Thứ Ba, 30 tháng 7, 2024

Việt Nam chăm lo cho người lao động bằng chính thực lực.

 

Thời gian qua, trên không gian mạng xuất hiện quan điểm xuyên tạc, chống phá cho rằng: Việt Nam không có thực lực khi thực hiện chi trả lương mới cho người lao động; nguồn tiền chủ yếu đi vay của nước ngoài, bởi nền kinh tế đang suy thoái nghiêm trọng...

Cả về lý luận và thực tiễn đều minh chứng việc cải cách tiền lương, lộ trình tăng lương mà Việt Nam đang triển khai là chủ trương hết sức đúng đắn và nhân văn của Đảng, Nhà nước ta; đồng thời, được triển khai theo đúng lộ trình và dựa trên thực lực của chính mình...

Chủ động tăng lương theo lộ trình  

Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 21-5-2018, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp đã xác định lộ trình triển khai cải cách tiền lương cụ thể từ năm 2021 đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2030; nhấn mạnh yêu cầu cải cách chính sách tiền lương, xây dựng hệ thống chính sách tiền lương quốc gia một cách khoa học, minh bạch, phù hợp với tình hình thực tiễn đất nước...   

Sau thời gian chuẩn bị và bị trì hoãn cải cách tiền lương do dịch Covid-19, tại Kỳ họp thứ bảy, Quốc hội khóa XV, Quốc hội đã quyết nghị, thực hiện đầy đủ hai nội dung cải cách tiền lương khu vực doanh nghiệp theo đúng Nghị quyết 27.

Mức điều chỉnh tăng này đã được các cơ quan quản lý tính toán kỹ lưỡng trong bối cảnh chưa có đủ điều kiện bỏ mức lương cơ sở và hệ số lương hiện nay (chưa thực hiện các bảng lương và phụ cấp mới), tạo được sự thống nhất đồng thuận, hiệu ứng tâm lý tích cực và tác động kinh tế lan tỏa rất lớn trong xã hội do bảo đảm công bằng, hợp lý, hài hòa, có sự chia sẻ giữa người đang hưởng lương hưu và người đang đóng bảo hiểm xã hội, giữa khu vực nhà nước và khu vực ngoài nhà nước, giữa các thế hệ tham gia và thụ hưởng chính sách; đồng thời bảo đảm khả năng cân đối của ngân sách nhà nước và Quỹ Bảo hiểm xã hội trong dài hạn; tạo động lực nâng cao năng suất và hiệu quả làm việc, góp phần ổn định xã hội.  

Bám sát sức khỏe nền kinh tế, hỗ trợ tổng cầu, tạo động lực phát triển

Nhìn chung, các mức tăng lương ở Việt Nam thời gian qua thấp hơn mức tăng năng suất lao động, quy mô và thu nhập bình quân đầu người của nền kinh tế, cũng như thấp hơn nhu cầu chi tiêu bảo đảm đời sống ngày càng tăng nhanh của người lao động.

Năng suất lao động của người Việt trong giai đoạn 2010-2020 tăng trưởng 64% theo giá hiện hành, cao hơn so với nhiều nước trong khu vực, chủ yếu nhờ sự cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) lớn.

Từ năm 2007 đến giữa 2023, quy mô tổng sản phẩm trong nước (GDP) và thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam tăng khoảng 7,7 lần; trong khi tiền lương cơ sở chỉ tăng khoảng 4 lần, từ mức 540.000 đồng/tháng kể từ ngày 1-1-2008 lên 2,34 triệu đồng/tháng từ ngày 1-7-2024.

Trong thời gian diễn ra dịch Covid-19, Việt Nam đã trì hoãn một đợt tăng lương theo lộ trình và cũng mới triển khai gói hỗ trợ tài chính với quy mô khiêm tốn ước khoảng 0,5% GDP so với gói kích thích tài chính khổng lồ tới khoảng 20% GDP như của Mỹ và một số nước khác cùng thời gian này. Bởi vậy, đợt tăng lương tháng 7-2024 là sự tiếp nối lộ trình tăng lương theo kế hoạch nêu trên và sự tiếp tục các giải pháp hỗ trợ tăng cả tổng cung và tổng cầu của chính sách phục hồi kinh tế hậu Covid-19.

Trên thực tế, việc tăng lương lần này không chỉ góp phần cải thiện mức sống của người hưởng lương, bảo đảm nguyên tắc tiền lương phải đáp ứng nhu cầu sống tối thiểu của người lao động nhận lương và gia đình họ theo nguyên lý kinh tế thị trường; mà còn cho phép tăng tổng cầu có khả năng thanh toán của xã hội; từ đó, góp phần kích thích sản xuất và củng cố động lực tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh tổng cầu xã hội còn thấp và thị trường thế giới chưa có sự đột phá mạnh mẽ gắn với chu kỳ kinh tế đang chậm lại của nền kinh tế thế giới....

Mặt khác, cơ sở vật chất-tài chính cho tăng lương đã được chuẩn bị khá chu đáo. Theo đó, Chính phủ đã tích lũy cân đối được 913.000 tỷ đồng ngân sách nhà nước làm nguồn chi trả đáp ứng tổng nhu cầu kinh phí điều chỉnh lương cơ sở tăng 30%, điều chỉnh lương hưu và trợ cấp lũy kế 3 năm 2024-2026 tăng thêm là hơn 900 nghìn tỷ đồng.

Đặc biệt, nền tảng tăng lương của Việt Nam ngày càng được củng cố. Suốt thời gian từ khi bắt đầu đại dịch Covid-19 đến nay, nền kinh tế vĩ mô luôn ổn định; lạm phát được kiểm soát dưới 4%, các cân đối lớn được bảo đảm; an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội cơ bản được bảo đảm tốt. Việt Nam đang nhanh chóng thu hẹp khoảng cách với các nước trong khu vực, cải thiện vị thế quốc tế nhờ duy trì động lực tăng trưởng cân bằng cả trong và ngoài nước; sức mạnh nội lực và vị thế kinh tế quốc tế được thế giới ghi nhận và dự báo tiếp tục sự hồi phục và tăng trưởng tích cực...

 Cụ thể, theo Tổng cục Thống kê, kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu năm 2024 có nhiều khởi sắc về sự đồng đều và chất lượng tăng trưởng, với GDP tăng 6,42%, vượt kịch bản đề ra và là mức cao của khu vực và thế giới. Báo cáo Triển vọng kinh tế thế giới của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) tháng 4-2024 cũng chỉ ra, Việt Nam là đại diện Đông Nam Á duy nhất lọt vào top 10 với dự báo tăng trưởng 6,4% từ năm 2024 đến 2029 và sẽ trải qua một giai đoạn tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ, đặt đất nước vào hàng ngũ các nền kinh tế mới nổi có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất.

Theo ông Paulo Medas, Trưởng đoàn Tham vấn và giám sát kinh tế vĩ mô Việt Nam của IMF, Việt Nam tiếp tục hội nhập và nền kinh tế đã thực sự phục hồi nhanh chóng trong nửa đầu năm 2024, sau giai đoạn khó khăn cuối năm 2022 và đầu năm 2023. Nền kinh tế Việt Nam đang phục hồi nhanh hơn dự kiến, một phần nhờ vào xuất khẩu mạnh và đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng như hiệu quả từ những hành động của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, như việc cắt giảm lãi suất, gia tăng đầu tư công, tăng lương...

Còn theo báo cáo công bố tháng 4-2024 của Ngân hàng Thế giới (WB), Việt Nam được giữ nguyên dự báo mà WB đã công bố đầu năm là sẽ tăng trưởng 5,5% GDP trong năm 2024 và tiếp tục nằm trong nhóm đầu thế giới về tốc độ tăng trưởng kinh tế. Việt Nam là quốc gia có tiềm năng lớn, nằm trong số các quốc gia có tốc độ tăng trưởng cao với tiềm năng tăng trưởng khoảng 8%.

Đặc biệt, những năm gần đây, cùng với duy trì tốc độ và động lực tăng trưởng ổn định, cân đối ngân sách nhà nước và dự trữ ngoại hối có nhiều cải thiện, liên tục vượt dự toán kế hoạch thu ngân sách nhà nước hằng năm và duy trì mức dự trữ ngoại hối cao; kiểm soát tốt nợ công và thâm hụt ngân sách nhà nước dưới mức Quốc hội cho phép. Bởi vậy, các tổ chức xếp hạng tín nhiệm uy tín thế giới liên tục duy trì mức tín nhiệm quốc gia của Việt Nam ở mức Ba2 (Moody’s ) hoặc BB+ (Fitch Ratings) với triển vọng chung là “Ổn định”. Trong đó, tổ chức xếp hạng tín nhiệm S&P Global Ratings (Mỹ) xếp hạng tín nhiệm quốc gia đối với Việt Nam trong dài hạn ở mức BB+ và trong ngắn hạn ở mức B. Triển vọng về xếp hạng tín nhiệm trong dài hạn là “Ổn định”.  

Những kết quả và triển vọng tăng trưởng kinh tế tích cực như nêu trên là minh chứng thuyết phục khẳng định và tiếp tục tạo nền tảng vững chắc cải thiện nguồn thu ngân sách nhà nước và thu nhập xã hội bảo đảm cho cuộc cải cách tiền lương thời gian tới ở Việt Nam thực sự dựa vào nguồn lực của chính mình và góp phần làm tăng nguồn nội lực đó...

Tiếp tục các giải pháp tăng lương bền vững

Chính phủ đã, đang và sẽ tiếp tục chuẩn bị kỹ lưỡng, thận trọng, chắc chắn, bài bản, khoa học để thực hiện cải cách chính sách tiền lương. Năm 2024, Quốc hội giao Chính phủ triển khai thực hiện các nội dung đã rõ, đủ điều kiện để thực hiện, gồm: Hoàn thiện chế độ nâng lương; bổ sung chế độ tiền thưởng; quy định nguồn kinh phí thực hiện chế độ tiền lương; hoàn thiện cơ chế quản lý tiền lương và thu nhập. Mới đây, ngày 30-6, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 73/2024/NĐ-CP quy định mức lương cơ sở và chế độ tiền thưởng đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang, trong đó đã hướng dẫn cụ thể nguồn kinh phí thực hiện việc tăng lương cơ sở...

Về trung và dài hạn, Quốc hội giao Chính phủ tiếp tục hoàn thành các nhiệm vụ đề ra cải cách tiền lương theo Nghị quyết số 27-NQ/TW, tập trung vào việc xây dựng các bảng lương và chế độ phụ cấp mới, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về các chế độ, chính sách gắn với mức lương cơ sở, vị trí việc làm trong hệ thống chính trị và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức theo vị trí việc làm, sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế, bảo đảm tính khả thi, công bằng, hợp lý, tổng thể, phù hợp với tình hình kinh tế-xã hội và nguồn lực của đất nước.

Theo Bộ Nội vụ, tính đến nay, Bộ trưởng Bộ Nội vụ và lãnh đạo các bộ, ngành đã ban hành 39 thông tư hướng dẫn và 100% bộ, ngành, địa phương đã hoàn thành phê duyệt Đề án vị trí việc làm. Thời gian tới, các cơ quan chức năng sẽ tiếp tục hoàn thiện và nâng cao chất lượng danh mục vị trí việc làm xã hội; bản mô tả công việc và khung năng lực của vị trí việc làm; tiếp tục rà soát tổng thể tất cả bảng lương và nghiên cứu, tính toán hài hòa vấn đề phụ cấp, khen thưởng và một số chế độ đặc thù của lực lượng vũ trang và của cán bộ, công chức, viên chức một số chuyên ngành (đặc biệt là phụ cấp theo nghề) mà trong quá trình thực hiện có phát sinh bất hợp lý.... Trên cơ sở đó tính toán nguồn lực và có giải pháp thực thi hiệu quả công tác quản lý nhà nước về tiền lương xã hội.

Tóm lại, việc tăng lương cho người lao động đang được triển khai theo chủ trương và lộ trình trung và dài hạn của Đảng, Nhà nước, Chính phủ; đồng thời, bám sát sự phát triển chung của nền kinh tế, phù hợp với các nguồn lực tài chính hiện có của đất nước. Việc tăng lương hay cải cách tiền lương là một sự quan tâm đặc biệt đến đời sống nhân dân trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhận được sự đồng thuận của nhân dân, đáp ứng được mong mỏi của người lao động, thể hiện tính nhất quán, tính ưu việt, nhân văn của chế độ.

Sẵn sàng giúp dân trong mọi tình huống.

 

Đó là “mệnh lệnh không lời” đối với mỗi người lính trong thời chiến cũng như thời bình. Điển hình như trong đợt mưa lũ lịch sử từ ngày 9 đến ngày 12-10-2017 diễn ra trên toàn tỉnh Hòa Bình, lực lượng vũ trang (LLVT) tỉnh Hòa Bình đã vượt qua hiểm nguy, sẵn sàng ứng cứu, giúp dân khắc phục hậu quả thiên tai.

Làm chủ trong mọi tình huống

Hòa Bình là địa bàn thường xuyên xảy ra mưa lũ, sạt lở đất, 10 năm qua, thiên tai, thảm họa đã gây ra nhiều thiệt hại nghiêm trọng. Để đối phó, khắc phục tình trạng trên, các cấp ủy, chính quyền địa phương và LLVT tỉnh Hòa Bình luôn quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm túc phương châm “4 tại chỗ” (chỉ huy tại chỗ; lực lượng tại chỗ; phương tiện, vật tư tại chỗ; hậu cần tại chỗ) và “3 sẵn sàng” (phòng ngừa chủ động, ứng phó kịp thời, khắc phục khẩn trương và hiệu quả).

Cùng với đó, chú trọng ưu tiên phát triển hệ thống giao thông trên địa bàn, tạo thuận lợi trong việc cơ động lực lượng, phương tiện triển khai thực hiện nhiệm vụ; công tác phối hợp, hiệp đồng giữa địa phương và các cơ quan, đơn vị Quân đội đóng quân trên địa bàn được thực hiện thống nhất; đội ngũ cán bộ, chiến sĩ LLVT tỉnh luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, đoàn kết, sáng tạo, không ngại nguy hiểm, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt nhiệm vụ, nhất là những nhiệm vụ khó khăn, đột xuất...

Sẵn sàng giúp dân trong mọi tình huống
Cán bộ, chiến sĩ Bộ CHQS tỉnh Hòa Bình và lực lượng dân quân tự vệ chuyển hàng cứu trợ vào xóm Nhạp, xã Đồng Ruộng, huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình, tháng 10-2017. Ảnh do đơn vị cung cấp

Minh chứng việc làm trên, Đại tá Đinh Đình Trường, Chỉ huy trưởng Bộ CHQS tỉnh Hòa Bình cho hay, những năm qua, đơn vị đã luôn chủ động xây dựng, bổ sung kế hoạch phòng, chống thiên tai, tìm kiếm cứu nạn, phòng, chống cháy nổ, cháy rừng...

Cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị đã phát huy tốt vai trò tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương, huy động, trưng dụng phương tiện, trang bị, vật tư của các doanh nghiệp, cá nhân, cơ quan, đơn vị ngoài Quân đội tham gia, bảo đảm được nguồn lực của các cấp, ngành, đáp ứng kịp thời xử trí các tình huống xảy ra.

Sẵn sàng giúp dân trong mọi tình huống
Lực lượng vũ trang tỉnh Hòa Bình vận chuyển nhà bạt giúp nhân dân xóm Lau Bai, xã Vầy Nưa, huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình di chuyển khỏi vùng nguy hiểm, tháng 10-2017. Ảnh: HẢI NINH

Đơn vị luôn xác định, việc phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, cứu hộ-cứu nạn là nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ chiến đấu của LLVT tỉnh trong thời bình; bám sát phương châm “chủ động phòng chống, ứng phó kịp thời, khắc phục khẩn trương, hiệu quả, trong đó, lấy phòng là chính”; “3 trước” (nhận diện, chủ động phòng, chống trước; chuẩn bị phương án, phương tiện vật tư trước; phát hiện, hành động, xử lý trước), “4 tại chỗ”; thường xuyên phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ giữa các lực lượng, để góp phần giảm thiểu tối đa thiệt hại về người và tài sản của Nhà nước và nhân dân.

Sẵn sàng giúp dân trong mọi tình huống
Lực lượng vũ trang tỉnh Hòa Bình dựng nhà bạt giúp nhân dân xóm Lau Bai, xã Vầy Nưa, huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình, tháng 10-2017. Ảnh: Hải Ninh

Kể từ năm 2014 đến nay, LLVT tỉnh Hòa Bình đã tiếp nhận, đưa vào sử dụng 9 chiếc tàu, xuồng, 23 ô tô các loại; hơn 10.000 trang bị, phương tiện các loại phục vụ công tác phòng, chống thiên tai, tìm kiếm-cứu hộ. Cùng với đó, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, các sở, ngành có liên quan tham mưu cho Ủy ban nhân dân tỉnh Hòa Bình đầu tư ngân sách địa phương hơn 500 tỷ đồng cho công tác phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai-tìm kiếm cứu nạn và phòng thủ dân sự...   

Sẵn sàng giúp dân trong mọi tình huống
Lực lượng vũ trang tỉnh Hòa Bình tham gia tìm kiếm, cứu nạn vụ sạt lở đất ở huyện Tân Lạc, tháng 10-2017. Ảnh: Nguyễn Thanh

Đặc biệt, trên địa bàn tỉnh Hòa Bình xảy ra một số vụ thiên tai gây thiệt hại lớn như: Năm 2015 sập hầm khai thác than tại xã Lỗ Sơn, huyện Tân Lạc với hơn 3.000m3 đất đá đổ vào hầm mỏ khiến 3 người chết. Đợt mưa lũ lịch sử từ ngày 9 đến ngày 12-10-2017, gây ra thiệt hại nghiêm trọng trên địa bàn toàn tỉnh Hòa Bình.

Cụ thể: Vào lúc 1 giờ 20 phút ngày 12-10-2017 tại thác Khanh (xóm Khanh, xã Phú Cường, huyện Tân Lạc) đã sạt lở hàng chục nghìn mét khối đất, đá khiến 18 người bị vùi lấp, thiệt mạng, phá hủy hoàn toàn 5 ngôi nhà, nhiều phương tiện, vật nuôi. Cùng thời điểm đó, tại địa bàn huyện Đà Bắc, mưa bão gây ra lũ ống, lũ quét, sạt lở đất đá làm 7 người chết, 5 người mất tích, 9 người bị thương. Sập hoàn toàn và bị lũ cuốn trôi 53 nhà, cháy một nhà; tốc mái 202 nhà; sạt lở đất vào 363 nhà; 559 hộ dân phải di dời khẩn cấp. 

Ngày 30-7-2018, tại tổ 15, phường Đồng Tiến, TP Hòa Bình mưa lớn dài ngày làm sạt lở bờ sông trên diện rộng làm 28 căn nhà bị sập, đổ xuống lòng sông Đà.

Ngày 4-11-2018, tại hầm khai thác vàng trái phép tại hang Cột Cờ (thôn Lộng, thị trấn Ba Hàng Đồi, huyện Lạc Thủy), do vỡ bể chứa nước, hàng nghìn mét khối bùn đất chảy vào hang làm 2 người trong hang bị vùi lấp dẫn đến tử vong...

Sẵn sàng có mặt nơi hiểm nguy

Khi chúng tôi nhắc đến vụ sạt lở đất ở huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình xảy ra tháng 10-2017, Đại tá Vũ Hải Ninh, trú tại phường Đồng Tiến, TP Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình, nguyên Phó chỉ huy trưởng Bộ CHQS tỉnh Hòa Bình, người trực tiếp chỉ huy bộ đội tham gia dựng nhà bạt giúp nhân dân vùng lũ nhớ lại: “Đợt mưa lũ tháng 10-2017 gây thiệt hại trên diện rộng toàn tỉnh Hòa Bình, tôi được cấp trên phân công trực tiếp chỉ huy bộ đội ở huyện Đà Bắc. Ngày 11-10, trên hướng Đà Bắc, Bộ CHQS tỉnh Hòa Bình đã thành lập Sở chỉ huy tiền phương do Thượng tá Lê Hoa Vương, Phó tham mưu trưởng Bộ CHQS tỉnh chỉ huy các lực lượng thường trực của Ban CHQS huyện Đà Bắc cùng nhân dân thu gom tài sản, tìm kiếm người mất tích.

Từ ngày 12-10, tôi trực tiếp chỉ huy 21 cán bộ, chiến sĩ LLVT của Bộ CHQS tỉnh Hòa Bình và Ban CHQS huyện Đà Bắc phối hợp với lực lượng dân quân 2 xã khẩn trương dựng 44 nhà bạt cho người dân ở xóm Nhạp, xã Đồng Ruộng; xóm Lau Bai, xã Vầy Nưa bị lũ cuốn trôi mất nhà để có nơi tránh trú an toàn cho hơn 200 hộ dân ở Đà Bắc bị mất hết nhà. Song song với việc dựng nhà bạt, tôi chỉ đạo các lực lượng kịp thời cung cấp đầy đủ thuốc, lương thực, thực phẩm, quần áo và các nhu yếu phẩm khác theo đúng tinh thần chỉ đạo “đảm bảo người dân có chỗ ở, không bị đói, rét, không để xảy ra dịch bệnh”.



Tiếp nối câu chuyện, Đại tá Vũ Hải Ninh kể: “Hằng ngày, chúng tôi hành quân bằng tàu ST 1200 của đơn vị vừa vận chuyển hàng hóa nhu yếu phẩm, đưa lực lượng đi giúp dân, vừa đưa đón cán bộ cấp trên đi kiểm tra, thăm hỏi nhân dân, vượt gần 40km lòng hồ sông Đà (mỗi chuyến đi về mất từ 6-8 giờ, tùy thuộc thời tiết, ngày hay đêm).

Sau đó, tiếp tục hành quân đường bộ trong điều kiện mưa bão, nhiều quãng đường lên vị trí dựng nhà bạt dốc trơn, lầy lội mới đến các điểm tập kết. Để dựng được nhà bạt ở đây, bộ đội phải phát quang, san nền, đào rãnh thoát nước, làm nhà vệ sinh... tất cả diễn ra khẩn trương trong mưa, gió, lạnh và muỗi vắt bám cắn. Mệt là thế, nhưng không ai kêu ca phàn nàn, anh em thay nhau nghỉ chớp nhoáng ăn tạm chiếc bánh mì, uống ngụm nước lọc rồi lại bắt tay vào việc. Dựng xong nhà bạt, chúng tôi lại tiếp tục giúp nhân dân vận chuyển đồ đạc, người già, trẻ nhỏ từ các bè, thuyền trên lòng hồ vào các nhà bạt và hướng dẫn họ sử dụng.

Tại khu di dời dân xóm Nhạp, một nhà bạt cấp đại đội được chúng tôi dựng lên và trở thành lớp học liên cấp xã Đồng Ruộng ở giữa rừng. Để huy động dựng được 44 căn nhà bạt, chúng tôi phải huy động sức mạnh tổng hợp mọi lực lượng, ai nấy đều làm việc không quản ngày đêm, dầm mình trong mưa bão với phương châm “tất cả vì tính mạng, tài sản của nhân dân...”.  

Xây dựng “hàng rào lòng dân” ở Kho K850.

 

“Ngày 19-7-2024, đơn vị chúng tôi vinh dự đón nhận Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Ba. Để có được thành tích đó, ngoài thực hiện nhiệm vụ chính trị trung tâm, đơn vị còn phối hợp tốt với cấp ủy, chính quyền, đoàn thể địa phương, các cơ quan, đơn vị đứng chân trên địa bàn xây dựng tốt an ninh khu vực và vành đai chính trị an toàn...”, Đại tá Lương Đình Ký, Chính trị viên Kho K850 chia sẻ niềm vui của đơn vị.

Kho K850 thuộc Cục Quân khí, Tổng cục Kỹ thuật được thành lập ngày 20-7-1974. Thấm nhuần lời dạy của Bác Hồ: “... vũ khí là mồ hôi nước mắt của đồng bào, là xương máu của bộ đội... vì vậy, phải quý trọng nó, phải tiết kiệm ngăn nắp, phải sử dụng hợp lý”, 50 năm qua, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ, nhân viên Kho K850 đã phát huy truyền thống “Tận tụy dũng cảm, giữ gìn súng đạn, phục vụ đánh thắng” của Cục Quân khí; chủ động tiến công, làm việc quên mình, không quản ngày đêm, thời tiết khắc nghiệt để tiếp nhận từ nguồn viện trợ, theo lệnh của trên và cấp phát hàng nghìn tấn vũ khí, trang bị kỹ thuật cho chiến trường miền Nam và các đơn vị toàn quân... bảo đảm đủ về số lượng, tốt về chất lượng, đồng bộ, an toàn tuyệt đối.

Những năm gần đây, được sự quan tâm, đầu tư toàn diện của trên, hệ thống nhà kho cất giữ súng pháo khí tài, dụng cụ phụ tùng được quy hoạch, cải tạo, xây mới theo đúng quy chuẩn; hệ thống trang thiết bị, dây chuyền công nghệ nhà xưởng được đầu tư đồng bộ, hiện đại; việc sắp xếp, quản lý hàng hóa bảo đảm khoa học, đồng bộ, thống nhất, chính quy...

Cùng với thực hiện nhiệm vụ chính trị trung tâm, những năm qua, Kho K850 luôn là điểm sáng về công tác bảo đảm an ninh trong khu vực nói chung và xây dựng vành đai an toàn đơn vị nói riêng.

Những năm qua, đơn vị đã tổ chức quán triệt, thực hiện tốt Nghị định số 03/2019/NĐ-CP ngày 5-9-2019 của Thủ tướng Chính phủ về phối hợp giữa Bộ Quốc phòng và Bộ Công an trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm và nhiệm vụ quốc phòng; phối hợp với cơ quan, đơn vị đứng chân trên địa bàn luyện tập các phương án để giữ vững tình hình an ninh chính trị. Thông qua đó, đơn vị nắm chắc tình hình, quy luật, biểu hiện hoạt động của các đối tượng, các vụ việc xảy ra trên địa bàn; giải quyết kịp thời các vụ việc phát sinh không để ảnh hưởng đến tình hình an ninh chính trị địa bàn. Đơn vị thường xuyên làm tốt công tác tuần tra, canh gác bảo đảm an toàn kho tuyệt đối an toàn.

Cùng với đó, đơn vị chủ động hiệp đồng, kịp thời thông tin cho các cơ quan, đơn vị đứng chân trên địa bàn triển khai các phương án phòng, chống bão, lũ; phòng chống cháy nổ, khắc phục hậu quả thiên tai, cứu hộ-cứu nạn; phối hợp làm tốt công tác dân vận, xây dựng vành đai chính trị an toàn.

Theo giới thiệu của cơ quan chính trị đơn vị, chúng tôi tới trò chuyện với Đại tá Đinh Đức Vượng, ở thị trấn Mãn Đức, huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình, nguyên Chính trị viên Kho K850, Phó chủ tịch Hội Cựu chiến binh huyện Tân Lạc.

Cựu chiến binh Đinh Đức Vượng nhớ lại: “Đầu năm 2010, tôi là Chính trị viên Kho K854 được điều động về làm Chính trị viên Kho K850. Thời điểm đó, tệ nạn xã hội trên địa bàn diễn biến phức tạp. Ở đơn vị, phần lớn cán bộ, nhân viên xây dựng gia đình đăng ký ngoại trú ở nhà gần doanh trại nên việc nắm tình hình tư tưởng, các mối quan hệ xã hội của bộ đội gặp không ít khó khăn. Để ngăn ngừa biểu hiện tiêu cực, Ban chủ nhiệm Kho K850 đã chủ động phối hợp với cấp ủy, chính quyền, đoàn thể, công an địa phương kịp thời trao đổi, cung cấp thông tin về tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn. Thông qua đó để giúp lãnh đạo, chỉ huy các cấp nắm chắc tư tưởng, mối quan hệ để quản lý đội ngũ cán bộ, nhân viên trong đơn vị. Năm 2012, tôi nhận được thông tin một quân nhân đơn vị đã lập gia đình (vợ làm lao động tự do), do điều kiện gia đình khó khăn, nhận thức chưa đầy đủ nên vợ của quân nhân này đã vay nặng lãi 30 triệu đồng. Tôi đã chỉ đạo cán bộ quản lý trực tiếp quân nhân đó cùng cán bộ tài chính của đơn vị gặp gỡ, động viên quân nhân cùng gia đình không để “lãi mẹ đẻ lãi con”. Đơn vị đã giao cho cán bộ phối hợp với công an địa phương, chủ cho vay lãi và gia đình người vay, hằng tháng trích 50% tiền lương của người vay để trả nợ. Gần một năm sau, quân nhân đó đã giải quyết dứt điểm vụ việc, trả hết nợ cả gốc và lãi...”

Để xây dựng “hàng rào lòng dân”, vành đai kho an toàn vững chắc, theo Thượng tá Nguyễn Tiến Hưng, Chủ nhiệm Chính trị Kho K850, những năm qua, đơn vị đã duy trì hiệu quả hoạt động của Ban An ninh khu vực (trước đây là Cụm an ninh, quốc phòng), gồm có Kho K850, Tiểu đoàn 743 (Cục Quân khí) và Ủy ban nhân dân thị trấn Mãn Đức (Tân Lạc). Theo đó, các cơ quan, đơn vị có nhiệm vụ phối hợp nắm bắt tình hình, trao đổi thông tin, bảo đảm an toàn vành đai Kho K850, Tiểu đoàn 743, vận động nhân dân thực hiện có hiệu quả chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, nhiệm vụ bảo đảm an toàn kho tàng, đơn vị; thực hiện tốt chính sách hậu phương Quân đội, công tác dân vận, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn. Theo kế hoạch, định kỳ 6 tháng, một năm, đơn vị có nhiệm vụ chủ trì các hội nghị sơ kết, tổng kết và nhiệm vụ đột xuất theo quy chế.

Hằng tháng, đơn vị giao đồng chí trợ lý chính trị phụ trách công tác bảo vệ an ninh trực tiếp gặp gỡ, trao đổi với lực lượng Công an, quân sự thị trấn, các khu giáp ranh trên địa bàn đóng quân để nắm tình hình địa bàn; kịp thời có biện pháp, phương án, xây dựng vành đai chính trị an toàn cho các mục tiêu quan trọng; ngăn chặn, xử lý các tình huống... Đây là một trong những hoạt động quan trọng để giúp đơn vị chủ động phòng gian, giữ bí mật, bảo đảm vành đai an toàn, đồng thời thắt chặt mối quan hệ đoàn kết quân dân trên địa bàn.

Quân đoàn 3 đạt nhiều kết quả quan trọng trong xây dựng đơn vị tinh, gọn, mạnh.

 

Trong những năm qua, Đảng ủy, Bộ tư lệnh Quân đoàn 3 đã triển khai nhiều chủ trương, giải pháp đồng bộ, quyết liệt, đột phá nâng cao chất lượng huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, xây dựng đơn vị tinh, gọn, mạnh.

Xây dựng đơn vị tinh, gọn, mạnh là quyết tâm, tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của Đảng ủy, Bộ tư lệnh Quân đoàn 3. Trên cơ sở quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối quân sự, quốc phòng của Đảng, các nghị quyết, chỉ thị của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Đảng ủy, Bộ tư lệnh Quân đoàn 3 đã có nhiều chủ trương, giải pháp, mô hình sáng tạo như: “1 tập trung, 3 khâu đột phá” trong xây dựng đơn vị; “3 thực chất” trong huấn luyện; “5 yêu cầu” trong giáo dục chính trị; chi bộ; đảng bộ bộ phận, đảng bộ cơ sở “4 tốt” trong xây dựng đảng; “Ngày pháp luật”, “Mỗi ngày một câu hỏi”, “Tổ tư vấn tâm lý, pháp lý quân nhân”; “4 không”, “3 có”, “3 nên”, “5 chủ động” trong công tác tư tưởng...

Ngoài ra, các đơn vị: Sư đoàn 10, Sư đoàn 320 có những cách làm hay như “Ban nhạc thao trường”, “Mách nhỏ tư tưởng”, “Hội thao chính trị”, “Một hội viên phụ nữ - Một quân nhân”... Qua đó, giáo dục cho mọi cán bộ, chiến sĩ có bản lĩnh chính trị vững vàng, ý chí quyết tâm cao, nhận và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; xây dựng tổ chức đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức, cán bộ; có năng lực lãnh đạo, năng lực tổ chức thực tiễn, tính đấu tranh tự phê bình và phê bình cao.

Quân đoàn 3 đang từng bước điều chỉnh tổ chức, lực lượng theo hướng tinh, gọn, mạnh, nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu theo Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ XI, Nghị quyết số 230-NQ/QUTW của Quân ủy Trung ương và Kế hoạch số 1228/KH-BQP của Bộ Quốc phòng. Tập trung chỉ đạo Sư đoàn 10 làm trước để rút kinh nghiệm cho toàn quân về thực hiện biểu tổ chức biên chế mới của sư đoàn bộ binh (thời bình) được biên chế hỏa lực mạnh.

Quán triệt sâu sắc Nghị quyết số 1659-NQ/QUTW ngày 20-12-2022 của Quân ủy Trung ương về nâng cao chất lượng huấn luyện giai đoạn 2023-2030 và những năm tiếp theo. Lãnh đạo, chỉ đạo đổi mới toàn diện công tác huấn luyện, giáo dục đào tạo, diễn tập phù hợp với điều chỉnh tổ chức biên chế, trang bị vũ khí và yêu cầu thực tiễn đặt ra. Đẩy mạnh phong trào phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật để nâng cao chất lượng huấn luyện, trình độ sẵn sàng chiến đấu của đơn vị, sức cơ động, khả năng chiến đấu độc lập, chiến đấu vào ban đêm và hiệp đồng chiến đấu trong điều kiện đối phương sử dụng vũ khí công nghệ cao.

Trước khi bước vào huấn luyện năm 2024, Quân đoàn tổ chức hội thi công tác chuẩn bị huấn luyện; tổ chức 143 lớp tập huấn cho hơn 96% cán bộ các cấp, trong đó có những nội dung tập huấn chuyên sâu theo từng chuyên ngành, binh chủng và phương pháp huấn luyện, làm cơ sở nâng cao chất lượng huấn luyện, diễn tập hiệp đồng quân, binh chủng. Toàn Quân đoàn đầu tư hơn 10 tỷ đồng và hàng nghìn ngày công của bộ đội củng cố, làm mới thao trường, bãi tập, đồ dùng huấn luyện và có 353 sáng kiến, cải tiến ứng dụng vào huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu.

Kết quả huấn luyện các đối tượng hằng năm có trên 83% khá, giỏi; hoàn thành tốt các cuộc diễn tập, nhất là diễn tập hiệp đồng quân binh chủng, sử dụng vũ khí, trang bị mới. Kiểm tra “3 tiếng nổ” của chiến sĩ mới có nhiều đơn vị đạt kết quả giỏi, trong đó, năm 2024, có 9 đại đội, 21 trung đội đạt giỏi. Đặc biệt, trong huấn luyện, cấp ủy, chỉ huy các cấp đã kết hợp, vận dụng tốt những bài học kinh nghiệm chiến đấu của Quân đội, Quân đoàn và thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại.

Đóng quân trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên, Quân đoàn 3 luôn chủ động phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương xây dựng các tiềm lực trong khu vực phòng thủ vững mạnh; đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch nhằm bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ nhân dân. Triển khai nhiều chương trình an sinh xã hội, giúp nhân dân xây dựng nông thôn mới, xóa đói, giảm nghèo, phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, cứu hộ, cứu nạn.

Từ năm 2014 đến nay, Quân đoàn đã huy động gần 42.000 lượt cán bộ, chiến sĩ; 683 lượt ô tô, 169 lượt tàu xuồng, ca nô, phà các loại thực hiện nhiệm vụ phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa, tìm kiếm cứu nạn; sơ tán hàng trăm hộ dân, cùng phương tiện, tài sản trong vùng nguy hiểm, vùng ngập lụt đến nơi an toàn. Tham gia 39 vụ chữa cháy, dập tắt đám cháy, cứu 261ha rừng; tu sửa, dựng lại 244 nhà dân và trường học bị hư hỏng do bão lũ; giúp 18 xã trên địa bàn đóng quân đạt chuẩn nông thôn mới, được cấp ủy, chính quyền địa phương tin tưởng, nhân dân quý mến.

ĐẤU TRANH CHỐNG CHỦ NGHĨA CÁ NHÂN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

 Là người sáng lập và lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Theo Người, xây dựng, chỉnh đốn Đảng không tách rời cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân. Đây là cuộc đấu tranh không kém phần cam go, quyết liệt, lâu dài và gian khổ để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, hoàn thành sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình. Đặc biệt, khi Đảng trở thành Đảng cầm quyền với những nguy cơ của Đảng cầm quyền lại càng đặt ra trong việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên, để cán bộ, đảng viên xứng đáng là những chiến sĩ tiên phong, Đảng đủ sức lãnh đạo sự nghiệp cách mạng.

Hồ Chí Minh chỉ rõ, chủ nghĩa cá nhân là “việc gì cũng phải nghĩ đến lợi ích riêng của mình trước hết. Họ không lo “mình vì mọi người” mà chỉ lo “mọi người vì mình”. Như vậy, đến đây, khái niệm chủ nghĩa cá nhân không chỉ dừng lại ở những tác hại, mức độ nguy hiểm, mà còn làm rõ hơn những biểu hiện của nó để chúng ta dễ nhận diện. Khi bàn đặc điểm, tác hại của chủ nghĩa cá nhân là Hồ Chí Minh đã sử dụng phương pháp mâu thuẫn, đối lập chủ nghĩa cá nhân với đạo đức cách mạng.

Chủ nghĩa cá nhân rất nguy hiểm bởi đó là “giặc nội xâm”, “giặc ở trong lòng”, nó ẩn nấp trong mình, trong đồng chí mình, đáng sợ hơn giặc ngoại xâm. Hồ Chí Minh khẳng định: “Địch bên ngoài không đáng sợ. Địch bên trong đáng sợ hơn, vì nó phá hoại từ trong phá ra”. Nó nguy hiểm bởi nhận diện và đấu tranh với chính mình và với đồng chí mình là điều không dễ dàng

Vậy làm thế nào để đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân? Theo Hồ Chí Minh, để đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân có hiệu quả cần thực hiện tốt các yêu cầu có tính bắt buộc. Trong tác phẩm, Người đã dùng từ “Phải” như một điệp từ để truyền tải sự “tất yếu” phải làm, phải thực hiện và thực hiện phải kiên quyết, có kết quả. Người nhấn mạnh, để “cho tất cả cán bộ, đảng viên xứng đáng là những chiến sĩ cách mạng, “phải ra sức tăng cường giáo dục toàn Đảng về lý tưởng cộng sản, về đường lối, chính sách của Đảng, về nhiệm vụ và đạo đức của người đảng viên. Phải thực hành phê bình và tự phê bình nghiêm chỉnh trong Đảng. Phải hoan nghênh và khuyến khích quần chúng thật thà phê bình cán bộ, đảng viên. Chế độ sinh hoạt của chi bộ phải nghiêm túc. Kỷ luật của Đảng phải nghiêm minh. Công tác của Đảng phải chặt chẽ”.

Theo đó, học tập lý luận, chống căn bệnh lười học, ngại học là yêu cầu của cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân. Phải thực hành dân chủ, thực hiện tốt kỷ luật đảng là điều kiện để sớm đưa ra khỏi Đảng những phần tử thoái hóa, biến chất nhằm tăng cường sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng.

Như vậy, chủ nghĩa cá nhân là nguy hại, là kẻ thù, là trở lực đối với sự phát triển của xã hội, vì vậy đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân là đòi hỏi cấp bách, tất yếu, là cuộc chiến đấu “khổng lồ” để chống lại những gì cũ kỹ, hư hỏng, rác rưởi cặn bã, quét sạch “vi trùng” độc hại để cái tốt, cái tiến bộ, cái có giá trị có điều kiện phát triển. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng lưu ý trong đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cần phân biệt giữa chủ nghĩa cá nhân với việc giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể. Nếu lợi ích cá nhân không trái với lợi ích tập thể thì hoàn toàn không xấu mà đó là động lực của sự phát triển. Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân là không “giày xéo” lên cá nhân và ngược lại, nếu mỗi cá nhân cũng như lợi ích cá nhân được giải quyết hài hòa và bảo đảm sẽ là động lực để phát huy trí tuệ, sức sáng tạo của mỗi cá nhân.

 

NGĂN CHẶN XÂM PHẠM AN NINH QUỐC GIA TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG

 Để thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ đối với cách mạng Việt Nam, trong thời gian qua các thế lực thù địch, cơ hội chính trị đã tăng cường các hành vi tội phạm lợi dụng internet, mạng xã hội với nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt và liên tục thay đổi phương thức hoạt động trên phạm vi hoạt động rộng, đặc biệt là từ nước ngoài, gây khó khăn trong phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn của các cơ quan chức năng. Để góp phần nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn hoạt động lợi dụng không gian mạng để xâm phạm an ninh quốc gia nước ta trong thời gian tới, cần tập trung vào một số giải pháp trọng tâm sau:

Một là, thực hiện tốt công tác dự báo, nắm tình hình

Các cơ quan chức năng cần tiếp tục chủ động tăng cường công tác nắm tình hình, nghiên cứu dự báo, phát hiện kịp thời âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch trên tất cả các lĩnh vực. Nghiên cứu, nắm bắt tình hình từ sớm, từ xa về âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch để có các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn kịp thời, hiệu quả. Phát huy vai trò của quần chúng nhân dân nhằm tạo ra thế trận an ninh nhân dân trên không gian mạng đẻ phát hiện sớm những tư tưởng phá hoại của các thế lực thù địch. Khi phát hiện âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch thì bám sát, theo dõi nắm bắt diễn biến sự việc, tình hình cụ thể để ngăn chặn, đẩy lùi các thông tin gây hại tới không gian mạng quốc gia.

Hai là, thực hiện hiệu quả công tác tuyên truyền về vai trò của công tác đấu tranh xâm phạm an ninh quốc gia trên không gian mạng

Cấp ủy đảng, chính quyền các cấp cần tăng cường và đẩy mạnh việc tuyên truyền, nâng cao nhận thức của cơ quan, tổ chức và quần chúng về tầm quan trọng của công tác phòng ngừa, đấu tranh chống hoạt động lợi dụng không gian mạng để xâm phạm an ninh quốc gia nước ta. Tất cả hệ thống chính trị và người dân phải nhận thức sâu sắc việc đấu tranh chống xâm phạm an ninh quốc gia trên không gian mạng là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài của cả hệ thống chính trị. Từ đó, làm cho cán bộ, đảng viên và người dân, đặc biệt là thanh, thiếu niên thấy rõ tính hai mặt của không gian mạng; có khả năng nhận diện và “miễn dịch” với các nội dung thông tin xấu, độc, nguy hại đối với xã hội; kịp thời tố giác hành vi lôi kéo người dân vào các hoạt động vi phạm pháp luật thông qua không gian mạng. Mặt khác, cần tuyên truyền và giáo dục người dân về ý thức và phong cách văn hóa khi tham gia mạng xã hội. Tất cả mọi người cần nghiêm chỉnh chấp hành Luật An ninh mạng và các quy tắc ứng xử trên không gian mạng. Không đăng tải hoặc để lộ, lọt thông tin, tài liệu liên quan đến bí mật nhà nước. Phát huy hơn nữa lợi thế của internet, mạng xã hội trong việc cập nhật thường xuyên các quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và những thành tựu đã đạt được trong xây dựng và phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.

Ba là, phát huy vai trò của các cơ quan chức năng về an ninh mạng

Xây dựng, kiện toàn và phát triển lực chuyên trách thực hiện công tác bảo đảm an toàn, an ninh mạng quốc gia. Tham mưu với Đảng, Nhà nước chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương hướng dẫn cán bộ, đảng viên và người dân cùng tham gia công tác bảo vệ an toàn, an ninh mạng, phát huy sức mạnh tổng hợp chung trong công tác phòng, chống hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia trên không gian mạng. Bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, nhân viên chuyên trách về công tác bảo đảm an toàn an ninh mạng; làm công tác phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn hoạt động lợi dụng không gian mạng để xâm phạm an ninh quốc gia.

 

VÌ LỢI ÍCH TOÀN DIỆN CỦA CON NGƯỜI VIỆT NAM

 1. Hơn 94 năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng luôn đặt lên hàng đầu lợi ích toàn diện cả về vật chất, tinh thần của của nhân dân. Cùng với độc lập, tự do, đời sống vật chất, tinh thần, văn hóa của nhân dân được chăm lo toàn diện, góp phần không ngừng củng cố, tăng cường sự tin tưởng, mối quan hệ bền chặt giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước và chế độ.

Trong khi đó, các thế lực thù địch, thế lực xấu xuyên tạc sự thật, cho rằng: Ở Việt Nam, Đảng, Nhà nước chỉ lo vơ vét cho lợi ích nhóm, lợi ích cá nhân mà không chăm lo đến đời sống nhân dân, dẫn đến đời sống nhân dân lầm than, khổ cực. Chúng tung tin trên mạng xã hội: “… Từ nhiều năm qua, giới lãnh đạo Đảng chỉ lo vơ vét và tranh giành lẫn nhau. Số phận người dân thì bị thả nổi, đời sống cực khổ, doanh nghiệp khốn đốn”. Chúng xuyên tạc, vu khống: “Khi xưa họ tận dụng xương máu của dân để chiến thắng. Khi thành công họ tận dụng mồ hôi nước mắt của dân để làm giàu”. Chúng còn trắng trợn kích động, kêu gọi: “Đã đến lúc người dân đồng hành “giải thể chế độ Cộng sản” để điều hành đất nước, bảo vệ chủ quyền và quyền tự quyết của một quốc gia độc lập. Song song phát triển kinh tế đi đôi với tiến bộ, mọi người được sống trong môi trường tự do và một xã hội công bằng”.

