Thứ Năm, 19 tháng 9, 2024

Cách mạng Tháng Tám - chân lý sáng ngời xua tan các luận điệu đen tối

 

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công là bước ngoặt vĩ đại, đưa nước ta trở thành một nước độc lập, tự do, dân chủ, mở ra thời kỳ mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Đó là những giá trị bất diệt của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, mãi là chân lý sáng ngời đã và đang tỏa sáng, thôi thúc chúng ta tiếp tục vượt qua mọi khó khăn, thách thức trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội; đồng thời, đập tan mọi luận điệu của các thế lực thù địch, phản động.

Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang đẩy mạnh các hoạt động Kỷ niệm 79 năm Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - trang vàng chói lọi trong lịch sử dân tộc Việt Nam, sự kiện vĩ đại đã biến mơ ước ngàn đời của nhân dân ta về độc lập dân tộc và xây dựng đất nước phồn vinh, tự do, ấm no, hạnh phúc trở thành hiện thực. Nhưng cũng chính vào thời điểm này, trên một số trang mạng xã hội xuất hiện những luận điệu đen tối nhằm xuyên tạc, công kích lý tưởng và ý nghĩa cao cả của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Bất chấp sự thật, những luận điệu đó đã đổi trắng thay đen, coi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 chỉ là tự phát của quần chúng nhân dân; do đó không có gì khốc liệt, phức tạp, không có bom rơi, đạn nổ và không có đổ máu, nên đây là sự kiện hết sức bình thường, cần phải lãng quên! Có thể thấy những luận điệu đó không hề hồ đồ, mơ hồ, mà là một ý đồ đen tối, thâm độc, đổi trắng thay đen của các thế lực thù địch. Và, tất nhiên những luận điệu xảo trá đó không thể lừa dối được ai. Bởi, sự thật quá rõ ràng, nhân dân ta rất đỗi tự hào về thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và được bạn bè quốc tế thừa nhận, khâm phục ý chí quật cường của dân tộc Việt Nam.

Thực tế đã chứng minh chân lý sáng ngời: Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là sự kiện chính trị đặc biệt thể hiện sự quật khởi của quần chúng cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và việc thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) là kết quả tổng hợp của các phong trào cách mạng diễn ra liên tục trong suốt 15 năm sau ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930), từ cao trào Xô Viết - Nghệ Tĩnh, Cuộc vận động dân chủ năm 1936 - 1939, đến phong trào giải phóng dân tộc 1939 - 1945. Gần 80 năm đã qua càng cho thấy những yếu tố vững chắc để khẳng định Cách mạng Tháng Tám năm 1945 không chỉ là mốc son trong lịch sử hào hùng của dân tộc ta, mà còn là kỳ tích lịch sử ghi đậm dấu ấn vào phong trào cách mạng chung của thế kỷ XX; là sự kiện trời long đất lở chứ khống phải là “sự kiện bình thường” như sự xuyên tạc của các thế lực thù địch; đồng thời, là gương sáng khích lệ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc cho hàng loạt nước thuộc địa ở châu Á, châu Phi, Mỹ Latinh.

Sự kỳ diệu hiếm có của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 được làm sáng tỏ bởi một hệ thống các yếu tố sau:

Một làsự chuẩn xác đến kỳ lạ trong việc nhận định thời cuộc của Bộ Tư lệnh Cách mạng. Nhận định đánh giá đúng tình hình chí ít đã là một nửa của thắng lợi. Có thể nêu hai dẫn chứng cụ thể để thấy sự tuyệt vời trong nhận định và định hướng của Bác Hồ và Đảng ta. Thứ nhất, bước vào những năm 40 của thế kỷ XX, tình hình thế giới có những diễn biến hết sức nhanh chóng tác động mạnh đến nước ta. Cùng vào thời điểm này, lãnh tụ Hồ Chí Minh sau 30 năm bôn ba ở nước ngoài trở về Tổ quốc cùng với Trung ương Đảng trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Người đã triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ tám ở Pắc Bó (tháng 5 năm 1941). Hội nghị quan trọng này đã phân tích những diễn biến mới của tình hình thế giới, nhất là từ khi Pháp đầu hàng Đức, Nhật xâm lược Đông Dương và chỉ ra rằng: “Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”1Thứ hai, đêm 09/3/1945, Nhật nổ súng đánh Pháp và gần như ngay sau đó, ngày 12/3/1945, Thường vụ Trung ương Đảng họp tại Đình Bảng, Bắc Ninh đã ra ngay Chỉ thị: “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Chỉ thị là văn kiện quan trọng của Đảng thể hiện tầm nhìn chiến lược, xuyên suốt giai đoạn tiền khởi nghĩa, có nhận định chính xác tuyệt đối rằng: Pháp sẽ thất bại vì không có tinh thần chiến đấu; thiếu vũ khí tinh xảo; không thống nhất hành động với lực lượng chống Nhật ở Đông Dương. Quả nhiên sau đó Pháp đã thua và đầu hàng Nhật. Từ đó, Chỉ thị định hướng khẩu hiệu hành động là “Đánh đuổi phát xít Nhật” thay cho các khẩu hiệu “Đánh đuổi Nhật, Pháp”, chống lại chính quyền Nhật và chính phủ bù nhìn của bọn Việt gian thân Nhật. Chỉ thị nổi tiếng này thực sự là kim chỉ nam cho các chiến sĩ cộng sản, các thành viên Mặt trận Việt Minh vận dụng, định hướng đấu tranh sát với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của từng địa phương, Đó là sự thể hiện trí tuệ khoa học tuyệt vời của Đàng trong đánh giá chính xác tình hình, chứ không phải là sự ăn may như các thế lực thù địch tự rao giảng.

Hai là, sự tài tình trong việc nắm bắt và tận dụng thời cơ. Phải khẳng định rằng, thời cơ cho cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 là những điều kiện chín muồi để có thể phát động đấu tranh giành thắng lợi. Nó chỉ xuất hiện trong một khoảng thời gian rất ngắn, được ví như mũi tên bay hoặc nhanh hơn như một tia chớp. Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” đã khẳng định những cơ hội cho cuộc khởi nghĩa nhanh chín muồi, đó là: (1). Chính trị khủng hoảng (quân thù không rảnh tay đối phó với cách mạng); (2). Nạn đói ghê gớm (quần chúng oán ghét quân cướp nước); (3). Chiến tranh đến giai đoạn quyết liệt (Đồng minh sẽ đổ bộ vào Đông Dương đánh Nhật). Nắm bắt những cơ hội đó, Đảng ta chủ trương phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc Tổng khởi nghĩa. Đây là thời kỳ động viên quần chúng sôi nổi, mạnh mẽ, phát triển lực lượng chính trị sâu rộng ở cả nông thôn và thành thị, đồng bằng và rừng núi; kết hợp chặt chẽ các hình thức đấu tranh, đánh du kích, nổi dậy của quần chúng, phá kho thóc giải quyết nạn đói, diệt Nhật trừ gian, đẩy địch vào thế lúng túng, bị động và hoang mang tan rã. Do những nỗ lực chủ quan và yếu tố khách quan làm cho thời cơ đã chín muồi, Đảng ta phát Lệnh Tổng khởi nghĩa. Như vậy, chúng ta nổi dậy khi lực lượng đã được chuẩn bị và đang có khí thế, trong khi quân đội Nhật tuy vẫn còn nguyên vẹn nhưng ý chí bị tan rã; đồng thời, đội quân của phe Đồng minh chưa kịp vào nước ta để tước vũ khí của quân Nhật. Cuộc Tổng khởi nghĩa đã tập trung sức mạnh của nhân dân đập tan bộ máy thống trị của chính quyền trung ương địch ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn và các thành phố, tỉnh lỵ, làng xã, thôn ấp; chính quyền hoàn toàn về tay nhân dân. Cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thực sự là nghệ thuật tuyệt vời về việc chọn đúng thời cơ, tận dụng cơ hội giành thắng lợi.

Ba là, sự hoàn hảo của thắng lợi. Thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thật ngoạn mục, không thể trọn vẹn hơn. Trong thời gian ngắn, với khí thế cách mạng dâng trào như nước vỡ bờ, cuộc Tổng khởi nghĩa giải quyết bốn mục đích hết sức cơ bản và phức tạp là: chấm dứt chế độ phong kiến hàng nghìn năm; chấm dứt gần 100 năm đô hộ của thực dân Pháp, 05 năm chiếm đóng và khống chế của phát xít Nhật; thống nhất đất nước, đưa giang sơn thu về một mối; giành quyền tự do, dân chủ cho quần chúng lao động, dựng lên nhà nước Cộng hòa đầu tiên trong lịch sử Việt Nam và của Đông Nam Á. Do được chuẩn bị lực lượng chu đáo, lại phát động nổi dậy đúng lúc, phương thức hành động  hợp lý, mau lẹ và sát hợp với từng địa phương, với một sức mạnh áp đảo nên chúng ta đã giành được chính quyền mà hầu như không đổ máu. Cách mạng nổ ra như sấm sét, bão táp mà không bị tổn thất máu xương, thật là một sự kiện lịch sử hiếm có và là bài học quý. Không chỉ có thế, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 còn đóng góp cho phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới một cách thức chặt đứt xiềng xích của chủ nghĩa thực dân kiểu cũ, cổ vũ các dân tộc đứng lên tự giải phóng cho mình.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 càng trọn vẹn hơn khi nó chứng tỏ đó là cuộc cách mạng của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cuộc cách mạng đó đã tập hợp được sức mạnh của dân tộc và sức mạnh thời đại, đến khi thắng lợi lại hình thành nên sức mạnh mới để dân tộc Việt Nam tiếp tục đương đầu, chiến thắng bọn đế quốc xâm lược và các thế lực thù địch, tay sai. Ngày nay, công cuộc đổi mới, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng, tiếp tục phát huy tinh thần Cách mạng Tháng Tám năm 1945, giúp đất nước ta đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, v.v. Theo đó, từ một quốc gia kém phát triển, Việt Nam trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng. Bộ mặt đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi tích cực, tiến bộ. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị được đẩy mạnh. Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu; tiềm lực của đất nước, vị thế và uy tín quốc tế của Việt Nam không ngừng nâng cao,… điều đó đã được Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”2.

Chính vì thế, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là bước khởi đầu huy hoàng cho những giai đoạn tiếp theo của cách mạng Việt Nam, mãi là chân lý sáng ngời, in sâu vào ký ức của các thế hệ người Việt Nam hôm nay và mai sau. Chân lý sáng ngời đó sẽ góp phần xua tan những luận điệu đen tối, xuyên tạc, phủ nhận thành quả Cách mạng Tháng Tám năm 1945 của các thế lực thù địch, phản động.

                                                                                                       ST

TỪNG CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN TỰ TU DƯỠNG, RÈN LUYỆN ĐỂ NGĂN CHẶN “TỰ DIỄN BIẾN”, “TỰ CHUYỂN HÓA”

 Biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” diễn ra trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên hiện nay là rất đáng lo ngại, đó là điều kiện thuận lợi để các thế lực thù địch lợi dụng thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạt lật đổ ở nước ta. Để ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng trên phải tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp, với tinh thần quyết liệt, kịp thời ở các cấp, nhưng trước hết phải từ chính bản thân từng cán bộ, đảng viên.

Theo Nghị quyết Đại hội XII của Đảng “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên ở nước ta hiện nay là: "một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc..." Điều đó được biểu hiện trong từng cá nhân về các lĩnh vực sau:

Về Chính trị, tư tưởng: “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về chính trị, tư tưởng trong mỗi chúng ta bộc lộ quan điểm thiếu niềm tin, hoài nghi, thậm chí phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Là sự thể hiện thái độ bất mãn, buông xuôi ở cơ quan, đơn vị cũng như tại nơi cư trú; lợi dụng những chuyện tiêu cực trong đơn vị, trong xã hội để phê phán mang tính chủ quan, áp đặt về tình hình đất nước … Đặc biệt một số cán bộ, đảng viên đã về hưu công khai phê phán một cách cực đoan, bất mãn thiếu căn cứ về vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của chính phủ…

Về Kinh tế: Đó là tình trạng tham nhũng, tham ô, lãng phí về thời gian, vật chất, tiền bạc … diễn ra hàng ngày khi làm việc, công tác. Không biết trân trọng tiền bạc của đơn vị, của tập thể, chi tiêu vào những công việc không cần thiết hoặc phô trương, hình thức. Sử dụng tiền bạc của đơn vị, nhà nước để đầu tư vào những dự án quy hoạch treo, gây lãng phí. Việc kê khai tài sản của cán bộ, đảng viên không trung thực, không rõ ràng. Bên cạnh đó là tư tưởng, quan điểm phủ nhận kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa, đề cao tuyệt đối kinh tế tư nhân, ca ngợi tô hồng một chiều kinh tế tư bản chủ nghĩa…

Về Văn hóa - Xã hội: Đó là việc cán bộ, đảng viên chúng ta chạy chức, chạy quyền, chạy dự án, chạy bằng cấp…; lối sống xa hoa, thực dụng, phô trương; tư tưởng sùng bái, đề cao văn hóa, lối sống tư sản; nói xấu, xuyên tạc lịch sử; cục bộ, địa phương, kéo bè, kéo cánh… Những biểu hiện đó có thể tồn tại trong suy nghĩ của mỗi chúng ta, cũng có thể thể hiện bằng hành động qua viết tin bài đăng lên mạng, trả lời phỏng vấn …

Nhận thức rõ những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nêu trên đang diễn ra khá phức tạp và đang có chiều hướng ngày một gia tăng trong mỗi cán bộ, đảng viên. Chúng ta cần phải đẩy mạnh việc tự tu dưỡng rèn luyện nâng cao bản lĩnh, sức chiến đấu ngăn chặn “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, bởi lẽ:

Trong cuộc sống thường ngày, mỗi chúng ta phải giải quyết nhiều mối quan hệ xã hội, trong đó mối quan hệ giữa lợi ích của tập thể - lợi ích cá nhân là yếu tố cơ bản tác động chi phối đến tư tưởng, tình cảm, đạo đức lối sống. Do vậy nếu mỗi cá nhân chúng ta thiếu bản lĩnh chính trị, không tự giải quyết hài hòa mối quan hệ này sẽ dễ dàng bị lôi cuốn vào vòng xoáy của tham vọng quyền lực, vun vén lợi ích cá nhân, tham nhũng, lãng phí, bị kẻ xấu lợi dụng lôi kéo, mua chuộc làm phai nhạt mục tiêu lý tưởng cách mạng của Đảng.

Việc tự giác rèn luyện của mỗi cán bộ, đảng viên chúng ta được thể hiện ở tinh thần cầu thị tiến bộ; tinh thần ham học tập ở mọi lúc, mọi nơi; có ý thức kiên trì rèn luyện thói quen, phương pháp làm việc khoa học, nghiêm túc, cụ thể, tỷ mỷ từ việc nhỏ đến việc lớn, từ những hành vi đơn giản đến phức tạp, “việc thiện thì nhỏ mấy, khó mấy cũng nên làm, việc ác thì nhỏ mấy cũng tránh”. Biết tự đánh giá bản thân để lựa chọn con đường, biện pháp rèn luyện phù hợp; có thái độ nghiêm khắc trong tự phê bình, lắng nghe ý kiến nhận xét của quần chúng, cấp trên, cấp dưới và đồng cấp về bản thân mình. Tích cực chủ động phát huy ưu điểm, khắc phục sửa chữa sai lầm, khuyết điểm để không ngừng tự hoàn thiện bản thân…

Để mỗi cán bộ, đảng viên chúng ta luôn nêu cao ý thức tự giác tu dưỡng, rèn luyện, thì chúng ta cần phải coi trọng việc rèn luyện theo nghị quyết của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp; tự nhận thức rõ chức trách, nhiệm vụ, quyền lợi của mình trên từng cương vị công tác, phát huy tối đa năng lực của bản thân; lấy kết quả hoạt động thực tiễn làm tiêu chí cơ bản để đánh giá phẩm chất và năng lực của mình. Tự giác và chấp hành nghiêm quy định của Bộ Chính trị về những điều đảng viên không được làm; kịp thời phát hiện, biểu dương người tốt, việc tốt; tạo dư luận lên án và kịp thời xử lý nghiêm những biểu hiện sai phạm của cán bộ, đảng viên dù ở bất cứ cương vị công tác nào.

Phòng chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là việc làm cấp bách của từng cán bộ, đảng viên hiện nay. Ở đâu người cán bộ, đảng viên cũng phải là người tiêu biểu về đạo đức và thực hành đạo đức cách mạng để trở thành chỗ dựa và niềm tin cậy của nhân dân.

 

GIÁ TRỊ TO LỚN CỦA SỰ KIÊN ĐỊNH

 1. Trong sự nghiệp đổi mới đất nước vừa qua, trước bao diễn biến phức tạp của tình hình thế giới cũng như những khó khăn ở trong nước, “Đảng ta đã kiên định CN Mác - Lênin, TT Hồ Chí Minh, vận dụng và phát triển sáng tạo vào thực tiễn nước ta và đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử”.

Những nội dung mà chúng ta kiên định, vững vàng thực hiện rất phong phú, cụ thể, được xác định rõ ràng và triển khai thực hiện hiệu quả trên thực tế. Đó là: Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo CN Mác - Lênin, TT Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng và các nguyên tắc xây dựng Đảng. Sự kiên định còn được thể hiện ý chí, quyết tâm, hành động cụ thể trong kiên quyết, kiên trì bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Sự kiên định của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta cũng biểu hiện qua những lời nói, hành động, việc làm thiết thực nhằm thực hiện nghiêm Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

2. Cùng với khẳng định những ưu điểm, thành công, Đảng ta cũng thẳng thắn chỉ ra những hạn chế, khuyết điểm cần sửa chữa, khắc phục trong vấn đề này. Ví dụ, Đảng chỉ ra tình trạng một số CB, ĐV còn có những nhận thức sai lệch, chưa đúng về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận và học tập lý luận chính trị; còn biểu hiện lười học tập CN Mác - Lênin, TT Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng cũng như chính sách, pháp luật của Nhà nước. Cùng với đó, Đảng đã kịp thời, kiên quyết đưa ra các chủ trương, giải pháp để sửa chữa, khắc phục những hạn chế, khuyết điểm. Điển hình như trong kiên định tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng và cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu rõ: Chúng ta có cơ sở vững chắc để khẳng định, muốn xây dựng, chỉnh đốn Đảng có hiệu quả, ngăn ngừa được những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng, thì “phải thực sự thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người”.

3. Đảng ta thường xuyên cảnh báo rằng: “Các thế lực thù địch vẫn đang tìm mọi cách phá hoại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta; chúng ra sức xuyên tạc, vu cáo Đảng ta, Nhà nước ta, đánh thẳng vào hệ tư tưởng, Cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng, kích động, chia rẽ nội bộ Đảng, chia rẽ Đảng, Nhà nước với nhân dân hòng làm tan rã Đảng ta, chế độ ta từ gốc, từ bên trong, hết sức thâm độc và nguy hiểm”.

Vì vậy, phòng, chống các quan điểm sai trái, thù địch của thế lực thù địch, thế lực xấu là một trong những nhiệm vụ quan trọng, cấp bách mà Đảng Cộng sản Việt Nam thường xuyên chỉ rõ và nhắc nhở phải kiên quyết, kiên trì thực hiện. Ngày 22-10-2018, Bộ Chính trị khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 35-NQ/TW về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới. Nghị quyết đã nhanh chóng đi vào cuộc sống, huy động được sức mạnh của cả cộng đồng, mang lại những kết quả thiết thực.

4. Trong giai đoạn cách mạng mới, Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam tiếp tục kiên định với CN Mác - Lênin, TT Hồ Chí Minh, kiên định với đường lối, chủ trương, của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đã được đề ra và đang tổ chức thực hiện.

Vừa qua, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đã thể hiện rất rõ ràng, cụ thể vấn đề trên. Đồng chí yêu cầu phải tiếp tục quán triệt sâu sắc quan điểm chỉ đạo của đồng chí cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, kết hợp chặt chẽ, khoa học giữa nền tảng tư tưởng, mục tiêu lý tưởng, đường lối của Đảng với tinh thần không ngừng đổi mới, sáng tạo, tuân theo quy luật khách quan. Đồng chí phân tích rất sâu sắc mối quan hệ giữa kiên định với đổi mới: kiên định đi đôi với đổi mới, kiên định một cách sáng tạo, kiên định theo phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh. Đồng chí nhấn mạnh: “Đổi mới phải có nguyên tắc, không tùy tiện, nóng vội, vừa thận trọng, kỹ lưỡng, song không quá cầu toàn, làm mất thời cơ”.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm còn nêu rõ quyết tâm: “Trên cương vị Tổng Bí thư, tôi sẽ cùng tập thể BCH Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư kế thừa, phát huy truyền thống vẻ vang và kinh nghiệm quý báu của Đảng ta; phát huy cao nhất tinh thần “tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc”; tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng, đại đoàn kết toàn dân tộc, ý Đảng và lòng dân”. Tất cả để nỗ lực phấn đấu nhằm thực hiện thắng lợi mọi chủ trương, đường lối của Đảng mà trọng tâm, trước hết là Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII; “tận tâm, tận lực, tận hiến, phấn đấu hy sinh” vì sự nghiệp của Đảng quang vinh, đất nước giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh và nhân dân Việt Nam có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tin tưởng, kỳ vọng, quyết tâm đoàn kết nhất trí vững bước dưới cờ Đảng Cộng sản Việt Nam đưa đất nước đến tương lai tươi sáng, ngày càng giàu mạnh, hùng cường./.

Bộ đội Cụ Hồ - một di sản văn hóa xứng đáng được tôn vinh trong thời đại ngày nay

 

Lãnh tụ Hồ Chí Minh mang tinh thần phụng sự đất nước và nhân dân vô điều kiện thì đội quân do Người sáng lập và rèn luyện ắt hẳn phải mang những phẩm chất ấy. Một phần của những nét đẹp Bộ đội Cụ Hồ đã trở thành di sản tinh thần của dân tộc, đồng thời nó vẫn được tiếp tục bổ sung trong thời đại ngày nay. Ít có những phẩm chất nào lại mang tính trao truyền, tiếp nối lâu dài trong đời sống như vậy.

1. Danh xưng, danh hiệu Bộ đội Cụ Hồ nói lên một sự thật về người lính cách mạng, người chiến sĩ từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, trung thành vô hạn với Tổ quốc và nhân dân, anh dũng tuyệt vời trong chiến đấu và gương mẫu, sống đẹp cả khi đã rời quân ngũ trở về đời thường. Hàng triệu người đã là lính, vị trí của họ cũng rất khác nhau nhưng đều có chung một danh xưng và hầu như tất cả họ (người nhập ngũ đầu tiên đến nay đã ngoài trăm tuổi và người mới nhập ngũ đầu năm nay mới chỉ mười tám tuổi) đều yêu thích, tự hào với tên gọi này. Họ coi đó như một danh hiệu cao quý mà họ cần phấn đấu, bảo vệ, giữ gìn trong đời sống không chỉ của họ, cho họ mà cho truyền thống Quân đội và cho xã hội.

Suốt 80 năm qua, danh hiệu ấy đã đi vào đời sống của đất nước trên tất cả lĩnh vực, đặc biệt trong lĩnh vực tinh thần, trở thành niềm cảm hứng cho biết bao nghệ sĩ thuộc đủ loại hình nghệ thuật. Câu nói cửa miệng “Xứng danh Bộ đội Cụ Hồ” mang biểu tượng cho những gì đẹp nhất của phẩm chất người lính không chỉ trong cuộc chiến đấu giành độc lập dân tộc, bảo vệ Tổ quốc mà còn cả trong cuộc sống đời thường.

2. Là giá trị văn hóa, danh xưng, danh hiệu Bộ đội Cụ Hồ hình thành trong đời sống dân tộc như một quá trình. Dù không có một sự xác định mang tính ràng buộc nào nhưng phẩm chất của Bộ đội Cụ Hồ được mặc định thừa nhận như những phẩm chất ưu tú của người lính được hình thành, tích tụ thành một giá trị rồi tác động tích cực đến môi trường xung quanh. Đó là một quá trình rèn luyện, phấn đấu gian khổ, triệu người như một đến khi kết tinh, hội tụ và lan tỏa như một giá trị tinh thần mẫu mực của phẩm chất người lính.

Sự sàng lọc của thời gian, những thử thách khốc liệt qua mấy cuộc chiến tranh mới định hình nên một tên gọi như vậy. Có thể nói, trong thời gian 9 năm chống thực dân Pháp và những năm tháng chiến đấu bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, những năm tháng chiến đấu bảo vệ biên giới ở hai đầu đất nước và làm nghĩa vụ quốc tế, hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ đã trở nên thân thuộc, gần gũi mà lừng lững như tượng đài của một dân tộc, gắn với những hy sinh phi thường, lòng quả cảm vô song, thể hiện lòng yêu nước nồng nàn và tinh thần quên mình vì đất nước, vì nhân dân. Đội quân từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, hết lòng hết sức bảo vệ nhân dân với tinh thần “Trung với nước, trung với Đảng, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng” là cội nguồn sức mạnh của đội quân ấy.

Từ thuở thành lập đầu tiên với 34 chiến sĩ, tinh thần ấy đã được xác lập trong 10 lời thề danh dự mà lời thề đầu tiên là: Hy sinh tất cả vì Tổ quốc Việt Nam..., làm cho nước Việt Nam trở nên một nước độc lập, dân chủ, ngang hàng với các nước dân chủ trên thế giới. Và điều thứ 9: Khi tiếp xúc với dân chúng, sẽ làm đúng 3 điều nên: Kính trọng dân, cứu giúp dân, bảo vệ dân và 3 điều răn: Không dọa nạt dân, không lấy của dân, không quấy nhiễu dân... thực hiện quân dân nhất trí. 10 lời thề danh dự sau này tuy có điều chỉnh đôi chút về ngôn từ và cho phù hợp với thực tiễn cách mạng nhưng những điều cốt lõi không thay đổi, hai điều trích trên gần như vẫn giữ nguyên vẹn, trở thành 10 lời thề danh dự của người chiến sĩ khi đứng trong hàng ngũ Quân đội nhân dân Việt Nam.

Điều muốn nói ở đây là, ngay từ lúc Quân đội mới thành lập, tư tưởng giải phóng nhân dân, bảo vệ nhân dân, trung thành với Tổ quốc và gắn bó máu thịt với nhân nhân đã trở thành cốt lõi cho những lời thề danh dự và trở thành tư tưởng xuyên suốt của nghĩa vụ và danh dự người lính, là nguồn gốc của những chiến công và là căn cứ để đánh giá phẩm chất người lính “trung thành vô hạn, anh dũng tuyệt vời”.

Khi đội quân non trẻ ấy mới được hai tuổi quân thì cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Tinh thần “Các em quyết tử để Tổ quốc quyết sinh” đã được những người lính của Trung đoàn Thủ đô và tự vệ thành Hà Nội thể hiện đặc biệt sáng ngời trong những cuộc chiến đấu không cân sức với xe tăng, đại bác của đội quân thiện chiến Pháp ở khắp các ngõ phố Hà Nội. Những trận đánh đẫm máu ở Nhà đèn, đồn Công an Hàng Trống, chợ Đồng Xuân, Phủ Chủ tịch, ô Chợ Dừa, ô Cầu Dền,... trong những ngày đầu kháng chiến đã viết nên những chương đầu của khúc ca bi hùng của người lính Cụ Hồ. Mà không chỉ có ở Hà Nội, trên tất cả các chiến trường Hải Phòng, Huế, Nha Trang, Sài Gòn..., nơi nào quân xâm lược đặt chân đến đều gặp phải sự kháng cự quyết liệt và anh dũng vô song của những người lính trang bị vô cùng thô sơ nhưng tinh thần chiến đấu thì không có bút mực nào tả được.

Tinh thần "Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh" trở thành hành động của lớp lớp người ra trận những ngày đầu đứng trong đội quân vì nhân dân mà chiến đấu. “Lột sắt đường tàu, rèn thêm dao kiếm, áo vải chân không đi lùng giặc đánh” là họ. “Đời chúng ta đâu có giặc là ta cứ đi” không chỉ còn là lời của một bài ca mà là một thực tế và bàn chân người lính “đi đến cùng trời, đi tới cuối đất”, chiến đấu cho đến khi “không còn một tên xâm lược trên đất nước ta” thì những người lính lại trở về bắt tay vào cuộc xây dựng đất nước. Cái “dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ” của người lính Cụ Hồ trở thành hình ảnh đẹp nhất trong văn học nghệ thuật là vì vậy.

Bộ đội Cụ Hồ là những người lính cụ thể nhưng danh xưng này trở thành một biểu tượng cho những phẩm chất tốt đẹp của một đội quân vì trong cuộc sống và công tác, họ đã thể hiện những phẩm chất ấy như hành động tự nhiên, vốn có vì ở họ ý thức tự giác vì nước, vì dân đã thấm vào cả nhận thức, tình cảm, niềm tin, lý tưởng của họ. Dũng cảm chiến đấu, hy sinh quên mình trong các cuộc chiến đấu chống ngoại xâm, nhưng trong thời bình, trong cuộc sống đời thường họ cũng luôn thể hiện những phẩm chất ấy ở những cảnh huống khác nhau. Chính vì điều ấy mà cụ chiến sĩ, ông chiến sĩ, bác chiến sĩ hay anh chiến sĩ đều trở nên gần gũi và được nhân dân yêu mến hết lòng. Bộ đội Cụ Hồ là người cụ thể nhưng danh xưng, danh hiệu này lại nhằm chỉ những phẩm chất đặc biệt về một hình ảnh đặc biệt, mang ý nghĩa biểu tượng của người chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam.

3. Như đã nói ở trên, một nét đẹp văn hóa được hình thành trong đời sống và trở thành giá trị khi nó tỏa sáng, có ý nghĩa kêu gọi người ta hướng đến học tập, phát huy và làm phong phú thêm đời sống tinh thần và trở thành sức mạnh nội sinh cho cá nhân và cộng đồng. Một cách ứng xử đẹp, một hành vi đẹp, một phẩm chất đẹp... rất đáng quý trong đời sống. Nét đẹp của Bộ đội Cụ Hồ mang ý nghĩa rộng hơn nhiều. Nó trở thành một khái niệm có tính hệ thống về hàng loạt phẩm chất tốt đẹp mang giá trị tinh thần của một giai đoạn lịch sử của con người. Điều đặc biệt là không chỉ nói về một giai đoạn đặc biệt trong lịch sử-thời kỳ chiến tranh, mà cả trong thời bình, trong các quan hệ đời thường, người lính Cụ Hồ vẫn luôn tỏa sáng những phẩm chất ấy.

Ở trong khái niệm này, bộc lộ nhiều giá trị trong nhiều quan hệ: Nghĩa vụ, nghề nghiệp, công việc, tình cảm, quan hệ với đồng đội, nhân dân, quan hệ quốc tế, trong những ứng xử riêng tư... Mới đây, khi những người dân châu Phi - nơi các chiến sĩ mũ nồi xanh Việt Nam làm nhiệm vụ quốc tế - hô vang “Hồ Chí Minh, Việt Nam, bộ đội Việt Nam” bằng tiếng Việt để thể hiện lòng biết ơn vì tinh thần tận tụy và quên mình của bộ đội Việt Nam dành cho họ. Và người lính Việt Nam nói về điều này thật giản dị: Chúng tôi là người lính trong Quân đội nhân dân Việt Nam đi ra nước ngoài làm nhiệm vụ quốc tế. Chúng tôi tâm niệm phải xứng đáng với danh hiệu Bộ đội Cụ Hồ. Điều này phần nào nói lên một sự thực giản dị nhưng không phải người lính của quân đội nào cũng làm được: Bộ đội Cụ Hồ trong bất cứ hoàn cảnh nào vẫn xứng đáng là một nhân cách văn hóa luôn lấy phụng sự Tổ quốc và nhân dân làm kim chỉ nam cho hành động của mình.

Lãnh tụ Hồ Chí Minh mang tinh thần phụng sự đất nước và nhân dân vô điều kiện thì đội quân do Người sáng lập và rèn luyện ắt hẳn phải mang những phẩm chất ấy. Một phần của những nét đẹp ấy đã trở thành di sản tinh thần của dân tộc, đồng thời nó vẫn được tiếp tục bổ sung trong thời đại ngày nay. Ít có những phẩm chất nào lại mang tính trao truyền, tiếp nối lâu dài trong đời sống như vậy.

Không phải ngẫu nhiên mà trên hầu hết tượng đài gắn với chủ đề chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc ở ta đều có hình ảnh người chiến sĩ và đại diện các tầng lớp nhân dân. Trong thực tế, hình ảnh này phản ánh sự gắn bó máu thịt giữa quân dân nhưng đồng thời nó cũng mang ý nghĩa biểu tượng: Bộ đội Cụ Hồ là bộ đội của nhân dân, con em nhân dân, suốt đời họ chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và nhân dân, được nhân dân yêu mến, tin cậy. Đến thời điểm này, danh xưng, danh hiệu Bộ đội Cụ Hồ thực sự là một khái niệm có nội dung cụ thể, là một di sản văn hóa xứng đáng được tôn vinh trong thời đại ngày nay.

                                                                                                         ST

ĐA NGUYÊN CHÍNH TRỊ KHÔNG BAO GIỜ LÀ LỰA CHỌN CỦA VIỆT NAM

 Kêu gọi Việt Nam đi theo con đường đa nguyên, đa đảng là luận điệu quen thuộc của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị. Những luận điệu này thường mượn danh, núp bóng dưới những lời lẽ hoa mĩ, mị dân, đánh tráo khái niệm dẫn đến những nhận thức sai lầm ở một bộ phận quần chúng nhân dân. Tuy nhiên, cần nhận rõ bản chất, đa nguyên, đa đảng không bao giờ là sự lựa chọn lý tưởng. Con đường này đã và đang gây tổn hại cho nhân dân tiến bộ ở các quốc gia trên thế giới. Thực tiễn ở Mỹ cho thấy, đa nguyên, đa đảng đã ngăn cản những lực lượng tiến bộ trong quốc hội Mỹ; dẫn đến những luật lệ bảo vệ các tập đoàn kinh tế, củng cố quyền lực người giàu luôn được thông qua dễ dàng không có phiếu chống; trong khi những luật bảo vệ người dân khỏi những tác động tiêu cực của các tập đoàn kinh tế thường bị bác bỏ. Người dân không thực sự được hưởng đầy đủ các quyền tự do, dân chủ như những gì mà các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị vẫn rêu rao.

Ở nước ta, sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định bảo đảm sự ổn định và phát triển, tiến tới một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Mọi người dân đều có thể trực tiếp hay gián tiếp (thông qua người đại diện của mình) đề đạt nguyện vọng và đóng góp ý kiến cho các cơ quan công quyền. Các kênh bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân ngày càng được mở rộng và hoạt động có hiệu quả. “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” trở thành quy chế, thiết chế dân chủ trong các tổ chức chính trị – xã hội, các hoạt động của xã hội; phương châm hành động của người dân trong xây dựng hệ thống chính trị; là yêu cầu ứng xử của cán bộ trong tiếp xúc, quan hệ với dân và chăm lo đến dân. Nhân dân Việt Nam là chủ thể mọi quyền lực; quyền lợi và nghĩa vụ, quyền hạn và trách nhiệm, cống hiến và hưởng thụ luôn gắn bó chặt chẽ với nhau.

Vấn đề đặt ra đối với chúng ta hiện nay không phải là lựa chọn một đảng hay đa đảng, mà tiếp tục thực hiện tốt hơn nữa quyền lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với xã hội. Cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân cần thống nhất nhận thức, hành động, thể hiện rõ vai trò, trách nhiệm góp phần xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức; luôn đoàn kết nhất trí cao, gắn bó mật thiết với nhân dân, có phương thức lãnh đạo khoa học, có đội ngũ cán bộ đảng viên đủ phẩm chất và năng lực ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng thời kỳ mới. Đồng thời, nêu cao cảnh giác cách mạng, kiên quyết đấu tranh làm thất bại những âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng nước ta của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị, phản động.

MỤC ĐÍCH CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH LÀ XUYÊN TẠC VỀ NHÂN QUYỀN Ở VIỆT NAM, KÊU GỌI THÚC ĐẨY “XÃ HỘI DÂN SỰ”

 Do tính chất nhạy cảm về chính trị – xã hội, một số tổ chức đã trượt khỏi bản chất, hình ảnh tích cực của xã hội dân sự đích thực, trở thành công cụ để các thế lực thù địch lợi dụng chống phá chế độ. Các tổ chức núp bóng “xã hội dân sự” thường trá hình dưới danh nghĩa bảo vệ “dân chủ”, “nhân quyền”, nhằm hướng lái vào phê phán vai trò lãnh đạo của Đảng, họ cho rằng: chế độ độc đảng là “độc tài toàn trị”, là nguyên nhân dẫn đến tham nhũng, sai lầm, v.v. Các thế lực thù địch còn tìm cách thao túng, lôi kéo, chi phối tổ chức “xã hội dân sự” cho mục tiêu của mình. Nhìn chung, các hoạt động chống phá dựa trên công cụ là tổ chức “xã hội dân sự” trá hình mà họ thường sử dụng, tập trung vào các thủ đoạn chủ yếu sau: đề cao vai trò “phản biện xã hội” của các tổ chức giả danh “xã hội dân sự”, hướng lái hoạt động của các tổ chức này dần đối lập về tư tưởng chính trị với Nhà nước ta; thúc đẩy xu hướng thoát ly sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, các cơ quan chức năng và chính quyền các cấp; lợi dụng chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” để hướng lái các tổ chức “xã hội dân sự” vào các hoạt động trái với tôn chỉ, mục đích, vi phạm pháp luật; gia tăng các hoạt động móc nối, liên kết, hậu thuẫn cho những người “bất đồng chính kiến” trong nước hoạt động theo khuynh hướng “độc lập”, hình thành “xã hội dân sự” trái pháp luật, chống Nhà nước, tạo tiền đề cho sự ra đời của các tổ chức chính trị đối lập, thiết lập chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập nhằm tiến tới mục tiêu thay đổi chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Cùng với đó, họ mượn cớ “phản biện xã hội”, “kiểm soát quyền lực”, nhân danh “dân chủ”, “nhân quyền” để mị dân bằng các hoạt động xây dựng quan hệ thương mại và phát triển… gây phương hại đến an ninh quốc gia.

