Trong những năm qua, lợi dụng sự phát triển của cách mạng khoa học - công nghệ, nhất là trên lĩnh vực công nghệ thông tin, điện tử viễn thông, internet, các trang mạng xã hội; các thế lực thù địch và các phần tử phản động, bất mãn cơ hội chính trị đã có những điều chỉnh những phương thức, thủ đoạn chống phá Việt Nam ngày càng tinh vi, xảo quyệt hơn. Chúng triệt để lợi dụng không gian mạng, đặc biệt các trang mạng xã hội phát tán những tài liệu, văn hóa phẩm xấu độc, nhất là những bài viết, video clip có những nội dung chống phá Đảng, Nhà nước, Quân đội. Thông qua các nền tảng không gian mạng trong thời đại số, các thế lực thù địch sử dụng những tin, bài, hình ảnh của báo chí chính thống trong nước, sau đó tô vẽ thêm bớt, đưa ra những nội dung thật giả lẫn lộn, sai lệch để đưa lên mạng xã hội.
Chúng lập ra những trang/tài khoản núp dưới danh xưng của các cơ quan của Đảng, Chính phủ, lãnh đạo cấp cao nhằm lôi kéo tâm lý hiếu kỳ của công chúng, đánh vào khoảng trống thông tin mà báo chí chính thống trong nước chưa đăng tải hoặc cần thời gian kiểm duyệt thông tin; ngụy tạo các bài viết dưới những tiêu đề giật gân liên quan đến những vấn đề đang được dư luận quan tâm… Những thủ đoạn lợi dụng nền tảng số nêu trên của các thế lực thù địch, phản động, phần tử bất mãn đã dẫn dụ và lừa dối được một bộ phận người dân, nhất là những người có tâm lý hiếu kỳ, tò mò muốn dò tìm các thông tin không chính thống. Những cái “bẫy thông tin” mà các đối tượng thù địch, phản động, tổ chức thiếu thiện chí với Việt Nam tung ra cũng đã khiến cho nhiều người nước ngoài không phân biệt được thật giả và bị những dòng thông tin sai lệch này dẫn dắt. Thời gian gần đây, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị triệt để lợi dụng mạng xã hội, internet… phát động nhiều chiến dịch chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng, chúng lợi dụng sự kiện chính trị, các hội nghị Trung ương khóa XIII của Đảng; vụ việc phức tạp, nhạy cảm; các vấn đề dư luận xã hội quan tâm như: Xung đột Nga - Ucraina; diễn biến của dịch Covid-19; sai phạm của tổ chức, cá nhân; tình hình phức tạp trên Biển Đông; phản ứng của Mỹ đối với Trung Quốc trong thời gian qua… để đẩy mạnh chống phá Đảng, Nhà nước ta. Đồng thời, đẩy mạnh hoạt động tuyển chọn, đào tạo, xây dựng lực lượng người dân tộc thiểu số để kích động gây chia rẽ đoàn kết dân tộc; tăng cường vận động chức sắc, tín đồ tôn giáo viết bài xuyên tạc trên mạng xã hội, kích động giáo dân biểu tình, gây rối…Đối với Quân đội, các thế lực thù địch lợi dụng mạng xã hội thực
hiện nhiều phương thức, thủ đoạn, luận điệu hết sức thâm độc, tấn công vào mục
tiêu lý tưởng chiến đấu; bản chất, truyền thống, chức năng, nhiệm vụ của Quân đội
với những luận điệu xuyên tạc như sau:
- Luận điệu: “Quân đội trong
thời bình không cần phải tuyển nhiều quân như thời chiến”
Luật Nghĩa vụ quân sự (sửa đổi năm 2015) được Quốc hội nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII thông qua là sự thể chế hóa Hiến pháp năm
2013 quy định: “Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân” (Điều 15);
“Nhà nước xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước
hiện đại, có lực lượng thường trực hợp lý, lực lượng dự bị động viên hùng hậu,
lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh và rộng khắp, làm nòng cốt trong thực hiện
nhiệm vụ quốc phòng” (Điều 16).
Luật Nghĩa vụ quân sự quy định nghĩa vụ quân sự là “Nghĩa vụ vẻ
vang của công dân phục vụ trong Quân đội nhân dân;... Công dân trong độ tuổi thực
hiện nghĩa vụ quân sự, không phân biệt dân tộc, thành phần xã hội, tín ngưỡng,
tôn giáo, trình độ học vấn, nghề nghiệp, nơi cư trú phải thực hiện nghĩa vụ
quân sự theo quy định của luật này” (Điều 4). Luật Nghĩa vụ quân sự nhằm thực
hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc - chế độ trong tình hình mới. về mặt lý luận cũng
như thực tế, thực hiện Luật Nghĩa vụ quân sự không làm tăng quân số tuyệt đối,
không nhằm chạy đua vũ trang... mà chỉ nhằm luân chuyển nhân lực từ dân sự sang
quân sự và ngược lại (đó là những đợt ra quân theo định kỳ hằng năm).
Chúng ta phải cần hiểu rằng đây là một luận
điệu chính trị xấu độc thì cũng thể hiện sự hiểu biết ấu trĩ về nhiệm vụ của lực
lượng vũ trang nói chung, của quân đội ta nói riêng trong thời bình. Thực tế
cho thấy, ngay trong thời chiến, quân đội ta vẫn dành một lực lượng nhất định
tham gia sản xuất (phục vụ quốc phòng và dân sinh)... Hiện nay, không ít đơn vị
quân đội đang làm đồng thời cả hai nhiệm vụ: kinh tế và quốc phòng, như một số
đơn vị quân đội làm kinh tế, tự đáp ứng một phần nhu cầu, giảm thiểu gánh nặng
ngân sách cho Nhà nước. Hoặc các bệnh viện quân đội vừa là một cơ sở y tế trong
hệ thống y tế quốc gia, vừa làm nhiệm vụ sẵn sàng phục vụ cứu chữa trong thời
chiến. Trong thời bình, ở những bệnh viện này, không chỉ cán bộ, chiến sĩ quân
đội được chữa trị mà còn có cả những bệnh nhân dân sự... nhất là những bệnh
nhân mắc bệnh hiểm nghèo. Đặc biệt, trên lĩnh vực phòng, chống thiên tai, dịch
bệnh, quân đội luôn là lực lượng nòng cốt, xung kích đi đầu và có không ít cán
bộ, chiến sĩ đã hy sinh trong khi làm nhiệm vụ tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn, giúp
nhân dân khắc phục hậu quả thiên tai, phòng, chống dịch bệnh trên khắp mọi miền
Tổ quốc.
Mục tiêu của cách mạng Việt Nam ngày nay là:
Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Điều kiện và tiền đề để thực
hiện mục tiêu đó là giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh
thổ và ổn định xã hội. Thực hiện Luật Nghĩa vụ quân sự là góp phần đưa dân tộc
ta đi đến mục tiêu đó.
- Luận điệu: “Hiện đại hóa
quân đội là chạy đua vũ trang ”.
Hiện đại hóa là một nội dung quan trọng trong chiến lược và phương
châm xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện
đại. Trong tình hình mới, với nhiều lý do, vấn đề hiện đại hóa càng trở nên
quan trọng và bức thiết đối với lực lượng vũ trang nhân dân nói chung và quân đội
ta nói riêng. Các thế lực thù địch cũng hiểu rất rõ điều này. Khi Đảng, Nhà nước
ta đẩy mạnh quá trình hiện đại hóa quân đội, họ xuyên tạc rằng chúng ta đang ra
sức “chạy đua vũ trang”, rồi lại vừa ra mặt chê bai, vừa lại ra vẻ “vì dân”, ra
lời “khuyên nhủ” chúng ta phải làm thế này, thế nọ, nếu không thì quân đội sẽ
“suy yếu”...
Việc xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh là
đòi hỏi tất yếu đối với mọi quốc gia; việc hiện đại hóa cũng là yêu cầu cần thiết
đối với bất cứ lực lượng vũ trang, quân đội của quốc gia nào. Mỗi nước, căn cứ
vào đặc điểm, tình hình cụ thể, điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể; tính chât,
nhiệm vụ của lực lượng vũ trang đất nước mình mà thực hiện chính sách hiện đại
hoá trang bị vũ khí phương tiện kỹ thuật cho phù hợp. Đó là tất yếu. Trong điều
kiện tình hình thế giới hiện nay có nhiều diễn biến phức tạp, chiến tranh cục bộ,
xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, tranh chấp chủ
quyền biển, đảo, hoạt động can thiệp, lật đổ, ly khai, khủng bố... diễn ra ở
nhiều nơi với tính chất ngày càng phức tạp, thì vấn đề tất yếu trên lại càng trở
nên quan trọng và cần thiết.
Luận điệu trên là nằm trong âm mưu của các thế lực thù địch chống
phá quân đội ta, phá hoại sự nghiệp xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính
quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại mà Đảng, Nhà nước, nhân dân và quân đội ta
đang nỗ lực phấn đấu. Nhân dân ta luôn mong muốn có Quân đội nhân dân thật sự
hùng mạnh, đủ sức bảo vệ cuộc sống yên bình của nhân dân, bảo vệ vững chắc Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa.
Đảng và Nhà nước ta chủ trương hiện đại hóa vũ khí trang bị cho
quân đội và đã xác định đúng đắn rằng, bên cạnh việc phát huy, nâng cao hiệu quả
vũ khí trang bị hiện có, cần phải có trang bị kỹ thuật mới. Sự hiện đại về vũ
khí trang bị là nhằm đáp ứng mọi yêu cầủ nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa trong mọi tình huống, mọi hoàn cảnh và phù họp với đặc điếm Việt Nam, điều
kiện kinh tế - xã hội đất nước.
Trong điều kiện nước ta còn nghèo, trình độ phát triển kinh tế -
xã hội còn thấp, phương châm “từng bước hiện đại” mà Đảng ta xác định trong xây
dựng Quân đội nhân dân là hoàn toàn phù hợp. Thực hiện phương châm này, chúng
ta cần phải đi trước đón đầu, đột phá vào những khâu, những mũi nhọn cần thiết
trong trang bị vũ khí kỹ thuật. Đây là vấn đề to lớn phản ánh nét đặc sắc về
quá trình hiện đại hóa của quân đội ta trong tình hình mới, được thực thi với một
chiến lược khoa học, một lộ trình hợp lý.
Việc chúng ta mua sắm trang bị kỹ thuật mới là nằm trong lộ trình
“từng bước hiện đại” hợp lý ấy. Trong quá trình ấy, việc tập trung ưu tiên hiện
đại hóa một lực lượng nào đó trong thời kỳ nào đó là do yêu cầu khách quan của
sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ đó quy định. Hiện nay, chúng ta tập
trung ưu tiên hiện đại hóa một số quân binh chủng như: Hải quân, Phòng không -
Không quân, Tác chiến điện tử, Thông tin liên lạc, Trinh sát kỹ thuật và Cảnh
sát biển... là theo phương châm và tiến trình xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng,
chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại và nhằm phục vụ thắng lợi cho tiến
trình ấy.
- Luận điệu: “Quân đội không được làm kinh tế, chỉ tập
trung vào nhiệm vụ bảo vệ Tố quốc ”.
Trong thời gian qua, các thế lực thù địch ra sức tuyên truyền và
kêu gọi: “Quân đội không được làm kinh tế, chỉ tập trung vào nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc”. Chúng cho rằng, nếu quân đội tham gia hoạt động sản xuất kinh tế sẽ nảy
sinh tham nhũng, lợi ích nhóm, đặc quyền, đặc lợi và làm suy yếu sức mạnh quân
đội. Hoặc cho rằng, nay đất nước đã phát triển, quân đội không phải làm kinh tế
và ưu tiên tập trung cho nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu như quân đội
các nước tư bản. Đây là âm mưu vô cùng thâm độc, phủ nhận chức năng, vai trò của
quân đội từ bản chất.
Chúng ta phải khẳng định rằng, Quân đội nhân dân Việt Nam tham gia
sản xuất, xây dựng kinh tế gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh là chủ trương
chiến lược lâu dài, nhất quán của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc
phòng. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(Bổ sung, phát triến năm 2011) tiếp tục khẳng định: “Sự ổn định và phát triển bền
vũng mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội là nền tảng vững chắc của quốc phòng -
an ninh. Phát triển kinh tế - xã hội đi đôi với tăng cường sức mạnh quốc phòng
- an ninh. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng - an ninh, quốc phòng - an
ninh với kinh tế trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát
triển kinh tế - xã hội và trên từng địa bàn”. Tại Điều 68, Chương IV (Bảo vệ Tổ
quốc), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 khẳng định:
“Kết hợp quốc phòng, an ninh với kinh tế, kinh tế với quốc phòng, an ninh”. Tại
khoản 3 Điều 5 (Nguyên tắc hoạt động quốc phòng), Chương 1 (Những quy định
chung) của Luật Quốc phòng năm 2005 xác định: “Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển
kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng; giữa tăng cường quốc phòng với phát
triển kinh tế - xã hội”...
Quân đội nhân dân Việt Nam tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế là
thực hiện chức năng, nhiệm vụ của quân đội được Đảng và Bác Hồ giao, đó là “Đội
quân chiến đấu, đội quân công tác và đội quân lao động sản xuất”, thể hiện bản
chất, truyền thống tốt đẹp của quân đội. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược, các đơn vị quân đội đã tích cực lao động sản xuất, bảo đảm “thực
túc binh cường”, thiết thực cải thiện đời sống của bộ đội. Đặc biệt, các cơ sở
quân giới đã chủ động khắc phục mọi khó khăn, thiếu thốn, nêu cao tinh thần tự
lực tự cường, tích cực nghiên cứu, cải tiến, chế tạo hàng triệu tấn vũ khí, đạn
dược, kịp thời đáp ứng yêu cầu tác chiến của lực lượng vũ trang và sự phát triển
của chiến tranh nhân dân trên các chiến trường. Ket thúc cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp, thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng miền Bắc
xã hội chủ nghĩa, hàng vạn cán bộ, chiến sĩ quân đội đã chuyển sang làm nhiệm vụ
sản xuất, xây dựng kinh tế, trực tiếp tham gia xây dựng những công trình trọng
điểm của đất nước lúc bấy giờ, như: Khu công nghiệp Việt Trì, Nhà máy Gang thép
Thái Nguyên, Đại thủy nông Bắc Hưng Hải... Nhờ đó, miền Bắc nhanh chóng khôi phục
sản xuất, tạo tiềm lực kinh tế để chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam, góp phần
quan trọng trong thắng lợi chống đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng hoàn toàn miền
Nam, thống nhất đất nước.
Trong thời bình, quân đội là lực lượng nòng cốt thực hiện nhiệm vụ
bảo vệ Tổ quốc, nhưng không có nghĩa là không tham gia xây dựng đất nước. Thông
qua thực hiện chức năng đội quân lao động sản xuất, quân đội đã và đang góp phần
vào việc tăng cường tiềm lực quốc phòng, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước,
cải thiện đời sống bộ đội. Hiện nay, quân đội ta tham gia sản xuất, xây dựng
kinh tế đã thực sự trở thành một nguồn lực quan trọng của đất nước trong phát
triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, góp phần gia
tăng thêm tiềm lực quốc gia; củng cố vị thế độc lập, tự chủ của đất nước và
công nghiệp quốc phòng, trang bị vũ khí, khí tài cho quân đội; tham gia vào quá
trình hội nhập quốc tế, nâng cao vị thế của đất nước thông qua sự hợp tác với
bên ngoài; là lực lượng nòng cốt giải quyết các vấn đề khó khăn về quốc phòng,
an ninh, kinh tế - xã hội trên các địa bàn chiến lược, vùng sâu, vùng xa, biên
giới, hải đảo, vùng biển đặc quyền kinh tế của Tổ quốc...
Đặc biệt, với việc xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng trên các
địa bàn chiến lược, trọng yếu về quốc phòng - an ninh, các đoàn kinh tế - quốc
phòng đã phối hợp với cấp ủy, chính quyền các địa phương xây dựng hệ thống cơ sở
hạ tầng đồng bộ, tổ chức quy hoạch, bố trí lại dân cư, tạo việc làm, điều kiện
cần thiết cho các hộ dân định cư lâu dài, hình thành các điểm, cụm dân cư tập
trung trên vành đai biên giới, địa bàn xung yếu, tạo thế bố trí chiến lược mới
trên các địa bàn, hướng chiến lược... Cán bộ, chiến sĩ, công nhân, người lao động
các binh đoàn 15, 16 làm nhiệm vụ phát triển kinh tế, tăng cường quốc phòng
trên biên giới Nam Trung Bộ, Tây Nam Bộ đã sát cánh cùng cấp ủy, phình quyền địa
phương, phát huy tiềm năng, thế mạnh trên từng địa bàn, vừa sản xuất, phát triển
kinh tế, vừa tham gia tích cực vào sự nghiệp tăng cường quốc phòng, ổn định dân
cư, tạo việc làm cho đồng bào, khắc phục được tình trạng di dịch cư tự do, chống
buôn lậu, buôn bán người, ma túy, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn
xã hội trên địa bàn. Đó là một minh chứng hùng hồn bác bỏ mọi sự xuyên tạc của
các thế lực thù địch về chức năng, nhiệm vụ của quân đội.
Nhìn lại chặng đường gần 80 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng
thành của quân đội, chúng ta hết sức phấn khởi tự hào rằng, trong bất cứ điều
kiện nào, dù khó khăn đến đâu, quân đội ta cũng vừa chiến đấu, vừa lao động sản
xuất, tham gia xây dựng kinh tế bằng những hình thức, biện pháp sáng tạo, phù họp,
hiệu quả. Thông qua đó, khẳng định quân đội ta không chỉ anh hùng, dũng cảm
trong chiến đấu, mà còn rất cần cù, sáng tạo, hiệu quả trong lao động sản xuất.
Những chiến công và thành tích của quân đội trong thực hiện chức năng “đội quân
lao động sản xuất” - một yếu tố tạo nên sức mạnh chiến đấu của quân đội ta,
tăng cường mối quan hệ gắn bó máu thịt với nhân dân đã góp phần làm sáng đẹp
hơn hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ” trong tình hình mới.
Như vậy, các quan điểm phủ nhận quân đội làm kinh tế là hoàn toàn
sai lầm, với dụng ý xấu, cần phải lên án, phê phán và bác bỏ những quan điểm
sai trái đó. Đồng thời, cần nhận thức đúng chức năng, nhiệm vụ, quán triệt sâu
sắc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và phát
huy những kinh nghiệm, kết quả đạt được, tiếp tục phấn đấu thực hiện tốt nhiệm
vụ lao động sản xuất, xây dựng kinh tế, xứng đáng là “đội quân chiến đấu, đội
quân công tác, đội quân lao động sản xuất” trong thời kỳ mới. Qua đó, làm sâu sắc
thêm bản chất cách mạng, truyền thống của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng,
thiết thực góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Luận điệu: “Giải quyết
tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông không phải bằng biện pháp hòa bình mà bằng
vũ lực”.
Chúng ta cần phải khẳng định rằng, chủ trương, đường lối, chính
sách giải quyết bất đồng trên Biển Đông hiện nay của Đảng, Nhà nước ta bằng biện
pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với
xu thế của thời đại. Trong xu thế hiện nay, thế giới là một mái nhà chung, các
quốc gia đều có xu hướng vừa hợp tác, vừa đấu tranh, kế cả trong quan hệ song
phương và đa phương; những điểm bất đồng giữa các quốc gia - dân tộc đều được
giải quyết trên nền tảng hòa bình, đối thoại, cùng nhau tìm giải pháp chung và
trên nền tảng nguyên tắc nhất định của luật pháp quốc tế.
“Dĩ bất biến, ứng vạn biến”, trong bối cảnh
nước ngoài vi phạm chủ quyền, quyền chủ quyền vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục
địa của Việt Nam, Đảng, Nhà nước ta luôn giữ được chủ trương: Giải quyết mâu
thuẫn thông qua thương lượng hòa bình trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ, phù họp với luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước về Luật
Biển năm 1982 của Liên hợp quốc, Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển
Đông (DOC), nhằm tìm kiếm một giải pháp cơ bản và lâu dài, đáp ứng lợi ích
chính đáng của các bên, tiến tới xây dựng Biển Đông thành vùng biển hòa bình, hợpp
tác và phát triển.
Đảm bảo sự linh hoạt, mềm dẻo và giữ vững nguyên tắc không thể bác
bỏ - chủ quyền quốc gia. Chúng ta kiên trì đấu tranh trên các mặt trận, mọi cấp
đô, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các quốc gia trên thế giới, thẳng thắn đấu
tranh kiên quyết, trao công hàm, tiếp xúc đại diện, lên tiếng phản đối, yêu cầu
tôn trọng chù quyền biến, đảo của Việt Nam. Đồng thời, duy trì lực lượng chuyên
trách, sử dụng biện pháp đấu tranh “hòa bình” không để xảy ra xung đột vũ
trang. Bên cạnh đó, thường xuyên thông tin kịp thời tình hình diễn biến đến
nhân dân, quản lý chặt chẽ tình hình an ninh trật tự và làm tốt công tác định
hướng tư tưởng cho nhân dân.
Ngược dòng lịch sử từ khi dựng nước và giữ nước cho đến ngày nay,
đất nước ta đã trải qua nhiều cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Những cuộc chiến
tranh đó đều đem đến những mất mát, tổn thất to lớn không thể bù đắp. Nhân dân
ta cần hòa bình để ổn định, xây dựng và phát triển đất nước nên cần có chủ
trương, đường lối đúng đắn, mọi sai lầm trong đường lối đều phải trả giá đắt, đều
mang lại đau khổ cho nhân dân, nhất là khi đẩy đất nước vào chiến tranh.
Dân tộc Việt Nam vốn yêu chuộng hòa bình, ghét chiến tranh, chỉ
khi tình thế bắt buộc mới phải đứng lên cầm súng đánh đuổi kẻ thù bảo vệ chính
nghĩa, phẩm giá của dân tộc, không chịu khuất phục trước bất kỳ thế lực thù địch
nào dù chúng mạnh đến đâu. Trước tình hình căng thẳng trên Biển Đông, nhờ đường
lối đúng đắn, chúng ta vẫn bảo đảm và bảo vệ được lợi ích quốc gia - dân tộc.
Điều này cho thấy, chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước là đúng đắn..
Với tình hình kinh tế phát triển như hiện nay thì mạng xã hội đã
được phổ biến rộng rãi trong mọi người dân trong và ngoài nước, trước tình hình
đó mạng xã hội luôn tìm ẩn những thách thức và khó khăn…, chính vì vậy mạng xã
hội thường bị lợi dụng để phát tán thông tin có nội dung quan điểm sai trái,
phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tạo nên sự mơ hồ, hoài nghi về vai trò
lãnh đạo của Đảng; tác động tiêu cực đến tư tưởng của cán bộ, đảng viên và Nhân
dân.
Bởi vậy, nhận diện và đấu tranh bác bỏ các quan điểm, luận điểm
sai trái, xuyên tạc, phủ nhận thành tựu dân chủ, nhân quyền và thành quả của khối
đại đoàn kết dân tộc mà chúng ta đã đạt được là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách
hiện nay; góp phần giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng và bảo vệ tốt
nền tảng tư tưởng của Đảng ta.
Thời gian tới các thế lực thù địch và những phần tử cơ hội chính
trị tiếp tục đẩy mạnh trong phá Đảng, Nhà nước,Quân đội trên phương tiện truyền
thông; các trang mạng phản động, tài khoản mạng xã hội trên nền tảng internet…
thủ đoạn sẽ ngày cành tinh vi, nham hiểm và khó nhaank biết hơn theo phương
châm “ngầm, sâu, mềm” có sự móc nối, liên kết với nhau, sử dụng tổng hợp nhiều
lực lượng, phương tiện, biện pháp, triển khai nhiều chiến dịch với thủ đoạn
tinh vi nhất, thâm độc nhất, vừa công khai trắng trợn, vừa bí mật ngấm ngầm; tổ
chức các hoạt động chống phá trong nước và nước ngoài; kết hợp hoạt động chống
phá trên thực địa với hoạt động chống phá trên không gian mạng, trên phương tiện
truyền thông, báo chí.
Để nâng cao hiệu quả hoạt động bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng,
Quân đội tham gia đấu tranh bản phác
quan điểm sai trái, thủ địch trong tình hình mới cần quán triệt và thực hiện tốt
một số nội dung sau:
Một là: Tiếp tục quán triệt, cụ thể hóa nhiệm vụ bảo vệ nền tảng
tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch theo tình thần
Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng. Đánh giá, nhận định chính xác tình
hình âm mưu, thủ đoạn chống phá của thế lực thù địch.
Hai là: Ban Chỉ đạo 35, Lực lượng 47 các cấp trong đấu tranh bảo vệ
nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch, áp
dụng đồng bộ giải pháp “xây” và “chống”; lấy “xây” là nhiệm vụ cơ bản, lâu dài
“chống” là nhiệm vụ cấp bách, trước mắt. Thường xuyên kiểm soát thông tin trên
internet, mạng xã hội, nhất là thông tin thông tin tiêu cực liên quan đến chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và những vấn đề
liên quan đến Quân đội; nhất là khi triển khai thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính
trị, Quân ủy Trung ương, Kế hoạch của Bộ Quốc phòng…
Ba là: Tiếp tục đổi mới công tác thông tin, tuyên truyền định hướng
tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ, tạo sự đồng thuận, thống nhất cáo, nhất là những
vấn đề, phức tạp. Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan thông tấn báo chí trong và
ngoài Quân đội để đấu tranh định hướng dư luận. Đẩy mạnh tuyên truyền đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước, đợt sinh hoạt chính trị về
xây dựng chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, gắn với thực hiện Nghị quyết số
847-NQ/QUTW của Quân ủy Trung ương về “Phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” kiên
quyết chống chủ nghĩa cá nhân trong tình hình mới…
Bốn là: Quản lý chặt chẽ tình hình chính trị nội bộ, mối quan hệ của
cán bộ, chiến sĩ và hậu phương Quân đội; kiên quyết ngăn chặn những biểu hiện
suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đực, lối sống, những biểu hiện “tự chuyển
biến, tự chuyển hóa”, không để ra những sơ hở, thiếu sót để các thế lực thù địch
lợi dụng chống phá… Phối hợp nắm chắc địa bàn, chủ động xử lý kịp thời, đúng
quy định những vụ việc xảy ra tại cơ quan, đơn vị.
Năm là: Tăng cường công tác quản lý hành chính gắn với thực hiện
các giải pháp kỹ thuật bảo đảm bảo mật, an ninh, an toàn thông tin trong quá
trình sử dụng internet, mạng nội bộ… Thường xuyên làm tốt công tác kiểm tra,
giám sát, kịp thời xử lý những cá nhân vi phạm, những nội dung chống phá của thế
lực thù địch, đồng thời biểu dương, khen thưởng, nhân rộng điển hình tiên tiến,
cách làm sáng tạo…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét