Thứ Bảy, 29 tháng 6, 2024

Chủ tịch Hồ Chí Minh với việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân và việc vận dụng trong giai đoạn hiện nay

Tư tưởng Hồ Chí Minh về nền quốc phòng toàn dân là một trong những nội dung cơ bản của hệ thống quan điểm của Người về cách mạng Việt Nam. Trong giai đoạn hiện nay, việc nghiên cứu và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nền quốc phòng toàn dân có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, góp phần hoàn thành nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ngang tầm nhiệm vụ.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, Bí thư Quân ủy Trung ương gặp mặt các đại biểu điển hình tiên tiến toàn quốc trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh giai đoạn 2009 - 2019 tại trụ sở Trung ương Đảng, tháng 12-2019  (Ảnh: Tư liệu)
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, Bí thư Quân ủy Trung ương gặp mặt các đại biểu điển hình tiên tiến toàn quốc trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh giai đoạn 2009 - 2019 tại trụ sở Trung ương Đảng,
 tháng 12-2019 (Ảnh: Tư liệu)

CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỚI VIỆC XÂY DỰNG NỀN QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN

Xây dựng nền quốc phòng toàn dân phải tích cực, chủ động và xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam

Tư tưởng Hồ Chí Minh về nền quốc phòng toàn dân là sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lê-nin, sự kế thừa kinh nghiệm trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Tư tưởng đó được hình thành và phát triển qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ của đất nước, góp phần hoàn thành công cuộc giải phóng đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay.

Ngay sau khi miền Bắc Việt Nam hoàn toàn được giải phóng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã định hướng cho toàn dân tộc phải đề cao tinh thần cảnh giác cách mạng; thực hiện nhiệm vụ và phương châm hành động: “Chúng ta phải ra sức bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hòa bình, cho nên chúng ta phải củng cố quốc phòng”; đồng thời, Người căn dặn: “Phải động viên, giáo dục toàn Đảng, toàn dân đoàn kết chặt chẽ. Các cấp, các ngành và các cán bộ, đảng viên ta cần phải thực hiện đúng các chính sách của Đảng và Nhà nước để đoàn kết và động viên được mọi người phấn khởi và hăng hái tham gia chống Mỹ, cứu nước”. Những lời căn dặn của Người đã trở thành kim chỉ nam trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, giúp cho nền quốc phòng của nước ta luôn vững mạnh, sức chiến đấu ngày càng nâng cao, luôn sẵn sàng chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Theo Người, xây dựng nền quốc phòng toàn dân là yêu cầu khách quan, nhằm nâng cao tiềm lực và sức mạnh quốc phòng để bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng, tăng cường khả năng tự vệ giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước, góp phần duy trì hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới.

Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã định hướng cho đường lối chiến lược, sách lược và phương thức chỉ đạo phong trào cách mạng nước ta cũng như xây dựng nền quốc phòng toàn dân. Người chỉ rõ: ““Nền có vững nhà mới chắc; gốc có mạnh, cây mới tốt”. Miền Bắc là nền tảng, là gốc rễ lực lượng đấu tranh của toàn dân ta, cho nên chúng ta phải làm cho nó thật vững, thật mạnh”; ngày 19-9-1954, nói chuyện với các cán bộ đại diện cho Đại đoàn quân Tiên phong tại Đền Hùng, Người cũng ân cần căn dặn: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Người không chỉ khái quát cao tính cấp thiết, tầm quan trọng của việc phát huy tính tích cực, chủ động của việc xây dựng và củng cố nền quốc phòng toàn dân, mà còn chỉ ra sự cần thiết xây dựng nền quốc phòng toàn dân từ sớm, từ xa vì mục tiêu tự vệ chính nghĩa, chính đáng, hòa bình, hội nhập và thúc đẩy sự phát triển đất nước.

Xây dựng nền quốc phòng toàn dân trên cơ sở phát huy cao độ tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường xây dựng thế trận quốc phòng vững chắc

Chủ tịch Hồ Chí Minh coi tự lực, tự cường là tiền đề của độc lập, tự do, là điều kiện tiên quyết để phát triển quan hệ, vị thế ngoại giao; phải được xây đắp bằng ý chí tự lực, tự cường, tự lực cánh sinh. Tự lực, tự cường, tự chủ là phẩm chất cao quý của dân tộc Việt Nam, với tinh thần đầy lòng tự trọng, ý chí, khát vọng vươn lên và chủ động chuẩn bị từ sớm, từ xa trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, Người đặc biệt chú trọng đề cao tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường. Nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nền quốc phòng toàn dân là xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng “từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu”, được tổ chức với ba thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích); là xây dựng căn cứ địa cách mạng, khởi nghĩa toàn dân và chiến tranh nhân dân. Mỗi người dân: “Phải nắm vững tay cày tay súng, đẩy mạnh quốc phòng, trật tự trị an, củng cố tốt dân quântự vệ, luôn luôn nâng cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu”. Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (ngày 19-12-1946) chỉ rõ: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”. Người đã chỉ rõ, việc tham gia kháng chiến, bảo vệ Tổ quốc là trách nhiệm của mọi người dân, tất cả thành phần và lực lượng trong xã hội. Công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ, bất kỳ ai là công dân Việt Nam yêu nước đều phải tham gia kháng chiến. “Cậu bé chăm chỉ học hành trong nhà trường cũng là kháng chiến. Anh dân cày cày cuốc ngoài đồng ruộng, anh thợ cặm cụi trong nhà máy, chị bán hàng buôn bán ngược xuôi, ông già xách giỏ đi câu cũng là kháng chiến. Các công chức, các nhà văn, nhà báo mải miết trước bàn giấy, cạnh tủ sách cũng là kháng chiến. Các y sinh, khán hộ lăn lộn bên giường bệnh cũng là kháng chiến. Các nhà giàu có đem hết tài lực mở mang xưởng thợ, khai thác ruộng đất cũng là kháng chiến. Đó là toàn dân kháng chiến”. Mỗi công dân đều phải có trách nhiệm tham gia kháng chiến, kể cả “Các em lớn chưa hẳn đến tuổi phải gánh công việc nặng nhọc ấy, nhưng các em cũng nên, ngoài giờ học ở trường, tham gia vào các Hội cứu quốc để tập luyện thêm cho quen với đời sống chiến sĩ và để giúp đỡ một vài việc nhẹ nhàng trong cuộc phòng thủ đất nước”.

Trong quá trình hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rút ra kết luận: “Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”. Người khẳng định: Độc lập của Việt Nam luôn nhờ lực lượng của Việt Nam: “Trước đây, nhân dân ta đã nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh, trường kỳ kháng chiến, thì ngày nay chúng ta càng phải nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh, cần kiệm xây dựng nước nhà”; Người căn dặn: “Cố nhiên sự giúp đỡ của các nước bạn là quan trọng, nhưng không được ỷ lại, không được ngồi mong chờ người khác. Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”. Người luôn coi cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Người xác định phương châm: Tự lực cánh sinh là chính, việc các nước bạn giúp ta là quý trọng, ta tuyệt đối không được dựa dẫm ỷ lại vào sự giúp đỡ của bạn bè. Người nhấn mạnh vấn đề có tính nguyên tắc: “Muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã”.

Trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, cũng chính nhờ tinh thần độc lập, tự lực, tự cường mà Đảng ta đã đề ra đường lối chính trị, quân sự đúng đắn, lãnh đạo quân và dân ta ra sức xây dựng quốc phòng toàn dân vững mạnh, đẩy nhanh tiến công địch trên khắp chiến trường miền Nam. Đồng thời, tranh thủ sự giúp đỡ của nhân dân tiến bộ và yêu chuộng hoà bình trên thế giới nhằm tạo sức mạnh tổng hợp, giành thắng lợi quyết định trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, thống nhất Tổ quốc, cùng cả nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Xây dựng nền quốc phòng toàn dân là do toàn dân, dựa vào dân để phát huy sức mạnh của nhân dân

Tiếp thu truyền thống lịch sử dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh thấm nhuần kinh nghiệm dựng nước và giữ nước của ông cha ta. Đó là, mỗi khi kẻ thù xâm lược thì “tận dân vi binh” trăm họ là binh, toàn dân là lính; Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào; lấy đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo. Khi giặc tan thì khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc làm thượng sách để giữ nước, giữ nước từ khi nước chưa nguy.

Trong Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”; Người răn dạy: “Nước ta mới tranh lại quyền độc lập tự do, nhưng còn phải qua nhiều bước khó khăn, để củng cố quyền tự do độc lập đó. Vậy nên quốc dân ta, bất kỳ già trẻ, đều phải ra sức gánh một vai”. Đồng thời, Người khẳng định sức mạnh của dân tộc Việt Nam: “Không quân đội nào, không khí giới nào có thể đánh ngã được tinh thần hy sinh của toàn thể một dân tộc”.

Trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng thường xuyên nhắc nhở: “Để ngăn chặn âm mưu của kẻ địch, thì cán bộ, bộ đội và nhân dân ta cần phải luôn luôn nâng cao cảnh giác”; “Phải củng cố lực lượng quốc phòng, giữ gìn trật tự trị an, luôn luôn cảnh giác, sẵn sàng đập tan mọi hoạt động khiêu khích và phá hoại của đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng”. Theo Người, nền quốc phòng của nước nhà là phải do toàn dân xây dựng và dựa vào sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ lao động trí óc. Đặc biệt, trong xây dựng thế trận lòng dân vững chắc, chú trọng tại các địa bàn có vị trí chiến lược, như miền núi, hải đảo. Người nói: “Miền núi đối với quốc phòng rất quan trọng. Vì vậy phải chăm lo đến việc củng cố quốc phòng, duy trì trật tự trị an, để chủ động tiêu diệt nhanh chóng bọn biệt kích, đập tan âm mưu của bọn phản động. Cố nhiên đây là trách nhiệm chính của bộ đội, của công an biên phòng, của dân quân. Nhưng toàn Đảng, toàn dân đều có trách nhiệm giúp sức vào việc đó”. Đó là tư tưởng chủ đạo về xây dựng nền quốc phòng toàn dân - nền quốc phòng do toàn dân tham gia, toàn dân thực hiện quốc phòng.

Xây dựng nền quốc phòng toàn dân trên cơ sở luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, chủ động ngăn ngừa, làm thất bại mọi âm mưu của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên giáo dục cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải luôn nêu cao tinh thần cảnh giác đề phòng, quyết không chủ quan, khinh địch. Đặc biệt trong điều kiện đất nước hòa bình càng phải nêu cao tinh thần, ý thức cách mạng; xây dựng nền quốc phòng toàn dân để đất nước sẵn sàng đánh thắng kẻ thù xâm lược khi chúng liều lĩnh gây chiến tranh xâm lược.

Nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tự lực cánh sinh, nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Địch bắn phá ở đâu, chúng không nói cho ta biết trước, cho nên bất cứ ở đâu, bất kỳ lúc nào, chúng ta cũng phải tích cực chuẩn bị sẵn sàng để đánh bại mọi âm mưu tăng cường và mở rộng chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ”. Tăng cường đề cao tinh thần cảnh giác cách mạng, Người dạy rằng: “Càng đánh thắng, quân và dân ta càng phải nâng cao chí căm thù và tinh thần cảnh giác cách mạng, thi đua chiến đấu giỏi, sản xuất giỏi, quyết giành thêm nhiều thắng lợi to lớn hơn nữa”. Trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, Người thường xuyên nhắc nhở: “Nếu ta chuẩn bị tốt thì khi có việc xảy ra, sẽ tránh được thiệt hại, cán bộ và nhân dân không dao động, hoang mang. Việc chuẩn bị phải tích cực, nhưng phải có kế hoạch, có giải thích, đừng làm cho quần chúng hoảng hốt...”.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về nền quốc phòng toàn dân có giá trị cả về mặt lý luận và thực tiễn đối với cách mạng Việt Nam qua các thời kỳ xây dựng và phát triển của đất nước; có vị trí, vai trò, ý nghĩa vô cùng quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; chiến lược quốc phòng, chiến lược quân sự Việt Nam. Do đó, cần nhận thức đầy đủ, sâu sắc giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về nền quốc phòng toàn dân; đồng thời, nắm chắc nội hàm tư tưởng cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Có như vậy, mới vận dụng tư tưởng của Người vào xây dựng nền quốc phòng toàn dân; vào xây dựng chiến lược quốc phòng, chiến lược quân sự Việt Nam mới bảo đảm chất lượng, hiệu quả, đạt mục tiêu, yêu cầu đặt ra.

Tình quân dân  (Nguồn: nhiepanhdoisong.vn)

VẬN DỤNG, PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NÊN QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Nhận thức sâu sắc giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về nền quốc phòng toàn dân, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta luôn chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh. Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta diễn ra trong bối cảnh của tình hình khu vực và thế giới có nhiều biến đổi sâu sắc, chứa đựng những yếu tố biến động khó lường. Hòa bình, hợp tác, liên kết, phát triển vẫn là xu thế, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn tiếp tục gia tăng với hình thái đa dạng. Tuy nhiên, nước ta vẫn đang đứng trước cơ hội và thách thức đan xen, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp. Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu chiến lược “diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Vấn đề đặt ra cho chúng ta là phải làm thế nào để giữ vững được quốc phòng - an ninh, nhưng vẫn tranh thủ được tình hình quốc tế thuận lợi để phát triển.

Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Ðảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa và lợi ích quốc gia - dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, an ninh con người; xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc có nhiều phát triển mới và nội dung rộng lớn so với trước. Đặc biệt, phải “luôn luôn giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng; sự quản lý, điều hành tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; dựa vào dân, lấy “dân là gốc”, khơi dậy, phát huy ý chí tự lực, tự cường, truyền thống văn hóa, yêu nước, sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng “thế trận lòng dân”, lấy “yên dân” là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Yêu cầu mới đối với quốc phòng là xây dựng nguồn sức mạnh to lớn để bảo vệ Tổ quốc, xây dựng nền quốc phòng toàn dân là nguồn sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, toàn diện, độc lập, tự chủ ngày càng hiện đại, lấy mục tiêu độc lập dân tộc, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng. Sức mạnh quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của nhiều yếu tố: kinh tế, chính trị, quân sự, khoa học - kỹ thuật..., sức mạnh của sự kết hợp con người, vũ khí, sức mạnh trong nước và quốc tế. Trong đó, yếu tố giữ vai trò quyết định là yếu tố bên trong, sức mạnh trong nước, yếu tố con người.

Đặc biệt, Đại hội XIII của Đảng xác định: “Tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng và phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân...”, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống. Đây là quan điểm, chủ trương nhất quán, xuyên suốt, thể hiện tư duy đột phá của Đảng về xây dựng nền quốc phòng toàn dân trong giai đoạn hiện nay, hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa nhằm tạo ra nguồn lực tổng hợp tốt nhất cho nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc.

Yêu cầu đối với xây dựng nền quốc phòng toàn dân trong điều kiện mới, đòi hỏi Đảng, Nhà nước ta chú trọng xây dựng tiềm lực kinh tế, xây dựng lực lượng ba thứ quân làm nòng cốt. Đồng thời, tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi trong nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chủ động dự báo các tình huống chiến lược, tư duy mới, linh hoạt về đối tác, đối tượng trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân. Chú trọng tham mưu, xử lý linh hoạt, mềm dẻo, có hiệu quả quan hệ quốc tế; các giải pháp ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; các vấn đề biên giới, biển, đảo, nhất là Biển Đông.

Vận dụng linh hoạt, sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về nền quốc phòng toàn dân, bảo vệ vững chắc Tổ quốc từ sớm, từ xa, góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa. Bảo vệ vững chắc Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy thể hiện được sự chủ động xây dựng nền quốc phòng toàn dân. Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa. Nỗ lực phấn đấu để ngăn ngừa xung đột, chiến tranh và giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ...”(26); “Chủ động ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; phát hiện sớm và xử lý kịp thời những yếu tố bất lợi, nhất là những yếu tố, nguy cơ gây đột biến”.

Tiếp tục, kế thừa, phát triển nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam từ sớm từ xa, Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII đã ban hành Nghị quyết số 44-NQ/TW, ngày 24-11-2023, về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”. Chiến lược đã khẳng định các vấn đề có tính nguyên tắc, như: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý; sức mạnh tổng hợp quốc gia; khối đại đoàn kết toàn dân tộc; xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân; xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; chuẩn bị đất nước sẵn sàng đối phó với các tình huống xung đột và chiến tranh. Đồng thời, xác định những vấn đề cần được nhận thức đầy đủ và sâu sắc hơn, bao gồm: về nhân tố nhân dân trong chiến lược; về lợi ích quốc gia - dân tộc; về phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc; về sức mạnh tổng hợp quốc gia; kiên trì đường lối quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân và thực hiện chính sách bốn không.

Hiện nay và trong những năm tới, để đáp ứng yêu cầu xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ngang tầm nhiệm vụ theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cần tập trung thực hiện một số giải pháp sau:

Thứ nhất, tiếp tục giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước, tích cực, chủ động xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, toàn diện đáp ứng tốt yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam. Đồng thời, phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân xây dựng đất nước, tăng cường quốc phòng toàn dân vững chắc. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Sự đồng tâm của đồng bào ta đúc thành một bức tường đồng xung quanh Tổ quốc. Dù địch hung tàn, xảo quyệt đến mức nào, đụng đầu nhằm bức tường đó, chúng cũng phải thất bại”.

Thứ hai, tích cực, chủ động phát huy cao độ tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường trong xây dựng tiềm lực quốc phòng bảo vệ Tổ quốc. Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng ta, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh của các lực lượng và thế trận quốc phòng toàn dân với sức mạnh và lực lượng của thế trận an ninh nhân dân. Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế với quốc phòng - an ninh, quốc phòng - an ninh với kinh tế trong chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.

Thứ ba, coi “nhiệm vụ xây dựng “thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân là giải pháp nền tảng đặc biệt quan trọng; là vấn đề then chốt, quyết định sinh mệnh và sự sống còn của Đảng, Nhà nước và Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Hoàn thiện xây dựng kết cấu hạ tầng, xây dựng các công trình kinh tế - xã hội phải gắn với quốc phòng để tạo thế trận quốc phòng toàn dân liên hoàn, chắc chắn; gắn thế trận quốc phòng toàn dân với thế trận an ninh nhân dân. Chú trọng xây dựng thế trận phòng thủ ở các địa bàn chiến lược quan trọng.

Thứ tư, thường xuyên chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, trước hết là quân đội nhân dân theo hướng “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”. Xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân có trình độ và sức chiến đấu đủ cao. Trong đó, bộ đội chủ lực, chính quy bảo đảm số lượng thường trực hợp lý, chất lượng cao; lực lượng dự bị động viên hùng hậu, tổ chức, quản lý và huấn luyện tốt, xây dựng kế hoạch sẵn sàng động viên thường trực, chủ động. Dân quân tự vệ được tổ chức rộng khắp từ các thành phần kinh tế, cơ sở sản xuất, kinh doanh, đơn vị hành chính sự nghiệp và các cơ sở làng, xã, phường.

Thứ năm, tổ chức tốt sự phối hợp với tất cả lực lượng, nâng cao cảnh giác ngăn ngừa, đối phó, xử lý hiệu quả các tình huống có thể xảy ra; chủ động hội nhập môi trường quốc tế hòa bình, ổn định, tạo thế có lợi cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc“Tiếp tục ưu tiên quan hệ, hợp tác với các nước láng giềng, các nước lớn, các nước ASEAN và các nước bạn bè truyền thống; đẩy mạnh hợp tác quốc phòng đa phương, chủ động tham gia và đóng góp sáng kiến vào các cơ chế hợp tác quốc phòng của ASEAN; tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc”. Nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo thế và lực mới cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.

Trong giai đoạn phát triển mới, tư tưởng Hồ Chí Minh về nền quốc phòng toàn dân tiếp tục soi sáng cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và thực hiện đường lối đổi mới của Đảng ta. Trong bối cảnh quốc tế, khu vực vừa có cơ hội thuận lợi, vừa có khó khăn, thách thức và tiềm ẩn nguy cơ bất ổn, để tăng cường sức mạnh quốc phòng bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, cần quán triệt, vận dụng linh hoạt, chủ động, sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân./.

ST.

Chặt đứt "nọc độc" căn bệnh trầm kha

Bệnh “nhận vơ” thành tích, đùn đẩy, lo sợ trách nhiệm như virus độc hại, gặm nhấm, để lại trăm thứ hệ lụy dai dẳng. Cán bộ, đảng viên mắc bệnh này sẽ đánh mất vai trò tiên phong, vì làm việc gì cũng mưu cầu vụ lợi, mánh khóe, nơm nớp lo âu bị phanh phui. Đây là mối nguy trong Đảng cần phải triệt hạ tận gốc bằng những giải pháp mạnh mẽ, trong đó chú trọng xây dựng nền đạo đức chính trị, liêm chính, công minh.

(Tranh minh họa: Mạnh Tiến/ qdnd.vn)

(Tranh minh họa: Mạnh Tiến/ qdnd.vn)

TRĂM THỨ HỆ LỤY DAI DẲNG

Bệnh “nhận vơ” thành tích, đùn đẩy, lo sợ trách nhiệm đẻ ra trăm thứ tác hại trong đời sống cán bộ, đảng viên hiện nay, song hệ lụy trước tiên đó là làm băng hoại đạo đức, biến con người thành cá nhân chủ nghĩa, gây mất đoàn kết nội bộ. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều lần người đứng đầu Đảng ta đã nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải giữ gìn phẩm chất trong sáng.

Sự hoài nghi, đố kỵ, ghen ghét, sợ người khác, tổ chức khác hơn mình nên lúc nào cũng tìm mọi cách để “đứng trên đầu, trên cổ” người ta, bằng các thủ đoạn chạy chọt, vơ vét thành tích, đùn đẩy trách nhiệm cho người khác... Nhưng tiếc thay, thành tích mà họ có được là thành tích ảo, sức mạnh giả tạo. Đây chính là căn nguyên làm mất sự dân chủ, đoàn kết nội bộ, gây mất niềm tin trong cán bộ đảng viên, quần chúng nhân dân.

Ở góc độ kinh tế - xã hội, bệnh “nhận vơ” thành tích, đùn đẩy, lo sợ trách nhiệm cũng chính là hành vi tham nhũng, gây thiệt hại về vật chất cho Đảng, Nhà nước, kìm hãm sự phát triển nói chung. Bởi thông thường những cán bộ, đảng viên mắc phải căn bệnh này thì lòng tham không đáy. Một khi họ đã tranh được công, đổ được tội, thu lợi bất chính thì sẽ tiếp tục có những hành động tham ô khác, không từ một thứ gì miễn là vun vén lợi lộc cho mình. Các chuyên gia cũng nhận định, căn bệnh vơ thành tích, đùn đẩy trách nhiệm này cũng sẽ gián tiếp tác động đến việc ban hành chính sách. Hay nói cách khác để có lợi cho bản thân, họ sẽ “chạy” các chính sách theo hướng mang lợi cho họ, không nghĩ đến tập thể.

Trong bối cảnh hiện nay, tình trạng đùn đẩy, sợ trách nhiệm diễn ra khá phổ biến, có tác động trực tiếp tới sự phát triển của các lĩnh vực, ngành và sự vững mạnh của các tổ chức. Căn bệnh lo sợ trách nhiệm khiến cán bộ, đảng viên không dám làm, triệt tiêu sự sáng tạo, đổi mới; làm cho nhiều công việc trở nên trì trệ, ách tắc, không khai thông được nguồn lực, kìm hãm sự phát triển.

Tại Kỳ họp Quốc hội lần thứ bảy, khóa XV mới đây, lý giải nguyên nhân vì sao đầu tư công sau 4 tháng đầu năm 2024 chỉ đạt 17,46% kế hoạch, trong đó hơn 310 dự án có tỷ lệ giải ngân 0%; 28 địa phương giải ngân dưới mức trung bình của cả nước? Nhiều đại biểu Quốc hội cho rằng một phần là do tâm lý sợ sai, sợ trách nhiệm còn khá nặng nề. Hệ quả là làm chậm quá trình phát triển của tổ chức, sự tiến bộ của cá nhân, nghiêm trọng hơn làm giảm sút niềm tin trong quần chúng với Đảng, Nhà nước, chế độ.

Đấu tranh ngăn chặn căn bệnh “nhận vơ” thành tích, đùn đẩy, lo sợ trách nhiệm là nhiệm vụ cấp bách của Đảng ta hiện nay. Bởi như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng”. Một trong những điểm mới nổi bật ở Kết luận số 21-KL/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII đó là đã đề ra mục tiêu trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng: Kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá"...

Theo số liệu của Ban Nội chính Trung ương, trong năm 2023, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã thi hành kỷ luật 19 cán bộ diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý; thi hành kỷ luật 105 cán bộ diện Trung ương quản lý, trong đó 22 ủy viên, nguyên ủy viên Trung ương Đảng, tính từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII đến tháng 2-2024. Trong số đó, không ít cán bộ, đảng viên từng là những tấm gương với nhiều thành tích.

LIỀU KHÁNG SINH ĐIỀU TRỊ CĂN BỆNH NGUY HẠI

Đấu tranh với căn bệnh “nhận vơ” thành tích, đùn đẩy, lo sợ trách nhiệm là nhiệm vụ cấp bách nhưng không phải ngày một, ngày hai. Bởi đây là cuộc chiến mà "địch" ở phía bên trong ta, không có giới tuyến rõ ràng, phức tạp vì khó nhận định tội; cần phải kiên trì, kiên quyết, lâu dài, vừa xây, vừa chống. Và đặc biệt là cần sự vào cuộc đồng bộ của cả hệ thống chính trị, từ thay đổi nhận thức chính trị đến hành động.

Trước hết, các tổ chức đảng cần tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, nhất là biểu hiện tranh thành tích, đùn đẩy trách nhiệm. Thực tế, rất nhiều cán bộ, đảng viên vẫn nhận thức mơ hồ, cho rằng “vơ thành tích”, “đùn đẩy trách nhiệm” là làm lợi cho tập thể mình.

Đó là cách lý giải ngụy biện bởi thành tích ảo để lại trăm hệ lụy, về lâu dài làm suy yếu sức mạnh của Đảng. Do vậy, các tổ chức đảng cần thường xuyên đa dạng hóa hình thức tuyên truyền, nhất là thông qua hội họp, sinh hoạt hoặc lồng ghép vào các hoạt động phong trào, giúp cán bộ, đảng viên nâng cao nhận thức về những chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới theo Quy định số 144-QĐ/TW ngày 9/5/2024 của Bộ Chính trị về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới.

Song cùng với đó, để tránh việc đùn đẩy trách nhiệm, mỗi cán bộ, đảng viên không ngừng phát huy trách nhiệm của bản thân trong tự phê bình và phê bình, giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt đảng. Một mặt cán bộ, đảng viên tự soi, tự sửa; phát huy những điểm mạnh, tự sửa những khuyết điểm, hạn chế; mặt khác đóng góp cho đồng đội trên tinh thần xây dựng, phê bình việc chứ không phê bình người; cùng nhau học tập, nâng cao chất lượng công tác, tiến bộ. Đây cũng là giải pháp nâng cao sức chiến đấu của tổ chức đảng trước những thói hư, tật xấu.

Để chữa bệnh lo sợ trách nhiệm đòi hỏi phải có cơ chế chính sách khuyến khích, đãi ngộ cán bộ, đảng viên trong thực thi nhiệm vụ. Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 14-KL/TW ngày 22/9/2021 về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung với những tư duy mới. Trong đó có một điểm rất đáng chú ý đó là đề cao cán bộ: Dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm.

Trên tinh thần này, mỗi cán bộ, đảng viên nêu cao tinh thần 4 “dám”, đặc biệt là dám chịu trách nhiệm. Mặt khác cấp ủy, tổ chức đảng cần có đánh giá khách quan về cán bộ 4 dám, vì thực tế cán bộ xông xáo, dám nghĩ dám làm thì dễ sai, thậm chí nhiều lần sai, do vậy cần phải công tâm khách quan, vừa giúp cán bộ, đảng viên nhận ra khuyết điểm, lại vừa giúp họ sửa sai, đột phá, sáng tạo vì tập thể; đồng thời có các chính sách đãi ngộ để họ phát huy sáng tạo, đổi mới.

Các tổ chức đảng cần tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên. Thời gian qua, không ít cán bộ sai phạm nhưng ngay trong tập thể không phát hiện ra; thậm chí che giấu, sợ liên lụy mất thành tích, rồi “mũ ni che tai”, “ngậm bồ hòn làm ngọt”. Điều này cho thấy công tác kiểm tra, giám sát của tổ chức đảng chưa làm tròn trách nhiệm.

Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” viết năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng răn dạy: “Kiểm soát khéo, bao nhiêu khuyết điểm lòi ra hết, hơn nữa kiểm tra khéo về sau khuyết điểm nhất định bớt đi”. Trên tinh thần ấy, mỗi tổ chức đảng cần nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kiên quyết loại trừ ra khỏi đảng những cán bộ, đảng viên tranh công, đổ lỗi; động cơ không trong sáng, gian dối, để giữ gìn sự trong sạch của tổ chức đảng. Đồng thời, phát huy vai trò của quần chúng nhân dân trong giám sát, kiểm tra cán bộ, đảng viên.

Để xảy ra căn bệnh “nhận vơ” thành tích, đùn đẩy, lo sợ trách nhiệm cũng phải nhìn nhận thẳng vấn đề đó là công tác thi đua, khen thưởng thời gian qua chưa thực sự hữu hiệu. Bằng chứng là nhiều nơi, khen thưởng chưa kịp thời, chưa đúng người, cào bằng, thậm chí thiếu chính xác, dẫn đến chưa tạo động lực phấn đấu. Giải quyết vấn đề này, vừa qua Luật Thi đua, khen thưởng (sửa đổi) đã có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2024 với nhiều điểm mới, đột phá.

Theo đó, việc khen thưởng cần bảo đảm tính toàn diện, hợp lý; đúng nguyên tắc, quy trình; hướng về cơ sở, người trực tiếp lao động; trên quan điểm thành tích đến đâu khen thưởng đến đó, khen thưởng phải kịp thời từ những việc làm tốt, hành động ý nghĩa; tạo động lực cho cán bộ, đảng viên có niềm tin, động lực thi đua mới bằng khả năng của mình.

Trị bệnh chủ nghĩa cá nhân nói chung, bệnh “nhận vơ” thành tích, đùn đẩy, lo sợ trách nhiệm nói riêng là nhiệm vụ lâu dài của Đảng ta. Trước thềm Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, công việc này càng quan trọng, cấp thiết, đòi hỏi sự kiên trì, kiên quyết của cả hệ thống chính trị, có như vậy mới đạt được như kỳ vọng của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Mỗi cá nhân cũng trở nên tốt hơn, phát huy được nhiều hơn phẩm chất và năng lực của mình”./.

ST.

Góp phần xây dựng một nền hành chính công hiệu quả

Quy định số 144-QĐ/TW về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới không chỉ định hướng hành động mà còn tạo cơ sở cho mọi hoạt động của cán bộ, đảng viên đều hướng tới sự minh bạch, trung thực và gương mẫu, qua đó góp phần xây dựng một nền hành chính công hiệu quả, phục vụ nhân dân một cách tốt nhất.

Người dân đến làm thủ tục tại Trung tâm Hành chính công huyện Bình Liêu, Quảng Ninh. (Ảnh: TTXVN)

Người dân đến làm thủ tục tại Trung tâm Hành chính công huyện Bình Liêu, Quảng Ninh. (Ảnh: TTXVN)

XÂY DỰNG BỘ MÁY CHÍNH QUYỀN MINH BẠCH

Theo Tiến sỹ Nguyễn Ngọc Sinh, Chủ tịch Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam, Điều 3 của Quy định số 144-QĐ/TW nhấn mạnh các phẩm chất "cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư" và đưa ra những quy định cụ thể về trách nhiệm của cán bộ, đảng viên đối với bản thân, gia đình và tổ chức đảng.

Việc áp dụng Điều 3 sẽ giúp mỗi cán bộ, đảng viên tự giác rèn luyện và nâng cao đạo đức cá nhân. Điều này không chỉ tạo ra những cá nhân gương mẫu mà còn lan tỏa những giá trị tốt đẹp trong gia đình và cộng đồng. Đồng thời, với tinh thần "cần, kiệm, liêm, chính", cán bộ, đảng viên sẽ góp phần xây dựng một bộ máy chính quyền minh bạch, hiệu quả, luôn đặt lợi ích của nhân dân lên hàng đầu. Việc thực hiện tốt quy định này cũng giúp củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước, từ đó thúc đẩy phát triển bền vững và bảo vệ môi trường một cách toàn diện.

Áp dụng các nguyên tắc "cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư" trong công tác bảo vệ môi trường giúp cán bộ, đảng viên thực hiện công vụ một cách có trách nhiệm, minh bạch và hiệu quả hơn; góp phần xây dựng một nền hành chính công mạnh mẽ, đảm bảo sự phát triển bền vững của đất nước.

Theo Tiến sỹ Nguyễn Ngọc Sinh, mỗi hành động bảo vệ môi trường, dù nhỏ, khi được thực hiện bởi các cán bộ, đảng viên sẽ tạo ra những tác động tích cực lớn lao, lan tỏa trong cộng đồng. Đạo đức môi trường không chỉ là trách nhiệm của từng cá nhân mà còn là nghĩa vụ đối với tương lai của toàn xã hội. Khi cán bộ, đảng viên thấm nhuần và thực hiện đúng những quy định này, họ sẽ góp phần quan trọng trong việc xây dựng một môi trường sống lành mạnh, bền vững cho các thế hệ mai sau.

Tiến sỹ Nguyễn Ngọc Sinh bày tỏ quan điểm, Quy định số 144-QĐ/TW được soạn thảo cụ thể, ngắn gọn và dễ hiểu; có tính khả thi cao, giúp cán bộ, đảng viên dễ dàng nắm bắt và thực hiện đúng đắn. Điều này tạo ra một khuôn khổ rõ ràng, minh bạch để mọi người tuân thủ. Việc chi tiết hóa các yêu cầu và trách nhiệm theo từng nội dung cũng giúp các cá nhân hiểu rõ nhiệm vụ của mình trong thực hiện đạo đức nghề nghiệp.

Bên cạnh đó, sự cụ thể và dễ hiểu của quy định giúp nâng cao hiệu quả thực thi, tạo sự đồng thuận và hợp tác tốt hơn giữa các cấp, các ngành. Điều này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh cần có những hành động thiết thực và kịp thời để bảo vệ môi trường, một nhiệm vụ không chỉ mang tính cấp bách mà còn lâu dài.

CỦNG CỐ NIỀM TIN CỦA NHÂN DÂN

Theo bà Lê Thị Tuyến, Bí thư Chi bộ T6, Times City, phường Vĩnh Tuy, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội, hiện nay, các Đảng bộ và chi bộ trên toàn quốc đang tích cực triển khai thực hiện Quy định 144 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, coi đây là một nhiệm vụ quan trọng trong công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng.

Để đạt hiệu quả cao, bà Lê Thị Tuyến cho rằng, các Đảng bộ và chi bộ cần nắm vững nội dung Quy định 144, từ đó hiểu rõ mục tiêu, yêu cầu và nội dung triển khai. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cần được đẩy mạnh để tạo sự đồng thuận, thống nhất cao trong nhận thức và hành động. Đồng thời, cải tiến và đổi mới nội dung, hình thức sinh hoạt chi bộ, đảm bảo tính thiết thực, hiệu quả. Công tác kiểm tra, giám sát phải được tăng cường, kịp thời phát hiện và xử lý các vi phạm, bảo đảm sự nghiêm minh và kỷ luật của Đảng. Vai trò của người đứng đầu các cấp ủy, tổ chức đảng cũng cần được phát huy, tạo sự lan tỏa tích cực trong toàn Đảng. Ngoài ra, phương thức lãnh đạo cần được đổi mới, bảo đảm sự hiệu quả, sáng tạo và phù hợp với tình hình thực tiễn. Việc tập trung vào các vấn đề này sẽ góp phần quan trọng vào việc xây dựng và chỉnh đốn Đảng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới.

Bà Lê Thị Tuyến cũng nêu ý kiến, để Quy định 144 thực sự đi vào cuộc sống, các chi bộ cần chú trọng công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện. Điều này đảm bảo mỗi cán bộ, đảng viên không chỉ hiểu rõ mà còn tự giác tuân thủ các quy định. Bên cạnh đó, bà Lê Thị Tuyến đề xuất việc thường xuyên tổ chức các buổi sinh hoạt chi bộ theo hướng mở, tạo điều kiện để mọi đảng viên được tham gia đóng góp ý kiến và chia sẻ kinh nghiệm. Qua đó, nâng cao nhận thức và trách nhiệm của từng cá nhân trong xây dựng Đảng vững mạnh. Đặc biệt, sự gương mẫu và quyết tâm của người đứng đầu các cấp ủy sẽ là động lực quan trọng thúc đẩy toàn Đảng bộ và chi bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, góp phần xây dựng một tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới.

Quy định số 144-QĐ/TW ra đời là một bước tiến quan trọng trong việc nâng cao đạo đức và trách nhiệm của cán bộ, đảng viên. Với những quy định cụ thể, dễ hiểu và khả thi, văn bản này không chỉ giúp tạo ra một bộ máy chính quyền minh bạch, hiệu quả mà còn củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước. Việc triển khai hiệu quả các nguyên tắc "cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư" sẽ giúp mỗi cán bộ, đảng viên trở thành những tấm gương sáng, lan tỏa giá trị tích cực trong cộng đồng../.

ST.

Nhận diện những dạng thức mới của căn bệnh trầm kha

“Nhận vơ” thành tích nhưng khi tập thể, cá nhân có khuyết điểm thì lại đùn đẩy, lo sợ trách nhiệm. Đây là căn bệnh nguy hại bởi nó là giặc “nội xâm”, một loại “giặc từ bên trong”, gây chia rẽ đoàn kết, kìm hãm sự phát triển, làm giảm sút sức sống, uy tín, ngăn cản bước tiến sự nghiệp cách mạng của Đảng ta. Nguy hại là căn bệnh này đang lây lan trong phong cách làm việc của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Trị bệnh “nhận vơ” thành tích, đùn đẩy, lo sợ trách nhiệm vừa là công việc cấp bách, vừa là nhiệm vụ lâu dài của Đảng hiện nay.

(Tranh minh họa: Mạnh Tiến/ qdnd.vn)

(Tranh minh họa: Mạnh Tiến/ qdnd.vn)

Mặc dù chẳng có đóng góp hoặc không đáng kể nhưng vẫn “nhận vơ” thành tích về mình, thậm chí phô trương thành tích để làm đẹp báo cáo, đánh bóng tổ chức và bản thân; nhưng hễ có sai lầm, khuyết điểm gì thì lại lo sợ trách nhiệm và tìm mọi cách để chối bay, chối biến, đùn đẩy, không dám nhận. Đó là biểu hiện của sự sa sút về tư tưởng, phẩm chất đạo đức, lối sống; một biểu hiện cụ thể, rất đáng báo động của chủ nghĩa cá nhân. Để điều trị căn bệnh này, cần thiết phải mổ xẻ mầm mống, “nội soi” nguyên nhân gây ra.

BIỂU HIỆN LO NGẠI CỦA CHỦ NGHĨA CÁ NHÂN

Khi muốn ám chỉ, phê phán những kẻ có lối sống thực dụng, khôn lỏi, thành tích thì vơ hết về mình, khó khăn, hiểm nguy lại đùn đẩy cho người khác, người xưa thường có câu: “Ăn cỗ đi trước, lội nước theo sau”. Lời nhắc nhở ấy cho đến nay vẫn nguyên giá trị; bởi hành vi này đang ngấm ngầm diễn ra trong hoạt động công quyền ở các cơ quan Nhà nước.

Theo Từ điển tiếng Việt: “Nhận vơ” là nhận về mình cái biết rõ là không phải của mình. Đây là hành vi ngang ngược mà biểu hiện thấy rõ nhất là khi cấp trên đề nghị báo cáo thành tích để khen thưởng thì các tổ chức, cơ quan đồng loạt báo cáo rất kêu. Ngoài việc “tô hồng” thành tích thì có cả những phần việc biết đơn vị, cá nhân mình không tham gia nhưng vẫn khai man, “dây máu ăn phần”. Người mắc bệnh này thường có tâm lý hoang mang, lo sợ, hoài nghi, thiếu niềm tin và mang tư tưởng ghen ghét, đố kỵ. Nhiều tổ chức, cá nhân soạn xong báo cáo thì gửi cấp trên, còn nội bộ thì giấu tiệt đi, không cho ai biết vì sợ bị lộ. Thế nhưng “cái kim trong bọc lâu ngày cũng lòi ra”. Chuyện thật như bịa ấy đã xảy ra ở tỉnh Vĩnh Long cách đây chưa lâu. Chuyện là, khi được cấp trên đề nghị báo cáo tiến độ Dự án xây dựng nhà ở xã hội Khu công nghiệp Hòa Phú, lãnh đạo huyện Long Hồ đã vô tư khai man hoàn thành tiến độ để được biểu dương. Chỉ đến khi bị đoàn thanh tra của Chính phủ về làm việc thì mới lòi “cái đuôi chuột” ra.

Lại có một chuyện cười ra nước mắt, vào dịp kỷ niệm 76 năm Ngày Thương binh - Liệt sĩ (27/7), một đơn vị nọ ở địa phương được giao nhiệm vụ đón và phục vụ các đoàn thiện nguyện từ các nơi về thăm hỏi, tặng quà gia đình chính sách. Cuối năm làm báo cáo, đơn vị ấy đã “mạnh dạn” tự cộng thêm các phần quà của các tổ chức khác đến thăm, tặng vào thành tích của đơn vị mình. Với thành tích cao "ngất ngưởng" và được cấp trên khen thưởng, biểu dương... Hoặc hiện tượng khá phổ biến trong thực tế khi đánh giá về kết quả của một việc cụ thể, ví như thành tích trong công tác tuyên truyền, các hoạt động phong trào, xây dựng mô hình điển hình... Tổ chức đảng, đoàn thanh niên, hội phụ nữ, công đoàn cũng đều nhận về mình. Tổ chức nào cũng “vơ vào” số liệu, cách làm, hiệu quả... giống và “hay” như nhau.

Thành tích thì vơ về mình nhưng hễ liên quan đến trách nhiệm thì tìm cách đùn đẩy. Biểu hiện đó là: Nhiều tổ chức và cá nhân khi bị nhắc nhở, phê bình thì tìm mọi cách để đổ lỗi, tìm một lý do nào đó để chèo lái sự việc sang hướng khác, hòng tìm đường thoát cho mình. Thường thì cấp trên đổ lỗi cho cấp dưới; cấp dưới lại đổ lỗi cho cấp dưới nữa; hoặc vin vào lý do cơ chế, do điều kiện, hoàn cảnh... Sau khi đùn đẩy là lo sợ trách nhiệm. Biểu hiện mắc bệnh này là thường xuyên sợ bị liên lụy, sợ bị quy trách nhiệm, sợ bị ảnh hưởng lợi ích cá nhân, nên làm gì cũng tính toán, so đo, lo sợ, không quyết đoán, thu mình trong “chiếc kén”. Thậm chí cấp trên giao nhiệm vụ nhưng tìm mọi cách để né tránh, không làm, hoặc kiểu làm đối phó, không tận tâm, tận lực để tránh vạ trách nhiệm. Đây cũng là căn bệnh mà cách đây 50 năm, trong bài viết "Bệnh sợ trách nhiệm” của đồng chí Nguyễn Phú Trọng đăng trên Tạp chí Cộng sản chỉ rõ: “Làm việc cầm chừng cho đủ bổn phận, cốt sao không phạm khuyết điểm. Rụt rè, do dự khi giải quyết công việc, không phát biểu rõ ràng, dứt khoát ý kiến của mình, không dám quyết đoán những việc thuộc phạm vi trách nhiệm và quyền hạn được giao. Lấy lý do làm việc tập thể, tôn trọng tập thể để dựa dẫm vào tập thể, việc lớn việc nhỏ gì cũng đưa ra tập thể bàn, chờ ý kiến tập thể cho đỡ phiền...”.

“Nhận vơ” thành tích, đùn đẩy, lo sợ trách nhiệm là những biểu hiện tiêu cực trong hoạt động, thực thi nhiệm vụ của tổ chức, một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay. Nó có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, là biểu hiện đáng báo động với các dạng thức mới của chủ nghĩa cá nhân, biểu hiện của tình trạng “tranh công, đổ lỗi”. Căn bệnh này đang lây lan và có chiều hướng gia tăng, nhất là thời điểm trước thềm đại hội Đảng các cấp. Thực chất nó tạo nên sự vững mạnh giả tạo, thành tích ảo; triệt hạ sự phát triển.

“TẤM BÌNH PHONG" CHE KHUYẾT ĐIỂM

Trong suốt cuộc đời cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn lo lắng, rèn giũa, nhắc nhở cán bộ tránh xa những thói hư tật xấu của chủ nghĩa cá nhân. Người gọi chủ nghĩa cá nhân là “giặc nội xâm” - giặc ở bên trong mỗi con người, mỗi cơ quan, đoàn thể; “Nó là mẹ đẻ ra tất cả mọi tính hư nết xấu”.

Tại Hội nghị Trung ương 4 khóa XII (năm 2016), Đảng ta đã đưa ra 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên. Biểu hiện trước tiên đó là do cán bộ, đảng viên sa vào chủ nghĩa cá nhân: “Cá nhân chủ nghĩa, sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi; chỉ lo thu vén cá nhân, không quan tâm đến lợi ích tập thể; ganh ghét, đố kỵ, so bì, tị nạnh, không muốn người khác hơn mình”. Quân ủy Trung ương cũng ban hành Nghị quyết số 847-NQ/QUTW về phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân trong tình hình mới. Điều ấy cho thấy quyết tâm cao của Đảng ta trong công cuộc chống lại các biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân.

Thành tích, khen thưởng vốn là những mỹ từ rất ý nghĩa. Đó là sự ghi nhận, khẳng định quá trình phấn đấu, nỗ lực trong thực thi nhiệm vụ; khác xa hoàn toàn với hành vi “nhận vơ” thành tích, đùn đẩy, lo sợ trách nhiệm. Vì sao căn bệnh này xuất hiện ngày càng đáng báo động, lây lan ở một bộ phận cán bộ, đảng viên?

Xét về nguyên nhân chủ quan thì sâu xa của căn bệnh này là do chủ nghĩa cá nhân mà ra; dẫn đến một số cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Biểu hiện rõ nhất là bệnh thành tích, háo danh, háo thành tích, “con gà tức nhau tiếng gáy”, nên luôn bon chen, ganh đua. Đôi khi, các tổ chức, cá nhân còn sử dụng thành tích để làm “tấm bình phong” che đậy khuyết điểm. Bệnh này còn do một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu trách nhiệm, thiếu trung thực trong thực thi nhiệm vụ. Cùng với tâm lý sợ sai, ngại va chạm nên họ làm việc cầm chừng, thiếu sáng tạo, né tránh khuyết điểm để lợi mình, hại người.

Xét về nguyên nhân khách quan, trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật và vận hành các cơ chế, chính sách, quy định vẫn còn nhiều nội dung chồng chéo, mâu thuẫn, phát sinh tình trạng chồng lấn chức năng, nhiệm vụ. Bên cạnh đó, công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ngày càng quyết liệt, nhiều cán bộ, kể cả cấp cao bị xử lý. Kết quả đó bên cạnh hiệu ứng xã hội rất tốt, góp phần xây dựng Đảng và hệ thống chính trị cũng tác động tới tư tưởng, tâm lý của một bộ phận cán bộ, đảng viên, lo lắng, lo sợ thái quá, làm gì cũng nghe ngóng, sợ sai, sợ trách nhiệm, chỉ lo bảo toàn, giữ ghế; hoặc tìm mọi cách đánh bóng, ghi điểm tạo sự vững mạnh giả tạo; khi xảy ra sự vụ thì đùn đẩy, né tránh trách nhiệm. Việc cụ thể hóa, hiện thực hóa chủ trương, quy định về khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung, nhiều nơi chưa quán triệt, thực hiện nghiêm túc, hiệu quả...

Trong thực tế, không ít cán bộ, đảng viên nhờ “nhận vơ” thành tích, đùn đẩy trách nhiệm, qua mặt được tổ chức, leo cao trong bộ máy Nhà nước, đến lúc bị xử lý mới vỡ lẽ ra. Lỗi này một phần nguyên nhân là do việc theo dõi, bồi dưỡng, đánh giá, kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên chưa hiệu quả. Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII chỉ rõ: Đó chính là vì “tâm lý nể nang, né tránh, ngại va chạm, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh”. Mặt khác, hoạt động thi đua, khen thưởng ở một số đơn vị còn nặng tính hình thức, chưa chú trọng kết quả thực chất, việc tổ chức, đánh giá còn hời hợt, cảm tính./.

ST.

Cảnh báo của Bác Hồ về sự suy thoái của cán bộ, đảng viên

Những cảnh báo của Bác Hồ chỉ ra trước đây về các “căn bệnh” mà cán bộ, đảng viên nhiễm phải so với những biểu hiện về sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ hiện nay là hoàn toàn trùng khớp, có chăng chỉ khác nhau về tính chất, mức độ, phạm vi, đối tượng... mà thôi. Bác chỉ rõ: “Cán bộ nào tốt, cán bộ nào xấu, cán bộ nào có lầm lỗi mà có thể sửa đổi, ai làm việc gì hay, việc gì quấy, dân chúng cũng do so sánh, mà họ biết rõ ràng”; “Dựa vào ý kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức của ta”. 

Tại Đại hội Anh hùng, chiến sĩ thi đua chống Mỹ cứu nước năm 1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Chính phủ ta là một Chính phủ làm đày tớ của nhân dân, một lòng một dạ phục vụ nhân dân. Nếu ai ở trong Chính phủ mà muốn làm quan thì không ở được trong Chính phủ ta. Bác nói như thế là chẳng những trong Chính phủ Trung ương mà cả chính phủ địa phương cho đến các ủy ban hành chính xã, nếu ai muốn làm quan thì mời đi làm quan chứ không được ở trong chính quyền của ta”.

Đây không phải là lần đầu tiên Bác Hồ nói về Chính phủ là “công bộc” của dân. Ngay từ khi Đảng ta chưa ra đời, trong tác phẩm “Đường kách mệnh”, Bác đã chỉ ra 22 điểm cần có trong “tư cách một người cách mệnh” mà nòng cốt là “cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư”. Ngay sau Cách mạng Tháng Tám 1945, trong Thư gửi ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng, Người đã viết: “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu cưỡi cổ dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật”. Sau đó không lâu, ngày 20-2-1947, tại buổi nói chuyện với các đại biểu nhân sĩ trí thức, phú hào tỉnh Thanh Hóa, Bác Hồ tiếp tục yêu cầu: “Chính phủ Cộng hòa Dân chủ là gì? Là đày tớ chung của dân, từ Chủ tịch toàn quốc đến làng. Dân là chủ thì Chính phủ phải là đày tớ. Làm việc ngày nay không phải là để thăng quan, phát tài. Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ”.

Đảng ta ra đời và lãnh đạo nhân dân giành chính quyền cho dân. Dân giao chính quyền đó cho người đại diện của mình là các tổ chức, chính quyền, cán bộ, đảng viên. Những cán bộ có phẩm chất, năng lực được đông đảo nhân dân tín nhiệm bầu vào Ủy ban nhân dân làng, sau đó được bầu vào Quốc hội, Chính phủ Trung ương và “chính phủ” địa phương. Trong bài “Chính phủ là công bộc của dân” (19-9-1945), Bác yêu cầu “bao nhiêu những cái xấu xa, thối nát, bất công, áp bức của chế độ cũ, của các hội đồng kỳ mục trước sẽ không thể tồn tại trong các ủy ban nhân dân bây giờ”. Tuy nhiên, khi cách mạng đã thành công, chính quyền về tay nhân dân, nhưng một số “căn bệnh” của quan lại phong kiến vẫn nhiễm vào đầu óc không ít cán bộ, đảng viên chúng ta và trở thành “khuyết điểm to”. Đó “khuynh hướng chật hẹp và bao biện”, “lạm dụng hình phạt”, “hủ hóa”, “kéo bè kéo cánh”, “kiêu ngạo”... Ngày 1-3-1947, trong Thư gửi các đồng chí Bắc Bộ, Bác đã nêu tám khuyết điểm “phải kiên quyết tẩy sạch”. Đó là: “Địa phương chủ nghĩa”; "Óc bè phái”; “Óc quân phiệt quan liêu” (khi phụ trách một vùng nào thì như một ông “vua con”); “Óc hẹp hòi”; “Ham chuộng hình thức”; “Làm việc lối bàn giấy”; “Vô kỷ luật, kỷ luật không nghiêm”; “Ích kỷ, hủ hóa”. Tháng 10-1947, trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” với bút danh X.Y.Z, Bác Hồ đã chỉ ra những khuyết điểm phát triển thành “căn bệnh rất nguy hiểm” mà cán bộ, đảng viên còn mắc phải. Theo Người, có thể xếp vào ba loại: “Khuyết điểm về tư tưởng, tức là bệnh chủ quan. Khuyết điểm về sự quan hệ trong Đảng và ngoài Đảng, tức là bệnh hẹp hòi. Khuyết điểm về cách nói và cách viết, tức là ba hoa”. Ba “chứng bệnh nguy hiểm” này nếu không chữa ngay để nó lây ra, thì có hại vô cùng.  Đặc biệt, ngay từ thời gian này, Bác Hồ phân tích một cách sâu sắc rằng: “Mỗi chứng bệnh là một kẻ địch. Mỗi kẻ địch bên trong là một bạn đồng minh của kẻ địch bên ngoài. Địch bên ngoài không đáng sợ. Địch bên trong ta đáng sợ hơn, vì nó phá hoại từ trong phá ra. Vì vậy, ta phải ra sức đề phòng những kẻ địch đó, phải sửa chữa hết những chứng bệnh đó”. Điều đáng chú ý là, những chứng bệnh này là bước phát triển tất nhiên của những chứng bệnh cũ. Đó là các: “Bệnh nể nang”; “Bệnh tham lam”, “Bệnh lười biếng”, “Bệnh kiêu ngạo”; “Bệnh hiếu danh”; “Bệnh thiếu kỷ luật”; “Óc hẹp hòi”; “Óc lãnh tụ”; “Bệnh hữu danh vô thực”; “Bệnh kéo bè kéo cánh”; “Bệnh cận thị” (không nhìn xa thấy rộng); “Bệnh tị nạnh”; “Bệnh xu nịnh, a dua”... Những chứng bệnh trên bắt nguồn từ “Bệnh cá nhân”, mọi suy nghĩ việc làm đều xuất phát từ lợi ích cá nhân và đặt lợi ích cá nhân lên trên hết, trước hết. Tất cả đều vì cá nhân, vì gia đình mình, vì phe nhóm mình. Bác khẳng định: Mắc những căn bệnh đó là do “kém tính đảng”, mắc một trong những bệnh đó “là hỏng việc”. Người căn dặn “chúng ta phải ráo riết dùng phê bình và tự phê bình để giúp nhau chữa cho hết những bệnh ấy”.

Sau này, Bác Hồ cũng đã chỉ ra một số “căn bệnh” mà cán bộ, đảng viên mắc phải, nhưng Người chỉ rõ các căn bệnh này thuộc phạm trù “chủ nghĩa”. Chẳng hạn, trong tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, viết nhân dịp 39 năm ngày Đảng ta ra đời (3-2-1969), Người đã khái quát: “Còn có một số ít cán bộ, đảng viên mà đạo đức, phẩm chất còn rất kém. Họ mang nặng chủ nghĩa cá nhân mà ngại gian khổ, khó khăn, sa vào tham ô, hủ hóa, lãng phí, xa hoa (...) tham danh trục lợi, thích địa vị, quyền hành (...), tự cao tự đại, coi thường tập thể, xem kinh quần chúng, độc đoán, chuyên quyền, xa rời quần chúng, xa rời thực tế, mắc bệnh quan liêu mệnh lệnh (...) mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức, thiếu tính kỷ luật, kém tinh thần trách nhiệm, không chấp hành đúng đường lối, chính sách của Đảng và của Nhà nước, làm hại đến lợi ích của cách mạng, của nhân dân”./.

ST.


Cán bộ cần “biết lãnh đạo” để làm “đầy tớ” nhân dân

Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền… Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Ý nghĩa sâu xa của lời căn dặn đó chính là, để hoàn thành sứ mệnh giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và giải phóng con người, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải “biết lãnh đạo” để đi tới mục tiêu cao cả đó, để xứng đáng là “Người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.

Bác Hồ về thăm xã Tân Phong (Vĩnh Phúc) năm 1956.
Người đã chỉ dẫn: “muốn cho mọi người làm tròn nhiệm vụ, cán bộ Đảng và chính quyền cần biết lãnh đạo”. Theo Hồ Chí Minh, các cán bộ biết lãnh đạo tức là họ phải đáp ứng được một số yêu cầu cơ bản sau:

Thứ nhất, cán bộ cần phải nắm vững mục đích (mục tiêu) và phương thức (phương pháp) trong lãnh đạo. Đây là vấn đề đặc biệt cần thiết đối với mỗi cán bộ trong lãnh đạo, bởi mục tiêu và phương pháp là các vấn đề cơ bản của lãnh đạo. Không nắm vững lý luận khoa học sẽ không thể đề ra được phương pháp lãnh đạo khoa học và hiệu quả. Ngược lại, không có phương pháp đúng sẽ không đạt được mục tiêu trong lãnh đạo. Lâu nay, trong lãnh đạo, nhiều cán bộ đã chỉ chú ý đề ra các mục tiêu (nói thì “nhiều” “hay”), mà không quan tâm đến đề ra các phương pháp thực hiện (làm thì “ít”, “dở”). Thực tế nhiều năm qua cho thấy, cán bộ ta còn nhiều khuyết điểm trong lãnh đạo, nhưng không muốn sửa chữa, không dám nhận trách nhiệm, là do họ đã không biết lãnh đạo. Cán bộ biết lãnh đạo rất cần phải nói ít, làm nhiều, tức cần phải nắm vững, đề ra các mục tiêu, phương pháp đúng đắn, hiệu quả trong lãnh đạo.

Thứ hai, cán bộ cần phải nắm vững “dân là chủ” (dân chủ) và “dân làm chủ” (thực hành dân chủ) trong lãnh đạo. Đây là phương châm rất quan trọng đối với mỗi cán bộ trong lãnh đạo, bởi dân là chủ (với ý nghĩa là mục tiêu) và dân làm chủ (với ý nghĩa là phương pháp) là các vấn đề cơ bản nhất trong lãnh đạo để xây dựng một xã hội dân chủ như Cương lĩnh của Đảng, Hiến pháp năm 2013 đã nêu rõ. Không xây dựng được các mục tiêu dân chủ sẽ không đề ra được các phương pháp dân chủ. Ngược lại, không thực hiện các phương pháp dân chủ sẽ không đạt được các mục tiêu dân chủ. Lãnh đạo dân chủ tức là cán bộ phải kết hợp giữa đạo đức và pháp luật, đặc biệt coi trọng tuyên truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục, biến quyết tâm chính trị của Đảng, Nhà nước thành hành động tự giác của nhân dân. Ví như đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân cần phải được hiểu là chống lại các quan điểm có đặc tính cá nhân vị kỷ (vụ lợi), các hành vi có biểu hiện đặc điểm cá nhân ích kỷ (tư lợi), chứ không phải chống lại các quan điểm, hành vi vì quyền lợi chính đáng, có quan điểm nhân văn của cá nhân. Hồ Chí Minh phân tích rằng: “Mỗi người đều có tính cách riêng, sở trường riêng, đời sống riêng của bản thân và gia đình mình. Nếu những lợi ích cá nhân đó không trái với lợi ích của tập thể thì không phải là xấu”.

Thứ ba, cán bộ cần phải biết đi đầu, gương mẫu (tiên phong) trong lãnh đạo. Theo Hồ Chí Minh: “Lãnh đạo được hay không, là do đặc tính cách mạng, chứ không phải do số người nhiều ít của giai cấp". Nghĩa là, hoạt động lãnh đạo là không phụ thuộc vào nhiều người hay ít người lãnh đạo, mà phụ thuộc vào tính gương mẫu (chất lượng) của các cán bộ lãnh đạo. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “nói giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo, thì cụ thể là phải gương mẫu trong sản xuất, gương mẫu trong đời sống”. Một người lãnh đạo mà không gương mẫu, không tiên phong về tư tưởng, đạo đức, lối sống thì người đó không biết lãnh đạo. Những người có tư tưởng, quan điểm “bảo thủ”, “kiêu ngạo”, “lệch lạc”, những người có hành vi “giả dối”, thiếu trung thực, thiếu trách nhiệm, quan liêu, tham nhũng, lãng phí, đều là những người không biết lãnh đạo.

Thứ tư, cán bộ cần phải có tinh thần trách nhiệm trong lãnh đạo. Mỗi cán bộ cần phải nhận thức đúng đắn cách làm việc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách trong nguyên tắc tập trung dân chủ. Hồ Chí Minh cho rằng, lãnh đạo theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thì tập thể lãnh đạo (cơ quan lãnh đạo) là muốn nói tới các đại hội Đảng, Quốc hội, Hội đồng nhân dân; còn cá nhân phụ trách hay cá nhân lãnh đạo (người lãnh đạo) là muốn nói tới các thành viên, ủy viên trong các cơ quan Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp. Tập thể hay cá nhân lãnh đạo đều phải tuân thủ nguyên tắc: “quyền hạn gắn với trách nhiệm” trước Tổ quốc và nhân dân. Tinh thần trách nhiệm của tập thể, cá nhân trong lãnh đạo cần phải gắn chặt với ba nội dung cơ bản: nắm vững chính sách, đi đúng đường lối quần chúng và làm tròn nhiệm vụ. Trong ba nội dung này thì việc nắm vững chính sách được coi như nắm vững phương pháp lãnh đạo dân chủ; việc làm đúng đường lối quần chúng được coi như việc xác định rõ mục tiêu lãnh đạo dân chủ; còn làm tròn nhiệm vụ được coi như vừa xác định rõ mục tiêu (tiêu chí) lãnh đạo dân chủ, vừa đề ra phương pháp (phương thức) lãnh đạo dân chủ của tập thể, mỗi cán bộ. Quyền hạn cần phải gắn với trách nhiệm; cương vị lãnh đạo càng cao thì trách nhiệm trước Tổ quốc, nhân dân càng nặng nề. Cán bộ cần phải nhận thức rõ rằng, làm lãnh đạo là để “phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”, chứ không phải để “làm quan phát tài”.

Thứ năm, cán bộ cần phải có nghệ thuật lãnh đạo. Cán bộ phải biết lãnh đạo một cách mềm dẻo, linh hoạt, “dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Phương pháp lãnh đạo này đối lập với phương pháp lãnh đạo theo kiểu “mệnh lệnh” trong thời kỳ nền kinh tế chỉ huy, bao cấp, hoặc trong chiến tranh. Theo Người, lãnh đạo theo phương pháp mệnh lệnh, là “làm việc theo cách quan liêu”, tức sử dụng quyền lực “cứng”, khó thuyết phục đối tượng lãnh đạo, mặc dù cán bộ vẫn có thể “làm tròn nhiệm vụ”, nhưng nhìn về tổng thể, thực chất thì lại thất bại. “Làm theo cách quan liêu đó, thì dân oán. Dân oán, dù tạm thời nay có chút thành công, nhưng về mặt chính trị, là thất bại”. Nếu cán bộ sử dụng phương pháp lãnh đạo khéo léo sẽ mang lại nhiều hiệu quả, mang tính “hai chiều”, tức có tính phản biện. Hồ Chí Minh coi phương pháp lãnh đạo khéo léo tương tự như “làm việc theo cách dân chủ”, sử dụng quyền lực “mềm”. Người nói: “Khi tuyên truyền chính sách của Đảng, cán bộ phải dùng cách thuyết phục chứ không được dùng mệnh lệnh”. Một tập thể lãnh đạo khéo thể hiện ở sự sáng suốt, tôn trọng các quan điểm, chính kiến khác nhau nhằm tạo sự đồng thuận, đoàn kết. Cá nhân lãnh đạo khéo thể hiện ở việc khéo tổ chức, khéo thuyết phục, khéo sử dụng cán bộ, khéo kiểm tra, kiểm soát trong thực hiện các công việc. Khéo lãnh đạo là đối lập với “thủ đoạn chính trị”.

Việc giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện để cán bộ biết lãnh đạo theo tư tưởng Hồ Chí Minh chính là cách thiết thực để góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu cao cả “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” ở Việt Nam./.