Với chiêu bài cổ súy, bảo vệ cho những hành vi xem thường luật pháp, gây rối trật tự xã hội, xâm phạm an ninh quốc gia, chống phá chế độ, các đối tượng chống đối trong nước móc ngoặc với các thế lực thù địch bên ngoài tìm mọi cơ hội để lan truyền những thông tin ngụy tạo, sai sự thật hòng đánh lừa dư luận về những sai lầm khuyết điểm của các tổ chức cá nhân, lên án “sự yếu kém của chế độ”, xuyên tạc chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Mục đích mà các đối tượng hướng đến là nhằm gây mất ổn định tình hình an ninh, trật tự; hạ thấp uy tín, vị thế của Việt Nam; kích động chia rẽ làm mất niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước phục vụ cho chiến lược “diễn biến hòa bình” và đích cuối cùng là nhằm chuyển hóa chế độ xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam.

 

ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI – CON ĐƯỜNG DUY NHẤT CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM

 Cách đây gần 80 năm, ngày 02 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt quốc dân đồng bào tuyên bố trước thế giới về một nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa độc lập, một dân tộc Việt Nam tự do. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta luôn kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhờ đó dân tộc ta đã đập tan âm mưu, hành động thôn tính, chia cắt đất nước ta của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ; tiến hành thành công sự nghiệp đổi mới. Những thành quả to lớn có ý nghĩa lịch sử trong sự nghiệp đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là minh chứng khẳng định độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là con đường duy nhất đúng mà Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Nhân dân ta đã lựa chọn. Đồng thời khẳng định sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

 

VÀI NÉT ĐÁNG TỰ HÀO VỀ TINH THẦN ĐOÀN KẾT CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM

 Từ xưa đến nay, tinh thần đại đoàn kết, cố kết cộng đồng của người Việt Nam luôn là một truyền thống quý báu; một nét đặc trưng riêng có.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến vấn đề đoàn kết toàn dân tộc. Trong hệ thống tư tưởng của Người, đại đoàn kết toàn dân tộc là một nội dung cốt lõi, làm nên dấu ấn quan trọng của Người trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, được Đảng Cộng sản Việt Nam kế thừa, vận dụng thành công trong quá trình lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc, tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Tư tưởng của Người về đại đoàn kết toàn dân tộc thể hiện rõ quan điểm, lập trường, thế giới quan, nhân sinh quan và phương pháp luận khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, được cụ thể hóa thành những luận điểm, nguyên tắc, phương pháp tập hợp, quy tụ và phát huy sức mạnh của các tầng lớp nhân dân, tổ chức lực lượng cách mạng, đoàn kết quốc tế nhằm phát huy cao nhất sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Người chỉ rõ, sức mạnh lớn nhất là ở nhân dân, “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”, đoàn kết được nhân dân sẽ tạo ra sức mạnh to lớn nhất. Người khẳng định: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác. Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ”. Người căn dặn: Đại đoàn kết dân tộc không chỉ là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng mà còn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc. “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/ Thành công, thành công, đại thành công”.

Kế thừa và phát triển tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tập hợp, đoàn kết và phát huy sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc, kiên trì và nhất quán quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò quyết định của quần chúng nhân dân trong lịch sử, khẳng định quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra chế độ xã hội mới, là chủ nhân của sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Đánh giá những thành tựu đạt được, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII khẳng định: “Nhìn lại 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hoá. Đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Đây là niềm tự hào, là động lực, nguồn lực quan trọng, là niềm tin để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới toàn diện, đồng bộ; phát triển nhanh và bền vững đất nước”.

Những thành tựu này đã tiếp tục khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam; Cương lĩnh của Đảng tiếp tục là ngọn cờ tư tưởng, ngọn cờ chiến đấu, ngọn cờ quy tụ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc phấn đấu vì một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Không chỉ trong thời chiến mà khi đất nước hòa bình, truyền thống đoàn kết cũng được toàn Đảng, toàn dân gìn giữ, phát huy. Điều đó thể hiện trong những chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng, Nhà nước, trong sự đồng thuận của các tầng lớp nhân dân. Từ một đất nước nghèo nàn, lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá nặng nề, đến nay, Việt Nam đã ra khỏi danh sách những nước kém phát triển, từng bước vươn lên, dần khẳng định vị thế trên trường quốc tế. Tinh thần đoàn kết không chỉ thể hiện trong những chính sách nhân văn, kịp thời của cấp ủy, chính quyền mà còn thể hiện rõ nét trên từng lĩnh vực của đời sống xã hội, trong mỗi cộng đồng dân cư. Đó là câu chuyện người dân góp tiền để cậu học trò nghèo đi học đại học; là những tổ nhóm phụ nữ, thanh niên, cựu chiến binh phụ giúp những gia đình người khuyết tật, già cả, neo đơn gặt lúa chạy bão; là tình quân dân ấm nồng khi các anh bộ đội về làng, xắn tay áo cùng bà con dọn dẹp, khắc phục hậu quả sau cơn lũ...

Lời dạy của Bác Hồ “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công” vẫn luôn được toàn Đảng, toàn dân ta khắc ghi và phát huy giá trị trong đời sống, công cuộc xây dựng, phát triển quê hương. Đoàn kết chính là cội nguồn sức mạnh để Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân ta tiếp tục vượt qua mọi khó khăn, quyết tâm đưa đất nước phát triển.

 

NHỮNG MINH CHỨNG SỐNG ĐỘNG PHẢN BÁC LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC VỀ LĨNH VỰC XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG Ở NƯỚC TA

 Tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị số 16-CT/TW của Ban Bí thư khóa XI về công tác đưa người lao động và chuyên gia Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài, chúng ta đã đạt những kết quả vô cùng quan trọng. Việc đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài đã góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập, xóa đói, giảm nghèo, xây dựng quê hương, đất nước cũng như quảng bá hình ảnh và những giá trị tốt đẹp của đất nước, văn hóa, con người Việt Nam đến cộng đồng quốc tế. Nối tiếp những kết quả tích cực đã đạt được và khắc phục hạn chế, khó khăn, vướng mắc phát sinh, ngày 12/12/2022, Ban Bí thư ban hành Chỉ thị số 20-CT/TW “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài trong tình hình mới”. Việc đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài phải gắn với định hướng, chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội cũng như quan hệ đối ngoại của đất nước. Và trên hết, bảo đảm lợi ích hợp pháp của người lao động luôn là ưu tiên hàng đầu.

Kết quả khảo sát gần đây cho thấy, bình quân thu nhập hàng tháng (kể cả làm thêm ngoài giờ) của lao động người Việt Nam làm việc tại nước ngoài là 400 - 600 USD (9,5 - 14,3 triệu đồng) ở thị trường Trung Đông; 700 - 800 USD (16,6 - 19 triệu đồng) ở thị trường Đài Loan… Song với lao động có tay nghề, mức thu nhập có thể đạt đến 27,5 - 34 triệu đồng/tháng (làm việc tại Đức) hoặc 52,8 - 66 triệu đồng/tháng (làm việc tại Australia). Bên cạnh đó, những hiệu ứng tích cực từ hoạt động xuất khẩu lao động còn tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước. Thông tin từ Cục Quản lý lao động ngoài nước (Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội), tính đến cuối năm 2023, lực lượng lao động Việt Nam đã có mặt tại hơn 40 quốc gia trong hơn 30 lĩnh vực, ngành nghề; bình quân mỗi năm Việt Nam đã đưa hơn 100.000 người đi làm việc ngoài nước. Lượng kiều hối do người lao động ở nước ngoài gửi về trong nước hàng năm vào khoảng hơn 3 tỷ USD.

Những dẫn chứng sinh động nêu trên khẳng định xuất khẩu lao động không phải là “tha phương cầu thực” như luận điệu mà các đối tượng thường rêu rao. Bên cạnh thu nhập cao, người lao động còn có cơ hội học tập, nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến và tác phong làm việc chuyên nghiệp. Sau khi hết thời gian lao động ở nước ngoài, những người lao động có tay nghề trở về nước sẽ trở thành nguồn cung quan trọng đối với doanh nghiệp nói riêng và cả nền kinh tế nói chung. Họ không chỉ có tay nghề mà còn có kinh nghiệm, trình độ ngoại ngữ, ý thức kỷ luật do được lao động thời gian dài trong môi trường chuyên nghiệp tại nước ngoài. Đây là nguồn lực để doanh nghiệp đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, xây dựng môi trường lao động kỷ luật, hiệu quả.

Những thành quả, lợi ích thiết thực nêu trên đã khẳng định chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng, Nhà nước về việc đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài, là minh chứng chân thực bác bỏ những luận điệu sai trái, xuyên tạc về chủ trương đưa người lao động Việt Nam ra nước ngoài làm việc của số đối tượng chống đối chính trị. Chủ trương đưa người Việt Nam đi lao động ở nước ngoài sẽ luôn là mục tiêu quan trọng trong chiến lược phát triển đất nước, các đối tượng sẽ tiếp tục tìm cách tuyên truyền, xuyên tạc, gây chiến tranh tâm lý hòng phá hoại chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước ta. Chính vì vậy, việc nâng cao chất lượng hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng theo tinh thần chỉ đạo trong Chỉ thị số 20-CT/TW của Ban Bí thư “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài trong tình hình mới” sẽ đóng vai trò quan trọng đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực xuất khẩu lao động.

 

ĐỊNH HƯỚNG TƯ TƯỞNG BỘ ĐỘI TRONG ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG

Hiện nay, các thế lực thù địch tăng cường đăng tải, tán phát, chia sẻ các thông tin sai trái hòng tác động trực tiếp tới nhận thức, tư tưởng, tình cảm, niềm tin của cán bộ, chiến sĩ Quân đội, hòng thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, tiến tới “phi chính trị hóa” Quân đội. Bởi vậy, làm cho mỗi quân nhân hiểu được ý thức, trách nhiệm, vững vàng trước những thông tin xấu độc khi tham gia mạng xã hội là vấn đề cấp thiết hiện nay.

Nhận thức rõ tác động tiêu cực của những thông tin, quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng đối với công tác tư tưởng trong Quân đội, cấp ủy, chỉ huy các cấp đã chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiều chủ trương, biện pháp đấu tranh phòng, chống. Trong đó, tăng cường nắm bắt, định hướng tư tưởng cán bộ, chiến sĩ là một giải pháp quan trọng trong đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị. Quán triệt, thực hiện nghiêm sự chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và Tổng cục Chính trị về đấu tranh phòng, chống quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng1, Ban Chỉ đạo 35, cấp ủy, chỉ huy, cơ quan chính trị các cấp đã lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai đồng bộ nội dung, hình thức, biện pháp tiến hành phù hợp; giải quyết tư tưởng nảy sinh, định hướng kịp thời, góp phần ổn định tư tưởng bộ đội, giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng trong Quân đội.

Tuy nhiên, trong tổ chức thực hiện vẫn còn một số cơ quan, đơn vị chưa quan tâm coi trọng lãnh đạo, chỉ đạo công tác tư tưởng bộ đội trước sự tác động tiêu cực của không gian mạng dẫn đến một số quân nhân chưa nhận thức đúng “kẻ thù giấu mặt”, vi phạm quy định khi tham gia mạng xã hội đến mức phải xử lý kỷ luật làm ảnh hưởng đến hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”. Để khắc phục hạn chế trên, cần có giải pháp định hướng tư tưởng bộ đội trong đấu tranh phòng, chống quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng.

Một là, phát huy vai trò của cấp ủy, chỉ huy, cơ quan chính trị và lực lượng nòng cốt, chuyên sâu. Thực hiện giải pháp này, các đơn vị cần quán triệt, thực hiện thống nhất sự chỉ đạo của Ban Chỉ đạo 35 các cấp; thường xuyên làm tốt công tác nắm tình hình và định hướng tư tưởng bộ đội, nhằm kịp thời phát hiện, ngăn ngừa những thông tin sai trái, thù địch xâm nhập vào đơn vị. Duy trì tốt nền nếp, các khâu, các bước của công tác tư tưởng, coi trọng thực hiện tốt năm chủ động; đi sâu vào công tác giáo dục, định hướng, dự báo, phân tích, đánh giá để kịp thời có chủ trương, biện pháp giải quyết hiệu quả. Nội dung tập trung vào việc nắm khuynh hướng tư tưởng trong đời sống sinh hoạt thường ngày của bộ đội; niềm tin vào sự nghiệp cách mạng, vào sự lãnh đạo của Đảng; tính tích cực trong rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, đoàn kết, kỷ luật, v.v. Tiến hành đồng bộ các biện pháp nắm bắt tình hình tư tưởng bộ đội thông qua: sinh hoạt tổ ba người, chiến sĩ dân vận, chiến sĩ bảo vệ, tổ đội thanh niên xung kích; các mối quan hệ: đồng chí, đồng đội, quan hệ cấp trên, cấp dưới, chiến sĩ cũ và chiến sĩ mới, gia đình và quan hệ xã hội. Phát huy tốt vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, bí thư, chính ủy (chính trị viên), người chỉ huy, cơ quan chính trị và đội ngũ cán bộ chính trị các cấp trong nắm bắt, định hướng tư tưởng thông qua hoạt động: “Ngày Chính trị và văn hóa tinh thần”, “Ngày Pháp luật” ở đơn vị, hoặc các hình thức học tập chuyên đề, thông báo thời sự, sinh hoạt chính trị - tư tưởng, đọc báo, nghe đài, diễn đàn, v.v.

Cùng với đó, tổ chức tập huấn nội dung, kỹ năng, phương pháp đấu tranh trên không gian mạng cho cấp ủy, cơ quan chính trị và lực lượng nòng cốt chuyên trách ở đơn vị; duy trì nghiêm nền nếp chế độ giao ban nắm tình hình hằng tuần, tháng, quý để rút kinh nghiệm, thống nhất nội dung định hướng tư tưởng bộ đội, nhất là trước những nhiệm vụ quan trọng của đơn vị, các sự kiện trọng đại của Đảng, Nhà nước và Quân đội. Phát huy vai trò của lực lượng nòng cốt, chuyên sâu trong nghiên cứu âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch; nắm vững tư tưởng, tâm trạng của cán bộ, chiến sĩ để dự báo, tham mưu cho lãnh đạo, chỉ huy những biện pháp giáo dục, định hướng tư tưởng, bảo đảm cho mọi quân nhân kiên định, vững vàng về chính trị, tư tưởng trong mọi tình huống.

Hai là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, định hướng tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị. Hoạt động tuyên truyền, giáo dục cần kết hợp chặt chẽ việc nắm bắt tư tưởng, giáo dục nâng cao nhận thức với thực hiện các phong trào thi đua, các cuộc vận động và xây dựng môi trường văn hóa tốt đẹp, lành mạnh để nắm bắt, quản lý, định hướng tư tưởng bộ đội. Tổ chức tốt công tác tuyên truyền miệng và hoạt động báo cáo viên, coi đây là kênh thông tin quan trọng nhất3 kịp thời định hướng tư tưởng cán bộ, chiến sĩ, nhất là các vấn đề nhạy cảm, phức tạp tác động trực tiếp tới tư tưởng tình cảm cán bộ, chiến sĩ. Hằng tuần, tháng duy trì tốt chế độ nói chuyện thời sự, thông báo chính trị, trực tiếp cung cấp thông tin có định hướng theo đúng quan điểm của Đảng, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và Tổng cục Chính trị cho các đối tượng. Đặc biệt, trước các vấn đề nhạy cảm về chính trị, đối ngoại, an ninh, quốc phòng, những vấn đề nóng của tình hình thế giới, Biển Đông, các hoạt động quan trọng của lãnh đạo Đảng và Nhà nước,... cần nhanh chóng triển khai cho báo cáo viên thông tin, định hướng kịp thời, góp phần ổn định tình hình, thống nhất về nhận thức, nâng cao tinh thần cảnh giác của bộ đội, hướng vào đối tượng là cán bộ trẻ, chiến sĩ mới. Tổ chức nhiều nội dung, hình thức tuyên truyền, giáo dục phong phú gắn với phê phán, phản bác luận điệu sai trái bằng những lý lẽ sắc sảo, khoa học, khách quan, thực tế, có sức thuyết phục cao. Tăng cường công tác thông tin, truyền tuyền, kịp thời giải đáp thông tin từ nội bộ, cơ sở, tạo dư luận rộng rãi phản bác quan điểm sai trái, thù địch. Đồng thời, chỉ đạo và tổ chức lực lượng nòng cốt, chuyên sâu đấu tranh trực tiếp vào các trang mạng để chia sẻ thông tin chính thống, đăng tải bài viết, comment vạch trần quan điểm sai trái, thù địch, vấn nạn xã hội trên không gian mạng để người đọc nhận thức đúng, nhất là các vấn đề nhạy cảm.

Ba là, xây dựng môi trường văn hóa tốt đẹp, lành mạnh tại đơn vị. Phát huy có hiệu quả các thiết chế văn hóa ở đơn vị; tổ chức tốt các hoạt động văn hóa - văn nghệ, thể thao, vui chơi giải trí, nhất là trong ngày nghỉ, giờ nghỉ, tạo sân chơi lành mạnh, bổ ích góp phần ngăn chặn sự xâm nhập của văn hóa phẩm, thông tin có nội dung xấu độc, xuyên tạc, kích động trên các trang mạng xã hội xâm nhập vào đơn vị. Lấy xây dựng nội bộ trong sạch, vững mạnh là nhân tố quyết định; phòng ngừa những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; khắc phục tình trạng thụ động, chủ quan, lơ là, mất cảnh giác. Duy trì tốt mô hình: “Tổ tư vấn tâm lý - pháp lý quân nhân”; “Hồ sơ thông tin chiến sĩ”; quản lý tư tưởng theo nhóm; “Tổ định hướng đồng hành”; phân công “Mỗi đảng viên giúp đỡ một nòng cốt, một nòng cốt giúp đỡ ba quần chúng”; cán bộ người dân tộc thiểu số giúp đỡ, kèm cặp chiến sĩ người dân tộc thiểu số, thực hiện “ba cùng” (cùng ăn, cùng ở, cùng chia sẻ), v.v. Đây là những mô hình đã được khẳng định trong thực tiễn, nhằm giúp cán bộ, chiến sĩ (nhất là chiến sĩ mới) nắm được kỹ năng sống, hiểu được những vấn đề còn vướng mắc và tự quyết định hướng giải quyết một cách đúng đắn. Đồng thời, nâng cao sự hiểu biết về pháp luật Nhà nước, kỷ luật Quân đội và các quy định của đơn vị; xây dựng tinh thần lạc quan, thái độ, hành vi ứng xử đúng đắn, tích cực phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ; tránh được sự tác động của những thông tin sai trái, thù địch trên không gian mạng.

Bốn là, quản lý tốt hoạt động khai thác, sử dụng mạng internet của các tập thể và cá nhân trong đơn vị. Quy định rõ việc cung cấp, khai thác, sử dụng thông tin, tránh để lộ, lọt thông tin của đơn vị; chú trọng việc hướng dẫn sử dụng và quản lý hoạt động khai thác internet và các trang mạng xã hội. Tăng cường quản lý cán bộ, chiến sĩ khi sử dụng các phương tiện máy tính, điện thoại thông minh có kết nối mạng internet, tham gia mạng xã hội theo đúng quy định của đơn vị, Quân đội và Luật An toàn thông tin mạng, Luật An ninh mạng. Khai thác tốt các máy tính ảo tại đơn vị, đồng thời, thông qua hệ thống Blogger để tổ chức đấu tranh trực diện với quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng. Nghiên cứu, vận dụng linh hoạt các giải pháp trên để định hướng tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ nhận rõ bản chất, âm mưu, thủ đoạn tinh vi, thâm độc của các thế lực thù địch, nhất là trên không gian mạng. Qua đó, tạo sức đề kháng, “hệ miễn dịch” trong mỗi quân nhân, góp phần tạo sự thống nhất cao về chính trị, tư tưởng, giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng trong mỗi cơ quan, đơn vị và toàn quân. 

TỰ PHÊ BÌNH VÀ PHÊ BÌNH LÀ CÁCH TỐT NHẤT ĐỂ CỦNG CỐ ĐOÀN KẾT ĐẢNG

 "Trong Di chúc thiêng liêng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: "Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng". Lời dạy sâu sắc này của Người vẫn luôn là kim chỉ nam quan trọng, soi sáng cho công tác xây dựng Đảng trong giai đoạn đổi mới hiện nay. Đặc biệt, trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp 4.0, việc thực hiện nghiêm túc tự phê bình và phê bình càng trở nên cấp thiết, giúp Đảng ta không ngừng đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng."

Tự phê bình và phê bình được Chủ tịch Hồ Chí Minh bàn đến và gương mẫu thực hiện trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng. Người chỉ rõ: khi Đảng ta trở thành đảng cầm quyền thì tự phê bình và phê bình trong Đảng là điểm mấu chốt vì: “Đảng ta không phải trên trời sa xuống, mà từ trong xã hội sinh ra”; đảng viên và cán bộ cũng là người, ai cũng có tính tốt và tính xấu. Thói xấu cũng như chứng bệnh. Phê bình cũng như uống thuốc. Có bệnh mà giấu, không dám uống thuốc, thì bệnh ngày càng nặng. Với tinh thần đó, trong Di chúc, Người viết: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng”.

Thực hiện Di chúc của Bác, trong 55 năm qua, có không ít tập thể, cá nhân làm tốt tự phê bình và phê bình, trở thành điển hình tiên tiến trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, được xã hội ghi nhận, tôn vinh. Song, bên cạnh đó, việc tự phê bình và phê bình trong Đảng vẫn còn hạn chế, “Tự phê bình và phê bình nhiều nơi mang tính hình thức; vẫn còn tình trạng nể nang né tránh, ngại va chạm; một số cán bộ, đảng viên thiếu tự giác nhận khuyết điểm và trách nhiệm của mình trong công việc được giao”.

Để tạo bước chuyển mới, tích cực hơn nữa trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, chúng ta cần hiểu thấu và làm đúng tự phê bình và phê bình trong Đảng theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh; trong đó, tập trung vào những nội dung chủ yếu sau:

Một là, Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, đã để lại một di sản tư tưởng vô cùng quý báu, trong đó có tư tưởng về tự phê bình và phê bình. Người đã ví von tự phê bình và phê bình như "hai cánh của một con chim", khẳng định sự cần thiết phải kết hợp hài hòa giữa hai hoạt động này.

Việc đặt tự phê bình lên trước không có nghĩa là hạ thấp vai trò của phê bình, mà là nhằm nhắc nhở mỗi cán bộ, đảng viên cần có ý thức tự soi xét bản thân một cách nghiêm túc trước khi đánh giá người khác. Tự phê bình là quá trình mỗi cá nhân đối chiếu hành vi, tư tưởng của mình với chuẩn mực của Đảng, của nhân dân, để từ đó nhận ra và sửa chữa những khuyết điểm.

Bên cạnh tự phê bình, phê bình cũng đóng vai trò quan trọng không kém. Phê bình giúp chúng ta nhìn rõ hơn những hạn chế, yếu kém của đồng chí, đồng nghiệp để cùng nhau tiến bộ. Tuy nhiên, phê bình phải được thực hiện trên tinh thần xây dựng, với thái độ chân thành, thẳng thắn, không hề có chút vụ lợi cá nhân.

Để tự phê bình và phê bình phát huy hiệu quả, chúng ta cần thực hiện thường xuyên, liên tục, không chỉ trong những cuộc họp chính thức mà còn trong cuộc sống hàng ngày. Đồng thời, cần kết hợp hài hòa giữa lý luận và thực tiễn, giữa phê bình và tự phê bình, giữa phê bình và giúp đỡ đồng chí.

Hai là, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định tính dân chủ là nền tảng của tự phê bình và phê bình. Người nhấn mạnh rằng mọi thành viên trong Đảng đều có quyền và trách nhiệm phê bình, bất kể cấp bậc. Dân chủ trong phê bình không chỉ là sự tự do phát biểu mà còn là sự thẳng thắn, trung thực, nhằm mục tiêu xây dựng, chứ không phải công kích. Nếu thiếu dân chủ, tự phê bình và phê bình sẽ trở nên hình thức, thậm chí nguy hại, làm mất đi sự đoàn kết và thống nhất trong Đảng.

Để thực hiện dân chủ trong phê bình, vai trò của cấp ủy và người đứng đầu là vô cùng quan trọng. Họ cần tạo điều kiện để mọi người dám nói, dám nghĩ, dám làm. Đồng thời, người đứng đầu phải gương mẫu đi đầu trong việc tự phê bình và tiếp thu ý kiến phê bình của cấp dưới.

Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phát huy dân chủ trong Đảng. Theo Người, muốn tự phê bình và phê bình có hiệu quả, người đứng đầu phải gương mẫu và tạo cơ hội để quần chúng đóng góp ý kiến.

Ba là, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ tầm quan trọng của việc thực hiện tự phê bình và phê bình một cách thường xuyên và nghiêm túc. Người ví von tự phê bình như việc rửa mặt mỗi ngày, giúp Đảng luôn sạch sẽ và khỏe mạnh. Theo Bác, phê bình và tự phê bình là nhu cầu thiết yếu của mỗi người cách mạng, giúp cho cách mạng không ngừng phát triển.

Phê bình nghiêm túc không chỉ là sự thẳng thắn mà còn phải xuất phát từ tình đồng chí, thương yêu lẫn nhau. Người phê bình cần chỉ rõ cả ưu điểm và khuyết điểm một cách khách quan, trung thực, tránh nói bóng gió hay nể nang. Đồng thời, phê bình phải được thực hiện một cách khéo léo, nhằm giúp người được phê bình nhận ra khuyết điểm của mình để cùng nhau tiến bộ.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh rằng, tự phê bình và phê bình là công cụ hữu hiệu để xây dựng Đảng. Nếu được thực hiện thường xuyên và đúng đắn, tự phê bình và phê bình sẽ giúp Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh.

Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình đã trở thành nền tảng tư tưởng chỉ đạo cho công tác xây dựng Đảng ta. Đảng ta luôn quán triệt sâu sắc những lời dạy của Người, không ngừng đổi mới nội dung và hình thức sinh hoạt chi bộ để nâng cao chất lượng tự phê bình và phê bình. Các nghị quyết của Đảng đã chỉ rõ tầm quan trọng của việc xây dựng quy chế, khắc phục tình trạng né tránh, ngại va chạm, bảo vệ người thẳng thắn. Đồng thời, Đảng cũng yêu cầu cấp trên phải trực tiếp tham gia, chỉ đạo ở những nơi có vấn đề phức tạp.

Để khắc phục tình trạng làm qua loa, hình thức, Đảng ta đã nhấn mạnh việc thực hiện nghiêm túc tự phê bình và phê bình. Việc xuê xoa, nể nang, thậm chí biến cuộc họp thành nơi vuốt ve, ca tụng lẫn nhau là điều cần phải loại bỏ. Mọi hành vi trù dập, vu cáo người khác đều bị nghiêm khắc xử lý.

Như vậy, việc nâng cao chất lượng sinh hoạt tự phê bình và phê bình đang được các cấp ủy, tổ chức Đảng quan tâm triển khai thực hiện. Điều này thể hiện quyết tâm của Đảng ta trong việc xây dựng một tổ chức trong sạch, vững mạnh.

Bốn là, Mục tiêu cuối cùng của tự phê bình và phê bình, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, là vì sự đoàn kết và thắng lợi của cách mạng. Phê bình không chỉ là việc chỉ ra sai sót mà còn là cầu nối giúp mọi người cùng nhau tiến bộ, củng cố sự đoàn kết trong Đảng. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhấn mạnh, tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng.

Chính sự đoàn kết chặt chẽ, dựa trên nền tảng của tự phê bình và phê bình, đã giúp Đảng ta vượt qua mọi khó khăn, thử thách để giành được những thắng lợi vẻ vang. Trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh tầm quan trọng của tự phê bình và phê bình, coi đây là công cụ để nâng cao năng lực lãnh đạo, củng cố niềm tin của nhân dân.

Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần khẳng định rằng, muốn xây dựng một Đảng trong sạch, vững mạnh, chúng ta phải không ngừng đổi mới và nâng cao chất lượng sinh hoạt tự phê bình và phê bình. Chỉ có như vậy, Đảng ta mới thực sự trở thành hạt nhân lãnh đạo, đưa đất nước ta phát triển bền vững.

 

HƠN 240 QUÂN NHÂN VIỆT NAM TIẾP TỤC ĐI GÌN GIỮ HÒA BÌNH THẾ GIỚI

 Cục Gìn giữ hòa bình Việt Nam cho biết, ngày 24/9 tới, 243 quân nhân thuộc biên chế Đội Công binh số 3 và Bệnh viện dã chiến cấp 2 số 6 của Việt Nam sẽ lên đường tới châu Phi, thực hiện nhiệm vụ gìn giữ hòa bình Liên Hợp Quốc (GGHB LHQ), thay thế cho Đội Công binh số 2 và Bệnh viện dã chiến cấp 2 số 5.

Theo đó, Đội Công binh số 3 (ĐCB số 3) có quân số 180 người và Bệnh viện dã chiến cấp 2 số 6 (BVDC 2.6) có quân số 63 người. Đến nay, công tác huấn luyện cho hai đơn vị đã hoàn thành theo kế hoạch, đảm bảo đúng quy định và yêu cầu của LHQ.

Thời gian còn lại trước khi lên đường, Cục GGHB Việt Nam sẽ tổ chức huấn luyện bổ sung về vận hành máy phát điện, sửa chữa trang thiết bị nhằm nâng cao năng lực, chuyên môn cho ĐCB số 3 theo yêu cầu thực tế tại địa bàn.

Đến nay, các tổ chức Đảng, tổ chức quần chúng (Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ) và Hội đồng quân nhân của hai đơn vị cũng đã thành lập; duy trì nghiêm chế độ nền nếp sinh hoạt Đảng; 100% cán bộ, nhân viên của BVDC 2.6 và ĐCB số 3 có lập trường tư tưởng vững vàng, yên tâm công tác, sẵn sàng lên đường thực hiện nhiệm vụ tại phái bộ.

Về công tác mua sắm và bàn giao hàng hoá, trang thiết bị tự duy trì, Học viện Quân y đã bàn giao Cục GGHB Việt Nam khoảng 98% hàng hoá, trang thiết bị tự duy trì các loại.

Đối với một số mặt hàng hoá chất y tế, có thời hạn sử dụng ngắn và cần bảo quản chặt chẽ, Học viện Quân y đề xuất tổ chức bàn giao gần thời điểm xuất quân của BVDC 2.6.

Bên cạnh đó, Binh chủng Công binh đã bàn giao Cục GGHB Việt Nam khoảng 70% số hàng hoá. Một số danh mục hàng hoá còn lại sẽ tiếp tục bàn giao trong thời gian tới để phân loại, đóng gói và vận chuyển sang địa bàn cho ĐCB số 3.

Theo kế hoạch, đội hình BVDC 2.6 sẽ di chuyển tới Nam Sudan bằng máy bay vận tải quân sự C-17 của Không quân Australia; đội hình ĐCB số 3 di chuyển tới khu vực Abyei (Phái bộ UNISFA) bằng máy bay do LHQ đảm bảo.

Sau khi hai đơn vị trên tới nhận bàn giao nhiệm vụ, quân số của BVDC 2.5 và ĐCB số 2 của Việt Nam sẽ lên đường trở về nước vào cuối tháng 9 và đầu tháng 10.

 

Phản bác luận điệu xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước kiểu mới ở Việt Nam

 

Gần 80 năm qua, sự ra đời và phát triển của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) với những thành tựu to lớn đạt được đã khẳng định tính cách mạng, khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước kiểu mới ở Việt Nam. Thế nhưng, các thế lực thù địch luôn tìm cách bóp méo, xuyên tạc tư tưởng, phủ nhận công lao của Người về vấn đề này. Đó là dã tâm đen tối, luận điệu trơ trẽn, phản động cần phải vạch trần, bác bỏ.

Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh - từ lý luận đến thực tiễn

Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước kiểu mới là hệ thống luận điểm về bản chất, tính chất và yêu cầu xây dựng một nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân, đối lập với mô hình nhà nước của thiểu số kẻ thống trị. Với khát vọng tìm đường cứu nước, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, thấm nhuần quan điểm “chính quyền là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội”, nhưng theo Người, vấn đề quan trọng là bản chất của chính quyền nhà nước đó. Trên cơ sở dày công nghiên cứu các mô hình nhà nước đương thời, nhất là nhà nước tư sản ở Mỹ, Pháp,... Người nhận thấy, mặc dù mô hình nhà nước tư sản có những bước tiến bộ hơn so với nhà nước phong kiến chuyên chế, nhưng về bản chất, các nhà nước đó vẫn chỉ là sự thay thế ách thống trị của giai cấp bóc lột này bằng giai cấp bóc lột khác. Chỉ sau khi nghiên cứu về nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô, Người khẳng định: “Sau khi đánh đuổi được đế quốc Pháp, Nhật, sẽ thành lập một chính phủ nhân dân của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lấy lá cờ đỏ ngôi sao vàng năm cánh làm lá cờ toàn quốc. Chính phủ ấy do quốc dân đại hội cử ra sẽ thi hành những nhiệm vụ,...”1. Người cũng chỉ rõ “Nước ta là một nước dân chủ, bao nhiêu lợi ích là vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều là của dân, chính quyền từ xã đến chính phủ trung ương đều do dân cử ra”2. Điều này có nghĩa là mọi lợi ích, quyền hành, lực lượng đều thuộc về dân và trách nhiệm xây dựng nhà nước là của toàn dân. Trên thực tế, ngay sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẩn trương chỉ đạo tổ chức tổng tuyển cử, chỉ đạo xây dựng hệ thống pháp luật, đặc biệt là xây dựng Hiến pháp để đảm bảo cho Nhà nước ta là nhà nước dân chủ, pháp quyền. Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh mang bản chất giai cấp công nhân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thể hiện sự thống nhất chặt chẽ giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước kiểu mới ở Việt Nam là cơ sở lý luận trực tiếp, sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình xây dựng nhà nước ta từ khi ra đời đến nay. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, cùng với sự đồng lòng, tin tưởng và ủng hộ của nhân dân, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được xây dựng và ngày càng hoàn thiện, thực sự là nhà nước kiểu mới - nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt, sau gần 40 năm thực hiện sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ngày càng hoàn thiện và có những bước phát triển mới, thực sự là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, đóng góp vào những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử và nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam. Điều đó càng khẳng định và minh chứng giá trị to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước kiểu mới ở Việt Nam.

Nhận diện và đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc

Với dã tâm, mưu đồ đen tối, các thế lực thù địch đã dùng nhiều thủ đoạn tinh vi, mượn danh “nghiên cứu lịch sử”,… để xuyên tạc và phủ nhận giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh; trong đó, xuyên tạc tư tưởng về nhà nước kiểu mới là một trọng tâm của chúng.

Một là, chúng xuyên tạc, cho rằng: “Hồ Chí Minh không tuân thủ mô hình nhà nước công nông binh do Đảng Cộng sản Việt Nam chọn từ năm 1930, mà chọn mô hình nhà nước “cộng hòa” kiểu Pháp, không phải là nhà nước chuyên chính vô sản”. Đây là luận điệu thể hiện rõ mưu đồ đen tối nhằm xuyên tạc và phủ nhận công lao của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc kiến tạo nhà nước kiểu mới ở Việt Nam. Chúng ta biết, trong quá trình tìm đường cứu nước, Người đã nghiên cứu kỹ lưỡng các mô hình nhà nước trên thế giới và phác họa mô hình “Chính phủ công nông binh” - nhà nước chuyên chính vô sản. Tại Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ tám (tháng 5/1941), Người đã đề xuất mô hình Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với mục tiêu “độc lập - tự do - hạnh phúc”, tạo nền tảng để tập hợp lực lượng và thực hiện quyền dân chủ của nhân dân. Lãnh tụ Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo cách mạng thành công, đảm bảo sự ra đời của nhà nước chuyên chính vô sản. Người đã soạn thảo và thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản “Tuyên ngôn độc lập” công bố với thế giới về sự ra đời của nước Việt Nam mới, tên gọi “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” - một quốc gia tự do, độc lập. Trong nhà nước này, nhân dân là chủ nhân, với tất cả quyền hành, lực lượng, lợi ích đều thuộc về dân. Như vậy, việc lựa chọn và đặt tên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, từ mô hình nhà nước công nông binh sang mô hình nhà nước đại diện cho khối đoàn kết toàn dân là bước đi sáng suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta, phù hợp với đặc thù và nguyện vọng của dân tộc Việt Nam. Đó thực chất vẫn là một nhà nước chuyên chính vô sản, chứ không phải “mô hình kiểu Pháp” như các thế lực thù địch đang bịa đặt, rêu rao.

Hai làxuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất giai cấp công nhân của nhà nước kiểu mới ở Việt Nam. Chúng viện dẫn việc Chủ tịch Hồ Chí Minh thành lập Chính phủ liên hiệp lâm thời, bao gồm các đảng phái: Việt Nam Quốc dân Đảng, Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội và mời các nhân sĩ, trí thức tham gia Đoàn Cố vấn tối cao của Chính phủ mới để xuyên tạc rằng: “Nhà nước mà Hồ Chí Minh áp đặt ở Việt Nam không mang bản chất giai cấp công nhân, mà mang tính chất tư sản, tiểu tư sản”. Phải khẳng định rằng, ngay từ đầu, nhà nước kiểu mới ở Việt Nam luôn mang bản chất giai cấp công nhân và được thống nhất với tính nhân dân và tính dân tộc. Khi chỉ đạo xây dựng Hiến pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nhà nước của ta là Nhà nước dân chủ nhân dân dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo”3. Nghĩa là, nhà nước kiểu mới ở Việt Nam do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, hướng đến mục tiêu đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội và được tổ chức, hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin. Tuy nhiên, ngay sau khi Nhà nước ta ra đời, trước tình thế phải tổ chức cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện chống thực dân Pháp xâm lược lần thứ hai để bảo vệ thành quả cách mạng và chính quyền non trẻ nên việc tập hợp các đại biểu của các đảng phái yêu nước, thậm chí “rút bớt các thành viên cộng sản” để lập chính phủ mới là một sách lược mềm dẻo, sáng tạo và linh hoạt. Điều này thể hiện tầm nhìn và trí tuệ của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta trong việc tổ chức bộ máy nhà nước, phù hợp với hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ, nhằm quy tụ, tập hợp lực lượng và hoàn toàn không phải như các thế lực thù địch xuyên tạc, bịa đặt.

Ba làphủ nhận tính pháp quyền của nhà nước kiểu mới ở nước ta theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Chúng cho rằng: “Nhà nước mà Hồ Chí Minh xây dựng là nhà nước của dân, do dân, vì dân chỉ là mị dân, không có tính pháp lý” và lập luận rằng: “không thể xây dựng một nhà nước dân chủ trong một đất nước nghèo nàn, lạc hậu như Việt Nam; thể chế nhà nước dân chủ chỉ có ở các nước phát triển phương Tây”, v.v. Những luận điệu này thực chất nhằm xóa nhòa những giá trị lý luận và thực tiễn về nhà nước kiểu mới ở Việt Nam mà Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi xướng, lãnh đạo thực hiện. Trên thực tế, ngay từ năm 1919, trong Bản yêu sách của nhân dân An Nam gửi Chính phủ Pháp và chính quyền thuộc địa, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã yêu cầu ban hành hiến pháp, bãi bỏ chế độ cai trị bằng sắc lệnh, thay thế bằng các đạo luật và khẳng định: “Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”. Tư tưởng về nhà nước pháp quyền hợp hiến, có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ là điểm nổi bật trong xây dựng nhà nước kiểu mới ở Việt Nam của Hồ Chí Minh. Sau Cách mạng Tháng Tám thành công, tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời (03/9/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định một trong những nhiệm vụ cấp bách là phải có một hiến pháp dân chủ và đề nghị “Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay” cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu trong cả nước để sớm có quốc hội và nhà nước hợp hiến do nhân dân bầu ra vào ngày 06/01/1946. Sau đó, Quốc hội đã bầu ra Chính phủ của toàn dân. Như vậy, cả trong tư tưởng và thực tiễn, Hồ Chí Minh luôn coi trọng tính pháp lý và vai trò làm chủ của nhân dân trong nhà nước kiểu mới - nhà nước của dân, do dân, vì dân ở Việt Nam. Điều này đã phản bác hoàn toàn những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, cho rằng đó là “nhà nước mị dân, không có tính pháp lý”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà cách mạng chân chính, cả cuộc đời luôn phấn đấu vì dân, vì nước và thực tiễn trong suốt 24 năm đảm nhiệm chức vụ Chủ tịch nước, Người đã cống hiến hết mình vì dân tộc, cùng toàn Đảng, toàn dân đạt được những thắng lợi to lớn. Mong muốn tột bậc của Người là “làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”4, và “tuyệt nhiên không ham muốn công danh phú quý chút nào. Bây giờ phải gánh chức Chủ tịch là vì đồng bào ủy thác thì tôi phải gắng sức làm, cũng như một người lính vâng mệnh lệnh của quốc dân ra trước mặt trận. Bao giờ đồng bào cho tôi lui, thì tôi rất vui lòng lui”5. Dù có nhìn ở khía cạnh nào đi chăng nữa, thì thực tế lịch sử đã chứng minh rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là tấm gương sáng ngời, tận trung với nước, tận hiếu với dân, không như những gì các thế lực thù địch bôi nhọ, xuyên tạc.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta một sự nghiệp cách mạng vĩ đại, cùng di sản tư tưởng vô giá, trong đó có tư tưởng về nhà nước kiểu mới. Nắm vững tư tưởng của Người, vận dụng và phát triển sáng tạo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc không chỉ là trách nhiệm, nghĩa vụ, mà còn là niềm vinh dự, tự hào của mỗi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Đó là hành động thiết thực nhất phản bác, đập tan mọi luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, bảo vệ bản chất khoa học, cách mạng của tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, quyết tâm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch vững mạnh, thực sự là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, vững bước trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.

                                                                                                                 st

ĐẤU TRANH PHẢN BÁC CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH VỀ CÔNG TÁC PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY

Tham nhũng là “khuyết tật bẩm sinh”, “giặc nội xâm”[1], là “nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng, của chế độ”[2], trở ngại lớn đối với sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế của đất nước; gây mất niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Nhận thức được điều đó, Đảng ta luôn nhấn mạnh rằng công tác phòng, chống tham nhũng trong bất cứ thời đại nào cũng mang mục đích đảm bảo sự tồn vong của chế độ, giữ ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, củng cố niềm tin của quần chúng nhân dân đối với giai cấp cầm quyền.

Công tác phòng, chống tham nhũng là một công tác thường xuyên, lâu dài, đòi hỏi sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị để đảm bảo hiệu quả của công tác này. Thời gian vừa qua, với công cuộc “đốt lò” ấn tượng của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Việt Nam đã đạt được những kết quả nhất định trong công tác phòng, chống tham nhũng. Tuy nhiên, với những ý đồ thâm độc của các thế lực thù địch từ trước đến nay vẫn luôn muốn chống phá đất nước ta nhằm hạ thấp uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, chúng ra sức tuyên truyền, xuyên tạc về công tác phòng, chống tham nhũng của ta. Đứng trước những quan điểm sai trái, thù địch đó, chúng ta cần phải tỉnh táo, nhìn nhận một cách khách quan và đưa ra những luận cứ xác đáng để đấu tranh, phản bác lại chúng. 

Việc chống tham nhũng là một công tác vô cùng quan trọng để đảm bảo sự trong sạch, công bằng và phát triển bền vững của đất nước. Việc xử lý nghiêm các cán bộ, đảng viên có dính líu đến các vụ án tham nhũng không chỉ là để trừng phạt hành vi sai trái của họ, mà còn là để đánh giá, cải cách hệ thống chính trị, giúp cho Chính phủ hoạt động tốt hơn, cải thiện hành vi của người quản lý và bảo vệ quyền lợi của người dân. Việc chống tham nhũng không phải là một cuộc “đàn áp”, mà là một nỗ lực chung của toàn xã hội nhằm bảo vệ tài sản công và đảm bảo sự công khai, minh bạch của các tổ chức, cá nhân. Những luận điệu như “Làm nhiều, sai nhiều. Làm ít, sai ít. Không làm, không sai” chỉ thể hiện sự tiêu cực và thiếu trách nhiệm của những người đang sử dụng chúng. Chúng ta đang thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng một cách nghiêm túc, đồng thời tạo ra một môi trường làm việc công bằng, minh bạch và đầy đủ trách nhiệm để khuyến khích sự cống hiến của các cán bộ, đảng viên. Theo đó, chúng ta không thể để các thế lực thù địch đưa ra các luận điệu để hướng lái nới lỏng công tác phòng, chống tham nhũng. Cần phải duy trì một sự nghiêm khắc trong việc chống tham nhũng và đảm bảo các cán bộ, đảng viên có trách nhiệm của mình trong việc phòng, chống tham nhũng. Đồng thời, cần tăng cường giáo dục, nâng cao nhận thức của người dân về tầm quan trọng của công tác này, giúp họ hiểu được tác động tích cực của việc phòng, chống tham nhũng đến cuộc sống và phát triển của đất nước.

 1. Hoạt động đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về công tác phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam trong thời gian gần đây

Trong những năm gần đây, các thế lực thù địch vẫn ngày càng chống phá quyết liệt và sử dụng những thủ đoạn hết sức tinh vi, gây ra những hậu quả nhất định cho ta, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng thẳng thắn đánh giá: “Công tác đấu tranh phản bác, ngăn chặn các thông tin xấu độc, quan điểm sai trái, thù địch có lúc, có nơi còn bị động, thiếu sắc bén, tính chiến đấu chưa cao; công tác nắm bắt dư luận trước những sự kiện, tình huống bất ngờ còn chưa kịp thời”[3]. Do đó, từ việc nhận diện những luận điệu sai trái, xuyên tạc về công tác phòng, chống tham nhũng ở nước ta của các thế lực thù địch, cần phải đi đôi với việc kiên quyết đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, phải: “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết và thường xuyên đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị; đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”[4].

Đảng ta xác định công tác đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái thù địch về công tác phòng, chống tham nhũng là cuộc đấu tranh lâu dài và phải được triển khai thường xuyên, liên tục. Do đó, thời gian vừa qua, chúng ta đã chủ động đấu tranh với hoạt động này một cách tích cực nhất.

Góp phần vào hiệu quả công tác đấu tranh này phải kể đến sự đóng góp không nhỏ của các phương tiện truyền thông trên không gian mạng. Chúng ta đã tích cực đấu tranh trên mặt trận truyền thông này một cách triệt để nhằm định hướng dư luận, tuyên truyền những thông tin chính thống đến đông đảo quần chúng, đập tan những âm mưu nhằm hướng lái công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng của ta đi lệch khỏi quỹ đạo vốn có của nó. Theo đó, chúng ta đã xây dựng, sản xuất các sản phẩm, ấn phẩm, xuất bản phẩm về những nội dung lý luận liên quan đến công tác đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về công tác phòng, chống tham nhũng trên in-tơ-nét, các ứng dụng trên mạng xã hội. Trực tiếp xây dựng và phát triển các trang fanpage với mục đích định hướng dư luận, đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái, thù địch về công tác phòng, chống tham nhũng trên mạng xã hội; sử dụng các nickname tài khoản mạng xã hội tham gia các diễn đàn, truy cập vào các trang mạng của đối tượng viết bài phản kích dưới dạng các bình luận. Thông qua hoạt động này, chúng ta đã thực hiện nhiều chương trình, chuyên mục, bài viết phản kích các luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc quan điểm sai trái, thù địch của đối tượng. Từ đó mà củng cố niềm tin của nhân dân vào chính quyền, luôn luôn lắng nghe, thấu hiểu những tâm tư, nguyện vọng của nhân dân.

Bên cạnh đó, vai trò của báo chí trong việc định hướng dư luận, phản biện xã hội cũng đóng góp tích cực vào công cuộc đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về công tác phòng, chống tham nhũng. Trên cơ sở công tác nắm tình hình, phát hiện các quan điểm sai trái, thù địch về công tác phòng, chống tham nhũng, chúng ta đã tiến hành tổ chức đưa tin để phản bác. Qua đó, các cơ quan thông tấn, báo chí đã tăng cường đăng cái bài viết mang tính chất phản bác lại, định hướng dư luận với những luận cứ thuyết phục nhất.

Có thể thấy công tác đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về công tác phòng, chống tham nhũng trong thời gian qua đã đạt được những thành tựu nhất định song vẫn còn một số hạn chế, bất cập cần khắc phục như: (i) Công tác đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về công tác phòng, chống tham nhũng đôi lúc còn chưa kịp thời, dẫn đến chúng quy chụp Đảng ta không dám nói, thừa nhận những luận điệu của chúng. Làm suy giảm niềm tin của quần chúng nhân dân; (ii) một số cán bộ trực tiếp đấu tranh, phản bác còn hạn chế về kỹ năng diễn đạt, viết bài phản bác, chưa thực sự đủ sức thuyết phục, “nghèo nàn” về luận cứ, luận điểm dẫn đến việc phản bác chưa thực sự hiệu quả với các luận điệu xuyên tạc, “mị dân” của thế lực thù địch; (iii) chưa phát huy hết vai trò của các cơ quan báo chí trong đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về công tác phòng, chống tham nhũng. Quan hệ phối hợp giữa các cơ quan chức năng với các cơ quan báo chí còn chưa thật sự đống bộ, liên tục và chưa có cơ chế phối hợp một cách hợp lý; (iv) chưa huy động tối đa vai trò của quần chúng nhân dân trong việc đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về công tác phòng, chống tham nhũng.   

2. Một số đề xuất giải pháp, khuyến nghị

Trước những âm mưu và hành động của các thế lực thù địch chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta trong thời gian qua, Đảng ta đã tiếp tục nhấn mạnh: “Các thế lực thù địch chống phá ngày càng quyết liệt”[5]. Trên cơ sở nhận định trên, Đảng ta tiếp tục khẳng định sự quyết tâm, cũng như trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị, trước hết là đội ngũ cán bộ, đảng viên phải luôn: “Tích cực phòng ngừa, chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động và các loại tội phạm”[6]. Vì thế, để nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về công tác phòng, chống tham nhũng trong thời gian tới, tác giả xin đề xuất một số giải pháp, khuyến nghị cơ bản sau: 

Thứ nhất, Đảng ta tiếp tục đẩy mạnh công tác đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về công tác phòng, chống tham nhũng trong thời gian tới. Việt Nam đang trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế mạnh mẽ, đây cũng là tiền đề, điều kiện để các thế lực thù địch, các phần tử phản động tăng cường tuyên truyền, xuyên tạc, đưa ra những quan điểm sai trái, thù địch để chống phá Đảng, Nhà nước ta, đặc biệt chúng triệt để tấn công vào công tác phòng, chống tham nhũng của Việt Nam trong xuyên suốt thời gian vừa qua.

Thứ hai, tập trung đầu tư vào chương trình đào tạo và bồi dưỡng chuyên sâu về công tác đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về công tác phòng, chống tham nhũng cho cán bộ trực tiếp đấu tranh, phản bác; chú trọng hướng dẫn kỹ năng diễn đạt, viết bài phản bác. Đồng thời, cần thiết lập các chương trình đào tạo liên ngành để tăng cường sự hiểu biết và tư duy toàn diện về những luận điệu của các thế lực thù địch.

 Ba là, phát huy vai trò của các tổ chức cơ quan thông tấn, báo chí trong việc đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về công tác phòng, chống tham nhũng. Thông qua các hoạt động của báo chí giúp tuyên truyền, phổ biến, quán triệt các quan điểm của Đảng, Nhà nước về công tác đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về công tác phòng, chống tham nhũng.

Bốn là, huy động quần chúng nhân dân tham gia vào đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về công tác phòng, chống tham nhũng. Đây là lực lượng đông đào, góp phần thực hiện thắng lợi trên mọi mặt trận, do đó cần phải triệt để phát huy vai trò của quần chúng nhân dân vào công cuộc đấu tranh này. Mỗi quần chúng là một “chiến sĩ”, với việc được trang bị đầy đủ kiến thức, nhận diện một cách đầy đủ, chính xác về các luận điệu “mị dân” của thế lực thù địch thì quần chúng nhân dân hoàn toàn có thể đấu tranh, phản bác lại các quan điểm sai trái, thù địch này.

Có thể thấy, đất nước ta vẫn đang trong tiến trình hội nhập và phát triển, công tác phòng, chống tham nhũng vẫn luôn là vấn đề được quan tâm hàng đầu của Đảng, các thế lực thù địch vẫn sẽ luôn “bấu víu” vào công tác phòng, chống tham nhũng của Đảng ta để đưa ra các luận điệu “mị dân”, phủ nhận những thành quả mà ta đã đạt được trong công cuộc phòng, chống tham nhũng. Vì vậy, việc đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về công tác phòng, chống tham nhũng vẫn sẽ luôn là công tác thường xuyên, liên tục của Đảng để từ đó tiến tới xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc, Đảng ta thực sự trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là đảng cầm quyền./.

 Tạp chí Xây dựng Đảng

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: TRUNG THU, VÔ TÌNH THẤY LẠI BÀI VĂN NÀY, ĐỌC LẠI MÀ SAO LÒNG RƯNG RƯNG QUÁ... XIN CHIA SẺ CÙNG BẠN ĐỌC!

         Ngày nhỏ chỉ biết rằng bài văn ấy hay.
Lớn lên mình mới thấy, để có cái hay ấy chính là xương máu của bao lớp cha anh đã ngã xuống để có được.

Cái bánh chúng mình ăn, cái đèn chúng mình rước, con phố lấp lánh chúng mình đi qua... tất cả đều là bình thường của hôm nay nhưng chính là mơ ước của hôm qua. 

“Anh nhìn trăng và nghĩ tới ngày mai...
   Ngày mai, các em có quyền mơ tưởng một cuộc sống tươi đẹp vô cùng. Mươi mười lăm năm nữa thôi, các em sẽ thấy cũng dưới ánh trăng này, dòng thác nước đổ xuống làm chạy máy phát điện; ở giữa biển rộng, cờ đỏ sao vàng phấp phới bay trên những con tàu lớn. Trăng của các em sẽ soi sáng những ống khói nhà máy chi chít, cao thẳm, rải trên đồng lúa bát ngát vàng thơm, cùng với nông trường to lớn, vui tươi…”

Ngày hôm nay, nhất là sau khi thấm tình đồng bào, cùng san sẻ những giờ phút khó khăn nhất sau cơn bão, xin kính cẩn nghiêng mình cảm ơn các "anh" đã hy sinh để chúng em có được trung thu tươi đẹp này!

Xin cảm ơn, xin biết ơn, ngàn lần!
Việt Nam!
Trích Trung thu độc lập, Thép Mới.
Môi trường ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: TỔNG BÍ THƯ, CHỦ TỊCH NƯỚC TÔ LÂM SẼ CÓ THÔNG ĐIỆP QUAN TRỌNG TẠI LIÊN HỢP QUỐC!

     Từ ngày 21 đến 27-9-2024, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam Tô Lâm và Phu nhân cùng đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam sẽ tham dự Hội nghị Thượng đỉnh Tương lai, Đại hội đồng Liên hợp quốc Khóa 79, làm việc tại Hoa Kỳ, sau đó thăm cấp Nhà nước tới Cuba theo lời mời của Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Cuba, Chủ tịch nước Cộng hòa Cuba Miguel Diaz Canel Bermudez cùng Phu nhân!
Nhân dịp này, Phó thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn trả lời phỏng vấn báo chí trước chuyến công tác của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm.

Phóng viên (PV): Xin Phó thủ tướng, Bộ trưởng cho biết ý nghĩa chuyến công tác tham dự Đại hội đồng Liên hợp quốc Khóa 79 và làm việc tại Hoa Kỳ của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm?

Phó thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn: Từ ngày 22 đến 24-9-2024, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm sẽ tham dự Hội nghị thượng đỉnh Tương lai, Phiên họp cấp cao Đại hội đồng Liên hợp quốc Khóa 79 và làm việc tại Hoa Kỳ. Đây là chuyến công tác tham dự hoạt động đối ngoại đa phương và làm việc tại Hoa Kỳ đầu tiên của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước trên cương vị mới. Đây cũng là lần đầu tiên một Tổng Bí thư, Chủ tịch nước ta tham dự trực tiếp các phiên họp cấp cao tại Đại hội đồng Liên hợp quốc.

Diễn ra trong bối cảnh thế giới và Liên hợp quốc đang chứng kiến nhiều biến chuyển sâu sắc, với nhiều thách thức truyền thống và phi truyền thống, tác động mạnh mẽ đến các thể chế đa phương, hợp tác và phát triển bền vững trên phạm vi toàn cầu và với từng quốc gia, nội dung các hội nghị lần này rất “đúng và trúng”[1]. Với 150 Người đứng đầu Nhà nước và Chính phủ các nước thành viên Liên hợp quốc dự kiến tham dự, Liên hợp quốc và cộng đồng quốc tế sẽ cùng rà soát, tìm các cách thức hữu hiệu đẩy nhanh tiến độ thực hiện các Mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) cho đến năm 2030, đề ra các định hướng lớn về phát triển cho giai đoạn tới.

Tại Liên hợp quốc, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm sẽ đem tới những thông điệp lớn, quan trọng ủng hộ mạnh mẽ chủ nghĩa đa phương, với vai trò trung tâm của Liên hợp quốc đối với hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới. Đây cũng là dịp Việt Nam một lần nữa khẳng định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, luôn đóng góp tích cực vào hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới.

Chuyến công tác làm việc của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm tại Hoa Kỳ diễn ra đúng vào dịp kỷ niệm một năm hai nước nâng cấp quan hệ lên đối tác chiến lược toàn diện và đang tích cực chuẩn bị cho các hoạt động kỷ niệm 30 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Hoa Kỳ vào năm 2025. Đây là dịp quan trọng để hai bên cùng nhìn lại những thành tựu mà khuôn khổ quan hệ mới mang lại, đồng thời thảo luận về những định hướng và biện pháp lớn để tiếp tục duy trì đà phát triển tích cực, ổn định, thực chất của quan hệ trong nhiều năm tới.

Hai bên sẽ tiếp tục bám sát những nguyên tắc nền tảng của quan hệ hai nước, bao gồm “tôn trọng hiến chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế và tôn trọng thể chế chính trị, độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau”, củng cố hơn nữa tin cậy chính trị và lòng tin chiến lược, đảm bảo nguyện vọng của nhân dân hai bên, đóng góp tích cực hơn nữa cho hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển bền vững tại khu vực cũng như trên thế giới.

Trong khuôn khổ chuyến công tác, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm sẽ có các cuộc tiếp xúc song phương quan trọng với lãnh đạo Chính quyền Hoa Kỳ, tham dự và phát biểu tại sự kiện hướng tới kỷ niệm 30 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Hoa Kỳ và một năm nâng cấp quan hệ lên đối tác chiến lược toàn diện, cũng như các cuộc tiếp xúc, làm việc với sự tham gia của các quan chức, doanh nghiệp, chuyên gia, học giả hàng đầu của Hoa Kỳ.

PV: Xin Phó thủ tướng, Bộ trưởng cho biết những đóng góp của Việt Nam đối với Liên hợp quốc? Ông đánh giá thế nào về thành quả hợp tác giữa Việt Nam và Hoa Kỳ?

Phó thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn: Trong gần 50 năm qua, mối quan hệ giữa Việt Nam và Liên hợp quốc đang phát triển tích cực, ngày càng đi vào chiều sâu, không ngừng được củng cố và tăng cường. Trong các giai đoạn tái thiết đất nước, phục hồi sau chiến tranh đến phá bao vây cấm vận và từng bước hội nhập quốc tế, chúng ta đều có sự đồng hành, giúp đỡ của Liên hợp quốc. Gần đây nhất, trong giai đoạn ứng phó với đại dịch Covid-19, Liên hợp quốc đã kịp thời hỗ trợ Việt Nam sớm kiểm soát đại dịch và phục hồi kinh tế.

Việt Nam trở thành một đối tác tin cậy, tích cực và có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế cũng như của Liên hợp quốc. Chúng ta tham gia ngày càng chủ động, tích cực, đóng góp ngày càng thực chất, sâu rộng cả về ý tưởng, con người, nguồn lực trên tất cả các lĩnh vực hoạt động trụ cột của Liên hợp quốc về gìn giữ hòa bình, an ninh và hợp tác phát triển; trong đó, có thể kể đến việc đi đầu thực hiện thành công các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ từ những năm 2000 và hiện đang tích cực triển khai các Mục tiêu phát triển bền vững, đi đầu triển khai sáng kiến Một Liên hợp quốc thống nhất hành động của các tổ chức Liên hợp quốc ở Việt Nam, tham gia tích cực vào các ưu tiên lớn của Liên hợp quốc về hòa bình, phát triển và bảo đảm quyền con người.

Chúng ta cũng được cộng đồng quốc tế tín nhiệm và đặt nhiều kỳ vọng, đã và đang đảm nhiệm thành công nhiều vị trí quan trọng tại Liên hợp quốc. Lãnh đạo Liên hợp quốc luôn đánh giá cao vai trò và đóng góp của Việt Nam và mong Việt Nam tiếp tục đóng vai trò ngày càng tích cực hơn nữa trên các lĩnh vực ưu tiên của Liên hợp quốc.

Về quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ, sau một năm triển khai quan hệ đối tác chiến lược toàn diện, hợp tác giữa hai nước đã đạt được nhiều kết quả tích cực ở một số lĩnh vực sau:
Thứ nhất, các hoạt động tiếp xúc và trao đổi đoàn diễn ra sôi động ở tất cả các kênh, các cấp. Bên cạnh việc duy trì các cơ chế đối thoại thường niên đã có, hai bên đã khởi động thành công các cơ chế đối thoại thường niên mới như Đối thoại Bộ trưởng Ngoại giao, Đối thoại Kinh tế, Đối thoại An ninh và Thực thi pháp luật, qua đó cụ thể hóa các cam kết của hai bên trong Tuyên bố chung năm 2023.

Thứ hai, kinh tế - thương mại - đầu tư tiếp tục là xung lực quan trọng cho quan hệ hai nước. Kim ngạch thương mại song phương 8 tháng đầu năm 2024 đạt gần 88 tỷ USD, tăng 22%. Nhiều doanh nghiệp lớn của hai nước tích cực mở rộng đầu tư vào thị trường của nhau, tạo thế đan xen lợi ích bền chặt.

Thứ ba, hợp tác an ninh - quốc phòng tiếp tục được triển khai hiệu quả, trong đó, hợp tác khắc phục hậu quả chiến tranh tiếp tục là ưu tiên và là trụ cột quan trọng trong quan hệ hai nước, đạt được nhiều kết quả thực chất; hợp tác an ninh và thực thi pháp luật ngày càng được tăng cường…   

Thứ tư, hai bên tiếp tục phối hợp chặt chẽ tại các cơ chế, diễn đàn đa phương quan trọng cũng như hợp tác thực chất nhằm ứng phó với các vấn đề toàn cầu.

Bên cạnh đó, với những vấn đề còn khác biệt, hai bên sẽ tiếp tục tăng cường đối thoại trên tinh thần thẳng thắn, xây dựng và quan tâm đến các lợi ích chính đáng của nhau.

PV: Trân trọng cảm ơn Phó thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn!
-----------------------
[1] Chủ đề của các Hội nghị “Giải pháp đa phương vì một tương lai tốt đẹp hơn” và “Không để ai bị bỏ lại phía sau: Cùng hành động để thúc đẩy hòa bình, phát triển bền vững và phẩm giá con người cho các thế hệ hiện tại và mai sau”./.
Ảnh: Phó thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn.
Yêu nước ST.