Thứ Ba, 3 tháng 9, 2024

Nỗ lực chăm lo cuộc sống người dân theo di nguyện thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

 

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sống một cuộc đời oanh liệt, đầy gian khổ hy sinh, vô cùng cao thượng và phong phú, vô cùng trong sáng và đẹp đẽ "luôn vì nước, vì dân, phấn đấu, hy sinh cho độc lập, thống nhất của Tổ quốc, chăm lo đời sống tự do, hạnh phúc của nhân dân Việt Nam và góp phần vào sự tiến bộ của nhân loại".

Người luôn căn dặn: Chăm lo đời sống cho nhân dân để an dân, yên đất nước là nhiệm vụ chính trị trung tâm và ưu tiên; là thước đo và tiêu chí đánh giá sự hoàn thành trách nhiệm trong toàn bộ hoạt động tổ chức, điều hành, quản lý xã hội của Đảng và Nhà nước ta. Những quan điểm, tư tưởng của Người về chăm lo cho đời sống nhân dân đến nay vẫn còn nguyên giá trị; đồng thời, đã, đang và sẽ tiếp tục được Đảng, Nhà nước Việt Nam vận dụng, phát huy và phát triển trên hành trình xây dựng thành công nước Việt Nam "hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới" như di nguyện cuối cùng của Người.

Muôn vàn tình thương yêu con người

Sinh thời, Người từng nói: Ở đời và làm người phải thương nước, thương dân, thương nhân loại bị áp bức, đau khổ. Trong Tuyên ngôn Độc lập ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt nhân dân Việt Nam khẳng định những quyền cơ bản thiêng liêng của con người, đó là: Con người sinh ra có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Đồng thời tuyên bố với thế giới rằng người dân được sống an toàn và được bảo đảm các quyền bất khả xâm phạm chỉ trong điều kiện đất nước độc lập, tự do, bình đẳng, không có áp bức bất công...

Trả lời phỏng vấn nhà báo nước ngoài ngày 21-1-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh bộc bạch: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.

Người luôn căn dặn các đồng chí của mình: Sự quan tâm, chăm lo cho ấm no, hạnh phúc của nhân dân là bổn phận, trách nhiệm của Đảng, bởi lợi ích của Đảng không nằm ngoài lợi ích của dân tộc, của nhân dân. Có như vậy, nhân dân mới có niềm tin vững chắc vào Đảng; một lòng một dạ đi theo Đảng để cuộc sống càng ngày càng tốt đẹp hơn.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Đảng phải có trách nhiệm chăm lo cho nhân dân: Chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi.

Đặc biệt, trong bản Di chúc thiêng liêng mà Người để lại trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn không quên nhấn mạnh: “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”.

Người chỉ rõ, để nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, trước hết phải xây dựng nhà nước thực sự là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Công việc của Chính phủ phải nhằm mục đích duy nhất là đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng đều là công bộc của dân, để gánh vác việc chung cho dân, đặc biệt, “việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”.

Hoàn thiện thể chế và đa dạng hóa hoạt động chăm lo đời sống người dân

Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về chăm lo đời sống cho nhân dân, Đảng, Nhà nước ta không ngừng nâng cao nhận thức, hoàn thiện thể chế và đa dạng hóa các hoạt động chăm sóc đời sống nhân dân.

Đảng và Nhà nước luôn coi trọng phát triển thể chế và đa dạng hóa các hoạt động chăm sóc đời sống người dân: Đồng bộ hóa các hệ thống quy định pháp lý và các tổ chức chuyên trách; xây dựng và triển khai các kế hoạch, chương trình mục tiêu quốc gia và địa phương liên quan trực tiếp cũng như gián tiếp về chăm sóc đời sống người dân; không ngừng mở rộng quy mô và đa dạng hóa các nguồn vốn, các kênh và cách thức chăm lo đời sống người dân.

Quốc hội đã sớm thông qua Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Việc làm, Luật Người cao tuổi, Luật Người khuyết tật, Luật Trẻ em và nhiều chính sách trợ giúp xã hội giảm nghèo như: Các chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững; chương trình hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng các xã đặc biệt khó khăn, vùng bãi ngang ven biển và hải đảo; một số chính sách đặc thù cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số về đất ở, đất sản xuất, nhà ở và nước sinh hoạt...

Chính phủ đã đầu tư ngày càng nhiều cho việc thực hiện các chính sách xã hội, thông qua điều chỉnh các mức hưởng, diện đối tượng hưởng và cả số lượng chính sách; nhất là chính sách đối với người có công, chính sách bảo trợ xã hội và các chính sách, biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp, người lao động, người dân gặp khó khăn, phát triển hạ tầng dịch vụ xã hội ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số...

Đồng thời, công tác kiểm tra, thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực tiếp tục được đẩy mạnh, góp phần củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân.

Hằng năm, Nhà nước đã dành 21% ngân sách cho phúc lợi xã hội, là mức cao nhất trong số các nước ASEAN. Tỷ trọng chi ngân sách cho an sinh xã hội tăng dần, từ 2,85% GDP năm 2005 lên khoảng 6,7% GDP năm 2021. Bên cạnh vốn ngân sách nhà nước, nhiều nguồn lực khác đã được huy động cho công cuộc giảm nghèo như vốn ODA, đóng góp của các tập đoàn kinh tế, các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và tư nhân. Trong thực tế đã xuất hiện ngày càng nhiều mô hình hợp tác công-tư trong giảm nghèo và bảo trợ xã hội.

Trong bối cảnh dịch Covid-19, Đảng, Chính phủ đã quyết định nhiều chính sách hỗ trợ người nghèo hàng chục nghìn tỷ đồng. Ngoài ra, hơn 38.000 tỷ đồng từ quỹ bảo hiểm thất nghiệp đã được chi để hỗ trợ doanh nghiệp và người lao động.

Hằng năm, vào các dịp lễ, tết hoặc khi có thiên tai, dịch bệnh, Chính phủ, chính quyền các cấp và các đoàn thể, tổ chức xã hội thường xuyên tổ chức nhiều hoạt động diễn đàn và cứu trợ cộng đồng, chăm sóc đời sống nhân dân đa dạng khác. Giai đoạn 2016-2021, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam 4 cấp đã vận động Quỹ Vì người nghèo và chương trình an sinh xã hội được 32.051 tỷ đồng; giúp đỡ xây mới và sửa chữa 228.221 căn nhà đại đoàn kết cho người nghèo. Hoạt động của Quỹ Vì người nghèo và chương trình an sinh xã hội đã tạo thêm nguồn lực giúp nhiều hộ nghèo thoát nghèo, có nhà ở, ổn định cuộc sống.

Chất lượng sống của người dân ngày càng được cải thiện

Nhờ sự quan tâm, chăm sóc tới đời sống người dân, Việt Nam là điểm sáng được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao vì đã về đích trước thời hạn theo mục tiêu phát triển thiên niên kỷ và phát triển bền vững của Liên hợp quốc. Tỷ lệ nghèo trên đầu người (tính theo chi tiêu thu nhập) giảm mạnh từ hơn 70% (năm 1990) xuống còn 13,5% (năm 2014). Việt Nam là một trong 30 quốc gia đầu tiên trên thế giới và là quốc gia đầu tiên của châu Á áp dụng chuẩn nghèo đa chiều từ năm 2016. 

Từ năm 2016, Việt Nam đã hoàn thành mục tiêu 100% xã miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo được phủ sóng phát thanh mặt đất và truyền hình mặt đất; đến năm 2020, 100% xã có đài truyền thanh xã. Đến cuối năm 2021, tỷ lệ người dân nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 90%, trong đó 54% sử dụng nước sạch đạt quy chuẩn.

Đặc biệt, năm 2023, kết quả chăm lo đời sống người dân còn thể hiện đậm nét ở Chỉ số hạnh phúc toàn cầu của Việt Nam đứng thứ 65/137 quốc gia trong xếp hạng của Liên hợp quốc năm 2023, tăng 12 bậc so với năm 2022. Việt Nam hiện xếp hạng 72 trong Báo cáo khoảng cách giới toàn cầu năm 2023 do Diễn đàn Kinh tế thế giới công bố, với tiến độ bình đẳng giới đạt 71,1%, tăng 11 bậc so với vị trí năm 2022. Tỷ lệ lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm xã hội đạt khoảng 39-40%.

Tỷ lệ lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm thất nghiệp khoảng 31,5-32%. Bảo hiểm y tế toàn dân đã bao phủ hơn 92% dân số. Cả nước có khoảng 78% xã đạt chuẩn nông thôn mới (NTM); trong đó có 1.612 xã đạt chuẩn NTM nâng cao và 256 xã đạt chuẩn NTM kiểu mẫu; 270 đơn vị cấp huyện được công nhận hoàn thành nhiệm vụ/đạt chuẩn NTM; có 11.056 sản phẩm OCOP đạt 3 sao trở lên.

Trên thực tế, 100% đối tượng bảo trợ xã hội đủ điều kiện được hưởng trợ cấp xã hội hằng tháng; 100% người dân bị thiệt hại do thiên tai, lũ lụt, thiếu đói được trợ giúp đột xuất kịp thời, không người dân nào bị đói; hơn 90% người khuyết tật có hoàn cảnh khó khăn được trợ giúp xã hội, chăm sóc và phục hồi chức năng kịp thời; hơn 90% người cao tuổi có hoàn cảnh khó khăn được trợ giúp xã hội, phụng dưỡng, chăm sóc kịp thời. 

Năm 2023, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã triển khai các hoạt động chăm lo Tết của các cấp công đoàn với tổng kinh phí hơn 6.110 tỷ đồng, tăng 260 tỷ đồng so với Tết Nhâm Dần 2022; đồng thời hỗ trợ hơn 100 tỷ đồng cho người lao động bị giảm giờ làm việc hoặc bị ngừng việc.

Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 và Đề án đầu tư xây dựng ít nhất 1 triệu căn hộ nhà ở xã hội cho đối tượng thu nhập thấp, công nhân khu công nghiệp giai đoạn 2021-2030. Tính đến ngày 18-6-2023 đã hoàn thành 41 dự án nhà ở xã hội khu vực đô thị, quy mô xây dựng khoảng 19.516 căn; đang tiếp tục triển khai 294 dự án, với quy mô xây dựng khoảng 288.499 căn.

Đời sống người hưởng lương và trợ cấp được cải thiện tích cực từ ngày 1-7-2024 nhờ chính sách tăng lương cơ sở 30%, tăng lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội hiện hưởng 15% theo Nghị quyết số 142/2014/QH15 ngày 29-6-2024; Nghị định số 73/2024/NĐ-CP ngày 30-6-2024 quy định mức lương cơ sở và chế độ tiền thưởng đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang.

Những kết quả nêu trên đã hội tụ và phản ánh những nỗ lực của Đảng, Nhà nước trong chăm lo đời sống người dân theo di nguyện thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh; thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta luôn vì con người, lấy con người làm trung tâm; coi đầu tư cho thực hiện các mục tiêu chính sách xã hội là đầu tư cho phát triển.

Hơn nữa, những kết quả đó còn là minh chứng về sự đổi mới, sáng tạo của Đảng và Nhà nước ta trên hành trình không ngừng hoàn thiện thể chế chăm lo đời sống người dân, với quan điểm xuất phát “chính sách xã hội bao trùm mọi mặt cuộc sống con người” trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, đã nâng cấp thành chủ trương “thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống và chỉ số hạnh phúc của con người Việt Nam” như văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh.

Đồng thời, chính sách an sinh xã hội cũng được phát triển theo xu thế mở rộng phạm vi, từ an sinh xã hội tập trung cho nhóm yếu thế, mức tối thiểu sang chính sách xã hội toàn dân và toàn diện các mặt đời sống. Về đối tượng, chuyển sang giai đoạn mới không chỉ lo cho nhóm yếu thế, nhóm khó khăn mà mở rộng, tiến tới phát triển tầng lớp trung lưu mang tính dẫn dắt phát triển xã hội. Chính sách xã hội phải đồng thời gắn với quản lý phát triển xã hội bền vững; hệ thống an sinh xã hội phải linh hoạt, thích ứng với các cú sốc diện rộng, bảo vệ toàn dân, không để ai bị bỏ lại phía sau...

BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN THÀNH QUẢ CÁCH MẠNG, GIỮ VỮNG LỜI THỀ TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP

 Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Những tư tưởng lớn của bản Tuyên ngôn độc lập đến nay vẫn giữ nguyên những giá trị và tầm vóc thời đại.

