Thứ Ba, 8 tháng 10, 2024

Đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ qua các kỳ đại hội Đảng trong gần 40 năm đổi mới

 

Sự phát triển đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới được thể hiện qua mỗi kỳ đại hội Đảng. Đại hội VI (năm 1986) của Đảng diễn ra trong bối cảnh Chiến tranh lạnh đang đi vào hồi kết. Tình hình chính trị thế giới có nhiều biến động, các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô lâm vào khủng hoảng trầm trọng, sụp đổ, tan rã. Trong khi đó, nước ta không còn nhận viện trợ, đầu tư từ các nước xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế bị thu hẹp, cô lập, cấm vận, nhất là đối với thị trường các nước ngoài khối xã hội chủ nghĩa. Trước tình hình đó, Đảng ta kịp thời phân tích, đánh giá tình hình thế giới, khu vực và trong nước. Theo đó, Đại hội VI của Đảng khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, tranh thủ điều kiện thuận lợi về hợp tác kinh tế và khoa học - kỹ thuật, tham gia ngày càng rộng rãi vào phân công và hợp tác quốc tế trong Hội đồng Tương trợ Kinh tế (SEV), đồng thời mở rộng quan hệ với các nước khác. Không chỉ vậy, Đảng ta chủ trương “tiếp tục giương cao ngọn cờ hòa bình, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản, giữ vững độc lập tự chủ, tăng cường hợp tác quốc tế, ra sức làm tròn nhiệm vụ dân tộc và làm tốt nghĩa vụ quốc tế đối với nhân dân thế giới”(1). Chủ trương này của Đảng thể hiện cách tiếp cận mới, đó là độc lập, tự chủ không có nghĩa là biệt lập, “đóng cửa” với thế giới, từ đó mở đường cho tư duy về hội nhập kinh tế quốc tế trong những năm đầu đổi mới.

Đến Đại hội VII (năm 1991), Đảng ta khẳng định: “Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sơ bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc”(2). Điểm mới trong nhận thức lý luận về độc lập, tự chủ là Đảng ta đã làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đồng thời coi đây là bài học xuyên suốt của cách mạng Việt Nam. Về đối ngoại, Đại hội VII của Đảng đề ra nhiệm vụ “tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện chính sách đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa và đa phương hóa, tranh thủ tối đa mặt đồng, hạn chế mặt bất đồng, tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc...”(3). Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 (Cương lĩnh 1991) khẳng định bản lĩnh, trí tuệ của Đảng trong sự nghiệp lãnh đạo toàn dân kiên định con đường đổi mới, quyết tâm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Theo tinh thần Đại hội VII của Đảng và Cương lĩnh 1991, từ chỗ bị cô lập, cấm vận, đất nước ta đã chủ động phá thế bao vây, bình thường hóa quan hệ với các nước lớn, thực hiện chủ trương “muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế”. Đây là minh chứng sinh động và ý nghĩa về tầm quan trọng của việc nhận thức và phát triển lý luận về độc lập, tự chủ của Đảng trong lựa chọn con đường phát triển đất nước trước những biến động của thời cuộc.

Năm 1996, Đại hội VIII của Đảng mở rộng cách tiếp cận về nội hàm độc lập, tự chủ từ nâng cao ý thức độc lập, tự chủ đến yêu cầu tạo lập được vị thế độc lập, tự chủ bao gồm “độc lập, tự chủ về kinh tế, quốc phòng, an ninh”(4), sao cho trong mọi lĩnh vực chúng ta có cách tư duy độc lập... và “Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế”(5). Cái mới trong nhận thức và phát triển lý luận về độc lập, tự chủ của Đại hội VIII của Đảng là đưa thuật ngữ “hội nhập kinh tế quốc tế” vào văn kiện, đồng thời làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế. Văn kiện Đại hội VIII của Đảng khẳng định: “Mở rộng quan hệ quốc tế phải trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ, bình đẳng và cùng có lợi, giữ gìn, phát huy bản sắc và những truyền thống tốt đẹp của dân tộc”(6). Đến Hội nghị Trung ương 4 khóa VIII (tháng 12-1997) nhận thức rõ hơn: Độc lập tự chủ, tự lực, tự cường là cơ sở vững chắc để đẩy mạnh hơn nữa đoàn kết, hợp tác và hội nhập quốc tế nhằm góp phần xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; nâng cao ý chí tự lực, tự cường, giữ vững bản sắc dân tộc trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Đại hội IX (năm 2001) của Đảng diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới có những biến đổi sâu sắc, khó lường, trong đó chính trị cường quyền nổi lên và kinh tế thế giới dần lâm vào suy thoái, khủng hoảng; toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đã trở thành xu thế khách quan, đặt ra nhiều cơ hội và thách thức đối với Việt Nam. Trước tình hình đó, đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ tiếp tục được Đảng ta nhận thức, bổ sung đầy đủ hơn, gắn quan hệ giữa độc lập, tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa...”(7). Chủ trương này phản ánh bước chuyển lớn về tư duy lý luận độc lập, tự chủ trong đường lối đối ngoại của Đảng. Quan điểm chỉ đạo được Đại hội IX đưa ra là: “... phải bảo đảm xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, trước hết là độc lập tự chủ về đường lối, chính sách... Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế..., kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước”(8). Mở rộng quan hệ với các nước, trung tâm kinh tế quốc tế, nhưng không để nền kinh tế nước nhà bị lệ thuộc hay chịu sự chi phối từ bên ngoài.

Nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày 12-7-2003, của Hội nghị Trung ương 8 khóa IX, “Về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, xác định việc giữ vững độc lập, tự chủ, đi đôi với mở rộng quan hệ đối ngoại và củng cố môi trường quốc tế hòa bình, ổn định, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; tích cực, chủ động tiến hành hoạt động đối ngoại trên cơ sở đường lối độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, thực hiện hội nhập khu vực và quốc tế. 

Tại Đại hội X (năm 2006) của Đảng, nhận thức về lý luận về độc lập, tự chủ được đúc rút thành bài học kinh nghiệm: “... trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh”(9). Đại hội X bổ sung cụm từ “tích cực” vào chủ trương hội nhập: “Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác...”(10). Đồng thời bổ sung: “Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình, phù hợp với chiến lược phát triển đất nước... Chuẩn bị tốt các điều kiện để ký kết các hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương”(11).

Đến Đại hội XI (năm 2011), nhận thức lý luận của Đảng về độc lập, tự chủ được khẳng định rõ hơn khi thống nhất dùng khái niệm “độc lập, tự chủ” thay cho “độc lập tự chủ” để thể hiện đúng hai mặt “độc lập” và “tự chủ” của “chủ quyền quốc gia”. Nhằm cụ thể hóa mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế trong đường lối phát triển, ngày 10-4-2013, Bộ Chính trị khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 22-NQ/TW, “Về hội nhập quốc tế” nhằm hướng tới củng cố môi trường hòa bình, tranh thủ tối đa điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển đất nước nhanh và bền vững, nâng cao đời sống nhân dân; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; quảng bá hình ảnh Việt Nam, bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc; tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia, nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của đất nước; góp phần tích cực vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ trên thế giới. Một điểm mới trong nhận thức và phát triển lý luận của Đảng về độc lập, tự chủ là đã đưa mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế là một trong tám mối quan hệ lớn cần tập trung giải quyết trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011)(12).

Trên cơ sở nhận thức đúng về xu thế thời đại và cục diện thế giới, Đại hội XII (năm 2016) của Đảng tiếp tục khẳng định quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế là một trong mười mối quan hệ lớn(13), phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt. Đồng thời, trên cơ sở làm sáng tỏ đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, Đảng ta chỉ đạo việc thực hiện các chính sách: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế”(14). Đảng khẳng định quan điểm: “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi...”; “xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tham gia có hiệu quả vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu”(15)

Đại hội XIII (năm 2021) của Đảng diễn ra trong bối cảnh thế giới, khu vực có nhiều biến động phức tạp, khó đoán định. Đại dịch COVID-19 gây đảo lộn nghiêm trọng về kinh tế, xã hội toàn cầu. Tuy nhiên, khi dịch bệnh cơ bản đã được kiểm soát tại hầu hết các nước trên thế giới, thì những yếu tố bất định, rủi ro từ an ninh phi truyền thống, như thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu, xung đột chính trị, cạnh tranh chiến lược; rủi ro lạm phát, tài chính - tiền tệ; an ninh lương thực, an ninh năng lượng, an ninh chuỗi cung ứng... đã và đang đặt ra nhiều thách thức đối với việc thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ của Việt Nam. Trong bối cảnh đó, Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại”(16). Đồng thời, tiếp tục nhấn mạnh: “Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; thúc đẩy hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả vì lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia”(17).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét