Thứ Tư, 4 tháng 9, 2024

KHẲNG ĐỊNH: SỰ SỤP ĐỔ CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI HIỆN THỰC Ở LIÊN XÔ VÀ ĐÔNG ÂU KHÔNG PHẢI LÀ SỰ SỤP ĐỔ CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN TRƯỚC SAU VẪN KHÔNG PHẢI LÀ MẪU HÌNH HƯỚNG TỚI CỦA XÃ HỘI LOÀI NGƯỜI

 

Đối với chúng ta, sự đổ vỡ của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu là một sự thật đau đớn, một tổn thất lớn lao của phong trào cộng sản và các lực lượng yêu chuộng hòa bình, cách mạng và tiến bộ trên thế giới. Sự kiện đó buộc chúng ta phải nghiêm túc suy nghĩ, bình tĩnh, sáng suốt đánh giá đúng đắn đối với chủ nghĩa xã hội hiện thực với tất cả thành công lẫn sai lầm, khuyết điểm để rút ra những kết luận xác đáng. Sau khi Liên Xô tan rã, chúng ta càng có thêm những bằng chứng chứng tỏ nguyên nhân sâu xa của sự đổ vỡ đó là những sai lầm nghiêm trọng về đường lối và quá trình thực hiện đường lối cải tổ cùng với những thủ đoạn chống phá vô cùng tinh vi, thâm hiểm của các thế lực thù địch với chủ nghĩa xã hội. Sự đổ vỡ của hệ thống xã hội chủ nghĩa  không phải xuất phát từ  bản chất chủ nghĩa xã hội, mà chính là việc từ bỏ lý tưởng, mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội để chuyển hướng, đổi màu chế độ theo chủ nghĩa tư bản.

Đúng là mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô có một số khiếm khuyết,  nhược điểm, làm hạn chế tiềm năng sáng tạo, làm suy yếu động lực của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng đất nước, nhất là cuối thập niên 70 của thế kỷ trước. Tuy nhiên, nhìn một cách tổng thể, không ai có thể phủ nhận những thành tựu vĩ đại thể hiện tính ưu việt nổi trội của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô. Trong chế độ xã hội đó, con người được giải phóng khỏi ách áp bức, nô dịch, nhanh chóng thoát khỏi đói nghèo, nâng cao trình độ văn hóa, dân trí, nhân dân có cuộc sống vật chất, tinh thần ngày càng phong phú, tốt đẹp. Chỉ trong một khoảng thời gian tương đối ngắn, từ một nước có trình độ phát triển trung bình, Liên Xô đã trở thành một cường quốc lớn mạnh cả về kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật và quân sự, làm chỗ dựa của cả hệ thống xã hội chủ nghĩa, tạo nên đối trọng với chủ nghĩa tư bản thế giới. Nhờ thực lực đó, Liên Xô đã đủ sức đi đầu và là lực lượng quyết định đánh bại chủ nghĩa phát xít trong chiến tranh thế giới thứ II, cứu loài người khỏi thảm họa phát xít, tạo điều kiện thúc đẩy phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào độc lập dân tộc và phong trào đấu tranh vì hòa bình, tiến bộ xã hội diễn ra mạnh mẽ chưa từng thấy trên phạm vi toàn cầu.

Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu không phải là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội với tư cách là một học thuyết cách mạng và khoa học duy nhất có thể vạch đường cho sự giải phóng hoàn toàn và triệt để giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc trên thế giới. Đó cũng không phải là sự sụp đổ của phong trào xã hội chủ nghĩa thế giới, vì chủ nghĩa xã hội hiện vẫn tồn tại và phát triển ở Trung Quốc, Việt Nam, Cu Ba, Lào, Triều Tiên và nhiều biểu hiện ở các nước khác với số lượng dân cư trên 1 tỷ người. Ngay ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, các lực lượng xã hội chủ nghĩa đang từng bước được phục hồi, đông đảo người dân ngày càng nhận rõ hơn chân giá trị xã hội chủ nghĩa, tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh vì chủ nghĩa xã hội. Sự thất bại tạm thời của chủ nghĩa xã hội chỉ nói lên tính chất quanh co của lịch sử, không làm thay đổi tính chất, nội dung của thời đại. Loài người nhất định vẫn sẽ đi đến một xã hội tốt đẹp, văn minh, dân chủ, tiến bộ hơn chế độ tư bản chủ nghĩa, đó là chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.

Khẳng định chủ nghĩa tư bản trước sau vẫn không phải là mẫu hình hướng tới của xã hội loài người. Cho dù tô vẽ đến mấy, "thế giới tự do" của chủ nghĩa tư bản vẫn bộc lộ đầy đủ những khuyết tật cố hữu không thể vượt qua như: tình trạng bất bình đẳng xã hội, phân hóa giàu nghèo ngày càng doãng ra đến cực độ; tình trạng mất dân chủ, các tệ nạn, tội ác ngày càng lan tràn trong xã hội… Ngay đối với Mỹ là nước giàu nhất thế giới, nhưng tỷ lệ người nghèo ở đây cũng cao nhất trong số các nước phát triển. Người Mỹ luôn quảng bá và mong muốn áp đặt "hình mẫu dân chủ" của mình đối với thế giới, nhưng trên thực tế "dân chủ" kiểu Mỹ luôn là dân chủ của kẻ giàu, là "cuộc chơi dành cho người giàu". Theo kết quả thăm dò dư luận trên toàn nước Mỹ, 73% người Mỹ cho rằng, người dân bình thường không có cách nào liên hệ với lãnh đạo; 64% số người Mỹ cảm thấy lãnh đạo của họ bị quyền lực tha hóa; 62% cho rằng, các lãnh đạo chỉ tìm cách tăng túi tiền của bản thân. Bình quân mỗi năm có gần 12.000 người Mỹ dùng súng giết người. Nếu nhìn rộng ra đối với thế giới tư bản chủ nghĩa, phải mất gần 200 năm xây dựng mới có được những nước G7 trong tổng số hơn 100 nước. Đó là chưa tính những nước nằm trong quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản, nhưng vẫn nghèo đói, nợ nần, kém phát triển, thậm chí nội bộ luôn mâu thuẫn gay gắt, xung đột dân tộc, sắc tộc diễn ra triền miên…

Ngay như những thời gian vừa qua, dịch bệnh Covid-19 đã bùng phát trên toàn cầu, đặc biệt là đối với các nước Tư bản như: Mỹ, Anh, Đức…số người nhiễm và chết lớn nhất thế giới. Bức tranh toàn cảnh của chủ nghĩa tư bản đã nói lên tính chất bế tắc, suy đồi của một chế độ xã hội sớm muộn cũng sẽ bị lịch sử vượt qua. Vì thế, ngay trong giai đoạn chủ nghĩa xã hội trên thế giới thoái trào, gặp nhiều khó khăn, nhưng nhiều đảng cộng sản, đảng cánh tả mác xít vẫn khẳng định loài người tất yếu sẽ đi lên chủ nghĩa xã hội. Việc xây dựng chủ nghĩa xã hội là tất yếu khách quan, dù quanh co, khúc khuỷu, song cuối cùng chủ nghĩa xã hội nhất định thắng lợi.

Từ sự phân tích bối cảnh tình hình trong nước và quốc tế trên đây, cho phép chúng ta khẳng định đường lối kiên trì định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng là hoàn toàn xuất phát từ thực tiễn, phù hợp với xu thế phát triển tất yếu của thời đại. Chỉ có gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa mới là đảm bảo chắc chắn nhất cho lợi ích lâu dài của dân tộc và cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của toàn thể nhân dân Việt Nam. Niềm tin đó đã được thử thách trong cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trước đây và ngày nay nó càng phải được phát huy mạnh mẽ vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Chính vì vậy, mọi ý kiến đòi hỏi Đảng phải từ bỏ định hướng xã hội chủ nghĩa, từ bỏ mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đều trở thành tiếng nói lạc lõng, phi thực tiễn. 

CẢNH GIÁC TRƯỚC LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC HÌNH ẢNH, UY TÍN CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH!

     Bôi nhọ hình ảnh, uy tín của Chủ tịch Hồ Chí Minh là chiêu bài thâm hiểm của các thế lực thù địch, phần tử phản động, cơ hội chính trị nhằm phá hủy tận gốc nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Họ trắng trợn xuyên tạc Đảng Cộng sản Việt Nam “thần thánh hóa” Chủ tịch Hồ Chí Minh. Vì vậy, nhận diện, đấu tranh phản bác luận điệu này là yêu cầu cần thiết trong bối cảnh hiện nay.
1. Nhà văn Blaga Dimitrova của Bulgaria đã viết: “Niềm hy vọng có nhiều tên gọi khác nhau, song ở Việt Nam, niềm hy vọng được tượng trưng là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Khi đất nước còn chìm đắm trong đêm trường nô lệ, chính Người đã mở ra cánh cửa hy vọng cho dân tộc Việt Nam. Có lẽ, không ngôn từ nào có thể diễn tả hết được những cống hiến, hy sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của Đảng và nhân dân Việt Nam”.

Không riêng nhà văn Blaga Dimitrova mà rất nhiều học giả, nhà nghiên cứu văn hóa quốc tế, các nguyên thủ đã ghi nhận, đánh giá Hồ Chí Minh là một nhân vật đã làm nên dấu ấn bước ngoặt vĩ đại không chỉ cho dân tộc Việt Nam mà còn để lại những dấu ấn khó phai trong tiến trình lịch sử phát triển tư tưởng, văn hóa của nhân loại.

Thế nhưng, bất chấp sự thật đã được lịch sử khắc ghi, các thế lực thù địch lại luôn hằn học với điều đó, tìm mọi cách xuyên tạc, nói xấu cuộc đời, sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Với âm mưu “hạ bệ thần tượng”, họ không ngần ngại tuyên bố: Đảng Cộng sản Việt Nam “thần thánh hóa” Chủ tịch Hồ Chí Minh. Họ suy diễn rằng, để được nhân dân ủng hộ, Đảng phải có sức lôi cuốn.

Để có sức lôi cuốn, Đảng phải coi trọng công tác tuyên truyền và trong tuyên truyền, phải đặt trọng tâm vào chính sách “thần thánh hóa lãnh tụ”. Họ lập luận rằng, “thần thánh hóa lãnh tụ” là thủ đoạn chính trị mà Đảng sử dụng để tập hợp, đoàn kết, nâng cao lòng tự hào dân tộc, để cổ vũ tinh thần, nô lệ hóa quần chúng; đồng thời, tạo bình phong, chỗ dựa an toàn, củng cố quyền lực cho những người lãnh đạo cấp cao hiện nay. Từ đó, họ quy chụp việc Đảng giữ gìn thi hài, xây dựng Lăng Bác; lấy tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng; vận động cán bộ, đảng viên, nhân dân học tập và làm theo Bác là “sùng bái cá nhân”, “thần thánh hóa lãnh tụ”.

2. Một số người thiếu thiện chí hoặc cố tình hướng lái dư luận lu loa rằng Chủ tịch Hồ Chí Minh là con người bằng xương, bằng thịt; “thần thánh hóa” đồng nghĩa với việc khai tử con người thật của Người. Rõ ràng, đây là luận điệu hết sức thâm độc, nham hiểm nhằm hạ thấp thanh danh, uy tín, vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam, làm xói mòn niềm tin của nhân dân vào tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, qua đó nhằm phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng, tạo ra “khoảng chân không chính trị” trong xã hội để hệ tư tưởng tư sản chiếm chỗ, chi phối, hòng dẫn dắt Việt Nam đi theo con đường tư bản chủ nghĩa.

Sự thật là các thế lực thù địch đã đánh đồng việc Đảng, nhân dân Việt Nam yêu quý, kính trọng, tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự “thần thánh hóa lãnh tụ”. Họ không nhận thức hoặc cố tình không hiểu rằng, lòng biết ơn, ghi nhớ công lao, tôn vinh những anh hùng, người có công với đất nước là truyền thống, đạo lý nhân văn và lẽ sống tốt đẹp của dân tộc, nhân dân Việt Nam. Truyền thống đó đã được đúc kết qua những câu tục ngữ như: “Uống nước nhớ nguồn”; “Ăn quả nhớ người trồng cây”...

Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, người Việt luôn tôn kính, thờ phụng những anh hùng dân tộc, bậc tiền nhân có công lao to lớn với quê hương, đất nước. Vì vậy, việc xây dựng Lăng Bác và giữ gìn thi hài Người là hoàn toàn xuất phát từ sự yêu quý, kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, chứ không phải do Đảng “thần thánh hóa lãnh tụ” như các thế lực thù địch thêu dệt. Về điều này, xin nhắc lại lời nhà báo Hayde Xantamaria (Cu Ba) đã đánh giá: “Chủ tịch Hồ Chí Minh được người dân Việt Nam yêu quý như một người thân. Tình yêu của họ đối với Người vô cùng sâu sắc và không bờ bến. Đây không phải là tình yêu thần thoại mà là tình yêu và sự kính trọng thật sự”.

Trên thực tế, không riêng Việt Nam, mà nhiều nước trên thế giới cũng có văn hóa tôn vinh những người có cống hiến to lớn cho đất nước. Ở Mỹ, George Washington (1732-1799) là tổng thống đầu tiên, được người Mỹ suy tôn là “Người cha già của đất nước” và để vinh danh ông, Mỹ đã xây dựng Đài tưởng niệm Washington, công trình kiến trúc bằng đá cao nhất thế giới. Ở Ấn Độ, Mahatma Gandhi (1869-1948) được người dân hết sức tôn kính gọi bằng những cái tên thân thương như: Cha kính yêu, tâm hồn vĩ đại, lãnh tụ tinh thần của dân tộc. Ở Trung Quốc, Chủ tịch Mao Trạch Đông được coi là “hiện thân của nền Cộng hòa nhân dân Trung Hoa”...  

3. Điều rất đáng tự hào là Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ được yêu quý, kính trọng ở Việt Nam mà Người cũng được nhân dân thế giới nể phục, tôn vinh. Năm 1987, tại khóa họp lần thứ 24, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) đã tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh là “Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất”. Với nghị quyết này, UNESCO đã ghi nhận những đóng góp to lớn, quan trọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ đối với dân tộc Việt Nam mà còn đối với cả nhân loại, đồng thời tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong những “nhân vật lỗi lạc đã để lại dấu ấn trong tiến trình phát triển của nhân loại”.

 Từ đó đến nay, hoạt động vinh danh Người đã được tổ chức ở nhiều quốc gia trên thế giới. Theo thông tin từ Bộ Ngoại giao Việt Nam, đến cuối năm 2023, đã có 37 tượng/tượng đài, 13 khu tưởng niệm, 6 trường lớp và 21 đại lộ, đường phố, công viên mang tên Hồ Chí Minh được xây dựng ở nhiều quốc gia trên thế giới. Những hoạt động đó xuất phát từ sự yêu mến, lòng kính trọng và công nhận của cộng đồng quốc tế đối với những đóng góp của Hồ Chí Minh, hoàn toàn trái ngược với luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch.

Cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh là bằng chứng xác đáng nhất để bác bỏ luận điệu “thần thánh hóa” cá nhân. Sinh thời, Người chưa bao giờ coi mình là “thánh nhân”, mà chỉ tự nhận là một người luôn đau đáu một nỗi niềm là làm sao cho đất nước được độc lập, nhân dân được tự do, có ăn, có mặc, có học... Nghiên cứu về Người, một học giả nước ngoài từng hỏi Thủ tướng Phạm Văn Đồng: “Hồ Chí Minh là một con người hay một vị thánh?”.

Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã trả lời rằng: Hồ Chí Minh trước hết là một con người, cuối cùng cũng là một con người, còn vĩ đại như đức Chúa, đức Phật thì các bạn đã thừa nhận. Người cũng luôn gương mẫu và lên án những biểu hiện “sùng bái cá nhân”, “thần thánh hóa lãnh tụ”; đồng thời, đề cao vai trò, sức mạnh của quần chúng nhân dân, tôn trọng nhân dân, quan tâm, giải quyết những khó khăn, vướng mắc của nhân dân, tận tâm, tận lực, tận hiến cho cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân.

Không phải ngẫu nhiên mà David Hamberstam, phóng viên tờ báo New York Times (Mỹ) từng viết: “Trên thế giới có quốc gia người ta đề cao lãnh tụ dữ lắm, đó là sùng bái cá nhân. Còn cụ Hồ Chí Minh thì cương quyết không tìm cái vỏ bề ngoài lộng lẫy của quyền uy. Như thế cụ tự tin và tin chắc vào quan hệ của mình với dân tộc, với lịch sử, đến nỗi cụ chẳng cần đến tượng, đền đài, sách báo và những nhà nhiếp ảnh để chứng minh điều đó cho mình” (dẫn theo Giáo sư Trần Văn Giàu, sách “Hồ Chí Minh vĩ đại một con người”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia-Sự thật, năm 2013, trang 74-75).

Thực tế cho thấy, mỗi quốc gia trên thế giới đều có biểu tượng niềm tin của mình. Biểu tượng niềm tin kết tụ sức mạnh tinh thần, tình cảm, sự xác tín thiêng liêng của cả dân tộc và trở thành một trong những trụ lực vững chắc nhất để cộng đồng dân tộc ấy tồn tại, phát triển. Đụng chạm đến biểu tượng niềm tin của một dân tộc là đụng chạm đến tình cảm thiêng liêng của hàng triệu con người.

Thấm nhuần truyền thống, đạo lý của dân tộc, Đảng đã nhìn nhận một cách khách quan, toàn diện về vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp cách mạng. Tại Hội nghị Trung ương 9 khóa II (4-1956), Đảng ta khẳng định: Sự nghiệp cách mạng của Đảng là một sự nghiệp vĩ đại, do công lao to lớn của toàn Đảng, toàn dân và của Hồ Chủ tịch. Hồ Chủ tịch là lãnh tụ thiên tài của Đảng, của nhân dân, của dân tộc. Vì vậy, Đảng đề cao vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tôn kính Chủ tịch Hồ Chí Minh là một lẽ tự nhiên, thường tình, hợp đạo lý, hợp lòng dân.

Nhân dân, dân tộc Việt Nam kính yêu Chủ tịch Hồ Chí Minh bởi chính Người đã khai sáng, mở đường, dẫn lối cho cách mạng Việt Nam đơm hoa kết trái, bởi Người đã trọn đời dâng hiến, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân và bởi Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, non sông, đất nước ta. Tình cảm, tình yêu, sự trân quý, ngưỡng mộ đó là hoàn toàn xuất phát từ trái tim muôn dân đất Việt, chứ không phải là sự gò ép gượng gạo, giả tạo.

Từ những luận cứ trên, có thể khẳng định, luận điệu Đảng Cộng sản Việt Nam “thần thánh hóa” Chủ tịch Hồ Chí Minh của các thế lực thù địch là hoàn toàn vô căn cứ và không có cơ sở khoa học. Đây là sự xuyên tạc, vu cáo trắng trợn nhằm bôi nhọ, làm lu mờ hình ảnh, uy tín của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phủ nhận những đóng góp, cống hiến vĩ đại của Người đối với Đảng, nhân dân, dân tộc và cách mạng Việt Nam./.
Ảnh: Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập tại Quảng trường Ba Đình, ngày 2-9-1945.
Yêu nước ST.

“Điểm tựa” vững vàng của đồng bào các dân tộc nơi biên giới Ka Lăng

 


Gần 25 năm công tác trong BĐBP, trải qua nhiều cương vị công tác khác nhau ở những địa bàn đặc biệt khó khăn, song Trung tá Phùng Nhù Giá, Chính trị viên Đồn Biên phòng Ka Lăng, BĐBP Lai Châu luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, nhiệt tình, dũng cảm, không ngại khó khăn, gian khổ, cùng với cấp ủy, chính quyền địa phương làm được nhiều việc làm ý nghĩa, chăm lo cuộc sống cho đồng bào các dân tộc nơi biên giới, góp phần giữ bình yên vùng phên dậu của Tổ quốc.

Là người con của đồng bào dân tộc Hà Nhì, ở xã Thu Lũm, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu, ngay từ khi còn nhỏ, thấy quê hương mình còn nghèo nàn, lạc hậu, đồng bào dân tộc mình còn khó khăn, thiếu thốn, anh Phùng Nhù Giá đã quyết tâm học tập để trở thành người cán bộ giúp cho đồng bào mình xóa đói, giảm nghèo, xây dựng và bảo vệ quê hương bình yên, giàu đẹp. Đặc biệt, hình ảnh những người lính mang quân hàm xanh gắn bó mật thiết với đồng bào nơi anh sinh sống đã in đậm trong tâm hồn cậu bé Giá. Năm 2000, ước mơ đó đã trở thành hiện thực, anh Phùng Nhù Giá nhập ngũ và được cử đi đào tạo tại Học viện Biên phòng (hệ cử tuyển).

Năm 2007, tốt nghiệp ra trường, anh Phùng Nhù Giá bắt đầu trải qua các cương vị công tác như: Đội trưởng Trinh sát, Trợ lý thanh niên, Chính trị viên phó, Chính trị viên; được “thử lửa” ở những vùng đặc biệt khó khăn như: Đồn Biên phòng Pa Tần, Đồn Biên phòng Pa Vệ Sử, Đồn Biên phòng Ka Lăng... Đây là những đơn vị có địa bàn chủ yếu là đồng bào các dân tộc Mông, Thái, La Hủ, Hà Nhì sinh sống. Hiện tại, Trung tá Phùng Nhù Giá đang là Chính trị viên Đồn Biên phòng Ka Lăng. Anh cho biết: “Đồn Biên phòng Ka Lăng được giao quản lý, bảo vệ gần 30km đường biên giới trên địa bàn 2 xã Ka Lăng và Tá Bạ, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu, có đông đồng bào dân tộc La Hủ, Hà Nhì sinh sống”.

Trung tá Phùng Nhù Giá xác định, để đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn, công tác vận động quần chúng rất quan trọng, vì vậy, ở vị trí công tác nào, anh cũng tích cực tham mưu cho cấp ủy, chỉ huy đơn vị và chính quyền địa phương đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật. Với vai trò là báo cáo viên pháp luật cấp huyện, anh đã thực hiện gần 40 buổi tuyên truyền, phổ biến các văn bản pháp luật có liên quan đến biên giới quốc gia; trực tiếp tham gia biên soạn nhiều tài liệu, tuyên truyền hàng trăm buổi cho nhân dân trên địa bàn.

Anh cũng là người trực tiếp tham mưu cho chính quyền địa phương củng cố, kiện toàn 10 ban tuyên vận cấp xã, 47 tổ tuyên vận thôn, bản khu vực biên giới; phát huy vai trò của 3 đồng chí cán bộ tham gia cấp ủy cấp huyện, cấp xã, 14 đảng viên tham gia sinh hoạt tại 14 chi bộ bản, 23 đảng viên phụ trách 102 hộ gia đình ở khu vực biên giới. Bên cạnh đó, Trung tá Phùng Nhù Giá cùng với cấp ủy, chỉ huy đơn vị lãnh đạo, chỉ đạo cán bộ, chiến sĩ luôn đồng hành, hỗ trợ đồng bào các dân tộc trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi và ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo.

“Đối với mỗi cán bộ, chiến sĩ, để hoàn thành tốt nhiệm vụ, phải thực hiện tốt việc “3 bám, 4 cùng”, đó là bám đơn vị, bám địa bàn, bám chủ trương, chính sách và cùng ăn, cùng ở, cùng làm, cùng nói tiếng đồng bào. Chỉ có như vậy mới nắm chắc được địa bàn, phong tục tập quán và quan trọng nhất là phải hiểu rõ hoàn cảnh, tâm tư từng hộ dân trên địa bàn mình phụ trách, từ đó, mới có cách tiếp cận, tuyên truyền, vận động nhân dân một cách phù hợp và hiệu quả nhất. Chúng tôi cũng đã cử các cán bộ xuống dân cầm tay chỉ việc giúp bà con nắm chắc về khoa học kỹ thuật. Rồi tuyên truyền cho bà con cải thiện quá trình canh tác cũng như nâng cao hiệu quả, năng suất trong quá trình sản xuất” - Trung tá Phùng Nhù Giá chia sẻ.

Ông Khoàng Xì Chừ, Chủ tịch UBND xã Ka Lăng đánh giá: “Nhờ sự hiểu biết, nhiệt tình, tận tâm của Trung tá Phùng Nhù Giá cùng tinh thần trách nhiệm của cán bộ, chiến sĩ Đồn Biên phòng Ka Lăng đã từng bước thay đổi tư duy từ sản xuất tự cung, tự cấp sang sản xuất hàng hóa, khuyến khích người dân địa phương tự chủ vươn lên thoát nghèo, làm giàu chính đáng, góp phần xây dựng thôn, bản biên giới ngày một khởi sắc, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia”.

Với tinh thần “Nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”, Trung tá Phùng Nhù Giá đã lãnh đạo, chỉ đạo đơn vị phối hợp với cấp ủy, chính quyền các xã triển khai thực hiện có hiệu quả các chương trình, phong trào, cuộc vận động, mô hình phát triển kinh tế - xã hội, giúp dân xóa đói giảm nghèo như: “Xuân Biên phòng ấm lòng dân bản”; “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”; “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”; “Cả nước chung tay vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau”; “Đồng hành cùng phụ nữ biên cương”; Chương trình “Nâng bước em tới trường - Con nuôi đồn biên phòng”; Dự án “Cán bộ, chiến sĩ Quân đội nâng bước em tới trường”; các mô hình “Chăn nuôi gia súc tập trung”; “Trồng thảo quả ra sát biên giới gắn với công tác quản lý, bảo vệ biên giới”; “Chăn nuôi bò sinh sản tập trung”; “Trồng sâm Lai Châu”; “Trồng cây sa nhân”; “Trồng cây ớt trung đoàn”...

Cùng với đó, Trung tá Phùng Nhù Giá còn chỉ đạo đơn vị phối hợp với địa phương vận động nhân dân phát triển phong trào xây dựng khu dân cư đạt chuẩn văn hóa, xây dựng gia đình văn hóa. Hiện nay, xã Ka Lăng có trên 89% tổng số hộ và 100% cơ quan, đơn vị đạt chuẩn văn hóa. Cùng với Đảng ủy, chỉ huy Đồn Biên phòng Ka Lăng, Trung tá Phùng Nhù Giá đã phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương và các ban, ngành, đoàn thể thường xuyên quan tâm đến công tác bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa của đồng bào các dân tộc, bài trừ các tập tục lạc hậu, mê tín dị đoan, tục tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống, xây dựng nhà văn hóa trong đồng bào các dân tộc; duy trì, phát triển các lễ, hội văn hóa truyền thống của đồng bào các dân tộc trên địa bàn biên giới do đơn vị quản lý.

Với những thành tích đã đạt được, Trung tá Phùng Nhù Giá đã được tuyên dương tại chương trình “Điểm tựa của bản làng” lần thứ II, năm 2024. Trung tá Phùng Nhù Giá còn được tặng danh hiệu “Chiến sĩ thi đua cấp cơ sở” 3 năm liên tiếp (2021, 2022, 2023); được Chủ tịch UBND tỉnh Lai Châu tặng 2 Bằng khen; Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Phú Thọ tặng 1 Bằng khen, cùng nhiều phần thưởng cao quý khác.

Nền tảng vững chắc để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

 


Trong mỗi gia đình, sự hòa thuận, đoàn kết, ổn định luôn là điều kiện tiên quyết để mỗi cá nhân làm ăn và sinh sống, từ đó xây dựng một gia đình đầm ấm, hạnh phúc và phát triển. Suy rộng ra, đất nước nào cũng vậy, muốn phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, điều kiện tiên quyết là xã hội phải ổn định. Ổn định về lương thực, kinh tế, văn hóa, sức khỏe cộng đồng ở tầm vĩ mô. Trong đó, sự ổn định về chính trị là tiền đề, là “then chốt của then chốt”. Ở Việt Nam, sau gần 40 năm đổi mới, đất nước ta luôn ổn định về chính trị, đó chính là nền tảng vững chắc để phát triển kinh tế đất nước, mang lại cuộc sống bình yên cho nhân dân; tạo nên sức hấp dẫn của môi trường đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.

Kể từ khi ban hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (năm 1987) đến nay, tình hình đầu tư nước ngoài vào Việt Nam ngày một gia tăng. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Việt Nam đã thu hút được gần 438,7 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài (FDI). Khu vực FDI đã đóng góp quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, nâng cao vị thế và uy tín Việt Nam trên trường quốc tế. Riêng năm 2023, do bối cảnh kinh tế toàn cầu gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng Việt Nam vẫn là điểm đến hấp dẫn của vốn FDI. Việt Nam đạt 36,61 tỷ USD (tính đến ngày 20/12/2023). Quý I/2024, có hơn 6,17 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Việt Nam, tăng 13,4% so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó, vốn đăng ký mới đạt hơn 4,77 tỷ USD, tăng 57,9% so với cùng kỳ năm 2023.

Sở dĩ Việt Nam thu hút các nhà đầu tư, ngoài vị trí địa lý thuận lợi thì tình hình kinh tế - chính trị - xã hội ổn định chính là yếu tố hàng đầu tạo ra lợi thế, sức hấp dẫn với các nhà đầu tư. Trải qua nhiều năm chiến tranh, Việt Nam hiểu rất rõ giá trị của hòa bình, độc lập, thống nhất, giá trị của ổn định chính trị để phát triển đất nước, mang lại cuộc sống bình yên cho nhân dân. Đối với Việt Nam, ổn định chính trị là điều kiện sống còn để bảo vệ độc lập dân tộc, ứng phó với các thách thức bên trong và bên ngoài. Những năm gần đây, tình hình thế giới có nhiều biến động thì Việt Nam có sức hút lớn nhờ luôn giữ được ổn định chính trị, ổn định kinh tế vĩ mô, có chính sách ngoại giao đúng đắn, đó chính là một thành tựu quan trọng của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.

Tuy nhiên, các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị luôn tìm mọi âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc, bôi nhọ, tiến hành các hoạt động phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chia rẽ mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước, gây bất ổn chính trị, bất ổn xã hội, mưu toan thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Gần đây, đã có những lo ngại về việc “đánh chuột làm vỡ bình” trong cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực “không có vùng cấm” của Đảng và nhân dân ta. Các thế lực thù địch rêu rao, xuyên tạc: “Cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là sự tranh giành quyền lực, đấu đá trong nội bộ Đảng”, chúng tung tin, đồn đoán, gây hoang mang trong dư luận nhân dân. Rồi chúng kết luận theo thuyết âm mưu: “Nhiều lãnh đạo cấp cao của Đảng bị kỷ luật do tham nhũng, tiêu cực, bị vướng vào lao lý, chứng tỏ có lỗi hệ thống của Đảng”. Từ đó, chúng kêu gọi: “Chỉ có đa đảng, thay đổi chế độ tại Việt Nam mới giải quyết được tận gốc vấn đề”.

Đáng tiếc là có những cán bộ, đảng viên và người dân đã tin theo những luận điệu sai trái ấy. Có người bày tỏ tâm trạng bi quan, lo lắng cho sự tồn vong của chế độ ta. Cũng có những người vì tò mò, hiếu kỳ, muốn cập nhật các thông tin “nóng sốt” mà không thể tìm thấy các loại thông tin ấy trên báo chí chính thống nên đã lên mạng xã hội để "hóng" và đã vô tình mắc bẫy các thế lực thù địch.

Vì vậy, mỗi cán bộ, đảng viên trước hết cần hết sức tỉnh táo, thấy rõ những thành tựu nổi bật của nước ta trên chính trường quốc tế và trong nước. Hai là, cần nhận thức được ý nghĩa quan trọng của cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực; từ đó kiên trì, kiên quyết và tin tưởng vào thắng lợi của cuộc đấu tranh này. Ba là, cần phải gương mẫu, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng trong mỗi cán bộ, đảng viên. Cần loại trừ mọi biểu hiện tham nhũng, tiêu cực; tránh mọi biểu hiện “cua cậy càng, cá cậy vây”, hành động không vì lợi ích chung của Đảng, đất nước và người dân, kiên quyết đấu tranh những hành động vì lợi ích cục bộ, lợi ích cá nhân. Bốn là, không phát tán thông tin trên các trang mạng xã hội, nhất là của thế lực thù địch, phản động; các thông tin chưa được kiểm chứng.

Ổn định chính trị không phải tự nhiên mà có, đó là do sự lãnh đạo của Đảng; sự đoàn kết, đồng lòng của toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chính trị “trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt" như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nói. Do vậy, mỗi cán bộ, đảng viên cần nhận thức và bảo vệ sự ổn định chính trị của đất nước trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN hiện nay.

 

 

                                                                      

 

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: QUÂN ĐỘI CHỦ ĐỘNG ỨNG PHÓ VỚI BÃO YAGI VÀ CÁC HÌNH THÁI THỜI TIẾT CỰC ĐOAN!

     Nhằm chủ động ứng phó với bão Yagi, Cục Cứu hộ - Cứu nạn (Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam) vừa có Công điện gửi các Quân khu: 1, 2, 3, 4, 5, 7, 9; Quân chủng: Hải quân, Phòng không - Không quân; Bộ tư lệnh: Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển, Thủ đô Hà Nội; Quân đoàn 12, 3, 4; Binh chủng: Pháo binh, Đặc công, Tăng thiết giáp, Công binh, Thông tin liên lạc, Hóa học; Binh đoàn: 11, 12, 15, 16, 18.
Theo bản tin của Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn Quốc gia, hiện nay bão Yagi đang hoạt động ở vùng biển phía Đông đảo Luzon (Philippines). Dự báo khoảng chiều 3-9 bão Yagi đi vào Biển Đông (cơn bão số 3), trong khoảng từ ngày 4 đến 6-9, bão số 3 trên vùng biển Đông Bắc Biển Đông, gió mạnh tối đa lên tới cấp 12, giật cấp 15. Ngoài ra khu vực Nam bộ, Tây Nguyên xảy ra mưa vừa, mưa to, cục bộ có nơi mưa rất to; nguy cơ xảy ra lũ quét, sạt lở đất và ngập úng tại các khu vực trũng, thấp.

Để chủ động ứng phó với diễn biến của bão trên Biển Đông và mưa lớn có thể gây ra lũ quét, sạt lở đất, ngập lụt vùng trũng thấp, khu đô thị tại vùng núi phía Bắc, khu vực Nam Bộ và Tây Nguyên, Cục Cứu hộ - Cứu nạn đề nghị các đơn vị quân đội thực hiện một số nội dung sau:
Duy trì nghiêm chế độ trực, theo dõi nắm chắc tình hình thời tiết, khí tượng, thủy văn. Phối hợp với chính quyền địa phương kiểm tra, vận động tuyên truyền, hướng dẫn người dân các biện pháp chủ động ứng phó; chủ động điều động lực lượng, phương tiện, di dời người và tài sản ra khỏi khu vực nguy hiểm.

Bộ tư lệnh Quân khu: 1, 2, 3, 4, 5, 7, 9; Bộ tư lệnh Thủ đô Hà Nội chỉ đạo Bộ Chỉ huy Quân sự các tỉnh, thành phố (quận, huyện) nắm chắc tình hình di chuyển của bão Yagi, mưa lớn khu vực Nam Bộ và Tây Nguyên; rà soát, bổ sung các kế hoạch, phương án; tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương, phối hợp với các đơn vị đứng chân trên địa bàn sẵn sàng lực lượng, phương tiện xử lý kịp thời, hiệu quả các tình huống; bảo đảm an toàn tuyệt đối lực lượng, phương tiện khi đi làm nhiệm vụ.

Bộ tư lệnh Bộ đội Biên phòng chỉ đạo Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng các tỉnh, thành phố ven biển từ Quảng Ninh đến Bình Thuận phối hợp với Bộ Chỉ huy Quân sự các tỉnh, thành phố và các cơ quan chức năng quản lý chặt chẽ các phương tiện ra khơi, tổ chức kiểm đếm, thông báo kịp thời cho chủ các phương tiện, thuyền trưởng các tàu, thuyền đang hoạt động trên biển biết vị trí, hướng di chuyển và diễn biến của bão Yagi để chủ động phòng tránh, thoát ra hoặc không di chuyển vào khu vực nguy hiểm, thường xuyên duy trì thông tin liên lạc, sẵn sàng xử lý kịp thời các tình huống có thể xảy ra.

Quân chủng Hải quân, Bộ tư lệnh Cảnh sát biển chỉ đạo các đơn vị bảo đảm an toàn cho các phương tiện đang hoạt động trên biển; sẵn sàng lực lượng, phương tiện tham gia cứu hộ, cứu nạn khi có yêu cầu.

Quân chủng Phòng không - Không quân, Binh đoàn 18 sẵn sàng lực lượng, phương tiện bay tìm kiếm cứu nạn khi có lệnh của Bộ Quốc phòng.

Bộ tư lệnh các Quân đoàn, Binh chủng, Binh đoàn có biện pháp bảo đảm an toàn doanh trại, kho tàng; chủ động phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương sẵn sàng lực lượng, phương tiện ứng phó với mưa lớn, lũ ống, lũ quét, ngập lụt, sạt lở đất trên địa bàn, hỗ trợ nhân dân khắc phục hậu quả.

Các đơn vị tổ chức triển khai thực hiện và báo cáo về Bộ Tổng Tham mưu (qua Cục Cứu hộ - Cứu nạn) để giúp Bộ theo dõi, chỉ đạo./.
Yêu nước ST.

Thứ Ba, 3 tháng 9, 2024

VIỆT TÂN LẠI KHUYẾN KHÍCH NHỮNG EM HỌC SINH CÓ PHÁT NGÔN CHƯA CHUẨN!

     Anh em Việt Tân  (VT) quả là nhanh thật, một em học sinh có phát ngôn chưa chuẩn, thế là nhảy vào khuyến khích, thậm chí tôn vinh như người hùng. Đây là cách mà VT lôi kéo, tác động các bạn trẻ tham gia vào tổ chức của họ.

Trở lại câu chuyện về phát ngôn lệch lạc của Chu Ngọc Quang Vinh - một em học sinh từng tham gia chương trình Đường lên đỉnh Olympia. Tôi đã có bài viết chia sẻ, trong bài tôi cũng đã nói rằng đây không phải là phát ngôn của một người từng được học Lịch sử Việt Nam và nhận được nhiều lời đồng tình, ủng hộ của nhiều người.

Tuy nhiên, ta cũng ngẫm lại rằng, đã từng có một số thanh niên, học sinh có lối suy nghĩ lệch lạc như em Vinh, nhưng không được phát hiện từ sớm và cũng chẳng được những lời khuyên can thỏa đáng từ gia đình, nhà trường, cộng thêm việc bị các đối tượng xấu lôi kéo. Và kết quả là thanh niên đó sa ngã, t.ù t.ội. Nhưng nếu sự lệch lạc đó được phát hiện từ sớm và có sự tác động từ gia đình, nhà trường thì Việt Nam có lẽ sẽ không bị mất nhân tài.

Em Vinh cũng vậy, tôi nghĩ em còn trẻ nên suy nghĩ bồng bột, nếu được gia đình, nhà trường khuyên giải kịp thời, được cộng đồng mạng bao dung thì có thể em sẽ biết hối cải, quay đầu là bờ. 

Việc chúng ta phê bình là chính xác, nhưng không nên đẩy họ vào con đường cùng, tránh để những kẻ như VT móc nối, lôi kéo trở thành kẻ trở cờ của dân tộc./.
Yêu nước ST.

Giữ gìn sự nghiêm minh kỷ luật của Đảng


 

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định “Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một người, đó là nhờ có kỷ luật”[1]. Chính nhờ có kỷ luật của Đảng nghiêm minh, các đảng viên nghiêm túc, tự giác chấp hành mà trong suốt 94 năm qua, Đảng ta đã vượt qua mọi thử thách hiểm nghèo và lãnh đạo sự nghiệp cách mạng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Cán bộ Quân đội “7 dám” là phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ trong giai đoạn hiện nay


Phương châm xây dựng, bồi dưỡng, rèn luyện cán bộ Quân đội “7 dám” theo tinh thần chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Bí thư Quân ủy Trung ương (QUTƯ) là sự tiếp nối và cụ thể hóa những phẩm chất tốt đẹp của Bộ đội Cụ Hồ trong giai đoạn hiện nay. Đây là sự phát triển tư duy lý luận với nội hàm mới, yêu cầu mới, đòi hỏi ngày càng cao đối với phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ Quân đội trong giai đoạn cách mạng mới. Vì thế, mọi sự rêu rao, xuyên tạc về vấn đề này cần kiên quyết vạch trần, bác bỏ.

Bệnh giáo điều mới trong một bộ phận cán bộ, đảng viên

 


 

Trước thời kỳ đổi mới, đất nước ta lâm vào khủng hoảng kinh tế-xã hội. Nguyên nhân căn bản được Đại hội VI đánh giá là do chúng ta rơi vào tình trạng máy móc, giáo điều. Đại hội VI đã mở ra thời kỳ mới, trên cơ sở trung thành với Chủ nghĩa Mác-Lênin, Đảng đã vận dụng linh hoạt để tiến hành công cuộc đổi mới.

Cuộc bứt phá ra khỏi chủ nghĩa giáo điều đã giúp đất nước ta thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, kinh tế đất nước ngày càng đi lên. Sau gần 40 năm đổi mới, bên cạnh những thành tựu to lớn, chúng ta lại thấy ở đâu đó xuất hiện căn bệnh giáo điều mới, ảnh hưởng lớn đến phát triển đất nước.

PHÁT HUY VAI TRÒ VÀ TƯ CÁCH NGƯỜI CHÍNH TRỊ VIÊN TRONG CÔNG TÁC ĐẢNG, CÔNG TÁC CHÍNH TRỊ Ở ĐƠN VỊ

   

Trong thư gửi Hội nghị chính trị viên, tháng 3-1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “... Đối với bộ đội, chính trị viên phải thân thiết như một người chị, công bình như một người anh, hiểu biết như một người bạn”. Lời của Bác ngắn gọn mà cô đọng, súc tích, thể hiện đầy đủ phẩm chất cao đẹp, phương pháp công tác và tư cách của người chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam.

BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG, ĐẤU TRANH PHẢN BÁC CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH HIỆN NAY


 

Hiện nay, các thế lực thù địch đang ra sức phá hoại, xuyên tạc chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, công kích nền tảng tư tưởng của Đảng ta hòng làm giảm niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Trước tình hình đó, việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch là nhiệm vụ quan trọng, có ý nghĩa sống còn trong bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa.

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM CẦM QUYỀN, LÃNH ĐẠO ĐẤT NƯỚC NHÂN TỐ CHỦ YẾU BẢO ĐẢM THỰC HIỆN QUYỀN TỰ DO, DÂN CHỦ CỦA NHÂN DÂN

 

  Hiện nay trong một thế giới ngày càng đa dạng, khi tiếp cận và xử lý vấn đề quyền tự do, dân chủ của nhân dân, Đảng và Nhà nước ta luôn kết hợp hài hòa các chuẩn mực, nguyên tắc chung của luật pháp quốc tế với những điều kiện đặc thù về lịch sử, chính trị, kinh tế - xã hội, các giá trị văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục, tập quán của Việt Nam để bảo đảm cho người dân được hưởng thụ quyền tự do, dân chủ một cách tốt nhất.

NHẬN DIỆN VÀ ĐẤU TRANH VỚI CÁC LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC, CHỐNG PHÁ CÔNG TÁC NHÂN SỰ CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC TA

 



Qua học tập, nghiên cứu về âm mưu, chiến lược diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch, chúng ta nhận thấy rõ được 1 quy luật của chúng đó là, trước mỗi kỳ Đại hội Đảng, các kỳ họp của Quốc hội hay trong dịp kỷ niệm những ngày Lễ lớn, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị, phản động lại gia tăng hoạt động chống phá, trong đó họ đặc biệt tập trung vào công tác nhân sự. Và thủ đoạn là cố tình xuyên tạc, kích động, bóp méo sự thật, cố tình hướng lái dư luận hiểu sai chủ trương đường lối của Đảng, Nhà nước về công tác tổ chức và công tác nhân sự…

ĐẤU TRANH BẢO VỆ NGUYÊN TẮC ĐẢNG LÃNH ĐẠO TUYỆT ĐỐI, TRỰC TIẾP, VỀ MỌI MẶT ĐỐI VỚI QUÂN ĐỘI

 

Trong những năm qua, các thế lực thù địch luôn đẩy mạnh các hoạt động phá hoại sự nghiệp cách mạng của Đảng. Mũi nhọn tấn công của chúng là gây nhiễu về chính trị, tư tưởng, văn hóa; ra sức phủ nhận nền tảng tư tưởng và công tác nhân sự của Đảng; kích động tư tưởng ly khai, chống đối; lợi dụng vấn đề “đa nguyên chính trị”, “đa đảng đối lập”, “dân chủ”, “nhân quyền” “dân tộc”, “tôn giáo”; lợi dụng những vấn đề phức tạp trên Biển Đông và tình trạng tham nhũng, dịch bệnh để xuyên tạc, hạ thấp uy tín của Đảng và Nhà nước, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Trong đó, những luận điệu xuyên tạc, công kích Quân đội nhân dân Việt Nam, hòng gây mất ổn định chính trị, xã hội và làm cho quân đội ta mất định hướng chính trị, là những luận điệu phản động, hết sức nguy hiểm và thâm độc cần kiên quyết đấu tranh, vạch trần, lật tẩy bản chất.

Kiên định và sáng tạo trong xây dựng chủ nghĩa xã hội qua tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng

TCCS - Với tư cách là đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 2011 đến nay, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã để lại một di sản đồ sộ, quý báu cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta về các vấn đề xây dựng và chỉnh đốn Đảng; xây dựng văn hóa, con người Việt Nam; phòng, chống tham ô, tham nhũng,… đặc biệt là những vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Di sản của Tổng Bí thư không chỉ trực tiếp chỉ đạo giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra từ công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta thời gian qua, mà còn có giá trị dẫn dắt, định hướng, soi đường cho cách mạng Việt Nam từ nay đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và những thập niên tiếp theo. Kế thừa và tiếp bước sự nghiệp mà Đồng chí đã vạch ra, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân cần học tập, noi theo phẩm chất đạo đức sáng ngời, tinh thần trách nhiệm, tiếp tục kiên định và sáng tạo trong xây dựng chủ nghĩa xã hội để sự nghiệp của chúng ta đi đến thành công.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm Nhà máy đường của Công ty cổ phần đường Kon Tum _Ảnh: TTXVN

Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam: kiên định và sáng tạo qua tác phẩm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng

Tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” (gọi tắt là Tác phẩm) của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản năm 2022. Tác phẩm gồm 29 bài viết, đề cập một cách cô đọng những vấn đề trọng yếu về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đó là chủ nghĩa xã hội là gì? Vì sao Việt Nam lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa? Làm thế nào và bằng cách nào để từng bước xây dựng được chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam?... Tác phẩm cũng đề cập đến những vấn đề về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; về xây dựng Nhà nước pháp quyền và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; về xây dựng Đảng và hệ thống chính trị; xây dựng giai cấp công nhân, nông dân Việt Nam lớn mạnh… Tác phẩm đã chỉ rõ những thành công cũng như những bài học kinh nghiệm trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.

Trong Tác phẩm, đồng chí Tổng Bí thư đã chỉ rõ, nhờ thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế Việt Nam bắt đầu phát triển và phát triển liên tục với tốc độ tương đối cao trong suốt 35 năm qua với mức tăng trưởng trung bình khoảng 7% mỗi năm. Quy mô GDP không ngừng được mở rộng, năm 2020 đạt 342,7 tỷ USD, trở thành nền kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN. Thu nhập bình quân đầu người tăng khoảng 17 lần, lên mức 3.512 USD; Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008. Từ một nước bị thiếu lương thực triền miên, đến nay Việt Nam không những đã bảo đảm được an ninh lương thực, mà còn trở thành một nước xuất khẩu gạo và nhiều nông sản khác đứng hàng đầu thế giới. Công nghiệp phát triển khá nhanh, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ liên tục tăng và hiện chiếm khoảng 85% GDP. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng mạnh, năm 2020 đạt trên 540 tỷ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt trên 280 tỷ USD. Dự trữ ngoại hối tăng mạnh, đạt 100 tỷ USD vào năm 2020. Đầu tư nước ngoài tăng nhanh, đăng ký đạt gần 395 tỷ USD vào cuối năm 2020(1).

Trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, sự nhận thức về văn hóa ngày càng toàn diện và sâu sắc hơn trên các lĩnh vực, các loại hình; các sản phẩm văn hóa ngày càng đa dạng, phong phú, đáp ứng yêu cầu mới, nhiều mặt của xã hội. Nhiều giá trị văn hóa truyền thống và di sản văn hóa của dân tộc được kế thừa, bảo tồn và phát triển. Văn hóa trong chính trị và trong kinh tế bước đầu được coi trọng và phát huy hiệu quả tích cực. Công nghiệp văn hóa và thị trường văn hóa có bước khởi sắc. Hoạt động giao lưu, hợp tác và hội nhập quốc tế có bước phát triển mới. Xây dựng con người Việt Nam đang từng bước trở thành trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Việc đấu tranh, phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, cái lạc hậu, chống các quan điểm, hành vi sai trái gây tác hại đến văn hóa, lối sống được chú trọng(2).

Giáo dục và đào tạo, y tế có bước phát triển. Tỷ lệ trẻ em đến trường ngày càng cao. Tỷ lệ hộ nghèo trung bình mỗi năm giảm khoảng 1,5%; giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 5,8% năm 2016 theo chuẩn nghèo của Chính phủ và dưới 3% năm 2020 theo chuẩn nghèo đa chiều (tiêu chí cao hơn trước). Đến nay, hơn 60% số xã đạt chuẩn nông thôn mới; hầu hết các xã nông thôn đều có đường ôtô đến trung tâm, có điện lưới quốc gia, trường tiểu học và trung học cơ sở, trạm y tế và điện thoại. Việt Nam hoàn thành xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000 và phổ cập giáo dục trung học cơ sở năm 2010; số sinh viên đại học, cao đẳng tăng gần 17 lần trong 35 năm qua. Hiện nay, Việt Nam có 95% người lớn biết đọc, biết viết. Người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi và người cao tuổi được cấp bảo hiểm y tế miễn phí. Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em và tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh giảm gần 3 lần. Tuổi thọ trung bình của dân cư tăng từ 62 tuổi năm 1990 lên 73,7 tuổi năm 2020. Cũng nhờ kinh tế có bước phát triển nên chúng ta đã có điều kiện để chăm sóc tốt hơn những người có công, phụng dưỡng Mẹ Việt Nam Anh hùng, chăm lo phần mộ của các liệt sĩ đã hy sinh cho Tổ quốc. Đời sống văn hóa cũng được cải thiện đáng kể; sinh hoạt văn hóa phát triển phong phú, đa dạng. Hiện, Việt Nam có khoảng 70% dân số sử dụng internet, là một trong những nước có tốc độ phát triển công nghệ tin học cao nhất thế giới. Liên hợp quốc đã công nhận Việt Nam là một trong những nước đi đầu trong việc hiện thực hóa các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ. Năm 2019, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đạt mức 0,704, thuộc nhóm nước có HDI cao của thế giới, nhất là so với các nước có cùng trình độ phát triển(3).

Trong lĩnh vực xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, Tác phẩm đã chỉ rõ, trong suốt hơn 90 năm qua, Đảng ta đã xác lập, củng cố và ngày càng nâng cao vai trò lãnh đạo, sức mạnh và uy tín của Đảng bằng chính bản lĩnh, nghị lực, trí tuệ, lý luận tiên phong; bằng đường lối đúng đắn mang lại lợi ích thiết thân cho nhân dân, cho đất nước; bằng sự nêu gương, hy sinh quên mình, phấn đấu không mệt mỏi của đội ngũ cán bộ, đảng viên; bằng một tổ chức đoàn kết, thống nhất chặt chẽ, vững chắc; bằng mối liên hệ máu thịt với nhân dân, được nhân dân hết lòng tin yêu, ủng hộ và bảo vệ. Thực tế từ ngày có Đảng, nhân dân ta đã có người lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt và nhờ thế chúng ta đã giành được hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, lập nên những kỳ tích trong thế kỷ XX. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức và đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được xây dựng và từng bước hoàn thiện. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên ngày càng khẳng định vai trò, vị trí quan trọng trong sự phát triển đất nước.

Trong lĩnh vực đối ngoại, quốc phòng, an ninh, Việt Nam đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Chúng ta đã tạo dựng và củng cố ngày càng vững chắc cục diện đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa, thuận lợi cho công cuộc đổi mớiNước ta đã có quan hệ ngoại giao với 189 nước trong tổng số 193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc, trong đó 3 nước có “quan hệ đặc biệt”, 17 nước “đối tác chiến lược” và 13 nước “đối tác toàn diện”. Trên bình diện đa phương, Việt Nam là thành viên tích cực và có trách nhiệm của hơn 70 tổ chức, diễn đàn quốc tế quan trọng, như Liên hợp quốc, ASEAN, APEC, ASEM, WTO… Đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại nhân dân và đối ngoại của các ngành, lĩnh vực, địa phương, doanh nghiệp ngày càng mở rộng, chủ động, tích cực và đi vào chiều sâu. Đảng ta đã có quan hệ với 247 chính đảng ở 111 quốc gia, bao gồm khoảng 90 đảng cộng sản và công nhân quốc tế, các đảng cầm quyền và tham chính có vai trò quan trọng. Quốc hội có quan hệ với quốc hội, nghị viện của hơn 140 quốc gia và tham gia tích cực tại nhiều diễn đàn nghị viện quốc tế quan trọng. Đối ngoại đóng vai trò tiên phong trong việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, góp phần quan trọng vào việc bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Vị thế và uy tín quốc tế của nước ta trong khu vực và trên thế giới ngày càng được nâng cao, đóng góp tích cực và đầy tinh thần trách nhiệm vào việc giữ vững hòa bình, hợp tác phát triển và tiến bộ trên thế giới.

Tác phẩm đã chỉ rõ, trong lĩnh vực quốc phòng, chúng ta dự báo đúng tình hình, xử lý tốt các tình huống, không để bị động, bất ngờ, nhất là trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo và sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; thực hiện tốt công tác đối ngoại quốc phòng, góp phần tạo môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng, phát triển đất nước. Chủ động, nhạy bén, tích cực trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, “phi chính trị hóa”, “dân sự hóa” Quân đội của các thế lực thù địch. Xây dựng cơ sở chính trị địa phương vững mạnh, “thế trận lòng dân” vững chắc. An ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm. Công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm, vi phạm pháp luật đạt hiệu quả cao. Chất lượng điều tra, phá án được nâng lên. Cuộc sống bình yên của nhân dân được bảo vệ.

Đồng chí Tổng Bí thư cho rằng, trong hơn 35 năm tiến hành đổi mới, Việt Nam đã ngày càng nhận thức sâu sắc hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Chúng ta từng bước khắc phục một số quan niệm đơn giản trước đây, như: đồng nhất mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa xã hội với nhiệm vụ của giai đoạn trước mắt; nhấn mạnh một chiều quan hệ sản xuất, chế độ phân phối bình quân, không thấy đầy đủ yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ, không thừa nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế; đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản; đồng nhất nhà nước pháp quyền với nhà nước tư sản...(4). Đảng đã đưa ra một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo là quan niệm về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là nền kinh tế kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, mà một đặc trưng căn bản, một thuộc tính căn bản là gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển. Đó là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường; một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Đây không phải là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và cũng chưa phải là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đầy đủ (vì nước ta còn đang trong thời kỳ quá độ)(5). Tính chất định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối. Nền kinh tế đó bao gồm kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể và kinh tế tư nhân, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất để định hướng, điều tiết, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Đặc điểm trong phân phối của mô hình kinh tế này, theo đồng chí Tổng Bí thư, là bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát triển; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội.

Cùng với việc đưa ra lý luận về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở thực tiễn, vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với tiếp thu có chọn lọc những thành tựu phát triển nền văn minh của nhân loại, Đảng ta đã xây dựng và hoàn thiện lý luận về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa với mục tiêu “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Bên cạnh đó, lý luận về nền văn hóa xã hội chủ nghĩa cũng được hoàn thiện. Từ việc coi văn hóa là một lĩnh vực của đời sống tinh thần, có giá trị tinh thần và yêu cầu thúc đẩy sự phát triển cân đối và kết hợp hài hòa kinh tế với văn hóa - xã hội (Đại hội VI và Đại hội VII) đến việc coi văn hóa vừa là nền tảng tinh thần, mục tiêu của sự phát triển, vừa là động lực, sức mạnh nội sinh cho sự phát triển; văn hóa không chỉ có giá trị tinh thần, mà còn đem lại cả giá trị vật chất, kinh tế; văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội (từ Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII năm 1998 cho đến nay); từ việc xác định mục tiêu xã hội mà chúng ta xây dựng là “dân giàu, nước mạnh, xã hội văn minh” (Đại hội VI năm 1986) đến mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” (Đại hội XI năm 2011 và cho đến nay); từ việc xác định 8 mối quan hệ cần giải quyết trong xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa (trong Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011, Đại hội XI) đến Đại hội XIII (năm 2021) của Đảng, chúng ta đã xác định 10 mối quan hệ lớn; từ việc xác định 6 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng (Đại hội VII, trong Cương lĩnh năm 1991), đến nay là 8 đặc trưng…

Đánh giá về những thành tựu trên, đồng chí Tổng Bí thư khẳng định, đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam(6). Đồng thời, Tổng Bí thư cho rằng, đó là do chúng ta kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm Hợp tác xã chè Hảo Đạt, xã Tân Cương, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên _Nguồn: thainguyen.gov.vn

Tiếp tục kiên định và sáng tạo trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Nghiên cứu Tác phẩm của đồng chí Tổng Bí thư có giá trị cả về mặt lý luận và thực tiễn trong việc tiếp tục kiên định và sáng tạo để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Như chúng ta đều biết, trong nghiên cứu về sự vận động đi lên của xã hội loài người, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin khẳng định sự phát triển tất yếu của xã hội loài người là sẽ đi đến chủ nghĩa cộng sản, mà giai đoạn đầu của nó là chủ nghĩa xã hội, là chế độ thay thế chủ nghĩa tư bản. Trong các nghiên cứu của mình, C.Mác và Ph.Ăng-ghen chỉ ra mô hình của xã hội cộng sản và xã hội xã hội chủ nghĩa trong tương lai cũng như con đường, biện pháp để đi đến các xã hội đó. Trải qua thời gian, quá trình nhận thức, hoạt động thực tiễn, lý luận về mô hình chủ nghĩa xã hội cũng như biện pháp để đi đến chủ nghĩa xã hội của các nhà kinh điển có những thay đổi nhất định, thể hiện quan điểm phát triển, không giáo điều của các ông khi nghiên cứu về sự phát triển xã hội(7). Chính bản thân các ông cũng khẳng định: “Lý luận của chúng tôi là lý luận của sự phát triển, chứ không phải là một giáo điều mà người ta phải học thuộc lòng và lắp lại một cách máy móc”(8).

Kế thừa các quan điểm của C.Mác và Ph.Ăng-ghen, khi lãnh đạo nước Nga Xô viết thực hiện cách mạng, xây dựng đất nước, V.I.Lê-nin cũng đã bổ sung một số lý luận về mô hình chủ nghĩa xã hội cũng như con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, mà nhận định về  thời kỳ quá độ cũng như chính sách kinh tế nới (NEP) là một minh chứng cho sự kiên định, đồng thời là sự sáng tạo của V.I.Lê-nin. Trên cơ sở đó, V.I.Lê-nin đã từng nhắc nhở “Chính vì chủ nghĩa Mác không phải là một giáo điều chết cứng, một học thuyết nào đó đã hoàn thành hẳn, có sẵn đâu vào đấy, bất di bất dịch, mà là một kim chỉ nam sinh động cho hành động”(9) và do đó, nếu quên điều này “thì chúng ta sẽ làm cho chủ nghĩa Mác trở thành phiến diện, quái dị, chết cứng, sẽ vứt bỏ linh hồn sống của nó, sẽ phá hủy cơ sở lý luận cơ bản của nó – tức là phép biện chứng, học thuyết về sự phát triển lịch sử toàn diện và đầy mâu thuẫn; như thế chúng ta sẽ phá hủy sự liên hệ giữa chủ nghĩa Mác với những nhiệm vụ thực tiễn nhất định của thời đại, những nhiệm vụ có thể biến đổi ở mỗi bước ngoặt mới của lịch sử”(10). Ông khẳng định: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống. Chúng tôi nghĩ rằng những người xã hội chủ nghĩa ở Nga đặc biệt cần phải tự mình phát triển hơn nữa lý luận của Mác, vì lý luận này chỉ đề ra những nguyên lý chỉ đạo chung, còn việc áp dụng những nguyên lý ấy thì, xét riêng từng nơi, ở Anh không giống ở Pháp, ở Pháp không giống ở Đức, ở Đức không giống ở Nga”(11). Theo ông, điều kiện đặc thù của mỗi quốc gia, dân tộc đòi hỏi phải áp dụng những nguyên tắc của chủ nghĩa cộng sản trên cơ sở “sao cho những nguyên tắc ấy được cải biến đúng đắn trong những vấn đề chi tiết, được làm cho phù hợp, cho thích hợp với những đặc điểm dân tộc và đặc điểm nhà nước ‐ dân tộc”(12)

Tiếp cận chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong quá trình đi tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực tiễn Việt Nam, đó là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước có xuất phát điểm là nước thuộc địa nửa phong kiến. Đó là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; là “cách mạng thuộc địa không chỉ trông chờ vào kết quả của cách mạng vô sản ở chính quốc, hơn nữa cần phải chủ động và có thể giành thắng lợi trước, và bằng thắng lợi của mình sẽ góp phần vào sự nghiệp cách mạng ở chính quốc”(13)...

Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, trong Tác phẩm, Tổng Bí thư đã chỉ rõ: “chủ nghĩa xã hội thường được hiểu với ba tư cách: Chủ nghĩa xã hội là một học thuyết; chủ nghĩa xã hội là một phong trào; chủ nghĩa xã hội là một chế độ. Mỗi tư cách ấy lại có nhiều biểu hiện khác nhau, tùy theo thế giới quan và trình độ phát triển ở mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể”(14). Như vậy, có thế thấy, việc xem xét chủ nghĩa xã hội với tư cách một chế độ cần phải đặt trong trình độ phát triển ở mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể, trong đó bao hàm việc xem xét chủ nghĩa xã hội với tư cách một chế độ. Với tư cách một chế độ, chủ nghĩa xã hội hiện thực đã được thực hiện ở nhiều quốc gia trên thế giới. Thành công có, mà thất bại cũng đã gặp phải. Điều đó cho thấy, trong thời gian tới, quá trình hiện thực hóa lý luận về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, một mặt, cần kiên định, giữ vững các nguyên tắc nền tảng; mặt khác, phải căn cứ vào tình hình thực tiễn cụ thể để xây dựng chủ nghĩa xã hội với những bước đi, lộ trình phù hợp.

Trong giai đoạn hiện nay, tiếp tục kiên định và sáng tạo trong xây dựng chủ nghĩa xã hội còn đòi hỏi chúng ta phải tránh căn bệnh “kiêu ngạo cộng sản”. Bởi bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta cũng phải đối mặt với không ít khó khăn, trở ngại. Đồng chí Tổng Bí thư đã chỉ rõ, về kinh tế, chất lượng tăng trưởng, sức cạnh tranh còn thấp, thiếu bền vững; công tác quản lý, điều tiết thị trường còn nhiều bất cập. Về văn hóa, xã hội, khoảng cách giàu nghèo gia tăng; chất lượng giáo dục, chăm sóc y tế và nhiều dịch vụ công ích khác còn không ít hạn chế; văn hóa, đạo đức xã hội có mặt xuống cấp; tội phạm và các tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp. Về chính trị, suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống và tình trạng tham nhũng, lãng phí vẫn diễn ra trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Trong khi đó, các thế lực xấu, thù địch luôn tìm mọi thủ đoạn để chống phá, gây mất ổn định, thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” nhằm xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam(15). Đồng chí Tổng Bí thư cũng nhấn mạnh rằng, trong thời kỳ quá độ, các nhân tố xã hội chủ nghĩa được hình thành, xác lập và phát triển đan xen, cạnh tranh với các nhân tố phi xã hội chủ nghĩa. Cùng với đó là tình hình thế giới biến động khôn lường, cả về vấn đề sinh thái, vấn đề quan hệ giữa các nước và tác động của công nghệ thông tin tới đời sống chính trị, kinh tế, xã hội tới mỗi quốc gia, mỗi tổ chức, cá nhân. Điều đó cho thấy, chúng ta cần tiếp tục kiên định và sáng tạo để chủ nghĩa xã hội ngày càng được hiện thực hóa ở Việt Nam.

Tại sao phải “kiên định” và “sáng tạo”, “kiên định” và “sáng tạo” có mối quan hệ với nhau như thế nào? Về vấn đề này, Tổng Bí thư đã chỉ rõ: “Kiên định phải gắn liền với sáng tạo và sáng tạo phải trên cơ sở kiên định phù hợp với thực tiễn, với yêu cầu đổi mới, hội nhập và phát triển đất nước”(16). Bởi nếu chỉ “kiên định” một cách máy móc thì dễ dẫn đến giáo điều, cứng nhắc, bảo thủ, nhưng nếu không kiên định, mà “đổi mới”, “sáng tạo” một cách vô nguyên tắc thì cũng rất dễ rơi vào chủ nghĩa xét lại, chệch hướng, “đổi màu”. Chúng ta cần kiên định trong nguyên tắc và linh hoạt trong sách lược. Nguyên tắc của chúng ta là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Sách lược của chúng ta là cơ động, linh hoạt điều chỉnh tuỳ theo từng vấn đề, từng thời điểm và tuỳ theo đối tượng hay đối tác, tuân thủ những tư tưởng lớn của Bác Hồ: “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”(17).

Kiên định và sáng tạo trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, như đồng chí Tổng Bí thư nhấn mạnh: “là phải kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đây là vấn đề mang tính nguyên tắc, có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta, là nền tảng vững chắc của Đảng ta, không cho phép ai được ngả nghiêng, dao động”(18)Theo nghĩa đó, cần nắm vững những nguyên lý nền tảng, bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, rằng đi lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan, phù hợp với quy luật vận động của lịch sử xã hội loài người. Con đường phát triển của nước Việt Nam là không chịu sự chi phối, sự hướng lái của bất cứ thế lực bên ngoài nào và chỉ có con đường của chủ nghĩa xã hội thì mới đem lại độc lập, tự do cho dân tộc, cho mỗi người dân. Trong Tác phẩm, đồng chí Tổng Bí thư dẫn lại lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập cho dân tộc, mới có thể đem lại cuộc sống tự do, ấm no và hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi người, cho các dân tộc”(19). Đồng thời, cần phải kiên định đường lối đổi mới, bởi chính đường lối đổi mới được thể hiện qua hơn 35 năm đổi mới đã minh chứng cho sự đúng đắn của đường lối này. Cần kiên định với nguyên tắc xây dựng Đảng, bởi “sự chặt chẽ về nguyên tắc là vấn đề sống còn của Đảng và bảo đảm quan trọng nhất cho sức sống, sự trong sạch và vững mạnh của Đảng”(20), đặc biệt là các nguyên tắc: tập trung dân chủ, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tự phê bình và phê bình, đoàn kết, gắn bó mật thiết với nhân dân, Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật… Các nguyên tắc này thống nhất và có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Coi nhẹ hoăc bỏ qua một nguyên tắc nào trong các nguyên tắc trên cũng làm cho Đảng suy yếu, mất vai trò lãnh đạo như sự sụp đổ vai trò lãnh đạo của một số Đảng Cộng sản ở Liên Xô và các nước Đông Âu thời kỳ những năm 90 của thế kỷ XX là một minh chứng.

Kiên định và sáng tạo trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cần tuân theo quy luật kế thừa và đổi mới trong phát triển. Chủ nghĩa xã hội được xây dựng ở Việt Nam không phải bắt đầu từ hư vô, mà có sự kế thừa những thành quả của hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, kế thừa những giá trị vật chất và tinh thần của cha ông, là tinh thần yêu nước, tinh thần đoàn kết, thương yêu, đùm bọc nhau, là ý chí vươn lên chống lại những hoàn cảnh khắc nghiệt. Đồng thời, chủ nghĩa xã hội được xây dựng ở Việt Nam còn kế thừa thành tựu phát triển của chủ nghĩa tư bản với tư cách là một nấc thang trong tiến trình phát triển của xã hội loài người. Song, đó không phải là sự kế thừa một cách nguyên xi, mà như đồng chí Tổng Bí thư nhắc nhở: “nói bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột tư bản chủ nghĩa; bỏ qua những thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa, chứ không phải bỏ qua cả những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản. Đương nhiên, việc kế thừa những thành tựu này phải có chọn lọc trên quan điểm khoa học, phát triển”(21). Đó còn là kế thừa truyền thống trung thành vô hạn với lợi ích của dân tộc và giai cấp, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh; giữ vững độc lập, tự chủ về đường lối; nắm vững, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tham khảo kinh nghiệm của quốc tế để đề ra đường lối đúng và tổ chức thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ cách mạng; gắn bó máu thịt giữa Đảng và nhân dân, luôn luôn lấy việc phục vụ nhân dân làm lẽ sống và mục tiêu phấn đấu; đoàn kết thống nhất, có tổ chức và kỷ luật chặt chẽ trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình, phê bình và tình thương yêu đồng chí; đoàn kết quốc tế thủy chung, trong sáng dựa trên những nguyên tắc và mục tiêu cao cả(22).

Với tư cách là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc, kiên định và sáng tạo trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đòi hỏi Đảng phải luôn nhận thức rõ “bản chất giai cấp của Đảng một cách sâu sắc, đầy đủ hơn”(23), chăm lo, phát triển giai cấp công nhân Việt Nam ngày càng lớn mạnh, bởi đây  “là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, hiện đại; giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”(24). Cùng với đó, cần chú trọng đến giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức và đội ngũ thanh niên với tư cách là chủ nhân tương lai của đất nước.

Kiên định và sáng tạo trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đòi hỏi phải đấu tranh phòng, chống tham ô, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Bởi đây là những tệ nạn ảnh hưởng xấu đến mục tiêu phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Nó cũng yêu cầu đấu tranh chống lại mọi biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; đấu tranh phòng, chống các quan điểm sai trái thù địch. Kiên định và sáng tạo trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam yêu cầu Đảng cần thường xuyên tự đổi mới, xây dựng và chỉnh đốn Đảng, xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức và tổ chức cán bộ. Tiếp tục nâng cao bản lĩnh, năng lực lãnh đạo, cầm quyền khoa học trong hoạch định và thực hiện đường lối, chính sách phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu hướng phát triển của thời đại. Kịp thời thể chế, cụ thể hóa, triển khai thực hiện đúng đắn, hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, khắc phục sự yếu kém trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện. Nâng cao lập trường, bản lĩnh chính trị, trình độ, trí tuệ, tính chiến đấu của cấp ủy, tổ chức đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp, cán bộ cấp chiến lược(25). Chỉ có như vậy, Đảng mới nâng mình lên, đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển đất nước, của sự vận động không ngừng của những nhân tố khách quan và chủ quan.

Kiên định và sáng tạo trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đòi hỏi Đảng tiếp tục tổng kết thực tiễn, hoàn thiện lý luận về đổi mới. Đổi mới là một sự nghiệp chưa có tiền lệ, Đảng phải vừa làm, vừa tổng kết kinh nghiệm để không ngừng bổ sung, phát triển lý luận. Vì vậy, công tác tổng kết thực tiễn có tầm quan trọng đặc biệt trong hoạt động nghiên cứu lý luận của Đảng. Nhiệm vụ tổng kết thực tiễn xuất phát từ bài học lớn mà Đại hội VI của Đảng (tháng 12-1986) đã đúc kết là Đảng phải hành động theo quy luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn mà xây dựng đường lối, phát triển lý luận. Các nhiệm kỳ đại hội của Đảng đều nhấn mạnh đến yêu cầu tổng kết thực tiễn để bổ sung, phát triển đường lối, chủ trương, chính sách. Tầm quan trọng đặc biệt của thực tiễn trong công tác lý luận của Đảng xuất phát từ chính vai trò của thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích và tiêu chuẩn của lý luận; từ đặc điểm của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là xây dựng một chế độ xã hội hoàn toàn mới, chưa có tiền lệ, phải vừa làm, vừa tổng kết kinh nghiệm để phát triển lý luận. Thực tiễn là cơ sở của lý luận, bởi mọi tri thức được hình thành dù gián tiếp hay trực tiếp, đều có nguồn gốc từ thực tiễn. Thực tiễn là động lực của lý luận, bởi hoạt động thực tiễn làm biến đổi thế giới, biến đổi bản thân con người, làm cho con người ngày càng hoàn thiện các năng lực của chính mình, trong đó có năng lực nhận thức. Thực tiễn luôn đề ra những nhu cầu, nhiệm vụ và phương hướng phát triển nhận thức, đòi hỏi phải có tri thức mới, nhất là những tri thức được khái quát thành lý luận để trở lại chỉ đạo thực tiễn. Thực tiễn là mục đích của lý luận, bởi lý luận không chỉ nhằm giải thích thế giới, mà quan trọng hơn - còn nhằm chỉ đạo thực tiễn, cải tạo thế giới.

Trong thời gian tới, nội dung hoàn thiện lý luận đổi mới rất rộng, bao gồm toàn bộ thể chế phát triển chế độ xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, cần chú ý đến một số nội dung cơ bản sau: trong lĩnh vực kinh tế, đó là tiếp tục hoàn thiện, phát triển lý luận về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế, về kinh tế tập thể, về các hình thức sở hữu, về quản lý vốn nhà nước, về kinh tế tuần hoàn, tăng trưởng xanh. Trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường, đó là xây dựng nền văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu thời kỳ mới; xây dựng hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị quốc gia và chuẩn mực con người Việt Nam; về biến đổi cơ cấu xã hội trong mối liên hệ với phân tầng xã hội, phân hóa giàu - nghèo gắn với sự phát triển, nâng cao năng lực của giai cấp công nhân, vị trí, vai trò của giai cấp nông dân; về ứng phó với biến đổi khí hậu. Trong lĩnh vực chính trị, đó là tiếp tục hoàn thiện lý luận, giải quyết mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ; bảo đảm tránh chồng chéo, nâng cao hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và vai trò, quyền làm chủ của nhân dân ngày càng được củng cố và phát triển. Đó còn là tiếp tục hoàn thiện lý luận về Đảng Cộng sản cầm quyền và cầm quyền khoa học. Trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại, đó là vấn đề chiến lược trong điều kiện đối tượng, đối tác và phương thức chiến tranh thay đổi; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân trong tình hình mới; bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới, chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo của đất nước; bảo vệ an ninh chính trị, an ninh văn hóa, an ninh mạng, xây dựng quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế trong bối cảnh mới.

Kiên định và sáng tạo trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là làm sao để chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối đổi mới của Đảng thấm sâu vào các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, đảng viên. Bởi, chỉ có hiểu biết, có nhận thức sâu sắc thì mới có thể thực hiện đúng, giữ vững nguyên tắc, không dao động, dân túy, “tả khuynh” hay “hữu khuynh”. Do đó, cần không ngừng tăng cường công tác giáo dục, bồi dưỡng lý luận chính trị cho các tầng lớp nhân dân, trước hết là đội ngũ cán bộ, lãnh đạo, quản lý, đảng viên; đẩy mạnh kiểm tra, giám sát việc thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng thành cơ chế, chính sách, nhằm tránh trục lợi, sai lệch quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng. Đồng thời, cần lấy tiến bộ xã hội, hiệu quả kinh tế - xã hội, sự ấm no, hạnh phúc của nhân dân, sự vững mạnh của đất nước, đoàn kết trong Đảng, đồng thuận trong xã hội làm mục tiêu để thực hiện./.

----------------