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở nước ta hiện nay.

Xây dựng và hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật, phát hiện sớm, xử lý nghiêm minh các hành vi tham nhũng, tạo cơ sở để kiên quyết, kiên trì đấu tranh bác bỏ những quan điểm sai trái của các thế lực thù địch. Thể chế nói chung, thể chế về phòng, chống tham nhũng nói riêng cùng với chuẩn mực đạo đức trên các lĩnh vực và cơ chế kiểm soát quyền lực là yếu tố cơ bản, nền tảng vững chắc, có tác dụng ngăn chặn từ gốc hành vi tham nhũng. khẩn trương, hoàn thiện đồng bộ thể chế về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, quản lý kinh tế - xã hội và phòng, chống tham nhũng, kịp thời khắc phục những bất cập, những "khoảng trống", "kẽ hở" để "không thể tham nhũng".

Đấu tranh chống tham nhũng phải gắn liền với chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa". Đẩy mạnh cải cách chính sách tiền lương, có đãi ngộ hợp lý, đảm bảo cuộc sống cho cán bộ, công chức, viên chức để “không cần tham nhũng”. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, đẩy mạnh điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, phát hiện sớm, xử lý nhanh và nghiêm minh các vụ việc, vụ án tham nhũng đủ sức răn đe để cán bộ “không dám tham nhũng”.

Đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở nước ta sẽ còn diễn ra lâu dài, khó khăn, phức tạp, trong điều kiện các thế lực thù địch luôn tìm mọi thủ đoạn tinh vi, thâm độc để điên cuồng chống phá. Cuộc đấu tranh chống “giặc nội xâm” ngày càng đạt kết quả tốt, đồng thời đập tan những quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, đòi hỏi sự vào cuộc đồng bộ, phát huy hơn nữa vai trò của các cấp, các ngành, của cả hệ thống chính trị, của toàn dân, đặc biệt cần phát huy vai trò của đội ngũ nhân sĩ, trí thức, nhà báo, lực lượng chuyên trách, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bác bỏ quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, chống phá cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng của  Đảng và Nhà nước ta.

NẮM CHẮC LÝ LUẬN CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, CHỦ TRƯƠNG ĐƯỜNG LỐI LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG, ĐỂ ĐẤU TRANH CHỐNG CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG

 Thời gian qua, các bài đấu tranh trên không gian mạng của các cơ quan, đơn vị đã thường xuyên được đổi mới về nội dung, đa dạng hóa về hình thức, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục về bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước... Tuy nhiên, vẫn còn những hạn chế nhất định như: Một số bài viết chưa thực sự quan tâm đúng mức chất lượng, hiệu quả về; nội dung và hình thức, biện pháp đấu tranh chưa phong phú, đa dạng, hiệu quả còn thấp; số lượng bài viết có tính chiến đấu, sâu sắc, thuyết phục chưa có nhiều... Để nâng cao chất lượng, hiệu quả các bài đấu tranh của lực lượng 47 trên không gian mạng, cần phải nắm chắc lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật Nhà nước trong viết bài đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng.

Đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng, thực chất là cuộc đấu tranh ý thức hệ nhằm bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với quân đội và sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta... Việc nắm chắc lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật Nhà nước, các quy định của quân đội là cơ sở củng cố và phát triển thế giới quan, phương pháp luận khoa học, cơ sở pháp lý vững chắc nhất để chúng ta viết bài phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng. Vì vậy, mỗi tác giả của bài viết cần quán triệt sâu sắc các nghị quyết, chỉ thị, định hướng của Đảng, Nhà nước về chống “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực phản động; nhằm bảo vệ an ninh quốc gia; đặc biệt là Chỉ thị số 03/CT- BQP ngày 23/1/2014 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về tăng cường công tác bảo đảm an toàn thông tin và một số vấn đề về tổ chức hoạt động tác chiến không gian mạng; Chỉ thị số 47/CT-CT ngày 8/1/2016 của Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị về tổ chức lực lượng đấu tranh chống quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị trên không gian mạng trong quân đội. Bên cạnh đó, cần vận dụng linh hoạt, khéo léo các quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật Nhà nước sát với các tình huống và hoàn cảnh cụ thể, tránh rập khuôn máy móc, cứng nhắc, cảm tính, làm mất tính chiến đấu trong đấu tranh chống các quan điểm sai trái trên không gian mạng, các bài viết cần thể hiện quan điểm cứng rắn của mình và phê phán thẳng thắn không khoan nhượng các quan điểm sai trái, của các thế lực thù địch trên cơ sở các luận chứng khoa học, không vòng vo để đọc giả dễ đọc, dễ nghe, dễ hiểu.

Do đó, lực lượng 47 tham gia đấu tranh trên không gian mạng phải có sự vận dụng linh hoạt trong từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, có biện pháp nhận định, đánh giá tình hình, tổ chức viết bài đấu tranh hiệu quả nhất, đảm bảo sự kịp thời trong nhận diện kẻ xấu và phản bác quan điểm, tư tưởng, thông tin sai trái, làm thất bại hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước, Quân đội của các thế lực thù địch trên không gian mạng đạt hiệu quả cao nhất trong thời gian tới./.