HÀNH TRÌNH ĐI TỚI TƯƠNG LAI TƯƠI SÁNG.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã mở ra bước ngoặt vĩ đại cho cách mạng Việt Nam trên hành trình đi tới tương lai tươi sáng. Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ cách mạng lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố với toàn thể quốc dân đồng bào và nhân dân thế giới về nền độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á.
Tuyên ngôn độc lập là văn kiện lịch sử vô giá kết tinh thắng lợi của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta; hội tụ tầm nhìn, trí tuệ, tư tưởng Hồ Chí Minh, là bản hùng ca mở đầu kỷ nguyên mới của dân tộc Việt Nam - kỷ nguyên độc lập, tự do.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám với sự ra đời của bản Tuyên ngôn độc lập là thành quả của cuộc đấu tranh vĩ đại của toàn thể dân tộc Việt Nam, từ cao trào cách mạng 1930 - 1931; cao trào dân chủ 1936 - 1939, đến cao trào giải phóng dân tộc 1939 - 1945. Đó là kết quả của 15 năm ròng đấu tranh đầy gian khổ hy sinh, với sự chuẩn bị chu đáo về đường lối, tổ chức, tinh thần và lực lượng, với nghệ thuật chuẩn bị thời cơ, thúc đẩy thời cơ và chớp thời cơ mau lẹ, với khát vọng và ý chí kiên quyết giành độc lập, tự do của toàn thể dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh “đem sức ta mà giải phóng cho ta”, “dù có phải hy sinh tới đâu, dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập dân tộc”.
Ôn lại những chặng đường oanh liệt và vẻ vang của dân tộc Việt Nam, chúng ta càng thấy nổi bật những giá trị bất diệt, những tư tưởng lớn của Tuyên ngôn độc lập, của dân tộc ta, của Chủ tịch Hồ Chí Minh và “Đó cũng là những tư tưởng lớn của cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân thế giới”. Đại tướng Võ Nguyên Giáp, người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, một trong những người đã làm nên lịch sử cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam đã đánh giá về bản Tuyên ngôn độc lập của Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là kết quả “vừa giành được độc lập bằng cuộc chiến đấu suốt tám mươi năm của dân tộc. Đây còn là những lời lẽ tâm huyết, đầy cảm kích của đội tiên phong giác ngộ nhất của giai cấp cách mạng nhất, có những con người tuyệt đối trung thành với lợi ích của giai cấp và dân tộc, trước máy chém, trước miệng súng quân thù, đã từng giật tấm băng đen bịt mắt, hô lớn: “Việt Nam độc lập muôn năm!... Bản án chế độ thực dân Pháp đã có từ ba mươi năm trước đây. Nhưng hôm nay mới chính thức là ngày chế độ thực dân Pháp bị đưa ra cho toàn dân Việt Nam công khai xét xử. Lịch sử đã sang trang. Một kỷ nguyên mới bắt đầu! Bản đồ thế giới phải sửa đổi lại vì sự ra đời của một Nhà nước mới: Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa!”.
GIÁ TRỊ TẦM VÓC VÀ THỜI ĐẠI.
Khi khởi thảo dòng đầu tiên của Tuyên ngôn độc lập, tại ngôi nhà số 48, phố Hàng Ngang, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết trong niềm sung sướng, tự hào tột độ. Sau này, Người kể lại rằng: Trong đời mình, chưa bao giờ Người lại cảm thấy xúc động và phấn khởi như trong những giờ phút ấy. Bởi lẽ, Người sẽ tuyên bố với quốc dân đồng bào và toàn thế giới biết rằng: sau bao nhiêu năm chiến đấu quên mình và bao nhiêu tính mạng của những người con ưu tú đã hy sinh, dân tộc Việt Nam cuối cùng đã đạt được mục đích thiêng liêng: “đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm”. Tuyên ngôn độc lập đã nói lên ý chí của hàng triệu đồng bào cả nước, đã thể hiện thành quả của mấy mươi năm đấu tranh anh dũng của nhân dân Việt Nam cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, mà đỉnh cao của cuộc đấu tranh đó là Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thắng lợi, đem lại cho dân tộc Việt Nam quyền độc lập, tự do.
Tuyên ngôn độc lập kết tinh tư tưởng Hồ Chí Minh; kết tinh những văn kiện của Đảng và “là kết quả của những tuyên ngôn của các bậc tiền bối khác như Thủ khoa Huân, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu và của nhiều người khác, của bao nhiêu sách báo, truyền đơn bí mật viết bằng máu và nước mắt của những nhà yêu nước từ hơn tám mươi năm nay”, “là hoa là quả của bao nhiêu máu đã đổ và bao nhiêu tính mạng đã hy sinh của những người con anh dũng của Việt Nam trong nhà tù, trong trại tập trung, trong những hải đảo xa xôi, trên máy chém, trên chiến trường”, “là kết quả của bao nhiêu hy vọng, gắng sức và tin tưởng của hơn hai mươi triệu nhân dân Việt Nam”, “là một trang vẻ vang trong lịch sử Việt Nam. Nó chấm dứt chính thể quân chủ chuyên chế và chế độ thực dân áp bức. Nó mở kỷ nguyên mới dân chủ cộng hòa”.
Cách mạng Tháng Tám và Tuyên ngôn độc lập trở thành mốc son trong tiến trình lịch sử dân tộc Việt Nam và trở thành động lực to lớn cho cuộc đấu tranh của nhân dân các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc trên thế giới vì tự do, độc lập. Tuyên ngôn độc lập đã khẳng định với thế giới thành quả của cuộc cách mạng dân tộc điển hình trong thế kỷ XX, có ý nghĩa dân tộc và quốc tế sâu sắc. 79 năm trôi qua, thời gian càng lùi xa, thì những giá trị cao quý đó vẫn tiếp tục soi đường cho sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế của dân tộc Việt Nam ngày nay.
Giáo sư Aleksandr Sokolovsky, Trưởng Khoa nghiên cứu các nước Nam Á và Đông Nam Á, Trường Đại học Tổng hợp Viễn Đông, Giám đốc Trung tâm văn hóa Việt Nam ở Liên Bang Nga, đã phân tích: “Khi cuộc cách mạng thắng lợi, những từ chính yếu nhất trong bản Tuyên ngôn độc lập chính là “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”… Tôi không hình dung điều gì sẽ đến với Việt Nam nếu không có cuộc cách mạng này, thậm chí khái niệm Việt Nam thống nhất cũng sẽ không tồn tại… Có thể nói, cách mạng Tháng Tám đã mở ra một trang sử mới, một kỷ nguyên mới trong lịch sử Việt Nam”.
Cách mạng Tháng Tám và Tuyên ngôn độc lập là điển hình thắng lợi ở một nước thuộc địa của đế quốc Pháp - Nhật, trong khi lực cách mạng vô sản ở chính quốc Pháp và Nhật chưa giành thắng lợi. Đặt trong bối cảnh thế giới năm 1945, cách mạng Tháng Tám và Tuyên ngôn độc lập đã cổ vũ phong trào giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa và phụ thuộc ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ La-tinh; tăng cường lực lượng, mở rộng địa bàn cho cách mạng thế giới; chứng minh học thuyết Mác - Lê-nin có thể áp dụng thành công vào cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa nếu biết vận dụng một cách đúng đắn, sáng tạo. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử phong trào giải phóng dân tộc, đảng cộng sản ở một nước thuộc địa đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành được thắng lợi và nắm chính quyền trong cả nước.
Đánh giá về tầm vóc, ảnh hưởng của cuộc cách mạng này đối với phong trào cách mạng thế giới, Thomas Hodgkin đã nhận định: “Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam là một sự kiện quan trọng nhất trong lịch sử thế giới từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga. Đó là một cuộc cách mạng do Đảng Cộng sản lãnh đạo, một Đảng chỉ mới ra đời 15 năm. Đó là cuộc cách mạng đầu tiên thành công trong việc lật đổ chính quyền thuộc địa. Nó đã nổ ra trong một thời điểm lịch sử kết thúc cuộc chiến tranh thế giới thứ hai... Như vậy, cuộc cách mạng Tháng Tám đã đánh dấu sự bắt đầu của một thời kỳ mới, nó vạch đường ranh giới của thời đại thực dân bắt đầu nhường chỗ cho thời đại phi thực dân hóa”.
Cuộc cách mạng này còn mang ý nghĩa quốc tế hết sức to lớn, vượt tầm ảnh hưởng ra khỏi biên giới quốc gia, khi đã có tác động to lớn đối với cuộc đấu tranh giành độc lập của các nước thuộc địa Pháp lúc đó, trong đó có nhiều nước châu Phi. Khi cuộc cách mạng ở Việt Nam thành công, cũng là lúc các nước như: Cameroon, Algeria, Tanzania… đang chuẩn bị những cuộc cách mạng lớn. Nhờ có bài học từ Việt Nam, họ đã có những kinh nghiệm quý trong đấu tranh giành độc lập dân tộc.
Với nhiều chuyên gia, nhà nghiên cứu và sử gia người Pháp, cách mạng Tháng Tám và Tuyên ngôn độc lập là những sự kiện đặc biệt ấn tượng. Một trong những học giả nổi tiếng người Pháp - Nhà sử học Alain Ruscio - người đã có rất nhiều tác phẩm biên khảo về lịch sử Việt Nam, đã nhấn mạnh rằng: Việt Nam là dân tộc đầu tiên trong số các dân tộc trên thế giới bị thực dân Pháp đô hộ đã thành công trong cuộc kháng chiến của mình. Thắng lợi của cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã có ảnh hưởng rất lớn tới phong trào đấu tranh đòi độc lập của các nước thuộc địa trên thế giới lúc bấy giờ, nhất là các nước ở châu Phi. Khi đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người có vai trò quan trọng, là người đầu tiên tuyên bố độc lập của một nước thuộc địa”. Alain Ruscio còn phân tích, sau Chiến tranh thế giới thứ hai, chủ nghĩa thực dân vẫn còn tồn tại, khi đó, 1/3 các dân tộc trên thế giới phải sống dưới sự chiếm đóng của thực dân Pháp, Anh và Bồ Đào Nha, trong bối cảnh như vậy, Việt Nam là một tấm gương, là biểu tượng của quá trình đấu tranh giành độc lập; các dân tộc bị đô hộ cần phải lên tiếng.
Tương đồng với quan điểm của các nhà sử học Pháp, nhà sử học Na-uy Stein Tonnesson đã viết: “Tuyên ngôn độc lập năm 1945 của Việt Nam nằm trong những nguồn cảm hứng chủ yếu về một đường lối đấu tranh lớn khác sau chiến tranh: đó là quá trình phi thực dân hóa. Trong các cuộc cách mạng cộng sản, cuộc cách mạng của người Việt Nam nổi lên như là một trong những cuộc cách mạng có sức sống và làm đảo lộn nhiều nhất”.
GIỮ VỮNG LỜI THỀ TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân ta giành được những thắng lợi ngày càng to lớn trong các cuộc kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc. Từ một dân tộc bị nô lệ, lầm than, Việt Nam đã “rũ bùn đứng dậy sáng lòa” (lời thơ Tố Hữu), đánh thắng chủ nghĩa thực dân cũ và mới, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội... Đó là những minh chứng hùng hồn về sức mạnh của chân lý “Không có gì quý hơn độc lập tự do”.
Trải qua gần 40 năm đổi mới toàn diện, phát huy tinh thần cách mạng Tháng Tám và Tuyên ngôn độc lập, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, “chưa bao giờ đất nước ta có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với những triển vọng tốt đẹp.
Âm hưởng hào hùng của Tuyên ngôn độc lập năm 1945 mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên đọc trước Quảng trường Ba Đình: “Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”, vẫn vang vọng núi sông, vẫn tiếp lửa và thôi thúc dân tộc Việt Nam vươn mình trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước. Dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, toàn Đảng, toàn dân ta cần nắm vững thời cơ, tranh thủ và phát huy mọi thuận lợi, tỉnh táo, sáng suốt trong nhận diện và vượt qua nguy cơ, thách thức, phát huy truyền thống vinh quang, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng, ý chí tự lực, tự cường, tự tin, tự tôn dân tộc, kết hợp sức mạnh trong nước và quốc tế, quyết chí phấn đấu thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và tích cực, chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, vì mục tiêu “xây dựng đất nước ta ngày càng giàu mạnh, dân chủ, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội”./.
St

DI CHÚC CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH ĐỊNH HƯỚNG CHO CÁCH MẠNG VIỆT NAM HÔM QUA, HÔM NAY VÀ CHO MAI SAU

 Bản Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sau hơn nửa thế kỷ, càng sáng tỏ giá trị lịch sử và tầm nhìn thời đại của một bậc thiên tài. Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh soi đường, định hướng cho cách mạng Việt Nam hôm qua, hôm nay và cho mai sau, là ngọn đuốc soi đường cho đất nước ta vững bước đi lên, phát triển bền vững.

Di chúc là tâm nguyện, là ý chí, niềm tin, là tình cảm và trách nhiệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh với Tổ quốc, với Nhân dân, với sự nghiệp cách mạng.
Là người cách mạng, là người mác-xit, thấu hiểu quy luật khách quan của tự nhiên, xã hội và con người, trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức và đón nhận quy luật của cuộc sống một cách chủ động, bằng phong thái ung dung tự tại, chuẩn bị cho việc ra đi bằng những lời tâm huyết dặn lại, Người viết: "Tôi để sẵn mấy lời này, phòng khi tôi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lê-nin và các vị cách mạng đàn anh khác, thì đồng bào cả nước, đồng chí trong Đảng và bầu bạn khắp nơi đều khỏi cảm thấy đột ngột".
Mở đầu Di chúc, với tinh thần lạc quan cách mạng, trách nhiệm với Tổ quốc, với Nhân dân, Người tin tưởng chắc chắn thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ và sự thống nhất đất nước. Người khẳng định: "Cuộc chống Mỹ, cứu nước của Nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn". Người cũng nêu những công việc dự định làm sau đó. Người viết: "Tôi có ý định đến ngày đó, tôi sẽ đi khắp hai miền Nam Bắc, để chúc mừng đồng bào, cán bộ và chiến sĩ anh hùng, thăm hỏi các cụ phụ lão, các cháu thiếu niên và nhi đồng yêu quý của chúng ta…".
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là công trình bất hủ về xây dựng Đảng cầm quyền.
Là Người sáng lập, rèn luyện Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến công tác xây dựng Đảng. Người cho rằng, sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trong công tác xây dựng Đảng, vấn đề đoàn kết thống nhất trong Đảng là một trong những nguyên tắc cơ bản nhất, là sự vận động và phát triển theo đúng quy luật của Đảng. Đoàn kết thống nhất trong Đảng là cơ sở để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân. Đảng lãnh đạo, Đảng cầm quyền mà không đoàn kết thống nhất thì sự nghiệp cách mạng của dân tộc không thể thắng lợi.
Xây dựng và giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh coi là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là nền tảng cho mọi thành công. Đoàn kết thống nhất không chỉ là vấn đề sinh tử của từng tổ chức đảng các cấp, mà còn là sinh mệnh của toàn Đảng, là vấn đề sống còn của cách mạng.
Trong bản thảo Di chúc mà Người dành nhiều tâm huyết để hoàn thành, ngay từ năm 1965, Người đã viết: “TRƯỚC HẾT NÓI VỀ ĐẢNG”, “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo Nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và dân tộc ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình". Như vậy có thể thấy, đoàn kết thống nhất trong Đảng không chỉ là mối quan tâm lớn hàng đầu của Người mà còn là sự trăn trở khi Người nghĩ về mai sau.
Vì sao Chủ tịch Hồ Chí Minh lại luôn nhấn mạnh vai trò, ý nghĩa quan trọng của đoàn kết thống nhất. Người không chỉ nêu ra yêu cầu phải đoàn kết trong Đảng mà Người còn chỉ rõ sự đoàn kết ấy phải là đoàn kết nhất trí, đoàn kết thống nhất một cách thực chất và phải thể hiện cả trong tư tưởng và hành động. Tư tưởng và hành động phải thống nhất. Không thể bề ngoài là đoàn kết nhưng những khi cần ra một quyết định, một quyết sách thì không có được sự thống nhất hay khi cần thì liên minh nhau, khi không cần thì tìm cách cản trở công việc của nhau. Trong tư tưởng của Người, đoàn kết phải là đoàn kết thống nhất, trước sau như một, tức là phải dựa trên nền tảng đường lối, quan điểm của Đảng và vì lợi ích của cách mạng, Nhân dân và tập thể. Người luôn nhấn mạnh: Đảng tuy có nhiều đảng viên, song khi tiến hành nhiệm vụ cách mạng thì chỉ như một người, trong Đảng không cho phép có tình trạng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”.
Đảng là tổ chức chính trị cao nhất của Nhân dân, của dân tộc, các đảng viên đều tham gia tổ chức một cách tự giác, tự nguyện. Việc giữ vững và thực hiện nghiêm minh các nguyên tắc của Đảng là trách nhiệm của mỗi đảng viên. Người coi nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản và quan trọng, trong từng tổ chức đảng phải thực hành dân chủ, mở rộng dân chủ, “Phải thực sự mở rộng dân chủ để tất cả đảng viên bày tỏ hết ý kiến của mình”, mọi ý kiến, suy nghĩ của mỗi đảng viên đều phải được bày tỏ, lắng nghe; mọi quyết định quan trọng của tổ chức đều phải được bàn bạc, thảo luận một cách dân chủ. Đoàn kết thống nhất trong Đảng đòi hỏi cán bộ, đảng viên phải thật thà tự phê bình và phê bình, đây chính là một hình thức rèn luyện đảng viên để xây dựng, chỉnh đốn Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh. Bởi theo Người: “Chỉ có đảng chân chính cách mạng và chính quyền thật dân chủ mới dám mạnh dạn tự phê bình, hoan nghênh phê bình và kiên quyết sửa chữa. Do tự phê bình và phê bình… mà chúng ta đoàn kết càng chặt chẽ”. Đây cũng là quy luật phát triển của Đảng Cộng sản nói chung, theo tinh thần của chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong Di chúc, Người căn dặn “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng”.
Để có sự đoàn kết thật sự, không chỉ cần thực hiện đúng nguyên tắc sinh hoạt Đảng mà còn rất cần tình thương yêu, sự đồng cảm và chia sẻ với nhau. Năm 1966, Người bổ sung vào bản thảo Di chúc cụm từ “Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”. Để có sự đoàn kết thống nhất thực sự thì bên cạnh tinh thần, lý trí, trong mỗi cán bộ, đảng viên phải có tình thương yêu đồng chí, có lòng nhân ái, nhân hậu. Trong thực hành công việc không chỉ là đặt ra yêu cầu hoàn thành công việc mà còn phải có sự cảm thông, chia sẻ, giúp đỡ nhau cùng hoàn thành công việc. Vì vậy, để duy trì và bồi đắp đoàn kết thống nhất thì từng tổ chức đảng bên cạnh việc phải chú trọng giáo dục ý thức trách nhiệm, còn phải thường xuyên bồi dưỡng tình thân ái, tình thương yêu cảm thông chia sẻ, tình đồng chí.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng yếu tố đạo đức trong Đảng, chống lại các căn bệnh “quan liêu”, “tham nhũng, lãng phí”, “xa dân”. Theo Người, Đảng cầm quyền có nhiệm vụ to lớn là lãnh đạo Nhân dân xây dựng xã hội mới, tiến hành “một cuộc chiến đấu khổng lồ”, xóa đi những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, xây dựng những cái mới mẻ, tốt tươi. Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn với 4 chữ "thật": “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của Nhân dân”.
Mỗi đảng viên, nhất là đảng viên giữ trọng trách lãnh đạo phải cương quyết chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội trong chính bản thân mình. Bởi như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rút ra: chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội chính là căn nguyên của mất đoàn kết thống nhất trong Đảng.
Thấm nhuần tư tưởng và thực hiện Di chúc của Người, những năm qua, Đảng ta luôn coi trọng, giữ gìn và phát huy đoàn kết thống nhất. Nhờ đó, Đảng đã quy tụ và phát huy được sức mạnh toàn dân, tạo nên sức mạnh tổng hợp để hoàn thành nhiệm vụ lãnh đạo đất nước mà Nhân dân tin tưởng giao phó. Trong nhiều kỳ Đại hội Đảng, vấn đề đoàn kết thống nhất đều được nghiêm túc đặt ra, được xem xét, đánh giá một cách toàn diện và sâu sắc.
Trong Di chúc, ngay sau khi nói về Đảng, Hồ Chí Minh nói về đoàn viên và thanh niên. Người viết: "ĐOÀN VIÊN và THANH NIÊN ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ". Người căn dặn: "Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa "chuyên".
Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết".
55 năm qua, Đảng ta đã quan tâm bồi dưỡng, đào tạo các thế hệ đoàn viên, thanh niên. Nhiều đoàn viên, thanh niên đã thực sự trở thành người kế tục xứng đáng sự nghiệp cách mạng của lớp cha, anh đi trước. Nhiều người đã trở thành cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ chuyên môn giỏi; trở thành những trí thức tài năng, những công nhân, những nông dân sản xuất giỏi, những doanh nhân thành đạt… Đảng ta chủ trương xây dựng Đoàn vững mạnh là xây dựng Đảng trước một bước. Tầm nhìn xa của Hồ Chí Minh về xây dựng những lớp người kế tục sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng, của Nhân dân rất rõ ràng. Người luôn thể hiện sự tin tưởng vào thế hệ trẻ, thế hệ tương lai của đất nước. Suốt đời mình, Người luôn dành sự quan tâm, chăm lo đặc biệt cho thanh niên, thiếu niên và nhi đồng. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, việc chăm lo đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ như tâm nguyện của Người trong Di chúc là một việc cực kỳ quan trọng của Đảng, của Nhân dân ta.
Nói về nhân dân lao động, trong Di chúc, Người viết: "NHÂN DÂN LAO ĐỘNG ta ở miền xuôi cũng như miền núi, đã bao đời chịu đựng gian khổ, bị chế độ phong kiến và thực dân áp bức bóc lột, lại kinh qua nhiều năm chiến tranh.
Tuy vậy, Nhân dân ta rất anh hùng, dũng cảm, hăng hái, cần cù. Từ ngày có Đảng, Nhân dân ta luôn luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng".
Suốt cuộc đời của Người là chăm lo cho đời sống của Nhân dân. Trong Di chúc, Người căn dặn: "Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của Nhân dân".
Khi viết VỀ VIỆC RIÊNG, Người tâm niệm: "Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ Nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa".
Ngay cả việc ra đi của Người, Người vẫn còn lo cho nhân dân, khi Người căn dặn: "Sau khi tôi đã qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của Nhân dân".
Nhân dân luôn trong trái tim của Người, tất cả vì Nhân dân, dành cho Nhân dân. Người viết: "Cuối cùng, tôi để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng".
Đoạn cuối cùng của bản Di chúc thiêng liêng, Người viết: "Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới". Sau bao biến cố thăng trầm của một mô hình chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải coi đây chính là đặc trưng cơ bản nhất của một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Sau 55 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta càng thấy rõ hơn tầm nhìn chiến lược, tư tưởng thiên tài của Người từ cách đây trên nửa thế kỷ đã, đang và sẽ vẫn là ngọn đuốc soi đường, định hướng cho cách mạng Việt Nam. Sau 55 năm thực hiện Di chúc, chúng ta soi xét vào từng lời dặn của Người, tự hào đã làm được nhiều việc, trân trọng những thành quả đã đạt được, nhưng không khỏi đau lòng về những thiếu sót, hạn chế, những tiêu cực đang diễn ra trong xã hội. Trong Đảng vẫn còn sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên.
Bước vào thời kỳ hội nhập quốc tế, trước những tác động của kinh tế thị trường, một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ cấp cao có xu hướng chạy theo chủ nghĩa cá nhân; một số tổ chức Đảng có biểu hiện mất đoàn kết nội bộ, chưa tôn trọng và thực hiện chưa đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. Việc tự phê bình và phê bình có nơi trở nên hình thức, có nơi bị lợi dụng để đấu đá, hạ bệ lẫn nhau. Bên cạnh đó, những biểu hiện cơ hội chủ nghĩa, “lợi ích nhóm”, tính cục bộ địa phương có nơi đã xuất hiện và phá hoại sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Ở nhiều nơi, chính người đứng đầu chịu trách nhiệm trước cấp ủy cấp trên và cấp mình về sự đoàn kết thống nhất nội bộ lại chưa thực sự gương mẫu, chưa thấm nhuần ý thức xây dựng khối đoàn kết thống nhất trong nội bộ. Chính vì vậy, việc lựa chọn người đứng đầu có đủ phẩm chất, năng lực, có vai trò tiền phong, gương mẫu là rất quan trọng. Người đứng đầu cấp ủy, chính quyền phải thực sự công bằng, công tâm trong xử lý công việc, phải thực sự là trung tâm quy tụ, đoàn kết của tổ chức đảng, của tập thể cơ quan, đơn vị.
Thực tế cho thấy, đoàn kết thống nhất trong cán bộ lãnh đạo ở cấp càng cao thì tác động, ảnh hưởng đối với Đảng càng mạnh, sức lan tỏa ra xã hội càng lớn. Ngược lại, những người nắm trọng trách lãnh đạo, không có ý thức đoàn kết thống nhất thì không những gây nguy hại mà còn tạo ra những nguy cơ lớn, khó lường cho toàn Đảng.
Trong thời điểm đất nước đang đứng trước những thời cơ, vận hội mới nhưng cũng đầy những thử thách lớn lao, những thành tựu mà toàn Đảng, toàn Dân đạt được qua gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước chính là kết quả của sự đoàn kết thống nhất của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, là minh chứng khẳng định sự trưởng thành và vững mạnh của Đảng. Tuy nhiên, trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến phức tạp, khó lường, bên cạnh những thành tựu đạt được, nước ta vẫn đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, phức tạp. Các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách, bằng nhiều âm mưu thâm độc, xảo quyệt, kích động chia rẽ nội bộ, gây mất đoàn kết trong Đảng. Chính vì vậy, tăng cường đoàn kết và thống nhất trong Đảng từ Trung ương đến cơ sở là điều tất yếu và cấp thiết trong giai đoạn hiện nay.
Giờ đây, đoàn kết thống nhất trong Đảng càng phải được xem là một chiến lược lâu dài đối với sự nghiệp cách mạng. Là Đảng duy nhất cầm quyền, Đảng ta càng phải xây dựng, củng cố sự đoàn kết thống nhất, có như vậy thì hệ thống chính trị, các tầng lớp nhân dân, các dân tộc mới đoàn kết xung quanh Đảng. Đoàn kết trong Đảng chính là tấm gương cho cả hệ thống chính trị và là nhân tố quyết định bảo đảm đoàn kết dân tộc.
Trước thềm Đại hội XIV của Đảng, trước thời điểm phải lựa chọn những người thật sự xứng đáng, thật sự có tài, thật sự có đức, thật sự có tâm, thật sự có tầm để đảm nhận những trọng trách lãnh đạo đất nước, thì hơn bao giờ hết, chúng ta càng phải phát huy truyền thống đoàn kết thống nhất. Đây là trách nhiệm lớn, mà trước hết là của tập thể, cá nhân lãnh đạo từ Trung ương đến từng cơ sở. Mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ giữ trọng trách lãnh đạo từ cấp cao đến cấp cơ sở phải thực sự thực hiện nghiêm lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc: “Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”./.
St

NGHIÊN CỨU VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM "KHÁNG CHIẾN TOÀN DÂN, TOÀN DIỆN" TRONG CHIẾN TRANH BẢO VỆ TỔ QUỐC

 Quan điểm “Kháng chiến toàn dân, toàn diện” là nội dung cốt lõi trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh. Việc vận dụng đúng đắn, sáng tạo quan điểm trên vào thực tiễn là một trong những nguyên nhân cơ bản nhất dẫn tới thắng lợi vĩ đại của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc (nếu xảy ra), quan điểm trên vẫn còn nguyên giá trị, cần được nghiên cứu, vận dụng có hiệu quả trong thực tiễn.

Quan điểm “Kháng chiến toàn dân, toàn diện” trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh là sự phát triển lý luận quân sự của chủ nghĩa Mác – Lênin; tiếp thu có chọn lọc những giá trị tinh hoa quân sự thế giới; kết hợp với kinh nghiệm của Đảng ta và nhân dân ta trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam. Nắm vững nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử, am hiểu sâu sắc truyền thống, kinh nghiệm đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc: “Cả nước một lòng, toàn dân đánh giặc”, “trăm họ là binh”, “giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định đúng vai trò quyết định của nhân dân trong đấu tranh giành chính quyền cũng như trong chiến tranh giải phóng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “chiến tranh giải phóng hay chiến tranh bảo vệ Tổ quốc của Việt Nam đều là chiến tranh nhân dân, một cuộc chiến tranh cách mạng thực sự “của dân, do dân và vì dân””1. Người cũng chỉ ra rằng, chiến tranh nhân dân toàn dân phải gắn với chiến tranh nhân dân toàn diện: “Trước kia, chỉ có quân đội đánh nhau ở tiền tuyến và trên mặt đất hay trên mặt nước, nên người ta gọi là bình diện chiến tranh. Ngày nay đánh nhau ở cả trên không và cả ở tiền tuyến cũng như ở hậu phương, nên người ta gọi là lập thể chiến tranh. Trước kia, chỉ đánh nhau về một mặt quân sự nhưng ngày nay đánh nhau về đủ mọi mặt quân sự, kinh tế, chính trị, tư tưởng nên người ta gọi là toàn diện chiến tranh”2. “…Chiến tranh ngày nay phức tạp và hết sức khó khăn. Không dùng toàn lực của nhân dân về đủ mọi mặt để ứng phó, không thể thắng lợi được”3.
Việc vận dụng quan điểm “Kháng chiến toàn dân, toàn diện” của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc được thể hiện rõ trong phương châm chỉ đạo chiến tranh của Đảng về quán triệt tư tưởng chiến lược tiến công, tiến hành chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện; đánh địch trên các môi trường, tập trung nỗ lực đánh địch trên chiến trường (hướng chiến lược), địa bàn, khu vực trọng điểm; thu hẹp không gian, rút ngắn thời gian chiến tranh; vừa chiến đấu vừa xây dựng, dựa vào sức mình là chính, ra sức tranh thủ các điều kiện quốc tế thuận lợi trong hoàn cảnh mới, tạo sức mạnh tổng hợp, đánh bại ý chí xâm lược của địch, kết thúc chiến tranh trong điều kiện có lợi. Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới cũng khẳng định: kiên trì đường lối quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân; bởi lẽ, một nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, một cuộc chiến tranh nhân dân đích thực thì không một thế lực nào có thể đánh bại được.
Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc (nếu xảy ra), phần nhiều chúng ta phải chống lại kẻ thù xâm lược có tiềm lực quân sự, kinh tế, khoa học và công nghệ lớn hơn gấp nhiều lần; sử dụng nhiều phương thức, biện pháp chiến tranh tinh vi, hiện đại trên tất cả các lĩnh vực, v.v. Vì vậy, để có sức mạnh tổng hợp vượt lên trên sức mạnh của đối phương, giành thắng lợi cuối cùng, chúng ta phải dựa vào dân, phát huy sức mạnh của nhân dân. Kháng chiến toàn dân, toàn diện phản ánh quy luật cơ bản nhất, bao trùm nhất để giành thắng lợi; là nội dung thể hiện tập trung nhất nghệ thuật tổ chức, động viên, phối hợp các lực lượng, các hình thức và phương pháp đấu tranh, tạo nên sức mạnh tổng hợp lớn hơn địch, dám đánh và quyết thắng địch. Kháng chiến toàn dân, toàn diện là sự kế thừa và phát huy truyền thống toàn dân đánh giặc của dân tộc Việt Nam “toàn dân chung sức, cả nước chung lòng”, là nghệ thuật tạo nên sức mạnh tổng hợp trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.
Vận dụng quan điểm “Kháng chiến toàn dân”
Từ thực tiễn cho thấy, hiện nay và trong thời gian tới, cho dù đất nước ta có sự phát triển hơn trước nhiều lần, đời sống của nhân dân được nâng cao, thế và lực của đất nước được tăng cường hơn bao giờ hết, thì so với các nước phát triển, nhất là các nước lớn vẫn còn khoảng cách khá xa, thậm chí có mặt còn tụt hậu so với mặt bằng chung của khu vực và thế giới. Trong bối cảnh ấy, nếu đất nước phải đối mặt với một cuộc chiến tranh xâm lược của kẻ thù, chúng ta vẫn phải “lấy nhỏ thắng lớn”, “lấy ít địch nhiều”, phải dựa vào sức mạnh của toàn dân để đánh thắng những đội quân xâm lược mạnh hơn ta gấp nhiều lần.
Đó là cuộc kháng chiến toàn dân trong điều kiện mới của đất nước với nhiều yếu tố rất thuận lợi. Lực lượng tiến hành kháng chiến là lực lượng toàn dân, thực hiện toàn dân đánh giặc với tất cả các phương thức, trên tất cả các lĩnh vực, địa bàn, diễn ra ở mọi không gian, thời gian. Toàn dân đánh giặc khiến quân địch không thể tạo ra một mặt trận cố định để đối phó với quân và dân ta, ở đâu có người Việt Nam giác ngộ cách mạng, dù là trong nước hay ngoài nước, thì ở đó có mặt trận đánh địch, với sự tham gia đông đảo của mọi tầng lớp nhân dân, có tính tổ chức khoa học, trình độ và năng lực mọi mặt của quần chúng ngày càng cao.
Kháng chiến toàn dân trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc hiện nay có sự phát triển mới. Trước hết, ta đánh địch bằng sức mạnh của một dân tộc đã giành được độc lập, đất nước thống nhất, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là sức mạnh của toàn dân làm chủ đất nước, có lực lượng vũ trang nhân dân ba thứ quân lớn mạnh làm nòng cốt; trong điều kiện thế và lực của đất nước ngày càng được nâng cao; nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế sâu rộng,… sẽ tạo ra nhiều thuận lợi trong phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế để động viên nhân tài, vật lực cho chiến tranh.
Tuy nhiên, kháng chiến toàn dân bảo vệ Tổ quốc sẽ phải đối đầu với chiến tranh xâm lược có sử dụng vũ khí công nghệ cao, chiến sự sẽ diễn biến hết sức quyết liệt, phức tạp, với cường độ và sức sát thương, hủy diệt lớn,… tác động mạnh đến tư tưởng, tâm lý của quân và dân ta. Vì vậy, chúng ta phải có sự chuẩn bị một cách chủ động, đầy đủ và toàn diện cho mọi lực lượng để có đủ sức mạnh đánh thắng địch trong mọi tình huống.
Vận dụng quan điểm “Kháng chiến toàn diện”
Chiến tranh là cuộc thử thách toàn diện đối với toàn bộ sức mạnh vật chất và tinh thần của đất nước. Chỉ có tiến hành kháng chiến toàn diện, chúng ta mới phát huy được chỗ mạnh, sở trường của ta là chiến tranh chính nghĩa; đánh giặc về mọi mặt ngay trên đất nước ta và cả nơi xuất phát tiến công xâm lược của địch. Kháng chiến toàn diện được tiến hành trên nhiều lĩnh vực, bao gồm: đấu tranh vũ trang; đấu tranh chính trị; đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, văn hóa; đấu tranh kinh tế; đấu tranh ngoại giao;... trong đó, đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị giữ vai trò quyết định đến thắng lợi của cuộc chiến tranh.
Đấu tranh vũ trang là hình thức cơ bản, giữ vai trò trực tiếp quyết định trong việc tiêu hao, tiêu diệt lực lượng địch. Đấu tranh vũ trang trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc phải kế thừa, phát huy truyền thống và kinh nghiệm của dân tộc, tinh hoa quân sự thế giới; đặc biệt là truyền thống, kinh nghiệm trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc vừa qua để vận dụng sáng tạo trong điều kiện mới. Vì vậy, phải chọn đúng hình thức và phương pháp tác chiến; xác định quy mô, cách tổ chức và sử dụng lực lượng thích hợp. Đấu tranh vũ trang phối hợp cùng các mặt trận khác giành thắng lợi trong chiến tranh nhưng phải có lợi nhất về mặt chính trị để ổn định, xây dựng đất nước sau chiến tranh. Cùng với nhiệm vụ tiêu diệt lực lượng quân sự của địch từ ngoài vào, dập tắt bạo loạn ly khai từ bên trong, đấu tranh vũ trang còn có nhiệm vụ bảo vệ vững chắc các mục tiêu chiến lược, làm chỗ dựa cho các mặt trận đấu tranh khác và làm chỗ dựa cho quần chúng nhân dân đấu tranh chính trị. Phải kết hợp chặt chẽ tác chiến phòng thủ, phòng ngự với tiến công, phản công, lấy phản công, tiến công làm chính, phòng thủ, phòng ngự là rất quan trọng; kết hợp đánh nhỏ, đánh vừa với tạo thời cơ đánh lớn bằng nhiều hình thức, biện pháp và loại hình tác chiến; kết hợp chặt chẽ giữa chiến tranh nhân dân địa phương với chiến tranh bằng các binh đoàn chủ lực ngay từ đầu và trong suốt quá trình chiến tranh. Các lực lượng vũ trang phải tinh, gọn, mạnh, cơ động nhanh, có sức chiến đấu cao, khi thực hành tác chiến phải chọn đúng hướng tiến công, nhất là hướng tiến công chiến lược.
Đấu tranh chính trị là hình thức đấu tranh cơ bản của đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc, là phương pháp đấu tranh của đông đảo quần chúng nhân dân không vũ trang. Đấu tranh chính trị giữ vị trí hết sức quan trọng, là sở trường của ta và là chỗ yếu chí mạng của địch, vì cuộc chiến tranh ta tiến hành là chính nghĩa. Đây cũng là một phương thức tiến công địch và là cơ sở phát triển của đấu tranh vũ trang. Đấu tranh chính trị nêu cao giá trị nhân bản, nhân văn và chính nghĩa của ta, vạch trần bản chất xâm lược phi nghĩa và tội ác của địch. Đẩy mạnh đấu tranh trên mặt trận chính trị thì mới đập tan được mọi luận điệu xuyên tạc, kích động, lừa gạt và chia rẽ của kẻ thù; mở rộng và củng cố được khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm cho địch ngày càng bị cô lập, phân hóa và suy yếu về chính trị, tạo thuận lợi cho đấu tranh vũ trang và các mặt đấu tranh khác giành thắng lợi.
Chiến tranh ngày nay càng gắn bó chặt chẽ với chính trị, do vũ khí công nghệ cao có thể tạo ra “siêu sát thương”, gây sức ép về chính trị, ngoại giao, kinh tế, tài chính, răn đe quân sự hoặc chiến tranh thông tin, v.v. Trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ngày nay, cần phải tăng cường tuyên truyền, giáo dục làm cho toàn dân hiểu rõ bản chất chiến tranh xâm lược của kẻ thù, vạch trần bộ mặt “tự do”, “dân chủ”, “nhân quyền” giả hiệu, cùng những luận điệu tuyên truyền xuyên tạc của chúng. Đồng thời, khơi dậy trong nhân dân truyền thống quật cường, bất khuất chống giặc ngoại xâm, ý chí độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, lòng căm thù giặc sâu sắc, v.v. Muốn vậy phải đẩy mạnh xây dựng Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị ngày càng trong sạch vững mạnh, không ngừng củng cố và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, làm cho toàn dân tin Đảng, yêu nước, gắn bó với chế độ.
Quan điểm “Kháng chiến toàn dân, toàn diện” của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự kế thừa xuất sắc truyền thống quân sự của dân tộc, tinh hoa quân sự của nhân loại và đã trở thành nền tảng tư tưởng cho đường lối quân sự của Đảng và là ngọn đuốc soi đường cho hoạt động quân sự và đấu tranh vũ trang của nhân dân ta giành thắng lợi vẻ vang. Vì vậy, việc nghiên cứu, vận dụng tư tưởng đó vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc là vấn đề quan trọng, cấp thiết. Nội hàm bài viết mới là những nghiên cứu bước đầu, trân trọng trao đổi cùng bạn đọc./.
St

Biểu tượng của độc lập, tinh thần dân tộc, lòng yêu nước và ý chí kiên cường.

 

"Đối với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài nói chung, cộng đồng người Việt Nam ở Trung Quốc nói riêng, Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là biểu tượng của độc lập, của tinh thần dân tộc, tinh thần yêu nước, ý chí bất khuất kiên cường". Đây là những chia sẻ chân thành của Tiến sĩ Nguyễn Thị Lan, Chủ tịch Hội người Việt Nam tại Trùng Khánh - Tứ Xuyên.

Theo Tiến sĩ Nguyễn Thị Lan, trong cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành cả cuộc đời cao đẹp hiến dâng cho sự nghiệp vẻ vang giải phóng dân tộc, đưa đất nước hướng tới độc lập, tự do, sánh vai với các cường quốc năm châu. Vì vậy, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài luôn dành cho Chủ tịch Hồ Chí Minh và quê hương đất nước một tình cảm vô cùng sâu đậm, tha thiết. Dẫu có đi đâu, ở đâu, làm gì, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài luôn đau đáu trong tim hình ảnh Bác, hình ảnh quê hương Việt Nam thân yêu, một lòng hướng về Tổ quốc. Như câu nói Bác đã từng khẳng định: “Quê hương nghĩa nặng tình cao. Năm mươi năm ấy biết bao nhiêu tình”.

Sinh thời, Bác Hồ rất quan tâm đến cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, đồng thời cũng là người đặt nền tảng vững chắc cho mối liên kết giữa người Việt Nam ở trong và ngoài nước. Từ góc nhìn của người đã hơn 13 năm sống ở nước ngoài, Tiến sĩ Nguyễn Thị Lan đánh giá Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện nay đã có những chính sách mang tính tiếp nối truyền thống, phù hợp, đúng đắn và nhất quán về người Việt Nam ở nước ngoài, đồng thời có vai trò quan trọng trong việc kết nối kiều bào với đồng bào trong nước.

Theo Tiến sĩ Nguyễn Thị Lan, nhờ có sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước Việt Nam và đường lối chính sách phù hợp giúp bà con kiều bào ở nước ngoài an tâm sinh sống, làm việc và học tập tại nước sở tại, ngày càng có những cái nhìn tích cực hơn, thêm tin tưởng và tự hào về quê hương, hướng về đất nước. Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài nói chung, cộng đồng người Việt Nam ở Trung Quốc nói riêng, vô cùng trân trọng sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đã luôn dành tình cảm, cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho bà con kiều bào, tăng cường sự gắn bó giữa kiều bào với quê hương, phục vụ sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, góp phần phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, khơi dậy mạnh mẽ và nuôi dưỡng lòng tự hào dân tộc, nâng cao tình cảm và trách nhiệm của kiều bào đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 

Theo Tiến sĩ Nguyễn Thị Lan, cộng đồng người Việt Nam ở Trung Quốc không chỉ đóng góp tích cực vào sự phát triển của sở tại mà còn góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Trung Quốc. Với sự gần gũi về địa lý và văn hóa, Trung Quốc là một trong những đất nước có đông đảo người Việt sinh sống, hiện tại số lượng người Việt Nam sinh sống, làm việc và du học ở Trung Quốc ngày càng tăng (khoảng trên 500.000 người).

Người Việt tại Trung Quốc phần lớn hiện có cuộc sống tương đối ổn định, ngày càng có điều kiện phát triển tốt hơn, trong đó nhiều người đã làm việc cho các tập đoàn, công ty lớn của Trung Quốc. Sau một thời gian tích lũy kinh nghiệm, nhiều người mong muốn trở về nước để tìm kiếm cơ hội phát triển tốt hơn và đóng góp thiết thực cho quê hương, trở thành "lực đẩy" quan trọng trong công cuộc xây dựng đất nước phồn vinh.

Cộng đồng người Việt Nam ở Trung Quốc luôn ý thức rõ về vai trò cầu nối của bản thân trong việc thúc đẩy hơn nữa quan hệ Việt - Trung, không ngừng phát huy những lợi thế riêng của bản thân, làm đầu mối quan trọng trong việc kết nối chuyển giao khoa học công nghệ, kết nối kinh tế, thương mại, quảng bá hàng hóa, sản phẩm của Việt Nam tại nước sở tại, cũng như đầu tư phát triển các dự án kinh tế giữa Việt Nam và Trung Quốc. Trong quá trình sinh sống và học tập tại Trung Quốc, việc kiều bào hòa nhập tốt vào xã hội sở tại, thường xuyên tiếp xúc với người Trung Quốc và tham gia các chương trình trao đổi giao lưu văn hóa, giáo dục, xúc tiến thương mại… cũng là trực tiếp đóng góp tích cực vào việc thúc đẩy giao lưu văn hóa, tăng cường tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước Việt - Trung. 

Là một trong số gần 600 đại biểu đại diện cho cộng đồng người Việt Nam trên toàn thế giới về nước dự Hội nghị người Việt Nam ở nước ngoài toàn thế giới lần thứ 4 và Diễn đàn Trí thức và Chuyên gia người Việt Nam ở nước ngoài năm 2024, bà Nguyễn Thị Lan bày tỏ vinh dự và gửi lời cảm ơn tới Ban lãnh đạo Ủy ban nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài - Bộ Ngoại giao, các cơ quan trong nước đã tổ chức hội nghị, cũng như sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đối với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.

Bà nhấn mạnh, dù ở bất cứ nơi đâu, đồng bào luôn hướng về Tổ quốc, gắn bó máu thịt với cội nguồn dân tộc. Hội nghị người Việt Nam ở nước ngoài toàn thế giới lần thứ 4 và Diễn đàn Trí thức và Chuyên gia người Việt Nam ở nước ngoài năm 2024 là cơ hội quý báu cho bà con người Việt ở nước ngoài cập nhật thông tin về tình hình quê hương đất nước, hiểu biết hơn nữa về công tác người Việt ở nước ngoài của Đảng và Nhà nước, qua đó gợi mở cho kiều bào hướng đi mới, yêu cầu mới cũng như cách làm mới để đóng góp thiết thực hơn nữa vào công cuộc xây dựng đất nước chung của mỗi người con Việt Nam.

Xây dựng nền nếp văn hóa phê bình tích cực.

 

Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ để lại cho dân tộc Việt Nam một sự nghiệp cách mạng vĩ đại mà còn truyền tải những giá trị đạo đức và tư tưởng sâu sắc qua Di chúc của Người.

Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, viết vào những năm cuối đời, không chỉ phản ánh sự trải nghiệm phong phú của một nhà lãnh đạo lỗi lạc mà còn chứa đựng những nguyên tắc cơ bản để xây dựng và duy trì sự trong sạch, hiệu quả của Đảng và Nhà nước. Trong đó, nguyên tắc tự phê bình và phê bình nổi bật như một phương tiện thiết yếu để nâng cao phẩm chất của đội ngũ cán bộ, đảng viên và toàn bộ hệ thống chính trị.

Nguyên tắc tự phê bình và phê bình mà Bác đề ra không chỉ là một phương pháp quản lý mà còn là một phần thiết yếu trong việc xây dựng Đảng và Nhà nước trong sạch và mạnh mẽ. Người căn dặn: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau".

Theo Người, tự phê bình là quá trình mà mỗi cá nhân cần phải tự nhìn nhận, đánh giá và sửa chữa những khuyết điểm, thiếu sót của chính mình. Điều này giúp mỗi người không ngừng hoàn thiện bản thân, đồng thời duy trì sự chính trực và đạo đức cách mạng.

Phê bình, ngược lại, là việc các đồng chí, đồng nghiệp góp ý, nhắc nhở và giúp đỡ nhau để khắc phục những hạn chế, nâng cao hiệu quả công tác và phẩm chất cá nhân. Phê bình cần được thực hiện một cách công tâm, xây dựng và mang tính xây dựng, không phải chỉ trích đơn thuần. Nguyên tắc tự phê bình và phê bình có vai trò quan trọng trong việc duy trì sự đoàn kết, đồng thuận trong tổ chức, đồng thời nâng cao hiệu quả công tác và phát triển cá nhân.

Khi mọi người trong tổ chức sẵn sàng tự phê bình và tiếp nhận phê bình một cách nghiêm túc, nó giúp loại bỏ những khuyết điểm, sai sót và tạo ra một môi trường làm việc công bằng, dân chủ. Thời gian qua, công tác tự phê bình và phê bình trong nhiều tổ chức cơ sở đảng làm chưa được tốt. Chính vì vậy, đã có những tổ chức đảng, đảng viên, nhất là các đồng chí giữ vai trò chủ chốt vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, thoái hóa về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức buộc phải xử lý kỷ luật từ khiển trách đến khai trừ ra khỏi Đảng.

Việc để xảy ra những tổ chức đảng, đảng viên vi phạm, một phần là bởi trong sinh hoạt Đảng đã có sự e ngại va chạm giữa các đảng viên, e ngại bị phân biệt đối xử giữa cấp trên và cấp dưới. Nhiều cá nhân ngại phê bình vì sợ mất lòng, hoặc sợ nhận được phản ứng tiêu cực từ phía đồng chí của mình. Chính từ việc e ngại va chạm đã làm cho vũ khí tự phê bình và phê bình mất tác dụng, làm giảm sức chiến đấu của các tổ chức đảng. Để khắc phục tình trạng này, các tổ chức đảng cần xây dựng nền nếp văn hóa phê bình tích cực, trong đó việc phê bình phải được coi là một cơ hội để cải thiện, không phải là sự chỉ trích cá nhân. Các lãnh đạo, cán bộ chủ chốt cần loại bỏ tính tự ái cá nhân, tạo điều kiện để mọi người có thể thoải mái bày tỏ ý kiến, nhận xét, góp ý mà không sợ bị “để ý”, bị phân biệt đối xử.

Một vấn đề nữa là sự thiếu công bằng trong phê bình. Đôi khi, việc phê bình không được thực hiện công bằng hoặc thiếu khách quan, dẫn đến hiệu quả không như mong đợi. Chẳng hạn như trong cuộc sống, công tác, không ưa người này, người kia thì tìm đủ mọi cách để phê bình, mặc dù chất lượng công tác, chuyên môn nghiệp vụ của người bị phê bình vẫn tốt. Phê bình kiểu “sợi tóc chẻ tư” khiến cho người bị phê bình cảm thấy không thuyết phục. Do đó, trong phê bình cũng cần có sự giám sát và đánh giá quá trình phê bình, bảo đảm cho mọi ý kiến đều được thể hiện một cách vô tư, khách quan và công bằng.

Cùng với hai vấn đề nêu trên, hiện nay trong các tổ chức đảng còn xuất hiện hiện tượng thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình theo kiểu hình thức, hoặc thiếu sự nghiêm túc. Nghĩa là chỉ thực hiện phê bình kiểu chiếu lệ, qua loa đại khái, nhất là thực hiện nguyên tắc phê bình mỗi khi kiểm tra định kỳ đối với cán bộ chủ chốt. Vì thế, có thể người được phê bình có sai phạm mà không biết mình sai. Điều này cần được khắc phục bằng cách nâng cao nhận thức và yêu cầu từ cấp trên, đồng thời tạo ra cơ chế kiểm tra và đánh giá để bảo đảm cho nguyên tắc này được thực hiện một cách nghiêm túc và hiệu quả. Khi người được phê bình đã thiếu tự giác trong tự phê bình lại nhận được việc phê bình kiểu hình thức thì vi phạm sẽ chồng lên vi phạm và âm ỉ kéo dài.

Để duy trì và thực hiện nghiêm nguyên tắc tự phê bình và phê bình, cần phải có sự cam kết từ các cấp lãnh đạo và toàn thể cán bộ, đảng viên. Theo đó, cần thực hiện tốt một số biện pháp sau:

Một là, tạo môi trường dân chủ và cởi mở. Đây chính là điều kiện tiên quyết để thực hiện hiệu quả nguyên tắc tự phê bình và phê bình. Các tổ chức cần xây dựng không khí nơi mà mọi ý kiến và góp ý đều được lắng nghe một cách nghiêm túc. Lãnh đạo cần phải gương mẫu, khuyến khích việc phê bình và tiếp nhận phê bình một cách tích cực. Điều này giúp giảm bớt sự e ngại, ngại va chạm của các thành viên khi đưa ra ý kiến và nhận xét.

Hai là, xây dựng quy chế và quy trình cụ thể về thực hiện tự phê bình và phê bình. Các quy chế này cần phải được phổ biến và hiểu rõ ở tất cả cán bộ, đảng viên. Quy trình phê bình cần được thực hiện định kỳ, cụ thể và công khai để bảo đảm tính minh bạch và công bằng. Quy trình này cũng cần quy định rõ ràng về cách tiếp nhận và xử lý các ý kiến phê bình, nhằm bảo đảm  rằng mọi góp ý đều được xem xét một cách nghiêm túc và công bằng.

Ba là, tăng cường công tác đào tạo và tuyên truyền về tầm quan trọng của tự phê bình và phê bình là rất cần thiết. Đào tạo giúp nâng cao nhận thức và kỹ năng thực hiện nguyên tắc này cho mọi cán bộ, đảng viên. Tuyên truyền về những lợi ích của việc thực hiện tự phê bình và phê bình cũng giúp xây dựng nhận thức và thúc đẩy sự tham gia tích cực từ mọi người. Các khóa đào tạo nên được tổ chức thường xuyên và cập nhật theo tình hình thực tiễn.

Bốn là, xử lý nghiêm minh và kịp thời những vi phạm nguyên tắc tự phê bình và phê bình. Việc này không chỉ giúp duy trì kỷ luật mà còn tạo động lực cho việc thực hiện nguyên tắc một cách triệt để. Các biện pháp xử lý cần phải công khai và minh bạch, đồng thời phù hợp với mức độ vi phạm.

Chúng ta có thể thấy, nguyên tắc tự phê bình và phê bình theo tinh thần Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nguyên tắc quan trọng của Đảng Cộng sản cầm quyền, đồng thời là một giá trị văn hóa, đạo đức cần được duy trì và lan tỏa rộng rãi. Tự phê bình và phê bình là phương thức thiết yếu để rèn luyện và củng cố đội ngũ đảng viên, là vũ khí để Đảng tự làm trong sạch mình và thể hiện phẩm chất cầm quyền của Đảng.

Để thực hiện tốt nguyên tắc này, cần có quyết tâm, cam kết thực sự và sự nỗ lực, quyết liệt từ Ban Chấp hành Trung ương đến tổ chức cơ sở đảng và các đảng viên. Việc thực hiện nguyên tắc cần phải được tiến hành thường xuyên, liên tục như “rửa mặt hằng ngày”. Có như vậy, từng đảng viên mới có thể giữ được sự trong sạch, liêm khiết, từng tổ chức đảng đến toàn Đảng mới giữ gìn được sức chiến đấu và phẩm chất, làm sâu sắc hơn vai trò lãnh đạo của mình.

Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Sự kết tinh của trí tuệ uyên bác, nhân cách cao đẹp.

 

ản Di chúc được Chủ tịch Hồ Chí Minh viết trong một thời gian dài, từ năm 1965 đến năm 1969, là một bản tổng kết sâu sắc, toàn diện kinh nghiệm, quá trình chỉ đạo cách mạng, những trải nghiệm, đường hướng phát triển tương lai của dân tộc.

Thủ tướng Phạm Văn Đồng, một người học trò xuất sắc, một cộng sự gần gũi và thân thiết của Bác đã viết về những trăn trở đầy tâm huyết, sự cẩn trọng, cân nhắc đầy trách nhiệm của người cộng sản, vị lãnh tụ vĩ đại Hồ Chí Minh khi soạn thảo “Tài liệu tuyệt đối bí mật” này: “Lúc gần tuổi “cổ lai hy”, thì phải nghĩ tới những gì cần căn dặn lại những người sẽ kế tục sự nghiệp của mình. Chắc rằng Bác Hồ của chúng ta đã suy nghĩ rất nhiều về việc này. Bác đã đi thăm Côn Sơn, đây là một cuộc hành hương đến nơi ở cuối cùng của Nguyễn Trãi. Lúc bắt tay vào công việc cực kỳ trọng yếu này, Bác đã trải qua bao nhiêu trăn trở, ôn lại cuộc đời gắn với vận mệnh của dân, của nước, đầy sóng gió nhưng cũng đầy thắng lợi, đồng thời nhìn về tương lai với lòng tin sâu sắc vào những thế hệ sắp tới”.

Như bài viết “Di chúc của đồng chí Hồ Chí Minh” ký tên Người quan sát đăng trên tạp chí Thời mới, số 38, ra ngày 24-9-1969 đã nhận định: “Sức mạnh của những người cộng sản là ở chỗ họ nhìn thấy được những sự kiện trong một tương lai lịch sử rộng lớn. Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh một lần nữa khẳng định điều đó. Người viết: “Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn, đó là một điều chắc chắn”. Trong nội dung cốt lõi của Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dự báo, đã nhìn thấy trước và đề cập đến những công việc cần thiết phải thực hiện để xây dựng lại một nước Việt Nam đàng hoàng hơn, to đẹp hơn trong tương lai: Chỉnh đốn Đảng; bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; kế hoạch xây dựng lại thành phố, làng mạc, chăm sóc đời sống của các tầng lớp nhân dân…

Không chỉ trong lời nói, câu viết, Bác luôn quan tâm, gần gũi nhân dân bằng những hành động cụ thể thiết thực. Trong Di chúc, Bác đặc biệt quan tâm đến con người và những “công việc với con người”.

Trước hết, thể hiện khát vọng và niềm tin tất thắng về cuộc chiến đấu chính nghĩa của nhân dân Việt Nam, Bác “có ý định đến ngày đó” sẽ đi khắp hai miền Nam Bắc chúc mừng đồng bào và chiến sĩ cả nước, và thay mặt nhân dân Việt Nam “đi thăm và cảm ơn” bè bạn quốc tế đã “tận tình ủng hộ và giúp đỡ” cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Bác chỉ rõ Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân lao động ở miền núi cũng như miền xuôi; và đề cập đến từng đối tượng cụ thể, đó là những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình; những liệt sĩ, cha mẹ, vợ con của thương binh, liệt sĩ; những chiến sĩ trẻ, phụ nữ, thanh niên xung phong…

Di chúc ngời sáng tư tưởng yêu thương con người, được Bác nêu lên và vận động mọi người cùng thực hiện suốt cả cuộc đời. Đồng thời, cũng nêu một tấm gương về phép xử thế rất nhân văn của nhà văn hóa lớn, của vị lãnh tụ tận tụy, hy sinh vì nước, vì dân, không một chút riêng tư.