Thứ Tư, 1 tháng 5, 2024

CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VÀ ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP - HIỆN THÂN CỦA SỰ GẮN KẾT Ý CHÍ, NIỀM TIN

 Tình cảm đặc biệt giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại tướng Võ Nguyên Giáp là một biểu tượng sáng ngời về tình cảm của một nhà lãnh đạo, một người chỉ huy, một người thầy, một người anh, một người thân thích với một trợ lý, một vị tướng, một người học trò… của tình đồng chí và tình thân trong nghĩa đồng bào sâu đậm. Đó là hiện thân của sự gắn kết ý chí, niềm tin, sự chân thành, sự tận tụy của hai con người vĩ đại, của sức mạnh dân tộc Việt Nam.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp sinh ngày 25/8/1911, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc ấy với tên gọi Nguyễn Tất Thành (Văn Ba) vừa rời Bến cảng Nhà Rồng (Sài Gòn) ra đi tìm đường cứu nước, để rồi gần 30 năm sau có cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa hai con người, hai người chiến sĩ cách mạng, hai vĩ nhân của dân tộc Việt Nam.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã hồi tưởng, viết về những cảm xúc khi lần đầu tiên được gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh vào năm 1940: "Tôi nhận ra ngay chính là đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Nếu so với bức ảnh ngày trước tôi đã được xem thì trông Bác ở ngoài linh hoạt và sắc sảo hơn nhiều (Hồi đó Bác chưa để râu)… Gặp Bác, tôi thấy Bác hoàn toàn không giống như những điều mình hằng tưởng tượng. Ngay từ phút đầu, tôi đã cảm thấy như mình được ở rất gần Bác, được quen Bác từ lâu rồi. Con người của Bác toát ra một cái gì rất trong sáng, giản dị…".
Cuộc gặp gỡ ấy là cuộc gặp gỡ đặc biệt, là lần đầu tiên nhưng như đã rất thân quen. Đó sự khởi đầu gắn bó của hai con người đặc biệt, tên tuổi và mang tầm vóc lịch sử, một sự gặp gỡ của những con người trở thành huyền thoại có một không hai trong suốt những chặng đường đầy gian nan và thử thách nhưng hết sức vinh quang và oanh liệt, hào hùng của cách mạng Việt Nam, gắn với những chiến công, những kỳ tích vĩ đại của dân tộc. Mối quan hệ, tình cảm giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại tướng vượt trên cả tình đồng chí, tình thầy trò, đó còn là một tình cảm, một mối quan hệ đặc biệt thiêng liêng, sâu sắc…
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhìn thấy tài năng, trí tuệ và nhân cách của người thanh niên yêu nước, nhà báo, nhà hoạt động cách mạng Võ Nguyên Giáp và đã trao những trọng trách: thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân là bước quan trọng chuẩn bị lực lượng cho cuộc Cách mạng Tháng Tám vĩ đại, sau đó, ông đảm nhận cương vị Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam, thực hiện nhiệm vụ chỉ huy các cuộc đấu tranh giành và bảo vệ độc lập dân tộc. Trong những chặng đường gian nan ấy của cách mạng Việt Nam luôn chứng kiến và ghi dấu ấn sâu sắc sự gắn bó, gần gũi, cùng gánh vác, chia sẻ sự nghiệp cách mạng giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Đại tướng luôn giành sự kính trọng, ngưỡng mộ với vị lãnh tụ của mình: “Mỗi lần đi công tác về cơ quan cảm thấy như đang trở về với gia đình… Được ở gần Bác một thời gian, tôi đã nhận thấy qua cái bề ngoài vô cùng giản dị của Bác, con người Bác thật vĩ đại, và chính bản thân cách sống giản dị đó cũng là một điều vĩ đại trong con người của Bác”.
Sau chiến thắng Việt Bắc Thu - Đông giành thắng lợi, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành Sắc lệnh phong hàm Đại tướng cho đồng chí Võ Nguyên Giáp, sau Lễ phong hàm ngày 28/5/1948, khi một phóng viên phương Tây hỏi Bác việc phong hàm này được thực hiện dựa trên những tiêu chuẩn nào, “Bác trả lời đơn giản:
- Đánh thắng đại tá thì phong đại tá. Đánh thắng thiếu tướng, phong thiếu tướng, đánh thắng trung tướng phong trung tướng, đánh thắng đại tướng thì phong đại tướng!”.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp luôn thấu hiểu tâm tư, niềm mong mỏi đau đáu tâm can của vị lãnh tụ kính yêu. Đại tướng đã vận dụng, hiện thực hóa những ý tưởng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Khi trực tiếp làm việc và dưới sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại tướng luôn trao đổi, bàn bạc, xin ý kiến và tuân thủ sự chỉ đạo của lãnh tụ, nhất là trước những nhiệm vụ khó khăn, quan trọng.
Khi nhận nhiệm vụ trực tiếp chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ, sau buổi họp trước khi lên đường đi chiến dịch, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hỏi Đại tướng: “Chú đi xa như vậy, chỉ đạo các chiến trường, có gì trở ngại không?”. Đại tướng trả lời: “Các đồng chí Tổng tham mưu phó, Phó Chủ nhiệm Tổng cục chính trị đều đã có mặt trên đó. Sẽ tổ chức cơ quan tiền phương của Bộ Tổng tư lệnh để chỉ đạo chiến trường toàn quốc, kể cả bộ đội tình nguyện ở Lào và Cămpuchia. Anh Nguyễn Chí Thanh và anh Văn Tiến Dũng ở lại khu căn cứ, phụ trách mặt trận đồng bằng Bắc Bộ. Chỉ trở ngại là ở xa có vấn đề quan trọng và cấp thiết, khó xin ý kiến của Bác và Bộ Chính trị”. Nghe vậy, Bác Hồ nói với Đại tướng: “Tổng Tư lệnh ra mặt trận, “Tướng quân tại ngoại”!. Trao cho chú toàn quyền. Có vấn đề gì khó khăn, bàn thống nhất trong Đảng ủy, thống nhất với cố vấn thì cứ quyết định, rồi báo cáo sau”. Bác Hồ căn dặn Đại tướng: “Trận này rất quan trọng, phải đánh cho thắng, chắc thắng mới đánh, không chắc thắng không đánh”. Đại tướng đã khắc ghi lời căn dặn ấy của Bác, lý giải phần nào với từng quyết định thận trọng của Đại tướng trong chiến dịch, đặc biệt với Quyết định khó khăn nhất, chuyển từ “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”…
Với Đại tướng, hình ảnh Bác Hồ luôn hiện hữu trong tâm trí ông, song hành cùng bước đường hoạt động và cuộc sống của ông cùng cách mạng Việt Nam, không chỉ khi Bác còn sống, làm việc với Đại tướng mà cả về sau này, khi Người đã đi xa…
Ngày 30/4/1975, quân ta đã toàn thắng trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, khi nhớ lại ngày lịch sử đó, Đại tướng đã viết: Sáng ngày 30…, 11 giờ, quân đoàn 2 báo cáo, cờ của ta tung bay trên nóc Dinh Độc Lập. Liền sau đó là điện báo tin chiến thắng của Bộ Chỉ huy Chiến dịch và Trung ương Cục. Các anh, các cán bộ, chiến sĩ ở mặt trận giờ phút này sung sướng đến nhường nào! Tiếng reo mừng phút chốc ầm vang khắp cơ quan Bộ Tổng tư lệnh. Ước mơ độc lập, thống nhất từ bao đời đã thành hiện thực. Nhiều đồng chí trong Bộ Chính trị sung sướng đến ứa nước mắt. Để có được ngày hôm nay, bao nhiêu đồng chí, đồng bào đã ngã xuống. Nguyện ước bình sinh của Bác Hồ đã được thực hiện. Chiến lược “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào” của Người đã thành công rực rỡ! Người như đang cùng ta cùng chia sẻ niềm vui của cả dân tộc…
"Buổi chiều, sau cuộc họp vắn của Bộ Chính trị, tôi ra phố một lát. Cả Hà Nội rợp cờ đỏ, cả Hà Nội xuống đường. Tiếng hò reo: Hoan hô, hoan hô…! Hồ Chủ tịch muôn năm, muôn năm!” hòa trong tiếng pháo. Nhiều người thả bóng bay. Tôi đi bộ vòng quanh Bờ Hồ, trong niềm hạnh phúc dạt dào, lòng lại bùi ngùi nhớ tới Bác, vô cùng nhớ Bác”. Những dòng tâm can ấy, cảm xúc dâng trào ấy của Đại tướng là người thấu hiểu tâm tư, mong muốn ấy của vị lãnh tụ, của người thầy của mình.
Những năm tháng xây dựng đất nước trong hòa bình, độc lập, thống nhất, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa, nhưng tư tưởng, tấm gương, hình ảnh của Người luôn song hành cùng các thế hệ người dân Việt Nam… và trong lòng Đại tướng, để rồi, trong những khoảnh khắc sâu lắng của nỗi lòng, trong từng hoạt động của Đại tướng luôn dành trọn tình với lãnh tụ, biến những tình cảm ấm áp, chân tình, sự ngưỡng mộ, niềm tin thành hành động. Tình cảm của Đại tướng dành cho Bác Hồ hết sức thiêng liêng, trân quý. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa, Đại tướng luôn trân quý, tôn vinh và vững chắc niềm tin: “Thế giới sẽ còn đổi thay, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn sống mãi”.
Thực vậy, không chỉ trong công tác, mà trong cuộc sống hàng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại tướng Võ Nguyên Giáp có một sự gắn bó đặc biệt của những con người có chung chí hướng. Đó là một biểu tượng sáng ngời về tình cảm, sự đồng cảm của một nhà lãnh đạo, một người chỉ huy, một người thầy, một người anh, một người thân thích với một trợ lý, một vị tướng, một người học trò…, của tình đồng chí và của tình thân trong nghĩa đồng bào sâu đậm. Đó là hiện thân của sự gắn kết ý chí, niềm tin, sự chân thành, sự tận tụy của hai con người vĩ đại, của sức mạnh dân tộc Việt Nam./.
ST

KẾ THỪA VÀ PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ QUYỀN DÂN TỘC

 Một điểm đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân quyền là chú trọng thực hành mối quan hệ biện chứng giữa quyền con người, quyền cộng đồng và quyền dân tộc, trong đó tôn trọng, bảo vệ, thực hiện và thúc đẩy quyền con người là cơ sở bảo đảm quyền cộng đồng, quyền dân tộc, bởi “nếu nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”.

Thực tế trong thời kỳ đổi mới (từ năm 1986 đến nay) cho thấy, việc thực hành quan điểm này của Hồ Chí Minh đã tạo cơ sở dân chủ, dân quyền cho việc xem xét, giải quyết đúng đắn mối quan hệ qua lại giữa việc tôn trọng, bảo vệ, thực hiện và thúc đẩy quyền bình đẳng, tương trợ, đoàn kết của mọi người và của các cộng đồng lớn nhỏ (giới, dân tộc, tôn giáo…) với việc bảo đảm quyền dân tộc Việt Nam theo hướng hài hòa giữa đổi mới, ổn định và phát triển.
1. Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của Nhân dân nhằm thúc đẩy bảo đảm dân chủ, dân quyền và phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Hiện nay, việc bảo đảm quyền dân tộc gắn với bảo đảm dân chủ, dân quyền đứng trước yêu cầu phải nắm bắt, điều tiết được những thách thức mới đang đặt ra ngày càng lớn khi vấn đề nhân quyền được đề cập ngày càng nhiều hơn thay vì chỉ được giới hạn trong quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân như trước đây. Do đó, để bảo đảm quyền dân tộc phải “phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện tốt hơn quyền làm chủ của Nhân dân” thông qua các giải pháp:
Triển khai mạnh mẽ Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở năm 2022 nhằm thực hiện có hiệu quả trên thực tế cơ chế: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.
Tạo động cơ khuyến khích cho người dân tham gia thực hành dân chủ trực tiếp ở cơ sở. Mặc dù pháp luật Việt Nam không cho phép bỏ phiếu đại diện, song trên thực tế hiện tượng này khá phổ biến. Từ đó gây ảnh hưởng tiêu cực đến quyền công dân, nhất là của phụ nữ và thanh niên trong gia đình. Muốn vậy cần tiếp tục xây dựng, hoàn thiện thể thức bầu cử dân chủ theo hướng không chạy theo thành tích để hạn chế tối đa hoặc xóa bỏ những hiện tượng này.
Mặt khác, cần mở rộng các hình thức tiếp xúc cử tri của các đại biểu HĐND cấp tỉnh và đại biểu Quốc hội. Bên cạnh đó, cần tăng cường vai trò giám sát của mặt trận Tổ quốc, các tổ chức đoàn thể, báo chí. Tổ chức đảng phải coi trọng việc thường xuyên giám sát, quản lý cán bộ, đảng viên trong thực hiện dân chủ ở cơ sở. Do vậy, cần khuyến khích việc tạo thêm các kênh tiếp xúc giữa cử tri với đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND tỉnh, thành phố thông qua các đường dây nóng, mạng xã hội (Zalo, Facebook...) nhằm tăng cường sự tham gia đối thoại và lòng tin của người dân.
Tăng cường sự tham gia của cơ quan, doanh nghiệp trong thực hiện dân chủ ở cơ sở. Hiện nay, nhiều cơ quan và doanh nghiệp chưa quan tâm thích đáng đến việc thực hiện Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở năm 2022. Đây là một hạn chế không nhỏ, dẫn đến việc không đáp ứng được các yêu cầu cơ bản của Luật này để có sự tham gia tích cực của người dân trong việc thúc đẩy thực hiện dân chủ ở cơ quan, doanh nghiệp như trong công tác tiếp dân, tiếp cận thị trường… Do vậy, cần phối hợp thực hiện dân chủ ở cơ sở một cách đồng bộ, cả ở cấp xã lẫn tại cơ quan, doanh nghiệp.
2. Thúc đẩy mối quan hệ bình đẳng bằng pháp luật giữa công dân và Nhà nước, xã hội trong thể chế nhà nước pháp quyền.
Để thiết lập quan hệ bình đẳng giữa công dân với Nhà nước và xã hội bằng thể chế pháp quyền cần thực hiện các giải pháp sau:
Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện thể chế pháp quyền của Nhà nước, đặc biệt thể chế hóa nghĩa vụ của Nhà nước trong bảo đảm công lý, quyền con người, quyền công dân. Quy định đầy đủ, cụ thể và rõ ràng hơn về quyền và nghĩa vụ của các cơ quan Nhà nước, của các chức danh, chức vụ của cán bộ, công chức, viên chức nhà nước, nhất là hoàn thiện thể chế bảo đảm và những ràng buộc pháp lý về chế độ chịu trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước trước công dân, nhất là khi có hành vi gây thiệt hại cho công dân trong thi hành công vụ, ở cả 3 phương diện: Cơ quan, tổ chức; cán bộ, công chức, viên chức và văn bản quản lý hành chính của cơ quan, tổ chức. Hoàn thiện thể chế pháp quyền về phản biện xã hội, giám sát xã hội, nhằm tăng cường vai trò của các tổ chức chính trị xã hội, nhất là truyền thông đại chúng (báo chí, mạng in-tơ-nét), trong việc kiểm tra, giám sát các cơ quan, cán bộ, công chức, viên chức nhà nước, để phát hiện những vi phạm trong các mối quan hệ giữa Nhà nước với công dân và giữa công dân với Nhà nước, nhằm góp phần bảo đảm công lý, công bằng xã hội, quyền con người, quyền công dân.
Tăng cường giáo dục, nâng cao ý thức, trách nhiệm trước công dân cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Đề cao trách nhiệm bảo đảm các quyền con người, quyền công dân và thái độ dám chịu trách nhiệm trong thi hành nhiệm vụ, công vụ; chống hiện tượng khi phải chịu trách nhiệm lại tìm cách “chạy trách nhiệm”, né tránh, đùn đẩy. Yêu cầu về dám chịu trách nhiệm phải được đề cao thành một “Danh dự công vụ”.
Đề cao vai trò, trách nhiệm của các tổ chức đảng và đảng viên trong lãnh đạo xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về mối quan hệ giữa Nhà nước với công dân và giữa công dân với Nhà nước. Tăng cường công tác kiểm tra của các cấp ủy, xử lý nghiêm minh đối với đảng viên vi phạm quy định của Đảng và pháp luật của nhà nước về quan hệ giữa Nhà nước với công dân và giữa công dân với Nhà nước.
Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện thể chế pháp quyền của công dân. Một nhiệm vụ quan trọng hiện nay là phải thể chế hóa các quyền hiến định của công dân trong Hiến pháp năm 2013 trên cả 2 tư cách: quyền con người và quyền công dân, để các quyền này thực sự được bảo đảm trong thực tế cuộc sống theo hướng: Các cá nhân cũng như pháp nhân của luật, tức là cả trong và ngoài Nhà nước đều bình đẳng trước pháp luật; đều có thể đối lập tranh cãi một cách bình đẳng với các quyết định của cơ quan công quyền. Tạo lập sự gắn kết hữu cơ giữa quyền tự do dân chủ của công dân với chủ nghĩa hợp hiến. Muốn vậy, hệ thống quy phạm pháp luật phải được thực thi sao cho công dân cả trong và ngoài Nhà nước đều phải có trách nhiệm với Nhà nước; đồng thời Nhà nước phải thực hiện nghĩa vụ bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong cả hoạt động của Nhà nước và trong cả hoạt động của xã hội. Hoàn thiện và cụ thể hóa các quy phạm pháp luật về quyền con người, quyền công dân theo hướng công dân được làm những gì mà pháp luật không cấm. Từ đó xác định cụ thể quyền và nghĩa vụ của công dân trong quan hệ với Nhà nước, cả với tư cách người dân và cả với tư cách cán bộ, công chức, viên chức nhà nước.
Xây dựng và thực hiện cơ chế trách nhiệm qua lại giữa Nhà nước và công dân theo nguyên tắc pháp quyền.
Trước đây, việc thực hiện cơ chế trách nhiệm qua lại giữa Nhà nước và công dân thông qua pháp chế XHCN; còn hiện nay đã chuyển sang thể chế pháp quyền. Điểm tương đồng giữa pháp chế XHCN và thể chế pháp quyền là: Đòi hỏi Nhà nước phải có một hệ thống pháp luật ngày càng hoàn chỉnh. Pháp chế XHCN yêu cầu Nhà nước và công dân, kể cả công dân là cán bộ, công chức, viên chức nhà nước, phải tuân thủ nghiêm túc pháp luật. Thể chế pháp quyền nhấn mạnh nguyên tắc mọi cơ quan nhà nước phải được đặt dưới pháp luật. Cả hai đều yêu cầu bảo vệ nghiêm ngặt pháp luật, đấu tranh chống tình trạng vi phạm pháp luật và coi trọng hệ thống định chế tư pháp để xét xử các hành vi vi phạm.
Trong việc bảo đảm quyền công dân và nhân quyền thì thể chế pháp quyền, một mặt, nhấn mạnh vai trò và nghĩa vụ của hệ thống hành pháp, tư pháp nhiều hơn là nhấn mạnh vai trò của cơ quan lập pháp như trong pháp chế XHCN, bảo đảm sự phản biện của người dân với tư cách là “đối trọng” không thể thay thế, trước những quy định không công bằng của Nhà nước. Chỉ như vậy mới “bảo đảm pháp luật vừa là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội, vừa là công cụ để nhân dân làm chủ, kiểm tra, giám sát quyền lực nhà nước”.
3. Tích cực, chủ động thiết lập hệ thống thông tin nhằm giải quyết hiệu quả những vấn đề về quan hệ giữa quyền con người, quyền cộng đồng và quyền dân tộc mới nảy sinh trong thực tiễn quản trị của Nhà nước và xã hội.
Về cung cấp thông tin. Do thông tin là cơ sở để tăng cường mối quan hệ giữa chính quyền và công dân, nên chính quyền có thể cung cấp thông tin bị động hoặc thông tin chủ động cho công dân; và có thể sử dụng các sản phẩm thông tin qua kênh trực tiếp và có kiểm soát hoặc các kênh độc lập để cung cấp thông tin.
Về tham vấn công dân. Chính quyền gửi yêu cầu về việc lấy ý kiến và tiếp nhận ý kiến đóng góp của công dân đối với các nội dung liên quan đến hoạch định chủ trương, chính sách công. Việc tham vấn công dân tạo ra mối quan hệ hai chiều giữa chính quyền và công dân. Thông tin phản hồi từ các công dân có thể chứa đựng những thông tin có giá trị cho chính quyền và xã hội, ví dụ các kiến nghị chính sách mới hoặc những điều chỉnh chủ trương, chính sách công.
Về tham gia tích cực của tổ chức, cá nhân công dân. Công dân giữ vai trò đề xuất các phương án về chủ trương, chính sách công, còn việc chịu trách nhiệm về xây dựng chủ trương, chính sách công và quyết định cuối cùng thuộc về chính quyền hoặc tổ chức xã hội. Thu hút công dân tham gia vào hoạch định chủ trương, chính sách công là mối quan hệ hai chiều giữa chính quyền, xã hội và công dân dựa trên nguyên tắc đối tác. Nhà nước, tổ chức xã hội căn cứ vào tình hình thực tế và mục tiêu thu hút sự tham gia của công dân trong hoạch định chủ trương, chính sách công để lựa chọn một trong ba cấp độ nêu trên./.
St

NĂM THÁNG SẼ QUA ĐI, CHIẾN THẮNG 30/4 MÃI MÃI ĐI VÀO LỊCH SỬ DÂN TỘC

 Cách đây 49 năm (1975 - 2024), khi thời cơ tổng công kích vào thành lũy cuối cùng của chính quyền Sài Gòn đã điểm, Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch quyết chiến chiến lược mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Sau gần 4 ngày tổng tiến công và nổi dậy, trưa ngày 30/4/1975, quân và dân ta làm chủ thành phố Sài Gòn - Gia Định, bắt giữ và buộc Tổng thống chính quyền Sài Gòn phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, đánh dấu sự chấm hết của chế độ thực dân mới, mà đế quốc Mỹ đã dày công xây dựng bị sụp đổ hoàn toàn. Đây là sự kiện trọng đại trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta nửa cuối thế kỷ XX, có ý nghĩa lịch sử và tầm vóc thời đại sâu sắc.

Sau khi Hiệp định Paris “Về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam” được ký kết (27/01/1973), nhận thấy tương quan so sánh lực lượng đã hoàn toàn nghiêng về phía ta, ngày 7/01/1975, Bộ Chính trị họp “Bàn về tình hình và nhiệm vụ cuộc chống Mỹ, cứu nước” hạ quyết tâm lịch sử: Giải phóng miền Nam. Bộ Chính trị nhận thấy quân Mỹ khó có khả năng quay lại tham chiến tại miền Nam và nhất trí thông qua phương án giải phóng miền Nam trong hai năm 1975 - 1976, đồng thời chọn chiến trường Tây Nguyên làm hướng tiến công chủ yếu và xác định: “Chúng ta phải cố gắng cao nhất để thắng gọn trong năm 1975. Điều đó là một khả năng hiện thực”[1].
Để kiểm chứng nhận định trên, Bộ Chính trị quyết định mở Chiến dịch Đường số 14 - Phước Long, diễn ra từ ngày 13/12/1974 đến ngày 6/01/1975. Qua đòn trinh sát chiến lược này, Bộ Chính trị đã họp bổ sung quyết tâm giải phóng miền Nam ngay trong năm 1975. Đặc biệt, sau những thắng lợi liên tiếp của các đòn tiến công chiến lược, ngày 31/3/1975, Bộ Chính trị nhận định: “Cách mạng nước ta đang phát triển với nhịp độ một ngày bằng hai mươi năm”. Do vậy, Bộ Chính trị quyết định: Chúng ta phải nắm vững thời cơ chiến lược, quyết tâm thực hiện tổng tiến công và nổi dậy, kết thúc thắng lợi chiến tranh giải phóng trong thời gian ngắn nhất. Tốt hơn cả là bắt đầu và kết thúc trong tháng 4 năm nay, không để chậm”[2].
Thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đã đoàn kết một lòng, nỗ lực cao độ, tạo thành sức mạnh “triều dâng thác đổ” như thế chẻ tre, tiến hành thắng lợi Chiến dịch Hồ Chí Minh - trận quyết chiến chiến lược quyết định cuối cùng với quân thù. Chỉ trong một thời gian ngắn, với tinh thần “một ngày bằng hai mươi năm”, cùng lực lượng áp đảo, với một khối lượng lớn vật chất hậu cần đã có mặt ở khu vực tập kết, sẵn sàng tổng tiến công vào nội đô Sài Gòn. Chiến dịch Hồ Chí Minh đã diễn ra và kết thúc thắng lợi vào ngày cuối cùng của tháng Tư (30/4/1975), theo đúng nhận định của Bộ Chính trị. Sau gần 4 ngày tổng tiến công và nổi dậy, quân và dân ta đã giải phóng hoàn toàn miền Nam, non sông thu về một mối.
Chiến thắng 30/4/1975 của dân tộc ta vô cùng vẻ vang oanh liệt, là thắng lợi của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, thắng lợi của đường lối và phương pháp cách mạng của Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) - Đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội - Đường lối chiến tranh nhân dân: Toàn dân, toàn diện, tự lực, tự cường; vừa kháng chiến vừa kiến quốc. Đảng Lao động Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra đường lối, phương pháp cách mạng và đường lối chiến tranh nhân dân độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo và đã lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện linh hoạt, sáng tạo bảo đảm thành công đường lối đó; giải quyết đúng đắn các mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp; giữa độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội; giữa lợi ích dân tộc và lợi ích quốc tế; động viên toàn dân, toàn quân đoàn kết tham gia kháng chiến và kiến quốc, tạo nên sức mạnh tổng hợp của dân tộc và thời đại, đưa sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam đến thắng lợi hoàn toàn. Hơn nữa, chiến thắng 30/4/1975 còn là thắng lợi của nền văn hoá Việt Nam được xây đắp từ tinh hoa văn hoá của 54 dân tộc anh em trên đất nước ta, đã trải qua hàng nghìn năm lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, vươn lên tự khẳng định sức sống trường tồn. Đó là nền văn hoá bắt nguồn từ lòng yêu thiên nhiên, yêu con người, yêu đất nước, yêu độc lập, tự do, hòa bình; từ lòng nhân ái, trọng chính nghĩa, ghét gian tà, thấm đượm chủ nghĩa nhân văn cao cả và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam; cởi mở tiếp thu những tinh hoa của nhiều nền văn hoá thế giới. Nền văn hoá ấy ngày càng được bồi đắp và không ngừng phát huy lên tầm cao mới - Nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đó là cội nguồn sức mạnh vĩ đại của ý chí và trí tuệ Việt Nam, của bản lĩnh, lòng quả cảm và cốt cách Việt Nam, tạo nên sức sống mãnh liệt của nền văn hiến Việt Nam.
Đồng thời, chiến thắng 30/4/1975 thể hiện sự hội tụ sức mạnh của toàn dân tộc, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân. Đó là sức mạnh của chiến tranh nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam quang vinh và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, với sự hy sinh to lớn của đồng bào, chiến sĩ cả nước, với tinh thần: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”; “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người” và khí phách: “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước, mà lòng phơi phới dậy tương lai”; là thắng lợi của khát vọng hòa bình, độc lập dân tộc, tự do và thống nhất non sông của dân tộc Việt Nam.
Đại tướng Văn Tiến Dũng - Nguyên Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam thời chống Mỹ, cứu nước đã khẳng định với các nhà báo và học giả phương Tây rằng: “Một lần nữa tôi muốn nói rõ rằng nguồn gốc mọi thắng lợi của chúng tôi là sức mạnh của cả một dân tộc vùng lên làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình trong thời đại ngày nay”[3].
Hiện nay, trên một số phương tiện thông tin đại chúng, website và mạng xã hội xuất hiện những luận điệu xuyên tạc lịch sử, phủ nhận tầm vóc, ý nghĩa của Chiến thắng 30/4/1975; xuyên tạc bản chất, tính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta; hạ thấp tầm vóc của chiến thắng, cho rằng chiến thắng 30/4/1975 không thể gọi là một chiến thắng vẻ vang, mà chỉ là một kết quả tất nhiên khi Mỹ thay đổi chính sách đối ngoại, rút quân, cắt viện trợ, bỏ rơi chính quyền và quân đội Sài Gòn... Tuy nhiên, thực tiễn lịch sử đã bác bỏ những luận điệu sai trái đó, vì cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam là cuộc chiến đấu chính nghĩa nhằm đánh đuổi đế quốc Mỹ xâm lược, bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà. Thắng lợi vĩ đại 30/4/1975 là kết quả của cả một quá trình đấu tranh anh dũng, kiên cường, bất khuất của nhân dân Việt Nam. Do đó, chiến thắng 30/4/1975 thuộc về dân tộc Việt Nam, Đảng quang vinh, Bác Hồ vĩ đại; thắng lợi của sự ủng hộ, giúp đỡ của bạn bè, các lực lượng tiến bộ và yêu chuộng hòa bình trên thế giới, đúng như Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (tháng 12/1976) đã khẳng định: “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tình thời đại sâu sắc”[4].
Trong giai đoạn cách mạng mới, dù tình hình quốc tế, khu vực luôn có những diễn biến phức tạp, khó lường; sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế vẫn còn nhiều thách thức, khó khăn phải vượt qua nhưng tầm vóc, ý nghĩa và giá trị của chiến thắng 30/4/1975 - Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước mãi trường tồn. Đó vừa là niềm tự hào, là động lực và để lại nhiều kinh nghiệm quý báu đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay./.
ST

SỨC SỐNG VÀ GIÁ TRỊ HIỆN THỰC CỦA THI ĐUA YÊU NƯỚC THEO LỜI DẠY CỦA BÁC

 76 năm sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi thi đua ái quốc (11/6/1948 - 11/6/2024), sức sống và giá trị hiện thực của phong trào thi đua yêu nước sâu rộng, thiết thực trên cơ sở thấm nhuần sâu sắc vai trò của quần chúng Nhân dân trong sự nghiệp cách mạng và thi đua yêu nước chính là phát huy sức mạnh nội lực của toàn dân trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước vẫn hiển hiện sinh động trong thực tiễn.

“Thi đua là yêu nước”
Yêu nước là tình cảm thiêng liêng của mỗi người dân và yêu nước luôn gắn liền với bổn phận, trách nhiệm của mỗi người đối với đất nước, nên yêu nước không chỉ là một truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam, mà còn là một giá trị tinh thần, luôn luôn đồng hành cùng dân tộc trong hành trình dựng nước và giữ nước. Là Người sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam, cùng Đảng lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ chú trọng khơi dậy, phát huy truyền thống yêu nước, nhân nguồn sức mạnh nội sinh của dân tộc, mà Người còn nhấn mạnh rằng, “dưới chế độ tư bản, thực dân và phong kiến quyết không thể có phong trào thi đua yêu nước (…) Chỉ có dưới chế độ dân chủ nhân dân và xã hội chủ nghĩa, dưới chế độ và nhân dân lao động làm chủ nước nhà, thì mới có phong trào thi đua”. Vì thi đua “là một cách yêu nước thiết thực và tích cực”, cho nên, khi mỗi người dân hiểu được rằng “thi đua ái quốc là ích lợi cho mình, ích lợi cho gia đình mình và lợi ích cho làng cho nước, cho dân tộc”, thì sẽ hăng hái tham gia để thi đua yêu nước ngày càng phát triển, trở thành một phong trào cách mạng quần chúng rộng rãi, sâu sắc, phong phú.
Và cũng vì thế, sau chiến thắng Việt Bắc thu đông năm 1947, để tiếp tục phát huy sức mạnh của các tầng lớp Nhân dân trong sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc, theo ý kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 27/3/1948, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị phát động phong trào thi đua ái quốc; trong đó, nêu rõ: “Mục đích thi đua ái quốc là làm sao cho kháng chiến mau thắng lợi, kiến quốc mau thành công”. Tiếp đó, ngày 1/6/1948 Người ký Sắc lệnh số 195-SL thành lập Ban Vận động thi đua ái quốc Trung ương và các cấp; ngày 11/6/1948, Người ra Lời kêu gọi thi đua ái quốc.
Trong Lời kêu gọi thi đua ái quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Mục đích của thi đua là để “Diệt giặc đói, Diệt giặc dốt, Diệt giặc ngoại xâm” nhằm thực hiện “Dân tộc độc lập, Dân quyền tự do, Dân sinh hạnh phúc”. Vì thế, “cách làm là dựa vào: Lực lượng của dân, Tinh thần của dân, để gây: Hạnh phúc cho dân”, nên:“Các cụ phụ lão thi đua đốc thúc con cháu hăng hái tham gia công việc, Các cháu nhi đồng thi đua học hành và giúp việc người lớn, Đồng bào phú hào thi đua mở mang doanh nghiệp, Đồng bào công nông thi đua sản xuất, Đồng bào trí thức và chuyên môn thi đua sáng tác và phát minh, Nhân viên Chính phủ thi đua tận tụy làm việc, phụng sự Nhân dân, Bộ đội và dân quân thi đua giết cho nhiều giặc, đoạt cho nhiều súng”... Với tinh thần và ý chí thi đua yêu nước tích cực của mọi giai tầng trong xã hội như thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh tin tưởng rằng “ai cũng thi đua, ai cũng tham gia kháng chiến và kiến quốc. Phong trào sôi nổi. Thi đua ái quốc sẽ ăn sâu, lan rộng khắp về mọi mặt và mọi tầng lớp nhân dân, và sẽ giúp chúng ta dẹp tan mọi nỗi khó khăn và mọi âm mưu của địch để đi đến thắng lợi cuối cùng”.
“Thi đua là đoàn kết”
Vì thi đua yêu nước là hoạt động sáng tạo, tích cực trong mọi lĩnh vực của cuộc sống như lao động, sản xuất, học tập… ở hậu phương cũng như trên trận tuyến đánh quân thù ngoài tiền tuyến; được diễn ra trong suy nghĩ, hành đông, trong công việc thường ngày của mỗi người, nên đó là một trong những biểu hiện của lòng yêu nước, của tinh thần, ý chí và sự nỗ lực, hy sinh phấn đấu vì một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, tự do, hạnh phúc. Vì thế, cũng sẽ không ngạc nhiên khi Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải thi đua. Và những người thi đua là những người yêu nước nhất” và thông qua phong trào thi đua yêu nước, ý thức cộng đồng và tinh thần đoàn kết của mỗi người được nhân lên, được phát huy để nhân nguồn sức mạnh nội lực của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Thực tế cũng cho thấy, các phong trào thi đua yêu nước đã trở thành động lực quan trọng, góp phần thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam. Sức mạnh, ý chí của tinh thần “đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết” thông qua các phong trào thi đua yêu nước “Diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm”; “Bình dân học vụ”; “Hũ gạo kháng chiến”; “Chiến sĩ ở trước mặt trận thi đua giết giặc lập công, đồng bào ở hậu phương thi đua tăng gia sản xuất”; “Ruộng rẫy là chiến trường, cuốc cày là vũ khí, nhà nông là chiến sĩ, hậu phương thi đua với tiền phương”; “Ba nhất” trong Quân đội; “Gió Đại Phong” trong nông nghiệp; “Sóng Duyên Hải” trong công nghiệp; “Hai tốt” trong ngành giáo dục; “Ba sẵn sàng” và “Năm xung phong” trong thanh niên; “Ba đảm đang” trong phụ nữ; “Thi đua Ấp Bắc giết giặc lập công”, “Dũng sĩ diệt Mỹ”, “Tìm Mỹ mà đánh, tìm Ngụy mà diệt” hay “Mỗi người làm việc bằng hai, vì miền Nam ruột thịt”… trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954) và kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc vừa đấu tranh để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (1954-1975) đã góp phần làm nên “thành công, thành công, đại thành công” của sự nghiệp cách mạng.
Đồng thời, những bài học kinh nghiệm cùng ý nghĩa, giá trị hiện thực từ các phong trào thi đua yêu nước trong những năm tháng đầy gian khó đó không chỉ cho thấy tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước “chẳng những bồi dưỡng tinh thần đoàn kết và tinh thần yêu nước của dân tộc ta, mà lại làm cho nhân dân ta đoàn kết với nhân dân lao động thế giới” được thực hiện sinh động trên thực tiễn, mà còn chứng minh rằng: Dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự vào cuộc của các cơ quan, ban, ngành chức năng, thi đua yêu nước đã trở thành phong trào rộng khắp; đã huy động được sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc và thực sự lan tỏa sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân, trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam.
Tiếp tục đẩy mạnh thi đua yêu nước để xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước
Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kể từ khi cả nước thống nhất cùng chung sức, đồng lòng xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và ngày càng giàu mạnh, phồn vinh, hạnh phúc, những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước trong Lời kêu gọi thi đua ái quốc cách đây 76 năm cũng như trong những bài viết, bài phát biểu khác của Người đều được tiếp tục triển khai trên cơ sở vận dụng sáng tạo, phù hợp điều kiện cụ thể của mỗi giai đoạn cách mạng.
Luôn xác định rõ yêu nước là mẫu số chung của mọi người Việt Nam, cho nên mọi giai tầng, không phân biệt giới tính, tôn giáo, thành phần, già hay trẻ; dù ở miền xuôi hay miền ngược, ở trong nước hay ngoài nước đều tích cực thi đua là để “ích nước, lợi nhà” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Trong các phong trào thi đua, chúng ta thấy đủ các dân tộc: Kinh, Thổ, Mán, Mường,v.v.. đủ các tín ngưỡng, lương có, giáo có, đủ các tầng lớp binh, công, nông, sĩ, đủ các hạng người già, trẻ, gái, trai” đều cụ thể hóa lòng yêu nước bằng hành động thực tế. Tiếp nối truyền thống đó, từ sau năm 1975, nhất là trong hơn 35 năm đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng, phong trào thi đua yêu nước luôn nhận được sự hưởng ứng rộng khắp, sôi nổi và mạnh mẽ của các tầng lớp nhân dân; ngày càng được tổ chức và thực hiện sáng tạo, linh hoạt với nội dung cụ thể, thiết thực, hình thức phong phú trên mọi lĩnh vực, trên khắp mọi miền của Tổ quốc...
Đặc biệt, trong mấy nhiệm kỳ gần đây, các phong trào thi đua yêu nước thường được tổ chức gắn với thực hiện nhiệm vụ chính trị, với việc triển khai Chỉ thị số 03-CT/TW ngày 14/5/2011 của Bộ Chính trị khóa XI về "Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về "Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh" và Kết luận số 01-KL/TW ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị khóa XII về "Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh" trong cả hệ thống chính trị và Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay", Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ, Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" cùng các Quyết định về nêu gương… trong cả hệ thống chính trị .
Đó chính là học và làm theo Bác về thi đua yêu nước trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, trong lực lượng vũ trang (quân đội, công an) và các tổ chức Hội (phụ nữ, thanh niên, cựu chiến binh, văn học - nghệ thuật…),v.v… Trong đó, không thể không nhắc đến các phong trào thi đua “Lao động giỏi - Lao động sáng tạo” của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam; “Cựu chiến binh gương mẫu” của Hội Cựu chiến binh Việt Nam; Thi đua Quyết thắng”, “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ” trong quân đội; “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”, “Công an nhân dân học tập, thực hiện Sáu điều Bác Hồ dạy”, “Xây dựng phong cách người Công an nhân dân bản lĩnh, nhân văn, vì nhân dân phục vụ” trong công an hay “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới”, “Doanh nghiệp Việt Nam hội nhập và phát triển”, “Cả nước chung tay vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau”, “Cán bộ, công chức, viên chức thi đua thực hiện văn hóa công sở”… lan tỏa sâu rộng từ Trung ương đến địa phương, ở tất cả các cấp, các ngành.
Thi đua yêu nước theo Chủ tịch Hồ Chí Minh là “phải có sự lãnh đạo đúng. Trước khi thi đua phải chuẩn bị đầy đủ (giải thích cổ động, xem xét kế hoạch mỗi nhóm, mỗi người) trong lúc thi đua phải thiết thực đôn đốc, giúp đỡ, sửa đổi. Sau đợt thi đua, phải thiết thực kiểm tra, tổng kết, phổ biến kinh nghiệm, khen thưởng những người kiểu mẫu, nâng đỡ những người kém cỏi”; phong trào thi đua phải phong phú, đa dạng, toàn diện, thiết thực, hiệu quả, thường xuyên và liên tục để thông qua đó mà thúc đẩy sự ham hiểu biết, sáng tạo, tiến bộ và gom góp sáng kiến, rút ra kinh nghiệm; trao đổi, tổng kết kinh nghiệm và phổ biến kinh nghiệm để không chỉ khơi dậy tiềm năng sáng tạo của con người mà quan trọng hơn là cải tạo bản thân mỗi người, là để “chiến thắng mọi tính xấu trong mình ta”. Cũng theo Người, việc tổ chức phong trào thi đua yêu nước cần thiết thực, tránh bệnh hình thức; các phong trào thi đua phải gắn liền với việc lựa chọn, xây dựng gương điển hình và bình bầu thi đua đúng, công khai, chặt chẽ để khen thưởng đúng người, đúng việc sẽ không chỉ giúp cho thi đua đi vào thực chất, mà việc khen thưởng cũng được chính xác, góp phần động viên mọi người cùng tích cực thi đua “vượt qua mọi sự khó khăn, để mà tranh lấy thắng lợi”.
Vì thế, thực hiện thi đua yêu nước theo chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ góp phần thiết thực khơi dậy cái “chân, thiện, mỹ” mà còn thúc đẩy sự nỗ lực, tính nhân văn, hướng thiện, đoàn kết, sáng tạo… của mỗi con người, để tự bản thân mỗi người từng bước đẩy lùi cái ác, cái tiêu cực, lạc hậu, làm cho cái thiện sinh sôi, nảy nở. Và cũng vì thế, có thể khẳng định rằng: Học và làm theo Bác về thi đua yêu nước không chỉ là thiết thực rèn luyện đạo đức cách mạng, thực hiện “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, tinh thần sẵn sàng dám làm, dám chịu trách nhiệm để đem lại lợi ích cho nhân dân, cho xã hội và cho đất nước, mà còn tạo ra một môi trường rộng rãi để mỗi người dân nói chung, cán bộ, đảng viên, cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị nói riêng gương mẫu đi đầu, thống nhất giữa nói và làm, nhất là nói trước, làm trước để phụng sự Tổ quốc và nhân dân với tinh thần tận tụy, công bình, liêm chính nhằm “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, ý chí tự cường và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”./.
ST

HẾT LÒNG HẾT SỨC PHỤNG SỰ TỔ QUỐC, PHỤC VỤ NHÂN DÂN

 Bác Hồ muôn vàn kính yêu của chúng ta đã đi xa, nhưng di sản tư tưởng, đạo đức, phong cách Người để lại vẫn còn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn to lớn, là kim chỉ nam dẫn đường cho cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi. Trong đó, tư tưởng về nêu cao thái độ, trách nhiệm hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, Nhân dân của đội ngũ cán bộ, đảng viên có giá trị to lớn đối với mọi giai đoạn cách mạng.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ Nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”. Bác của chúng ta là tấm gương sáng ngời, lời nói luôn gắn liền với hành động, lý luận đi đôi với thực tiễn, đã nói là làm. Việc nâng cao ý thức trách nhiệm, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân đã được Người thực hiện trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng. Mặc dù Người đã đi xa hơn nửa thế kỷ, nhưng tư tưởng, đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh vẫn mãi mãi dẫn đường chỉ lối cho các thế hệ cán bộ, đảng viên tiếp bước noi theo, học tập.
Người luôn yêu cầu cán bộ, đảng viên, phải nêu cao trách nhiệm trước Đảng, Chính phủ, trước Nhân dân và trước nhiệm vụ, công việc được giao, dù là việc to hay việc nhỏ. Theo Hồ Chí Minh, tinh thần trách nhiệm “Là khi Đảng, Chính phủ, hoặc cấp trên giao cho ta việc gì, bất kỳ to hay nhỏ, khó hay dễ, ta cũng đưa cả tinh thần, lực lượng ra làm cho đến nơi đến chốn, vượt mọi khó khăn, làm cho thành công. Làm một cách cẩu thả, làm cho có chuyện, dễ làm khó bỏ, đánh trống bỏ dùi, gặp sao làm vậy, v.v… là không có tinh thần trách nhiệm”.
Thấm nhuần tinh thần đó, Người luôn suy nghĩ, tìm tòi, đổi mới trong công việc, không cứng nhắc, bảo thủ, đóng khung, cố chấp, mà rất linh hoạt, mềm dẻo khi xử lý, giải quyết từng vấn đề, sự việc cụ thể. Một ví dụ để minh chứng cho nhận định trên: Khi dự thảo công văn cho Bác, anh em giúp việc thường dựa vào các văn bản cũ đã được Người duyệt để làm theo. Không ngờ, có lần Người lại sửa khác đi. Anh em giúp việc có ý thanh minh: Thưa Bác, cháu thấy trong văn bản trước Bác đã thông qua một câu như vậy rồi ạ. Người nói, lần trước Bác chưa nghĩ ra, lần này Bác thấy phải sửa tiếp cho tốt hơn. Có thể thấy, phong cách làm việc của Người là luôn đổi mới, sáng tạo, không cứng nhắc, không chấp nhận tư duy lối mòn, kinh nghiệm chủ quan, mà hướng tới sự mới mẻ, hiệu quả để ngày càng đạt kết quả tốt hơn.
Trải qua hơn 35 năm đổi mới, đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Những thành tựu đó đã làm thay đổi bộ mặt đời sống Nhân dân, tiềm lực, vị thế nước ta trên trường quốc tế được nâng lên. Tuy nhiên, chúng ta vẫn còn tồn tại những hạn chế, bất cập, trong đó, tinh thần trách nhiệm mà nhất là “bệnh sợ trách nhiệm” của một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay đang là vấn đề đáng suy ngẫm. Biểu hiện của bệnh sợ trách nhiệm như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nêu rõ: Người sợ trách nhiệm thường làm việc một cách cầm chừng cho “đủ bổn phận”, cốt sao không phạm phải khuyết điểm gì lớn. Vì luôn luôn lo sợ phải chịu trách nhiệm về những việc sẽ xảy ra, cho nên không muốn cải tiến công tác, không dám mạnh dạn thay đổi những cái không hợp lý, chỉ làm theo nếp cũ.
“Họ” thường rụt rè, do dự trong khi giải quyết công việc, không phát biểu rõ ràng, dứt khoát ý kiến riêng của mình, không dám quyết đoán những việc thuộc phạm vi trách nhiệm và quyền hạn của mình. Muốn trốn tránh trách nhiệm cá nhân, đùn đẩy trách nhiệm lên trên, ỷ lại và chờ đợi một cách thụ động. “Họ” cũng thường lấy lý do làm việc tập thể, tôn trọng tập thể để dựa dẫm vào tập thể, ngại “va chạm” trong quan hệ với các đồng chí trong đơn vị, với cấp trên và cả với cấp dưới.
Nguồn gốc của bệnh sợ trách nhiệm như Hồ Chí Minh đã cảnh báo là do chủ nghĩa cá nhân: “Có lợi cho tôi thì tôi tích cực; không có lợi cho tôi thì tôi tiêu cực. Tôi muốn có địa vị cao, nhưng lại sợ trách nhiệm”. Chính vì luôn luôn tính toán cho lợi ích cá nhân, bo bo “bảo vệ” lấy cái cá nhân của mình mà mất cả dũng khí đấu tranh, thiếu hẳn tinh thần trách nhiệm nghiêm túc, tính kiên quyết, tính nguyên tắc trong khi giải quyết các vấn đề. Đảng ta thừa nhận: “Một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa tiên phong, gương mẫu; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ vẫn còn diễn biến phức tạp. Tự phê bình và phê bình ở nhiều nơi còn hình thức. Thực hiện trách nhiệm nêu gương, nhất là của người đứng đầu chưa tạo được sự lan tỏa sâu rộng”.
Thực trạng trên làm cho năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng bị giảm sút; niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của đất nước bị xói mòn.
Để kịp thời khắc phục tình trạng này, Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận số 14-KL/TW ngày 22/9/2021 về “Chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung”. Trong thời gian tới, để nâng cao ý thức trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng viên, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
Một là, mỗi cán bộ, đảng viên cần nâng cao ý thức, tinh thần trách nhiệm với công việc. Học và làm theo Bác không phải là bằng những điều cao siêu, to lớn, mà cần bắt đầu từ những lời nói, việc làm, bằng thái độ, cách ứng xử trong xử lý và giải quyết công việc hằng ngày. Đó là sự tự ý thức về trách nhiệm của mình trong công việc chung, là việc cố gắng, nỗ lực hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ ở cương vị công tác. Mỗi người cần thấm nhuần, khắc sâu lời Bác dạy: Cán bộ, đảng viên “là người đày tớ trung thành và tận tụy của Nhân dân”; “phục vụ Nhân dân là phục tùng chân lý”; “làm công bộc cho dân là một việc làm cao thượng”.
Học Bác về tinh thần trách nhiệm phục vụ Nhân dân cần xuất phát từ tinh thần tự giác, sự thôi thúc của con tim, từ danh dự và lương tâm của chính bản thân mỗi người. Làm việc với một niềm đam mê, hăng say, phấn khởi, tin tưởng, hạnh phúc, với mong muốn được cống hiến, đóng góp một phần nhỏ bé vào sự phát triển của cơ quan, đơn vị, tổ chức mà mình là thành viên, rộng hơn là của xã hội, đất nước, chứ không phải vì danh lợi, chạy theo thành tích. Cần nhận thức rõ rằng, trở thành một cán bộ, công chức, một đảng viên là niềm vinh dự, tự hào, nhưng cũng là trách nhiệm, nghĩa vụ to lớn. Vinh dự, trách nhiệm đó đòi hỏi mỗi người phấn đấu, rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng, năng lực chuyên môn để hoàn thành tốt nhiệm vụ được tổ chức phân công, giao phó.
Học tập tinh thần trách nhiệm của Bác còn là việc phải luôn đau đáu, trăn trở với những tâm tư, suy nghĩ, mong mỏi của người dân và xã hội, muốn đóng góp sức lực nhỏ bé của mình vào việc xây dựng một xã hội tiến bộ, tốt đẹp hơn; nói đi đôi với làm, lý luận liên hệ với thực tiễn; biết thông cảm, thấu cảm, biết đau trước những khó khăn, mất mát của người dân; biết vui mừng, sẻ chia trước hạnh phúc, niềm vui của Nhân dân. Thấu hiểu và cảm thông với Nhân dân, xuất phát từ lợi ích của Nhân dân sẽ giúp mỗi cán bộ, đảng viên luôn tìm tòi, suy nghĩ để giải quyết công việc vừa ích nước, vừa lợi dân.
Hai là, trong xử lý và giải quyết công việc cần khắc ghi sâu sắc nguyên tắc lợi ích của Tổ quốc, của Nhân dân, của Đảng là tối thượng, bất khả xâm phạm, kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân. Người cán bộ, đảng viên trước bất cứ công việc gì, dù ở cương vị, hoàn cảnh nào cũng phải luôn đặt lợi ích của Tổ quốc, của Nhân dân, của Đảng lên trước. Lợi ích của cá nhân, của bộ phận, của giai cấp phải phục tùng và không được làm tổn hại đến lợi ích dân tộc; đồng thời, linh hoạt, mềm dẻo, “dĩ bất biến ứng vạn biến” trong thực hiện nguyên tắc này. Vì vậy, trong quá trình hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh đã giải quyết một cách đúng đắn, sáng tạo yêu cầu, đòi hỏi, nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam; đoàn kết, tập hợp được sức mạnh của cả dân tộc làm nên thắng lợi vĩ đại trong các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc.
Để luôn đứng vững trên lập trường dân tộc, lấy quyền lợi của Tổ quốc và Nhân dân làm tối thượng, cần chống chủ nghĩa cá nhân, lợi ích nhóm, tư tưởng cục bộ, óc bè phái, kéo bè kéo cánh, như Người đã nhiều lần chỉ ra. Chủ nghĩa cá nhân “là một thứ vi trùng rất độc, một thứ rất gian giảo, xảo quyệt”. Do chủ nghĩa cá nhân mà ngại khó khăn, gian khổ, tham danh, trục lợi, thích địa vị, quyền hành, xa rời quần chúng, mất đoàn kết, kém tinh thần trách nhiệm,… Nó là nguyên nhân của mọi thói hư tật xấu, của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Do vậy, phải “kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân” - kẻ thù bên trong của mỗi chúng ta.
Ba là, học tập và làm theo Bác, mỗi cán bộ, đảng viên cần không ngừng rèn luyện về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, chuyên môn, nghiệp vụ. Trong một xã hội vận động và biến đổi nhanh chóng, đất nước hội nhập sâu rộng với thế giới đã và đang đặt ra yêu cầu, đòi hỏi rất cao về năng lực, chuyên môn, phẩm chất, đạo đức, bản lĩnh chính trị đối với mỗi người cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức. Do vậy, để tránh tụt hậu, đáp ứng được yêu cầu của công việc, tiến tới có đủ năng lực làm việc được trong môi trường quốc tế, không có cách nào khác, mỗi người cần có tinh thần cầu thị, không ngừng cố gắng, nỗ lực học tập, rèn luyện để tự hoàn thiện bản thân, ngày càng tiến bộ.
Mỗi cán bộ, đảng viên phải coi việc tự học tập, rèn luyện là nhiệm vụ tự thân, là chế độ, quy định bắt buộc. Học tập là con đường duy nhất để tiến bộ và phát triển. Học tập phải được coi là nghĩa vụ, là khát vọng, niềm say mê, nguồn vui để làm việc và làm người cán bộ, đảng viên tốt. Không học tập và rèn luyện sẽ bị tụt hậu, đào thải, không đáp ứng được yêu cầu về phẩm chất đạo đức và năng lực chuyên môn. Do vậy, cần xác định học tập là công việc suốt đời, “còn sống là còn phải học”. Có nhiều cách học: học ở trường lớp, học đồng nghiệp, học trong sách vở, tự học. Nói tóm lại, muốn cán bộ, đảng viên công tác giỏi, muốn sự nghiệp đổi mới tiến lên, gặt hái được nhiều thành tựu năm sau to hơn năm trước thì trong nhiều việc cần làm ngay, cán bộ, đảng viên nhất định phải học Bác tinh thần trách nhiệm, tính kiên quyết, tính nguyên tắc, lòng dũng cảm, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám đổi mới sáng tạo vì Nhân dân, vì Tổ quốc. Đồng thời, phải thấm nhuần lời dạy của V.I.Lênin được Hồ Chí Minh nhắc đi nhắc lại nhiều lần: “Học, học nữa, học mãi”./.
ST

XÂY DỰNG CÁC ĐƠN VỊ CƠ SỞ TRONG QUÂN ĐỘI VỮNG MẠNH VỀ CHÍNH TRỊ THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

 Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, qua đó góp phần xây dựng Quân đội trưởng thành về mọi mặt, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao phó. Hiện nay, yêu cầu bảo vệ Tổ quốc, xây dựng Quân đội trong tình hình mới đòi hỏi cần xây dựng các đơn vị cơ sở - tổ chức nền tảng của Quân đội ngày càng vững mạnh về chính trị, góp phần xây dựng các đơn vị vững mạnh toàn diện “mẫu mực, tiêu biểu”, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.

XÂY DỰNG QUÂN ĐỘI VỮNG MẠNH VỀ CHÍNH TRỊ THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH.
Trung thành, vận dụng sáng tạo những nguyên lý xây dựng Quân đội kiểu mới của chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặt lên hàng đầu vấn đề xây dựng Quân đội về chính trị, xây dựng và tăng cường bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc, làm cho Quân đội ta luôn là lực lượng chính trị trung thành và tin cậy của Đảng, của Nhà nước và của Nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng xây dựng Quân đội về chính trị, lấy xây dựng chính trị làm cơ sở xây dựng các mặt khác. Với quan điểm “chính trị trọng hơn quân sự”, Người khẳng định: “Quân sự mà không có chính trị như cây không có gốc, vô dụng lại có hại. Quân đội ta là quân đội nhân dân. Nhân dân có Đảng lãnh đạo, Đảng có chính cương, chính sách. Đã là quân đội nhân dân thì phải học chính sách của Đảng”.
Người đặc biệt quan tâm chăm lo xây dựng bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc cho Quân đội, xem đó là nội dung cốt lõi, công cụ chắc chắn nhất để xây dựng thành công và bảo đảm cho Quân đội luôn là lực lượng chính trị tin cậy của Đảng; xứng đáng là Quân đội của dân, do dân và vì dân. Người cho rằng, muốn cho Quân đội trở thành một đội quân vô địch thì Đảng phải đặc biệt coi trọng công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, làm cho cán bộ, chiến sĩ “có lập trường vững chắc, lập trường quân đội của nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát cô đọng, đầy đủ nhất những vấn đề có tính nguyên tắc và nội dung cơ bản xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Cán bộ và chiến sĩ thương yêu nhau như ruột thịt, chia ngọt sẻ bùi. Quân và dân như cá với nước, đoàn kết một lòng, học hỏi, giúp đỡ lẫn nhau. Quân đội ta có tinh thần yêu nước chân chính, lại có tinh thần quốc tế vô sản cao cả”.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, để xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị cần phải củng cố, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội. Cần phải tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, làm cho cán bộ, chiến sĩ có lập trường kiên định, vững vàng, hoàn thành trách nhiệm với Tổ quốc và nhân dân. Người chỉ ra rằng: “Phải tăng cường công tác chính trị, luôn luôn nâng cao trình độ chính trị và giác ngộ giai cấp của bộ đội ta; phải bảo đảm sự chấp hành chính sách của Đảng và Chính phủ; phải triệt để giữ gìn kỷ luật tự giác về mặt quân sự và về mặt chính trị. Vì vậy, cần phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong Quân đội và phải thực hiện dân chủ trong bộ đội”.
Người luôn coi trọng việc xây dựng sự đoàn kết, thống nhất, thực hành dân chủ và kỷ luật nghiêm minh trong Quân đội, coi đó là nguồn sức mạnh của mọi thành công. Bên cạnh đó, Người coi trọng việc xây dựng, củng cố, tăng cường mối quan hệ gắn bó “máu thịt” giữa Quân đội với nhân dân, bảo đảm cho Quân đội là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Người nhắc nhở: “Mình đánh giặc là vì dân. Nhưng mình không phải là "cứu tinh" của dân, mà mình có trách nhiệm phụng sự nhân dân. Tất cả quân nhân phải làm cho dân tin, dân phục, dân yêu... Muốn vậy, bộ đội phải giúp đỡ dân, thương yêu dân... Dân như nước, quân như cá”.
Bên cạnh đó, Người yêu cầu cần chú trọng giáo dục tinh thần đoàn kết, hữu nghị giữa các dân tộc, giữa quân đội ta với quân đội các nước anh em, xây dựng tinh thần quốc tế vô sản trong sáng cho cán bộ, chiến sĩ, tích cực tham gia thực hiện nhiệm vụ quốc tế với tinh thần “giúp bạn tức là mình tự giúp mình”.
XÂY DỰNG CÁC ĐƠN VỊ CƠ SỞ TRONG QUÂN ĐỘI VỮNG MẠNH VỀ CHÍNH TRỊ ĐÁP ỨNG YÊU CẦU TRONG TÌNH HÌNH MỚI
Suốt 80 năm qua, quán triệt sâu sắc, vận dụng đúng đắn, sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng quân đội, Quân đội nhân dân Việt Nam đã cùng với nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, làm nên những chiến thắng vẻ vang, xứng đáng là công cụ bạo lực sắc bén, lực lượng chính trị tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Trong giai đoạn hiện nay, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục có những diễn biến nhanh chóng, khó lường; xung đột quân sự, tranh chấp biển đảo, chạy đua vũ trang ngày càng phức tạp. Đối với nước ta, sau gần 40 năm đổi mới, đất nước chưa bao giờ có được tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Tuy nhiên, nước ta vẫn đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau. Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn lật đổ, thúc đẩy “phi chính trị hóa quân đội”. Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, xây dựng Quân đội đang đặt ra nhiều vấn đề mới. Mặt trái của kinh tế thị trường, sự tác động đa chiều của khoa học công nghệ, internet, mạng xã hội cùng những tiêu cực, tệ nạn xã hội tác động không nhỏ tới tư tưởng của các bộ, chiến sĩ ở các đơn vị trong Quân đội.
Ngày 24/11/2023, Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Nghị quyết số 44-NQ/TW về "Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới", trong đó xác định: “Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Đến năm 2025, cơ bản xây dựng Quân đội, Công an tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu đến năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; bảo đảm chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu cao, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong mọi tình huống”. Do đó, trước yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, xây dựng các đơn vị cơ sở trong quân đội vững mạnh về chính trị là một yêu cầu khách quan, là một đòi hỏi cấp bách đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc và của Quân đội.
Theo Hướng dẫn số 1773/HD-CT ngày 21/10/2022 của Tổng cục Chính trị quân đội nhân dân Việt Nam, thực hiện tiêu chuẩn 1 “vững mạnh về chính trị” trong xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện “mẫu mực, tiêu biểu”, nội dung, chỉ tiêu xây dựng đơn vị vững mạnh về chính trị bao gồm: 1) Về chính trị tư tưởng: Cán bộ, chiến sĩ có bản lĩnh chính trị kiên định, vững vàng, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và Nhân dân; giữ vững phẩm chất đạo đức, lối sống của người quân nhân cách mạng; có ý chí quyết tâm cao, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao. 2) Cấp ủy, tổ chức đảng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, cơ quan chính trị, cán bộ chính trị hoàn thành tốt nhiệm vụ. 3) Đội ngũ cán bộ bảo đảm số lượng, chất lượng, cơ cấu hợp lý, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; cán bộ làm công tác cán bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ. 4) Thực hiện tốt công tác bảo vệ an ninh, dân vận và chính sách. 5) Các tổ chức quần chúng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ; hội đồng quân nhân vững mạnh, hoạt động có hiệu quả. 6) Thực hiện có hiệu quả hoạt động công tác đảng, công tác chính trị trong các nhiệm vụ; chấp hành nghiêm chế độ, nền nếp công tác đảng, công tác chính trị.
5 GIẢI PHÁP TRỌNG TÂM
Một là, tăng cường sự lãnh đạo chặt chẽ, toàn diện của các cấp ủy và tổ chức đảng đối với nhiệm vụ xây dựng Quân đội về chính trị ở đơn vị cơ sở. Toàn bộ hoạt động ở đơn vị đặt dưới sự lãnh đạo chặt chẽ, thống nhất của cấp ủy và tổ chức đảng. Do đó, cần thường xuyên củng cố, kiện toàn cấp ủy, tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, đủ số lượng, chất lượng cao, cơ cấu hợp lý, phân công, phân cấp rõ ràng cho từng cấp ủy viên, bảo đảm sự lãnh đạo chặt chẽ của cấp ủy và tổ chức đảng. Không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng trong Quân đội; đẩy mạnh phòng, chống mọi biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên ở đơn vị cơ sở.
Hai là, tiếp tục cụ thể hóa nội dung, đa dạng hóa hình thức, biện pháp xây dựng các đơn vị cơ sở vững mạnh về chính trị. Các đơn vị cần căn cứ vào các nghị quyết, chỉ thị, quy định, hướng dẫn của cấp trên, đặc điểm, yêu cầu, nhiệm vụ của đơn vị, từ đó xây dựng kế hoạch xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện “Mẫu mực, tiêu biểu”. Xác định cụ thể những nội dung, biện pháp tiến hành trên các mặt: chính trị tư tưởng; xây dựng cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan chính trị, cán bộ chính trị; công tác bảo vệ an ninh, dân vận, chính sách; xây dựng tổ chức quần chúng, hội đồng quân nhân; thực hiện chế độ, nền nếp công tác đảng, công tác chính trị... Các tổ chức, các lực lượng cần quán triệt, cụ thể hóa theo chức năng, nhiệm vụ, bảo đảm thiết thực, dễ nhớ, dễ hiểu, dễ làm, tạo được sự cuốn hút, hấp dẫn đối với mọi quân nhân trong đơn vị.
Ba là, không ngừng nâng cao chất lượng công tác đảng, công tác chính trị ở các đơn vị cơ sở. Thực hiện có hiệu quả Đề án “Đổi mới công tác giáo dục chính trị tại đơn vị trong giai đoạn mới”, thường xuyên đổi mới nội dung, hình thức giáo dục chính trị, pháp luật phù hợp với từng đối tượng, từng loại hình đơn vị. Nâng cao hiệu quả công tác thông tin, tuyên truyền, văn hóa, văn nghệ, thi đua khen thưởng. Đẩy mạnh thực hiện Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ” thời kỳ mới. Kết hợp chặt chẽ giữa thực hiện tốt Cuộc vận động với việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và các phong trào thi đua, các cuộc vận động bằng nhiều mô hình, cách làm sáng tạo, phù hợp, hiệu quả. Xây dựng sự đoàn kết giữa cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị và xây dựng mối quan hệ đoàn kết quân dân, đoàn kết quốc tế. Tích cực đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch, phòng chống chiến lược “diễn biến hòa bình”, âm mưu “phi chính trị hóa quân đội” của các thế lực thù địch, góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng.
Bốn là, xây dựng đội ngũ cán bộ vừa đáp ứng yêu cầu xây dựng đơn vị cơ sở vững mạnh về chính trị. Các cấp ủy cần tiếp tục làm tốt các khâu, các bước trong công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp đủ về số lượng, cơ cấu hợp lý, bảo đảm chất lượng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ ngày càng cao của đơn vị. Đồng thời, cần phát huy vai trò của đội ngũ cán bộ, nhất là người đứng đầu các cấp trong xây dựng đơn vị cơ sở vững mạnh về chính trị. Chính ủy, chính trị viên cần thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ xây dựng đơn vị cơ sở vững mạnh về chính trị. Kịp thời biểu dương gương người tốt, việc tốt và nhắc nhở, uốn nắn những biểu hiện lệch lạc trong quá trình triển khai thực hiện nghị quyết của đảng ủy.
Năm là, phát huy vai trò của các tổ chức quần chúng, hội đồng quân nhân trong xây dựng đơn vị cơ sở vững mạnh về chính trị hiện nay. Các cấp ủy, cán bộ chủ trì cơ quan, đơn vị cần tạo điều kiện thuận lợi để mỗi cán bộ, đoàn viên, hội viên phát huy tốt năng lực, trách nhiệm của bản thân trong thực hiện nhiệm vụ. Mặt khác, phát huy và mở rộng dân chủ, động viên và tạo điều kiện thuận lợi để họ tích cực tham gia đóng góp ý kiến vào các hoạt động của đơn vị, nhất là hoạt động xây dựng đơn vị cơ sở vững mạnh về chính trị./.
St

ĐẤU TRANH PHẢN BÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH LỢI DỤNG VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ TÔN GIÁO CHỐNG PHÁ CÁCH MẠNG VIỆT NAM

 


        Đấu tranh phản bác các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam là một nhiệm vụ hết sức quan trọng, cấp thiết đối với tất cả các lực lượng, các cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên và quần chúng. Vì vậy, cần thường xuyên giáo dục, quán triệt cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức đầy đủ, sâu sắc về thực hiện chính sách dân tộc và tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta; luôn nêu cao tinh thần cảnh giác, kiên quyết đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn thâm độc của các thế lực thù địch; tăng cường sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa giai đoạn hiện nay.

Bác bỏ luận điệu xuyên tạc về Chiến thắng 30/4/1975.

 


Gần nửa thế kỷ đã trôi qua nhưng cứ mỗi dịp 30/4, khi nhân dân cả nước kỷ niệm, ôn lại những trang sử hào hùng của dân tộc thì trên mạng xã hội, các thế lực thù địch, đối tượng phản động, cơ hội chính trị tái diễn điệp khúc xuyên tạc về tầm vóc, ý nghĩa lịch sử của đại thắng mùa xuân năm 1975 cũng như bản chất cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta. Họ luôn mang tư tưởng “uất hận, tiếc nuối” về quá khứ, về sự sụp đổ của một chế độ mà họ tôn vinh khi mỗi dịp tháng Tư.

CHỐNG BIỂU HIỆN CƠ HỘI VỀ CHÍNH TRỊ TRONG ĐẢNG NHIỆM VỤ CẤP BÁCH, THƯỜNG XUYÊN

 


Cơ hội chính trị bao hàm nhiều đối tượng khác nhau ở trong và ngoài Đảng nhưng đều mang điểm chung là có nhận thức và hành động đi ngược lại lợi ích của Đảng, Nhà nước và toàn thể dân tộc Việt Nam. Trong đó, những biểu hiện cơ hội về chính trị trong Đảng ở nước ta hiện nay ngày càng phức tạp, tinh vi và nguy hiểm. Đấu tranh phòng, chống biểu hiện cơ hội về chính trị là một nhiệm vụ cấp bách, một nội dung quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.

PHÁT BIỂU CỦA THƯỢNG TƯỚNG TRỊNH VĂN QUYẾT TẠI LỄ KHAI MẠC CUỘC ĐUA XE ĐẠP “VỀ ĐIỆN BIÊN PHỦ - 2024, CÚP BÁO QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN”!

         Báo Quân đội nhân dân Điện tử trân trọng đăng toàn văn bài phát biểu của Thượng tướng Trịnh Văn Quyết, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam tại Lễ khai mạc Cuộc đua xe đạp “Về Điện Biên Phủ-2024, Cúp Báo Quân đội nhân dân”!
Kính thưa đồng chí Đỗ Tiến Sỹ, Ủy viên Trung ương Đảng, Tổng giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam!

Thưa các vị đại biểu khách quý, huấn luyện viên, vận động viên, trọng tài cuộc đua!

Thưa đồng bào, đồng chí!

Hôm nay, trong không khí hào hùng của cả nước kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ, chiến thắng đã đi vào lịch sử dân tộc như một Bạch Đằng, một Chi Lăng hay một Đống Đa của thế kỷ XX, mãi là thiên sử vàng chói lọi, vĩ đại nhất của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX, tại Thủ đô Hà Nội nghìn năm văn hiến, thành phố vì hòa bình, trái tim của cả nước, tôi rất vui mừng đến dự Lễ khai mạc và thi đấu chặng 1, Cuộc đua xe đạp “Về Điện Biên Phủ - 2024, Cúp Báo Quân đội nhân dân” đúng vào ngày kỷ niệm 138 năm Quốc tế Lao động 1-5. Thay mặt lãnh đạo Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, tôi chúc mừng các vị đại biểu khách quý, huấn luyện viên, vận động viên, trọng tài đã tới dự và tham gia cuộc đua rất ý nghĩa này, chúc các quý vị sức khỏe và thành công.

Thưa các quý vị, đồng bào, đồng chí!

Thực hiện chỉ đạo của Ban Bí thư Trung ương và Ban Chỉ đạo Trung ương các ngày lễ lớn và lịch sử quan trọng trong 3 năm 2023 - 2025, Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam đã giao Báo Quân đội nhân dân chủ trì, phối hợp với Liên đoàn Xe đạp - Mô tô thể thao Việt Nam và các cơ quan, đơn vị, địa phương liên quan tổ chức Cuộc đua xe đạp “Về Điện Biên Phủ - 2024, Cúp Báo Quân đội nhân dân”.

Đây là hoạt động có ý nghĩa chính trị, xã hội sâu sắc nhằm khơi dậy tinh thần yêu nước, đại đoàn kết, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, truyền thống và đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, tri ân, đền ơn đáp nghĩa đối với đồng bào, đồng chí đã anh dũng hy sinh, đóng góp để làm nên chiến thắng vĩ đại Điện Biên Phủ “lừng lẫy Điện Biên, chấn động địa cầu”. Cuộc đua còn là sự kiện thể thao truyền thống để duy trì và thúc đẩy phong trào thể dục, thể thao nói chung, bộ môn đua xe đạp trong cả nước nói riêng không ngừng phát triển theo mục tiêu đã xác định.

Lãnh đạo Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam ghi nhận và đánh giá cao những nỗ lực và tinh thần trách nhiệm vì cộng đồng của Báo Quân đội nhân dân trong những năm qua. Cùng với các hoạt động thiết thực, từ năm 2004 đến nay, Báo Quân đội nhân dân đã chủ trì, phối hợp với Liên đoàn Xe đạp - Mô tô thể thao Việt Nam và các cơ quan, đơn vị, địa phương liên quan tổ chức thành công 4 cuộc đua xe đạp về Điện Biên Phủ, Cúp Báo Quân đội nhân dân, để lại nhiều dấu ấn và tạo được uy tín cao về chuyên môn cùng với các hoạt động tri ân đầy ý nghĩa.

Để chuẩn bị Cuộc đua xe đạp “Về Điện Biên Phủ - 2024, Cúp Báo Quân đội nhân dân” lần này, thời gian qua, Báo Quân đội nhân dân đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, đơn vị, địa phương liên quan tích cực chuẩn bị mọi mặt. Cuộc đua có sự tham gia của 10 đội đua xe đạp hàng đầu Việt Nam sẽ tạo ra sự đua tranh với những màn tranh tài quyết liệt, hấp dẫn từ các đội đua và các vận động viên hàng đầu, hứa hẹn sẽ mang đến cho người hâm mộ nhiều bất ngờ lý thú.

Để cho cuộc đua thành công tốt đẹp, xứng tầm với vị thế và ý nghĩa đã đề ra, tôi yêu cầu Ban chỉ đạo, Ban tổ chức, trọng tài cuộc đua luôn quán triệt và thực hiện nghiêm mục đích, yêu cầu, quy chế, quy định, nhiệm vụ được giao, đề cao trách nhiệm, nỗ lực hết mình, làm tròn nhiệm vụ chỉ đạo, tổ chức điều hành cuộc đua thật khoa học, công tâm, công bằng, nhịp nhàng, chính xác, hiệu quả, an toàn, thiết thực.

Từng vận động viên, huấn luyện viên nêu cao tinh thần đoàn kết, trung thực, cao thượng, tự tin, không bỏ cuộc, thi đấu và cống hiến hết mình với ý chí nhanh hơn, mạnh hơn, cao hơn, hướng tới sự phát triển lành mạnh của thể thao nước nhà và vì người hâm mộ.

Cùng với các cuộc đua tranh quyết liệt trên hành trình, Ban tổ chức và các lực lượng tham gia chuẩn bị chu đáo và tổ chức chặt chẽ, hiệu quả các hoạt động tri ân thật nghĩa tình, sâu sắc tại các địa phương đã xác định, qua đó tiếp tục truyền thêm ngọn lửa anh hùng cách mạng, khích lệ thế hệ trẻ và các tầng lớp nhân dân, cán bộ, chiến sĩ tiếp tục phấn đấu giành nhiều kết quả cao hơn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Với tinh thần đó, một lần nữa chúc các quý vị đại biểu, khách quý sức khỏe, hạnh phúc.

Chúc các vận động viên, huấn luyện viên chỉ đạo và thi đấu đạt thành tích cao nhất trong cuộc đua.

Chúc Cuộc đua xe đạp “Về Điện Biên Phủ - 2024, Cúp Báo Quân đội nhân dân” lần thứ 5 thành công tốt đẹp, để lại nhiều dấu ấn tốt đẹp trong lòng người hâm mộ, đồng bào, đồng chí cả nước, quân và dân các tỉnh Tây Bắc.
Xin trân trọng cảm ơn các đồng chí và các bạn!
Ảnh: Thượng tướng Trịnh Văn Quyết phát biểu tại lễ khai mạc.
Môi trường ST.