2. Thực tế tình hình ở Việt Nam đã bác bỏ hoàn toàn sự bịa đặt, xuyên tạc, vu khống, chống phá trên của các thế lực thù địch, thế lực xấu. Ngay từ khi ra đời ngày 3-2-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đặt lên hàng đầu nhiệm vụ thiêng liêng cao quý nhất là đấu tranh đem lại độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Đặc biệt, trong thời kỳ đổi mới đất nước, Đảng, Nhà nước cùng nhân dân ta đã đoàn kết nhất trí, nỗ lực không ngừng thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ và cũng là bài học kinh nghiệm thành công hết sức quý báu: “Lấy con người là trung tâm, là chủ thể, nguồn lực quan trọng nhất, là động lực và mục tiêu của sự phát triển; chú trọng ưu tiên bố trí nguồn lực cho phát triển văn hóa, xã hội; đẩy mạnh truyền thông chính sách, góp phần tạo đồng thuận xã hội, củng cố niềm tin trong nhân dân”. Nhờ vậy, đất nước chuyển biến tích cực, đời sống nhân dân được cải thiện và nâng cao. Năm 2023, quy mô GDP không ngừng được mở rộng, đạt khoảng 430 tỷ đô la Mỹ, trở thành nền kinh tế lớn thứ 5 trong ASEAN và thứ 35 trong 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới; GDP đầu người tăng 58 lần, lên mức khoảng 4.300 đô la Mỹ. Cùng với đó, đời sống mọi mặt của nhân dân được nâng cao với tuổi thọ trung bình của dân cư tăng từ 62 tuổi năm 1990 lên 73,7 tuổi năm 2023, riêng chỉ số hạnh phúc của Việt Nam được các tổ chức xếp thứ 65/137 quốc gia được xếp hạng và Liên hợp quốc đã công nhận Việt Nam là một trong những nước đi đầu trong việc hiện thực hóa các Mục tiêu Thiên niên kỷ. Còn trong 6 tháng đầu năm 2024, kinh tế Việt Nam tiếp tục có sự khởi sắc với GDP tăng 6,42%, trong đó quý II-2024 ước tăng 6,93%. Đây là cơ sở quan trọng để chúng ta tiếp tục nâng cao cuộc sống mọi mặt của nhân dân.

3. Trong bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ trong chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân là mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi ích. Sức mạnh của sự đoàn kết của Đảng, Nhà nước và nhân dân chính là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng, của việc nâng cao toàn diện đời sống nhân dân, sự phồn vinh của đất nước. Trong đó, Đảng ta xác định: Mọi đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Thực tế cho thấy: Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, Đảng ta đều thực hiện nghiêm túc tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đảng đổi nền kinh tế và văn hóa lạc hậu của nước ta thành một nền kinh tế và văn hóa tiên tiến, đồng thời lại luôn luôn quan tâm đến những việc nhỏ như tương cà, mắm muối cần thiết cho đời sống của nhân dân”.

Vừa qua, Chính phủ luôn có những giải pháp quan trọng để thực hiện chủ trương của Đảng, thiết thực chăm lo đời sống nhân dân. Năm 2023, thành tựu lớn của Chính phủ là đã bám sát tình hình, quan tâm chỉ đạo kịp thời, thực hiện tốt các chính sách phát triển văn hóa, xã hội, người có công, bảo đảm an sinh xã hội, cải thiện đời sống nhân dân, trong đó hoàn thành toàn bộ các chỉ tiêu về xã hội, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta với con người.

Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Chính phủ, nhân dân cũng hăng hái gắng sức, đồng lòng, xây dựng đất nước giàu mạnh, trong đó có cuộc sống của mình. Đảng ta và Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: Nhân dân tiếp nhận, ủng hộ và nhiệt tình tham gia thực hiện đường lối của Đảng, vì thấy đường lối đó đáp ứng đúng yêu cầu, nguyện vọng của mình, từ đó, xác định sức mạnh nhân dân là cội nguồn sâu xa của thắng lợi, của phát triển và chỉ đạo: Bên cạnh việc xác định chủ trương, đường lối đúng, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, phải phát huy mạnh mẽ vai trò sáng tạo, sự ủng hộ và tham gia tích cực của nhân dân.

4. Trong tình hình cách mạng mới với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vấn đề chăm lo toàn diện đời sống nhân dân càng được quan tâm với những quan điểm, nội dung, giải pháp cao hơn, hoàn thiện và phong phú, sinh động hơn. Đảng ta và Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng xác định yêu cầu có tính nguyên tắc để đảm bảo sự phát triển lành mạnh, bền vững, theo định hướng xã hội chủ nghĩa là phải chú trọng đến một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách cũng như trong suốt quá trình phát triển của đất nước. Cụ thể là không chờ đến khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng không “hy sinh” tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần mà trái lại, mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với xóa đói, giảm nghèo bền vững, chăm sóc người có công, những người có hoàn cảnh khó khăn. Hiện nay, nhiệm vụ, mục tiêu không ngừng cải thiện toàn diện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, lợi ích toàn diện của nhân dân được gắn chặt, vững chắc với an ninh xã hội, an ninh con người. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đề ra giải pháp quản lý phát triển xã hội có hiệu quả, nghiêm minh, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Nghị quyết chỉ ra cần chú trọng xây dựng môi trường văn hóa, đạo đức xã hội lành mạnh, văn minh; chú trọng nâng cao chất lượng dịch vụ y tế; chất lượng dân số, gắn dân số với phát triển. Nghị quyết cũng yêu cầu phải chú trọng quan tâm đến mọi người dân, không để ai bị bỏ lại phía sau, phải thường xuyên bảo đảm chính sách lao động, việc làm, thu nhập và thực hiện tốt phúc lợi xã hội, an sinh xã hội./.

 

ÂM MƯU THỦ ĐOẠN LỢI DỤNG "XÃ HỘI DÂN SỰ" ĐỂ CHỐNG PHÁ CÁCH MẠNG VIỆT NAM

 Mới đây trên trang mạng “Voatiengviet” phát tán bài viết: “Nhóm tư vấn Nội địa của Liên hiệp châu Âu (DAG EU) bày tỏ “quan ngại sâu sắc” về Chỉ thị 24 của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam và việc tiếp tục đàn áp xã hội dân sự ở đất nước Đông Nam Á, đồng thời nhóm này kêu gọi Ủy ban châu Âu (EC) nên thực hiện các biện pháp cần thiết để Việt Nam thực hiện đúng cam kết; Chỉ thị này thiết lập chính sách ngăn chặn việc hình thành các tổ chức chính trị độc lập, kiểm soát quyền tự do ngôn luận và kiểm soát việc phổ biến các thông tin chỉ trích đảng cầm quyền, phủ nhận quyền tự do hội họp, tăng cường giám sát công dân và kiểm soát các công đoàn độc lập của công nhân”... Phải khẳng định rằng, đây là những luận điệu phản động nhằm xuyên tạc Chỉ thị 24 của Bộ Chính trị, lợi dụng vấn đề “xã hội đân sự” chống phá cách mạng Việt Nam, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng và thành tựu công cuộc đổi mới đất nước.

1. Chỉ thị số 24-CT/TW, ngày 13/7/2023 của Bộ Chính trị về bảo đảm vững chắc an ninh quốc gia trong bối cảnh hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, với mục đích là quán triệt cho đội ngũ cán bộ, đảng viên nhận thức đầy đủ vị trí, vai trò và tầm quan trọng của công tác bảo vệ ANQG là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân; trong đó lực lượng vũ trang là nòng cốt, xung kích; phải nhận thức rõ, bảo vệ ANQG là trách nhiệm, nghĩa vụ của cả hệ thống chính trị và toàn dân, phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, không để bị động bất ngờ trong mọi tình huống. Nhiệm vụ bảo vệ ANQG đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước, phối hợp đồng bộ, hiệu quả của cả hệ thống chính trị và tham gia tích cực của Nhân dân…Tuy nhiên, một số tổ chức đã mượn danh “xã hội dân sự” nhằm làm phức tạp tình hình chính trị - xã hội, hướng đến mục tiêu thay đổi thể chế chính trị ở Việt Nam.

2. Thực tế cho thấy, ngay từ ý tưởng cho đến quá trình thành lập và hoạt động, do tính chất nhạy cảm về chính trị - xã hội, nhiều tổ chức đã trượt khỏi bản chất, hình ảnh tích cực của xã hội dân sự đích thực, trở thành công cụ để các thế lực thù địch lợi dụng chống phá chế độ. Các tổ chức núp bóng “xã hội dân sự” này thường trá hình dưới danh nghĩa bảo vệ “dân chủ”, “nhân quyền”, nhằm hướng lái vào phê phán vai trò lãnh đạo của Đảng, họ cho rằng: chế độ độc đảng là “độc tài toàn trị”, là nguyên nhân dẫn đến tham nhũng, sai lầm, v.v. Các thế lực thù địch còn tìm cách thao túng, lôi kéo, chi phối tổ chức “xã hội dân sự” cho mục tiêu của mình. Nhìn chung, các hoạt động chống phá dựa trên công cụ là tổ chức “xã hội dân sự” trá hình mà họ thường sử dụng, tập trung vào các thủ đoạn chủ yếu sau: đề cao vai trò “phản biện xã hội” của các tổ chức giả danh “xã hội dân sự”, hướng lái hoạt động của các tổ chức này dần đối lập về tư tưởng chính trị với Nhà nước ta; thúc đẩy xu hướng thoát ly sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, các cơ quan chức năng và chính quyền các cấp; lợi dụng chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” để hướng lái các tổ chức “xã hội dân sự” vào các hoạt động trái với tôn chỉ, mục đích, vi phạm pháp luật; gia tăng các hoạt động móc nối, liên kết, hậu thuẫn cho những người “bất đồng chính kiến” trong nước hoạt động theo khuynh hướng “độc lập”, hình thành “xã hội dân sự” trái pháp luật, chống Nhà nước, tạo tiền đề cho sự ra đời của các tổ chức chính trị đối lập, thiết lập chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập nhằm tiến tới mục tiêu thay đổi chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Cùng với đó, họ mượn cớ “phản biện xã hội”, “kiểm soát quyền lực”, nhân danh “dân chủ”, “nhân quyền” để mị dân bằng các hoạt động xây dựng quan hệ thương mại và phát triển... gây phương hại đến an ninh quốc gia.

Qua đây, mỗi người dân chúng ta càng nhận thấy rõ hơn bản chất và thủ đoạn của các đối tượng chống đối thế lực thù địch, nêu cao cảnh giác và kiên quyết lên án, đấu tranh với những luận điệu xuyên tạc, thù địch nhằm chống phá Đảng, Nhà nước, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc./.

 

BẢN HÙNG CA OANH LIỆT CỦA HẢI QUÂN NHÂN DÂN VIỆT NAM VÀ QUÂN DÂN MIỀN BẮC

 Chiến thắng ngày 2 và 5/8/1964 là sự khởi đầu bản hùng ca oanh liệt của Hải quân nhân dân Việt Nam trong lịch sử xây dựng, chiến đấu, chiến thắng và trưởng thành.

Do bị sa lầy và thất bại của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam, đế quốc Mỹ quyết định mở rộng chiến tranh ra miền Bắc hòng ngăn chặn sự chi viện của hậu phương lớn miền Bắc cho chiến trường miền Nam.

Đêm 31/7, rạng sáng ngày 1/8/1964, Mỹ cho tàu khu trục Ma-đốc thuộc Hạm đội 7 xâm phạm sâu vào vùng biển Quảng Bình, sau đó tiến lên phía Bắc, có lúc chỉ cách bờ 8 hải lý, vừa do thám, điều tra mạng lưới bố phòng của ta, vừa đe dọa, uy hiếp các tàu đánh cá của ngư dân ta trên biển.

Với quyết tâm trừng trị tàu địch xâm phạm vùng biển của ta, thực hiện mệnh lệnh của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, ngày 2/8/1964, Bộ Tư lệnh Hải quân đã chỉ huy Tiểu đoàn 135 sử dụng 3 tàu phóng lôi của Phân đội 3 (gồm các tàu 333, 336, 339) do đồng chí Nguyên Xuân Bột, Phân đội trưởng kiêm Thuyền trưởng tàu 333 chỉ huy, bí mật hành quân từ Vạn Hoa (Quảng Ninh) vào Hòn Nẹ (Thanh Hóa) để phục kích đón đánh tàu khu trục của Mỹ. Phối hợp tham gia chiến đấu có 2 tàu tuần tiễu T142 và T146 của Khu Tuần phòng 1.

Lúc 13 giờ 30 phút ngày 2/8, tàu khu trục Ma-đốc Mỹ xâm phạm vào khu vực biển Hòn Mê (Thanh Hóa). Sở chỉ huy tiền phương lệnh cho biên đội tàu tuần tiễu và tàu phóng lôi xuất kích tìm tàu Ma-đốc của địch. Khi Phân đội tàu phóng lôi phát hiện tàu địch, cả ba tàu đã tăng tốc tiếp cận mục tiêu. Địch phát hiện thấy có 3 tàu tốc độ cao đang tiếp cận thì tăng tốc chạy ra xa và dùng pháo lớn bắn dồn dập về phía đội hình tàu phóng lôi.

Mặc dù bị địch dùng đạn, pháo từ tàu và máy bay bắn dữ dội, nhưng các tàu của ta vẫn dũng cảm tiến về phía mục tiêu, vừa tránh đạn, vừa nhanh chóng tiếp cận rút ngắn cự ly, chiếm lĩnh vị trí có lợi để công kích ngư lôi, phát huy hỏa lực trên tàu đánh trả quyết liệt các tốp máy bay và tàu chiến của địch.

Theo Đại tá Phạm Kim Tuyến, Trưởng phòng Tuyên huấn Quân chủng Hải quân, trận đánh ngày 2/8/1964 là trận đánh đầu tiên của Hải quân nhân dân Việt Nam sau 9 năm thành lập, mặc dù lực lượng, vũ khí trang bị còn nhỏ bé nhưng đã trực tiếp chiến đấu với tàu chiến lớn và nhiều máy bay hiện đại của đế quốc Mỹ. Song với tinh thần anh dũng, kiên cường, cán bộ, chiến sĩ ta đã đánh đuổi tàu Ma-đốc rút chạy khỏi lãnh hải Việt Nam; đồng thời bắn rơi 1 máy bay, bắn trúng 1 máy bay Mỹ, khẳng định ý chí dám đánh, quyết đánh và quyết thắng giặc Mỹ xâm lược.

Ngay sau khi tàu Ma-đốc bị Hải quân nhân dân Việt Nam đánh đuổi ra khỏi vùng biển của ta, đêm mùng 4/8/1964, chính quyền Mỹ dựng lên “Sự kiện Vịnh Bắc Bộ” vu cáo lực lượng Hải quân miền Bắc Việt Nam tiến công vào tàu chiến Mỹ đang hoạt động bình thường ở vùng biển quốc tế, để đánh lừa dư luận quốc tế và nhân dân Mỹ; lấy cớ đó để mở chiến dịch “trả đũa” mang tên “Mũi tên xuyên”.

Ngày 5/8/1964, Mỹ huy động máy bay ở hai biên đội tàu sân bay Con-xten-lây-sơn và Ti-cơn-đê-rô-ga gồm hàng chục máy bay tiêm kích và cường kích hiện đại, chia làm 3 đợt bất ngờ tập kích ồ ạt gần như cùng một lúc vào các căn cứ, kho tàng, nơi trú đậu tàu của Hải quân ta suốt dọc ven biển miền Bắc từ Quảng Bình đến Quảng Ninh, mở đầu cho hành động leo thang đánh phá miền Bắc.

Cũng theo Đại tá Phạm Kim Tuyến, Trưởng phòng Tuyên huấn Quân chủng Hải quân, do được chuẩn bị chu đáo từ trước, trong trận đầu thử lửa với hải quân và không quân Mỹ, Hải quân nhân dân Việt Nam đã hiệp đồng chặt chẽ với quân dân miền Bắc dũng cảm đánh trả quyết liệt. Trong trận chiến đấu này, Hải quân nhân dân Việt Nam và quân dân miền Bắc đã anh dũng chiến đấu, bắn rơi 8 máy bay, bắn bị thương nhiều chiếc khác, bắt sống giặc lái Mỹ đầu tiên trên vùng biển, vùng trời miền Bắc.

Đại tá Phạm Kim Tuyến, Trưởng phòng Tuyên huấn Quân chủng Hải quân khẳng định: Chiến thắng trận đầu ngày 2 và 5/8/1964 của bộ đội Hải quân và quân dân miền Bắc có ý nghĩa chiến lược, tạo tiền đề thuận lợi, mang lại niềm tin, cổ vũ, động viên khí thế tiến công của quân và dân cả nước quyết tâm đánh bại các bước leo thang chiến tranh của đế quốc Mỹ, bảo vệ vững chắc hậu phương lớn miền Bắc, sát cánh cùng tiền tuyến lớn miền Nam để đánh thắng Mỹ - ngụy.

Đó là chiến thắng của sức mạnh chính trị tinh thần của toàn dân tộc, của ý chí quyết tâm dám đánh, biết đánh và quyết đánh thắng; là biểu tượng của bản lĩnh, trí tuệ Việt Nam, một dân tộc dù nhỏ nhưng luôn yêu chuộng tự do, độc lập, không bao giờ chịu khuất phục trước kẻ thù xâm lược, dù chúng có đông hơn, mạnh hơn gấp nhiều lần.

Chiến thắng đó là minh chứng khẳng định tài thao lược, sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt của Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh, trực tiếp là Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng. Đó là thắng lợi của nghệ thuật quân sự Việt Nam nói chung và nghệ thuật tác chiến Hải quân nói riêng, đã phát huy được sức mạnh tổng hợp của tất cả các lực lượng và địa phương, tạo nên sức mạnh tổng hợp đánh thắng kẻ thù xâm lược.

Là thắng lợi của truyền thống đánh giặc “lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều” của dân tộc ta. Chiến thắng trận đầu là một trong những chiến công tiêu biểu của Hải quân nhân dân Việt Nam; là sự khởi đầu bản hùng ca oanh liệt của Hải quân nhân dân Việt Nam trong lịch sử xây dựng, chiến đấu, chiến thắng và trưởng thành.

Với chiến công xuất sắc trong trận chiến đấu ngày 2 và 5/8/1964, Bộ đội Hải quân và Phòng không được Đảng, Chính phủ, Quân ủy Trung ương, Bộ quốc phòng tuyên dương công trạng ngày 7/8/1964.

Tại Lễ tuyên dương, được Chủ tịch Hồ Chí Minh khen ngợi “... các chú đã lập được thành tích lớn trong các cuộc chiến đấu chống đế quốc Mỹ vừa qua. Các chú đã chiến đấu rất dũng cảm, đã bắn rơi 8 chiếc máy bay Mỹ và bắn hỏng 3 chiếc, vừa rồi lại nghe tin 4 chiếc máy bay Mỹ đến Biên Hòa bị hỏng. Các chú đã bắt sống phi công Mỹ, đánh đuổi tàu chiến Mỹ ra khỏi vùng biển nước ta. Như vậy là rất tốt”.

Quân chủng Hải quân đã vinh dự được tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Nhì; Tiểu đoàn 135 (nay là Hải đội 135 thuộc Lữ đoàn 170, Vùng 1 Hải quân) được truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân; 5 tập thể được tặng Huân chương Quân công hạng Ba; 142 tập thể và cá nhân được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhất, Nhì, Ba; 20 tập thể được Trung ương Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam tặng Cờ “Chiến công oanh liệt - Truyền thống vẻ vang”...

Đại tá Phạm Kim Tuyến, Trưởng phòng Tuyên huấn Quân chủng Hải quân nhấn mạnh: Phát huy truyền thống, kinh nghiệm cùng những bài học thành công của chiến thắng trận đầu, Hải quân nhân dân Việt Nam đã kế thừa, vận dụng và phát triển sáng tạo trong sự nghiệp bảo vệ vững chắc chủ quyền vùng biển, đảo, thềm lục địa thiêng liêng của Tổ quốc trong điều kiện lịch sử mới.

Đó là trong những năm tháng kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cán bộ, chiến sĩ trong Quân chủng đã mưu trí, dũng cảm, ngoan cường chiến đấu, bắn rơi hàng trăm máy bay phản lực hiện đại của Mỹ, rà phá hàng ngàn quả thuỷ lôi, bảo vệ nhân dân, bảo vệ các khu công nghiệp, các đầu mối giao thông quan trọng, các thành phố lớn của miền Bắc.

Trên con đường Hồ Chí Minh trên biển, cán bộ, chiến sĩ Hải quân đã chấp nhận mọi gian khổ hy sinh, vận chuyển cán bộ và hàng ngàn tấn vũ khí, chi viện đắc lực cho miền Nam, góp phần quan trọng vào việc duy trì và phát triển chiến tranh sau lưng địch. Đường Hồ Chí Minh trên biển mãi mãi là một huyền thoại bất tử trong cuộc chiến tranh cứu nước vĩ đại của dân tộc Việt Nam.

Trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, Hải quân nhân dân Việt Nam đã phối hợp hoạt động trên hướng biển, đặc biệt cùng với một bộ phận lực lượng vũ trang Quân khu 5, thần tốc táo bạo, chủ động tiến công giải phóng quần đảo Trường Sa, góp phần vào thắng lợi trọn vẹn của dân tộc.

Đó là lòng yêu nước, trí tuệ con người Việt Nam; truyền thống nhân nghĩa, hữu nghị; mối quan hệ gắn bó máu thịt với nhân dân; tinh thần chiến đấu kiên cường, bất khuất, nỗ lực vượt qua khó khăn, gian khổ để bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.

Phát huy truyền thống và tinh thần mưu trí, sáng tạo trong chiến thắng trận đầu, đặc biệt là trong sự nghiệp đổi mới đất nước, thực hiện quyết tâm của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Hải quân nhân dân Việt Nam đã và đang nỗ lực phấn đấu xây dựng tiến thẳng lên hiện đại, thực sự là lực lượng nòng cốt của nền quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân trên biển.

Những năm tới, dự báo tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường; nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo đã và đang đặt yêu cầu mới, khẩn trương đối với Quân chủng Hải quân. Từ nền tảng truyền thống và những bài học kinh nghiệm trong chiến thắng trận đầu sẽ là hành trang, nguồn lực tinh thần quý giá để thế hệ cán bộ, chiến sĩ Hải quân hôm nay tiếp tục ra sức phấn đấu, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, làm nòng cốt cùng với các lực lượng quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa thiêng liêng của Tổ quốc, xứng đáng với niềm tin yêu của Đảng, Nhà nước, Quân đội và nhân dân./.

 

NHẬN DIỆN ĐÚNG, QUYẾT TÂM CAO, BẢO VỆ VỮNG CHẮC NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG

 

 

 


 

Ở phía bên kia chiến tuyến, những người có quan điểm đối lập với Đảng, Nhà nước và Quân đội ta, vẫn “ngựa quen đường cũ”, tìm mọi cách để chống phá đường lối đổi mới, mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH mà Đảng, Bác Hồ và Nhân dân ta đã lựa chọn. Chiêu trò thâm độc nhất, nguy hiểm nhất đang được các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị triệt để lợi dụng khai thác là viết bài, tung lên trên mạng xã hội, dưới nhiều hình thức, để cản trở công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN của Nhân dân ta. Họ ra sức tuyên truyền xuyên tạc bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng tư tưởng của Đảng. Họ viện dẫn, đưa ra các lý do khác nhau để biện minh cho quan điểm sai trái, thù địch của họ, nào là chế độ XHCN theo mô hình Xô viết ở Liên Xô và các nước Đông Âu đã sụp đổ, chủ nghĩa Mác - Lênin đã “cáo chung” cùng với sự sụp đổ của CNXH hiện thực ở Liên Xô; nào là chỉ có CNTB mới là mô hình phát triển tốt đẹp nhất, “hợp lý nhất”, Việt Nam cần học tập và đi theo.

NHỮNG KẺ PHÁ HOẠI CÔNG CUỘC XÂY DỰNG Ý THỨC XÃ HỘI MỚI Ở VIỆT NAM

 


 

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa, và tư tưởng xã hội chủ nghĩa”, điều đó nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc xây dựng ý thức xã hội mới ở nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Vấn đề xây dựng ý thức xã hội XHCN đã được Đảng ta quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ. Tuy nhiên, mượn cớ “quan tâm”, “phản biện” nhiều kẻ cơ hội, thù địch đưa ra không ít luận điệu sai trái, xuyên tạc. Chẳng hạn: bài viết “Đảng Cộng sản Việt Nam có ý thức xã hội gì ?” của đối tượng Phạm Trần đăng tại trên trang thongluan-rdp.org. Bài viết cho rằng: “Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh không thể cấu thành “ý thức xã hội mới” cho Việt Nam, chúng là xiềng xích kéo dân tộc và đất nước xuống tận đáy của tụt hậu và thua kém”…

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM KIÊN ĐỊNH, VẬN DỤNG VÀ PHÁT TRIỂN SÁNG TẠO CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

 


Bước vào thế kỷ XXI loài người đã chứng kiến sự phát triển vượt bậc của khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ số. Những biến động dữ dội, đầy kịch tính của thế kỷ này đã làm nảy sinh nhiều suy nghĩ của con người v tương lai của mình, về hướng đi của lịch sử nhân loại và đã có nhiều câu hỏi đặt ra: nhân loại sẽ đi về đâu?

VAI TRÒ, TRÁCH NHIỆM CỦA NGƯỜI ĐẢNG VIÊN TRONG BẢO VỆ BẢN CHẤT CÔNG NHÂN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN TRONG TÌNH HÌNH MỚI

 


Sau khi mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu rơi vào khủng hoảng và sụp đổ dẫn tới sự thoái trào trong phong trào cách mạng trên thế giới. Nhưng ở một góc độ khác, quá trình cải cách, đổi mới chủ nghĩa xã hội trên thế giới từ những thập niên cuối thế kỷ XX trở lại đây; những cuộc khủng hoảng liên tiếp của chủ nghĩa tự do tư bản chủ nghĩa và sự xuất hiện của cao trào cánh tả Mỹ - Latinh, trong đó có khuynh hướng chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI... đã khẳng định phong trào cộng sản và công nhân thế giới cũng đang từng bước được phục hồi. Tuy nhiên, để tiếp tục thực hiện thành công sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân, vừa giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay thì rất cần phải tiếp tục giữ gìn bản chất giai cấp công nhân của đảng cộng sản theo quan điểm của Lãnh tụ vĩ đại V. I. Lênin trong lý luận về xây dựng đảng kiểu mới cách đây hơn một thế kỷ. Có thể khẳng định, quan điểm của Lênin về xây dựng đảng kiểu mới của giai cấp công nhân nói chung, bảo đảm giữ vững bản chất giai cấp công nhân của đảng cộng sản nói riêng cho đến ngày nay vẫn có giá trị lý luận và giá trị thực tiễn sâu sắc đối với cách mạng Việt Nam. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay khi công tác xây dựng Đảng, đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức.