Xây dựng bản chất giai cấp công nhân (GCCN) là vấn
đề trọng yếu, xuyên suốt, là thực chất quá trình xây dựng quân đội kiểu
mới do GCCN lãnh đạo; là nội dung cốt lõi có ý nghĩa then chốt trong xây
dựng Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ,
từng bước hiện đại, làm cơ sở lý luận, thực tiễn vững chắc để nâng cao
chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của Quân đội ta.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến xây dựng bản chất GCCN cho Quân đội ta.
Người khẳng định, Quân đội ta là quân đội kiểu mới của GCCN-giai cấp
tiên tiến nhất, giác ngộ và kiên quyết nhất, cách mạng triệt để nhất, có
kỷ luật tự giác, nghiêm minh và tổ chức chặt chẽ nhất; có sứ mệnh lịch
sử vẻ vang là xung kích đi đầu thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, đem lại cuộc sống hòa bình, độc lập, tự do, ấm no, hạnh
phúc cho nhân dân.
Vì vậy, Người luôn đặt vấn đề xây dựng bản chất GCCN, tính nhân dân
và tính dân tộc lên vị trí hàng đầu trong xây dựng quân đội cách mạng
kiểu mới, làm cho cán bộ, chiến sĩ giác ngộ mục tiêu, lý tưởng chiến
đấu, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân;
xứng đáng là công cụ bạo lực sắc bén của Đảng, GCCN và nhân dân lao
động; mang trong mình bản chất của GCCN, tính nhân dân và tính dân tộc
sâu sắc; có nghị lực phi thường, bản lĩnh chính trị và ý chí quyết tâm
cao; sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.
Đây là điều căn cốt nhất, bản chất nhất, làm cho Quân đội ta khác
biệt về chất so với các quân đội kiểu cũ của các nhà nước bóc lột, sử
dụng quân đội làm công cụ bạo lực trấn áp nhân dân, bảo vệ quyền lợi
chính trị và lợi ích kinh tế của giai cấp thống trị, đối lập với lợi ích
của nhân dân. Lý luận và thực tiễn 80 năm xây dựng, phát triển, chiến
đấu, chiến thắng và trưởng thành của Quân đội ta đã khẳng định sự đúng
đắn của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng bản chất
GCCN cho quân đội kiểu mới-một Quân đội sinh trưởng ở một nước nông
nghiệp lạc hậu, bị thực dân, đế quốc đô hộ; vũ khí, trang bị quân sự còn
nghèo nàn, thô sơ, lạc hậu, nhưng chính Quân đội ấy đã cùng với toàn
Đảng, toàn dân làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công,
khai sinh ra Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa-nhà nước dân chủ đầu
tiên ở Đông Nam châu Á, rồi từng bước tiến dần lên chính quy, hiện đại.
Cùng với việc khẳng định vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng và tính
tất yếu phải tăng cường bản chất GCCN trong xây dựng QĐND Việt Nam cách
mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đồng thời nhấn mạnh sự cần thiết phải chú
trọng bồi dưỡng tính nhân dân và tính dân tộc cho quân đội, vì đây là
những thuộc tính đặc trưng bản chất nhất của Quân đội ta, một quân đội
từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, gắn bó máu thịt với nhân
dân; nhờ đó, tạo nên phẩm chất, giá trị nhân cách Bộ đội Cụ Hồ-bộ đội
của dân; là cội nguồn sức mạnh bách chiến bách thắng của quân đội cách
mạng; làm cho Quân đội ta trở thành QĐND, do nhân dân và vì nhân dân,
một lòng tận trung với nước, trọn hiếu với dân, suốt đời phấn đấu, hy
sinh “phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”.
Điều đó đã trở thành niềm tin, lẽ sống của người quân nhân cách mạng,
nhân cách Bộ đội Cụ Hồ. Ngoài lợi ích vì nhân dân phục vụ, vì Tổ quốc
dâng hiến, chiến đấu, hy sinh, Quân đội ta không có mục tiêu, lợi ích
nào khác. Có thể khẳng định, bản chất GCCN là sinh mệnh của quân đội
kiểu mới; tăng cường bản chất GCCN cho Quân đội ta là yêu cầu đầu tiên,
quyết định nguồn gốc, bản chất, quá trình hình thành, phát triển
của quân đội cách mạng do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Đây là vấn đề
có tính nguyên tắc để Quân đội ta không bao giờ lầm đường, lạc lối;
chệch hướng XHCN, bị “phi chính trị hóa”, “dân sự hóa”, mắc mưu “diễn
biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Điều này có ý nghĩa thế giới quan, nhân sinh quan và phương pháp luận
sâu sắc đối với việc bảo đảm cho Quân đội ta luôn luôn đi đúng định
hướng lãnh đạo của Đảng, “lấy chính trị làm gốc”, “chính trị trọng hơn
quân sự”, thực hiện tốt phương châm “người trước, súng sau” mà Đảng và
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định ngay từ khi Quân đội ta mới ra đời.
Thực tế chứng minh rằng, Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi
mặt đối với quân đội bắt nguồn từ bản chất GCCN của Đảng, làm cho Đảng
là lực lượng tiên phong duy nhất nắm quân đội, cầm quyền lãnh đạo quân
đội; tuyệt đối không phân chia, phân quyền, nhường quyền lãnh đạo cho
bất kỳ cá nhân, tổ chức, lực lượng nào khác; không cần và không phải
thông qua bất cứ khâu trung gian nào. Vì lẽ đó, Đảng lãnh đạo tuyệt đối,
trực tiếp về mọi mặt đối với quân đội đã trở thành nguyên tắc cơ bản,
xuyên suốt, mang ý nghĩa “bất di bất dịch” trong xây dựng Quân đội ta.
Nói một cách khác, không có Đảng thì không có quân đội; không có Đảng
mạnh thì không có quân đội mạnh. Việc coi nhẹ hay xa rời bản chất GCCN
của Đảng là nguy cơ dẫn đến quân đội mất “gốc” chính trị, rơi vào trạng
thái hỗn loạn, bị “phi chính trị hóa”, “dân sự hóa”, trở thành đội quân
vô dụng, lại có hại, mất sức chiến đấu. Thực tiễn xây dựng quân đội Liên
Xô và quân đội các nước XHCN ở Đông Âu trong những năm 90 của thế kỷ 20
đã nói lên điều đó.
Trải qua 80 năm xây dựng, phát triển, chiến đấu, chiến thắng và
trưởng thành, Quân đội ta đều thấm nhuần sâu sắc Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, giữ vững và phát huy bản chất tốt đẹp
của GCCN, nhờ đó mà vượt qua mọi tàn dư, hạn chế của chế độ cũ để lại,
đồng thời vượt qua những khó khăn, thách thức trong các cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược để tự nâng tầm cao, uy tín,
vị thế của một quân đội kiểu mới với việc không ngừng tăng cường, bồi
đắp bản chất của GCCN, tính nhân dân và tính dân tộc. Đây là nét đặc
sắc, độc đáo, riêng có của Quân đội ta-một quân đội mác xít kiểu mới của
GCCN do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo, giáo dục và
rèn luyện, đã làm nên truyền thống vẻ vang Quân đội anh hùng của dân tộc
Việt Nam anh hùng.
Bản chất GCCN của Quân đội ta được thể hiện sinh động trong thực tiễn
huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi cũng như thực
hiện các nhiệm vụ chính trị, quân sự, tập trung nhất, rõ ràng nhất ở
việc thực hiện tốt 3 chức năng là đội quân chiến đấu, đội quân công tác
và đội quân lao động sản xuất; từ tổ chức, xây dựng đến rèn luyện, chiến
đấu; từ đấu tranh giải phóng dân tộc đến xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam XHCN và làm nghĩa vụ quốc tế cao cả. Trong các giai đoạn, thời
kỳ khác nhau của cách mạng, trên mọi lĩnh vực, các nhiệm vụ, Quân đội ta
luôn là lực lượng chính trị tin cậy, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc,
với Đảng, Nhà nước và nhân dân, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ, luôn
xứng đáng là Bộ đội Cụ Hồ-bộ đội của nhân dân.
Rõ ràng, vai trò cầm quyền lãnh đạo của Đảng và
bản chất cách mạng của GCCN đã quy định, quyết định sự trưởng thành và
không ngừng phát triển, lớn mạnh của Quân đội ta; làm nên giá trị văn
hóa quân sự nhân văn độc đáo, đặc sắc, được kết tinh trong phẩm chất,
nhân cách Bộ đội Cụ Hồ. Đây là điều khác biệt căn bản nhất của Quân đội
ta so với quân đội nhiều nước trên thế giới.
Cương lĩnh và Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam đều ghi rõ, Đảng ta là
đội tiên phong của GCCN, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao
động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của GCCN, của
nhân dân lao động và của dân tộc. Điều đó khẳng định sâu sắc rằng, Đảng
ta mang bản chất GCCN; Quân đội ta do Đảng lãnh đạo, đương nhiên, Quân
đội ta mang bản chất GCCN. Chân lý này đã được khẳng định và không bao
giờ thay đổi.
Với ý nghĩa ấy, tăng cường bản chất GCCN cho Quân đội ta, thực chất
là tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối
với Quân đội. Sự khẳng định ấy vừa mang tính nguyên tắc, không thể vi
phạm, vừa là định hướng chính trị chỉ đạo việc tăng cường xây dựng, củng
cố bản chất GCCN cho Quân đội ta trong bối cảnh tình hình thế giới, khu
vực đặc biệt phức tạp hiện nay; tiếp tục lấy xây dựng Quân đội tinh
nhuệ về chính trị làm cơ sở, nền tảng vững chắc để xây dựng Quân đội
tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại-một vấn đề có tính quy luật cần nhận
thức đúng và thực hiện hiệu quả.
Đối với Quân đội ta, bản chất GCCN, tính nhân dân và tính dân tộc của
quân đội cách mạng không phải tự nhiên mà có; nó là sản phẩm từ quá
trình tinh chế, đào luyện cẩn trọng, công phu, nghiêm túc mà nên. Vì lẽ
đó, nâng cao chất lượng giáo dục-đào tạo, bồi dưỡng nhân cách Bộ đội Cụ
Hồ có ý nghĩa quyết định bản chất GCCN của Quân đội ta thời kỳ mới.
Trong đó, nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, luật
pháp của Nhà nước là biện pháp hàng đầu đối với cán bộ, chiến sĩ toàn
quân. Đó là phương cách tốt nhất để tăng cường và phát huy vai trò cầm
quyền, lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong Quân đội, góp phần cùng
với Đảng, Quân đội ta hoàn thành sứ mệnh lịch sử của GCCN.
LTS: Thu hút, trọng dụng nhân tài tưởng như câu
chuyện “biết rồi”, nhưng còn rất nhiều điều phải nói, vì đây là vấn đề
liên quan đến sự thịnh suy của sơn hà xã tắc. Đảng, Nhà nước ta luôn
nhấn mạnh vai trò, tầm quan trọng đặc biệt của “nguyên khí quốc gia” đối
với sự phát triển đất nước, nhưng vì sao nhân tài đất Việt lại chưa làm
cho thế nước mạnh và hưng thịnh?
Cách đây hơn một năm, ngày 31-7-2023, Chính phủ ban hành Chiến lược quốc gia về thu hút, trọng dụng nhân tài đến
năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Để chiến lược này thực sự đi vào cuộc
sống, từ nhận thức đến hành động, chúng ta có nhiều việc phải giải quyết
căn cơ, thấu đáo mới kỳ vọng tạo ra bước đột phá về việc thu hút, trọng
dụng nhân tài để góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và sức
mạnh Việt trong thời gian tới.
Một dân tộc giàu trí tuệ là một dân tộc có phúc. Một thể chế chính
trị biết chiêu hiền đãi sĩ, xem trọng những người giàu kiến thức và năng
lực là một thể chế chính trị tiến bộ, văn minh. Chúng ta nhận thức được
vấn đề căn cốt đó, nhưng vì sao lại chưa biến thành hành động quyết
liệt để mọi nhân tài đều có cơ hội phát huy, tỏa sáng?
Hành trình “thai nghén” chiến lược quốc gia về nhân tài kéo dài gần 10.000 ngày
Cách đây 27 năm, Hội nghị Trung ương 3, khóa VIII ban hành Nghị quyết
số 03-NQ/TW ngày 18-6-1997 về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây là lần đầu tiên Đảng ta nêu ra
chủ trương phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng nhân tài. Tiếp đó, các
Văn kiện Đại hội IX, X, XI, XII, XIII của Đảng đều nhấn mạnh vai trò,
tầm quan trọng đặc biệt của việc phát hiện, thu hút, trọng dụng nhân tài
đối với sự phát triển đất nước.
Chủ trương đưa ra như vậy, nhưng chậm đi vào cuộc sống, chậm được cụ
thể hóa bằng cơ chế, chính sách, vì thế, nhiều nhân tài ở cả trong và
ngoài nước vẫn không có cơ hội được dấn thân, cống hiến cho đất nước.
Bằng chứng là, tính từ dấu mốc Hội nghị Trung ương 3, khóa VIII (năm
1997), phải tới 20 năm sau (thời gian tương đương 4 nhiệm kỳ đại hội của
Đảng), ngày 5-12-2017, Chính phủ mới ban hành Nghị định số
140/2017/NĐ-CP về chính sách thu hút, tạo nguồn cán bộ từ sinh viên tốt
nghiệp xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ. Tiếp đó, ngày 31-7-2023, Chính phủ
mới ban hành Chiến lược quốc gia về thu hút, trọng dụng nhân tài đến
năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Nghĩa là sau 27 năm, hành trình từ chủ
trương đi tới quyết sách cụ thể về thu hút, trọng dụng nhân tài đã trải
qua gần 10.000 ngày!
Theo PGS, TS Vũ Minh Khương, giảng viên cao cấp Trường Chính sách
công Lý Quang Diệu (Đại học Quốc gia Singapore), thành viên Tổ tư vấn
kinh tế của Thủ tướng Chính phủ, Việt Nam từ năm 1945 đến nay đã trải
qua hai thời kỳ khiến thế giới kinh ngạc, đó là thời kỳ “đứng dậy” (đứng
lên đánh đuổi hai đế quốc xâm lược, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân
tộc); thời kỳ “thức dậy” (thức tỉnh năm 1986, làm nên những kỳ tích
trong công cuộc đổi mới).
Thời kỳ hiện nay là “trỗi dậy” để vươn lên trở thành nước phát triển
vào năm 2045. Muốn đạt được mục tiêu “trỗi dậy” của đất nước, một trong 3
vấn đề then chốt là phải quan tâm đến phát triển nguồn nhân lực cao,
đặc biệt là thu hút, trọng dụng nhân tài. Tuy nhiên, PGS, TS Vũ Minh
Khương cho rằng: “Chúng ta mới sử dụng được khoảng 50% tiềm năng của đất
nước. Lãng phí nguồn lực và lãng phí thời cơ còn khá phổ biến trong mọi
lĩnh vực và tổ chức”.
Một trong những biểu hiện của sự lãng phí nguồn lực là chúng ta chưa
quy tụ, phát huy được nhân tài để tạo ra động lực phát triển bứt phá cho
đất nước. Khoảng một thập niên gần đây, nhiều địa phương đã ban hành
chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài, nhưng cách làm chưa căn cơ, có
biểu hiện chạy theo phong trào, “đánh trống khua chiêng” là chính.
Theo thông tin từ Bộ Nội vụ, thực hiện Nghị định số 140/2017/NĐ-CP,
trong hai năm gần đây (2022-2023), cả nước mới thu hút được 584 sinh
viên xuất sắc, nhà khoa học trẻ vào khu vực công (trong đó Trung ương là
170 người, địa phương là 414 người). Cả nước có 63 tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương, như vậy trung bình trong một năm, mỗi tỉnh, thành phố
chỉ thu hút được từ 3 đến 4 nhân tài vào khu vực công.
Lãnh đạo Bộ Nội vụ rất trăn trở khi cho rằng, nhiều địa phương có
điều kiện phát triển kinh tế-xã hội hàng đầu đất nước, như Hà Nội, TP Hồ
Chí Minh, Đà Nẵng, Vĩnh Phúc... dù đã ban hành chính sách thu hút nhân
tài, song đến nay, số lượng nhân tài vào bộ máy công quyền còn thấp so
với kỳ vọng.
Nhiều nhân tài “mắc kẹt” bởi thái độ hẹp hòi và điểm nghẽn cơ chế
Dân tộc Việt Nam có truyền thống quý mến, trọng dụng nhân tài. Nhiều
bậc đế vương anh minh của các triều đại Lý, Trần, Lê, Nguyễn đều xuống
“Chiếu cầu hiền” chiêu mộ nhân tài, tổ chức các kỳ thi khắt khe để phát
hiện, bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài. Đặc biệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh
có cách phát hiện, thu hút, ứng xử, đối đãi rất khéo léo, đúng mực đối
với các nhân tài.
Tuy nhiên, nhiều bài học về thu hút, trọng dụng nhân tài của các bậc
tiền nhân lại chưa được chúng ta vận dụng, phát huy một cách thấu tình
đạt lý để phục vụ công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Trong khi Đảng ta yêu cầu: “Hình thành ý thức và tâm lý xã hội tôn
trọng, tôn vinh trí thức, coi “hiền tài là nguyên khí của quốc gia”, thì
dưới con mắt của không ít cán bộ lãnh đạo, nhân tài chỉ là nhà khoa
học, chuyên gia, trí thức, văn nghệ sĩ làm chuyên môn thuần túy. Đáng
nói hơn, thái độ ứng xử với nhân tài cũng thiếu khoa học. Nhiều tổ chức,
cơ quan và người lãnh đạo vẫn coi trọng bằng cấp hơn thực học, thực
tài, thực nghiệp. Cách xem xét, đánh giá như vậy là sai bản chất, vì họ
coi trọng hình thức hơn nội dung, làm trái quy luật của triết học biện
chứng là “nội dung quyết định hình thức”.
Nguy hại hơn, trong công tác cán bộ thì lại chú trọng chủ nghĩa thành
phần, chủ nghĩa thân hữu. Từ tháng 2-2012, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
từng cảnh báo và yêu cầu ngăn chặn tình trạng: “Trong công tác cán bộ
thì “thứ nhất là quan hệ, thứ nhì là tiền tệ, thứ ba là hậu duệ, thứ tư
mới đến trí tuệ”.
Trí tuệ là giá trị cốt lõi của nhân tài, thế mà bị đẩy lùi ra phía
sau cùng thì làm sao nhân tài mặn mà với vận mệnh sơn hà xã tắc? TS Nhị
Lê, nguyên Phó tổng biên tập Tạp chí Cộng sản thẳng thắn cho rằng: “Khi
chúng ta hành xử không đúng mực với nhân tài, để họ đứng ra ngoài hành
trình của đất nước, thì đất nước sẽ khó phát triển”.
Trong khi đó, chính sách trọng dụng nhân tài còn bất cập. Là một nhà
nghiên cứu lâu năm, PGS, TS Nguyễn Thị Song Hà (Viện Hàn lâm Khoa học Xã
hội Việt Nam) cung cấp một thông tin khiến chúng tôi không khỏi trăn
trở: Thực trạng “chảy máu chất xám” đã, đang là vấn đề cấp bách. Chính
phủ có đề án nhằm hỗ trợ, đào tạo, bồi dưỡng nhân tài, trong đó nhiều
lưu học sinh được Chính phủ cấp học bổng đi du học hay cấp kinh phí để
cán bộ, giảng viên đi nước ngoài học tập, nâng cao trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ. Song hiện nay chưa đủ 50% số người được cử đi học về nước
cũng bởi một phần nguyên nhân là do chính sách đãi ngộ nhân tài còn vênh
so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Có nhiều rào cản khiến
không ít nhân tài của Việt Nam không muốn trở về nước để cống hiến, như:
Môi trường làm việc gò bó, cơ hội phát triển ít, thu nhập không thỏa
đáng, cơ sở vật chất không đáp ứng được nhu cầu học tập, nghiên cứu của
nhân tài. Vì vậy, nhiều tài năng của đất nước tìm cách ở lại hoặc lựa
chọn những quốc gia phát triển để làm việc.
Việt Nam loay hoay trong vị thế xếp hạng chỉ số GTCI
Theo bảng xếp hạng về chỉ số cạnh tranh nhân tài toàn cầu (GTCI) năm
2021, Việt Nam đứng thứ 82/134 quốc gia; đứng thứ 13/15 quốc gia được
xếp hạng trong khu vực Đông Á, Đông Nam Á. Chỉ số GTCI trung bình của
Việt Nam trong hai kỳ đánh giá 2016-2018 và 2019-2021 giữ nguyên ở vị
trí thứ 84/113 quốc gia.
Trông người lại ngẫm đến ta. Nhiều quốc gia Đông Nam Á đã có sự bứt
phá ngoạn mục để không ngừng vươn lên cải thiện chỉ số GTCI, như
Singapore đã vượt lên xếp vị trí thứ 2, Malaysia xếp hạng 28,
Philippines xếp hạng 52, Thái Lan xếp hạng 73. Một quốc gia có chế độ
chính trị-xã hội tương đồng với Việt Nam là Trung Quốc cũng tăng 7 bậc
trong bảng xếp hạng, từ vị trí thứ 47 lên vị trí thứ 40.
Đáng băn khoăn hơn, dù Việt Nam là một trong 10 quốc gia dẫn đầu về
chỉ số GTCI toàn cầu trong nhóm 36 quốc gia có thu nhập trung bình thấp
trên thế giới, nhưng lại không nằm trong số 10 quốc gia có xếp hạng cao
về chỉ số “thu hút nhân tài”, “giữ chân nhân tài” của nhóm này.
Chỉ số cạnh tranh nhân tài toàn cầu gồm 6 yếu tố cốt lõi, gồm: Thu
hút nhân tài; phát triển nhân tài; giữ chân nhân tài; tạo điều kiện
thuận lợi cho nhân tài; kỹ năng kỹ thuật và đào tạo nghề; kỹ năng tri
thức toàn cầu. Chỉ số GTCI là kênh thông tin tham khảo quan trọng về mức
độ coi trọng, quan tâm đến phát triển nhân tài của các quốc gia; đồng
thời phần nào khẳng định vị thế, thương hiệu và tiềm năng, sức mạnh phát
triển của mỗi quốc gia thông qua việc trọng dụng và phát huy nhân tài
một cách đúng đắn.
Để cải thiện chỉ số GTCI của Việt Nam, trong “Chiến lược quốc gia về
thu hút, trọng dụng nhân tài đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050”, Chính
phủ đề ra mục tiêu: “Chỉ số GTCI từ năm 2031 trở đi luôn được cải
thiện, phấn đấu tăng dần so với năm trước; các chỉ số về “thu hút nhân
tài”, “giữ chân nhân tài” xếp hạng cao trong số các quốc gia có thu nhập
trung bình cao".
Sự bùng nổ của mạng xã hội (MXH) với khả năng tùy
biến, cá nhân hóa và tốc độ truyền tin ngày càng cao mang lại những lợi
ích không thể phủ nhận cho cộng đồng. Tuy vậy, với mục đích và ý đồ xấu,
một số tổ chức, cá nhân thiếu thiện chí với Việt Nam đang lợi dụng điều
này để xây dựng một thế lực ảo-KOLs thù địch, phản động trên không gian
mạng. Với khả năng dẫn dắt tư tưởng một bộ phận cộng đồng mạng, KOLs
thù địch, phản động tìm mọi cách điều hướng dư luận, gieo rắc tư tưởng
độc hại nhằm phá hoại sự nghiệp cách mạng của nước ta.
“Lính đánh thuê” trên không gian mạng
KOLs (Key Opinion Leaders)-được hiểu là những người có ảnh hưởng lên
một bộ phận nhất định trong cộng đồng mạng. Thông qua các ứng dụng như
Facebook, YouTube, TikTok... KOLs xây dựng và sở hữu một kênh riêng như
"cơ quan truyền thông" cá nhân, thu hút lượng lớn người theo dõi và ủng
hộ, qua đó có thể chi phối, điều hướng dư luận trên không gian mạng, tạo ra các tác động ở những chiều cạnh khác nhau, với những mức độ, phạm vi khác nhau đối với cộng đồng và xã hội.
Hiện nay, KOLs có thể được chia thành 3 nhóm chính: Những người có uy
tín, ảnh hưởng trong xã hội, bao gồm các chính khách, nhà khoa học, nhà
báo, doanh nhân, văn nghệ sĩ...; những người hoạt động sáng tạo trên
không gian mạng, thu hút nhiều người quan tâm, theo dõi nhờ bản sắc
riêng của cá nhân, không phân biệt địa vị, ngành nghề, trình độ chuyên
môn; những người có khả năng tạo ra ảnh hưởng gián tiếp thông qua quản
lý các kênh truyền thông có lượng theo dõi lớn trên không gian mạng, sở
hữu năng lực kỹ thuật ảnh hưởng đến hoạt động của người khác trên không
gian mạng.
Bên cạnh KOLs hoạt động lành mạnh, có ảnh hưởng tích cực đến cộng
đồng mạng và đời sống xã hội, xuất hiện một bộ phận KOL lạm dụng quyền
lực MXH, sa vào “truyền thông bẩn”, “câu view” để kiếm tiền, đánh bóng
bản thân. Thậm chí, có một bộ phận thoái hóa, biến chất, vi phạm pháp
luật, mang tư tưởng thù địch, bị các thế lực xấu lợi dụng, dung túng với
mục đích chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam-đó chính là KOLs thù địch,
phản động.
KOLs thù địch, phản động khác với KOLs thông thường cả về bản chất,
quá trình hình thành lẫn nội dung, phương thức và mục đích hoạt động.
Xét về bản chất, KOLs thù địch, phản động là đối tượng có khả năng gây
phương hại đến lợi ích quốc gia-dân tộc, cần phải đấu tranh loại bỏ.
Những đối tượng này luôn được hậu thuẫn, giúp sức cả về vật chất, tinh
thần bởi các thế lực thù địch chống phá Việt Nam. Đối với KOLs thù địch,
phản động, mục tiêu “dân chủ”, “nhân quyền”... không phải là lý tưởng
cần thực hiện mà chỉ là chiêu bài, phương thức trục lợi. Nói cách khác,
thực chất, họ là tay sai, những “con rối”, “lính đánh thuê” trên không
gian mạng của các tổ chức khủng bố, phản động lưu vong nước ngoài, của
các thế lực thù địch đối với Việt Nam.
Quá trình trở thành KOLs thù địch, phản động thường theo một mô-típ
là: Từ bất mãn khi không đạt được mục đích vị kỷ của cá nhân hoặc do sa
đọa, vi phạm pháp luật đến thể hiện quan điểm chống phá chính quyền trên
không gian mạng, bị các thế lực thù địch lôi kéo, các tổ chức phản động
và cơ quan truyền thông thiếu thiện chí ở nước ngoài hà hơi tiếp sức,
cuối cùng, được “tuyển mộ” vào các tổ chức phản động, điên cuồng chống
phá Đảng, Nhà nước Việt Nam trên không gian mạng. Có thể kể đến một số
KOL có tư tưởng thù địch, phản động như: Trương Quốc Huy, Lê Văn Thương,
Đường Văn Thái...
Về nội dung, KOLs thù địch, phản động không “sáng tạo nội dung số”
lành mạnh như KOLs chân chính, mà lấy thông tin sai trái, bịa đặt, phản
động để thu hút nhiều người theo dõi, coi đó là phương thức sinh tồn,
vừa nhằm đạt mục đích “đấu tranh”, vừa kiếm tiền từ quảng cáo, sự ủng hộ
của hội viên kênh... trên các nền tảng MXH. Họ tập trung lan truyền
những thông tin sai trái, bịa đặt, xuyên tạc, bóp méo sự thật lịch sử và
tình hình đất nước Việt Nam; xuyên tạc, bôi nhọ lãnh đạo Đảng, Nhà
nước; phủ nhận thành quả của công cuộc đổi mới; khoét sâu vào những
“khoảng trống thông tin” trước, trong và sau các sự kiện chính trị, vụ
việc phức tạp, nhạy cảm để tung tin hỏa mù, hướng lái, dẫn dắt dư luận,
tấn công, tác động vào sự hiếu kỳ của công chúng, gây hoài nghi, hoang
mang trong dư luận xã hội.
Về phương thức hoạt động, KOLs thù địch, phản động ngày một tinh vi,
xảo quyệt hơn khi được đào tạo, huấn luyện chuyên nghiệp; biết triệt để
lợi dụng những ưu thế của MXH (phát trực tiếp, không cần qua quy trình
xuất bản) và hoạt động ngày càng có tổ chức, có sự phối hợp, hỗ trợ nhau
chặt chẽ. Chúng biết khai thác nhiều chủ đề chính trị-xã hội mà đông
đảo người dân quan tâm, đưa ra những mục tiêu rất cao cả và gắn liền với
lợi ích của người dân để thu hút dư luận. Kết hợp cập nhật tin bài về
tình hình thời sự trong nước, song tiếp cận theo hướng có tính đả phá,
kích động với tổ chức các “chiến dịch” quy mô lớn gắn với các sự kiện,
các vụ việc phức tạp trong nước.
Chúng cũng triệt để tận dụng các nguồn lực trên không gian mạng để
xây dựng kênh ngoại vi, kênh “sạch” nhằm duy trì nguồn doanh thu ổn
định. Đồng thời, thực hiện “tẩy trắng” kênh, tái sử dụng nội dung video,
móc nối với các đối tượng trong nước để chuyển nhượng, tái sử dụng kênh
để hoạt động không bị gián đoạn khi bị cơ quan chức năng xử lý. Bên
cạnh đó, chúng cũng áp dụng các phương thức kỹ thuật để lách thuật toán
kiểm soát của các MXH cũng như tăng đề xuất, tương tác đến người dùng,
nhằm tán phát rộng hơn, nhanh hơn các thông tin sai trái, thù địch, phản
động.
Vật chủ mang virus độc hại
Theo thống kê của We Are Social và Meltwater, tính đến tháng 1-2023,
Việt Nam có 77 triệu người dùng MXH, trong đó, người dùng Facebook là
hơn 66 triệu người, YouTube là 63 triệu người, TikTok gần 50 triệu
người. Sự phát triển mạnh mẽ của internet với sự tham gia MXH ngày càng
đông đảo của công chúng trong nước đã và đang được KOLs thù địch, phản
động triệt để lợi dụng để tán phát thông tin xấu độc. Đơn cử đối tượng
Trương Quốc Huy-một KOL thù địch, phản động cộm cán đang sở hữu kênh
YouTube N10TV với 1,54 triệu người đăng ký; đã xuất bản 4.008 video có
thông tin sai trái, thù địch; có tổng hơn 1,2 tỷ lượt xem.
Trương Quốc Huy cũng sở hữu trang cá nhân Facebook với hơn 130.000
người theo dõi; trang TikTok hơn 10.000 người theo dõi. Với lượng người
theo dõi lớn, Trương Quốc Huy thường tán phát thông tin sai trái, thù
địch, phản động rộng rãi trong cộng đồng mạng. Đáng ngại hơn, sự tung
hô, giúp sức của KOLs thù địch, phản động khác ở trong và ngoài nước;
của các hãng truyền thông thiếu thiện chí và các tổ chức phản động lưu
vong nước ngoài, các video, clip, bài viết... của Trương Quốc Huy luôn
được đồng loạt chia sẻ, tái sử dụng, tán phát, khiến cho lượng truy cập
tăng lên nhiều.
Thực tế trên cho thấy, KOLs thù địch, phản động là mối nguy hại
thường xuyên đối với Việt Nam. Hiện nay, với sự xuất hiện của KOLs có
tầm tác động, ảnh hưởng lớn trên MXH với nhiều bài đăng nhằm mục đích đả
phá, kích động, xuyên tạc, bôi nhọ, hạ uy tín các đồng chí lãnh đạo
Đảng, Nhà nước, đưa ra những nhận định, đánh giá thiếu khách quan, phiến
diện về tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước “đã
tạo nên những xu hướng thông tin dẫn dắt cộng đồng mạng”, nhất là trong
các vụ việc lớn, phức tạp, như: Vạn Thịnh Phát-SCB, FLC, Tân Hoàng Minh,
Việt Á...
Tính chất nguy hại của KOLs thù địch, phản động còn thể hiện ở chỗ họ
thi hành “mệnh lệnh” của các “ông chủ” ở nước ngoài với mục tiêu xóa bỏ
chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam. KOLs thù địch, phản động-với bản chất là “lính đánh
thuê”-không ngần ngại trở thành những vật chủ mang virus độc hại, đã và
đang ngày đêm tán phát, lây lan trên MXH, từng bước gặm nhấm niềm tin
của công chúng, của nhân dân vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, vào
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Những virus độc hại này trực tiếp tấn công vào nền tảng tư tưởng,
đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; phá
hoại quá trình đổi mới, hội nhập, phát triển của đất nước; gây chia rẽ
nội bộ, gây hoài nghi, bức xúc trong nhân dân, kích động cái gọi là
“biểu tình trong tâm thức”, “vượt biên trong tư tưởng” trong cộng đồng
mạng như bước chuẩn bị cho một cuộc “cách mạng màu” ở Việt Nam trong
tương lai.
Hiện nay, hoạt động chống phá của KOLs thù địch, phản động trên không
gian mạng rất phức tạp, với những thủ đoạn, phương thức rất tinh vi và
liên tục thay đổi theo tình hình thực tế. Chính vì vậy, các chủ thể, lực
lượng, trực tiếp là các cơ quan chức năng cần nhận diện chính xác, phân
loại rõ mức độ, tính chất nguy hại, phương thức hoạt động... của từng
KOL thù địch, phản động để vạch trần âm mưu, bản chất thâm độc của họ.
Trên cơ sở quán triệt và thực hiện tốt phương châm “lấy xây để
chống”, “lấy cái đẹp dẹp cái xấu”, “lấy tích cực đẩy lùi tiêu cực”, mỗi
cán bộ, đảng viên, mỗi chúng ta cần nâng cao khả năng tự phòng, chống,
vạch trần âm mưu, thủ đoạn và hoạt động của các thế lực thù địch, đối
tượng phản động, cơ hội chính trị, nhất là trên không gian mạng. Các cơ
quan chức năng, nhà trường cũng như các cơ quan báo chí tiếp tục chú
trọng, làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, làm cho mọi cán bộ, đảng
viên và quần chúng nhận thức đúng đắn giá trị và bản chất khoa học,
cách mạng của Chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, thấm nhuần tư tưởng xã hội chủ nghĩa, xây dựng
bản lĩnh, niềm tin vững chắc vào chế độ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta
đã chọn.
Hội nghị lần thứ 10, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã hoàn
thành toàn bộ nội dung đề ra trong một thời gian hết sức khẩn trương,
nghiêm túc, trách nhiệm với một tinh thần mới, khí thế mới, quyết tâm
mới với đúng tinh thần nói đi đôi với làm.
Ngày 18/9, Hội nghị Trung ương 10 khóa
XIII đã khai mạc trọng thể tại Thủ đô Hà Nội với nhiều điểm đổi mới đặc
biệt. Hội nghị lần này diễn ra sớm hơn và ngắn hơn dự kiến với chương
trình làm việc cả ngoài giờ hành chính. Điều này đã thể hiện rõ tinh
thần “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng,
yêu cầu cấp bách của giai đoạn cách mạng mới” - tựa đề bài viết của
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm mới đây.
Ngay trong bài phát biểu khai mạc, Tổng
Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đã phân tích rõ Hội nghị diễn ra vào thời
điểm rất đặc biệt: Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, nhà lãnh đạo
đặc biệt xuất sắc, Nhà tư tưởng, ngọn cờ lý luận của Đảng đã vĩnh biệt
chúng ta vào thời điểm toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đang quyết tâm
thực hiện thắng lợi toàn diện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; cơn bão
số 3 gây thiệt hại hết sức nặng nề về người và tài sản ở hầu hết các
tỉnh, thành phố phía Bắc; khi toàn Đảng, toàn quân, toàn dân đang tập
trung nỗ lực cao nhất để khắc phục hậu quả do cơn bão gây ra...
“Hội nghị Trung ương lần này diễn ra sớm
hơn và ngắn hơn dự kiến, chúng ta sẽ làm việc cả ngoài giờ hành chính” –
Tổng Bí thư nêu rõ.
Đây cũng là chủ trương của Bộ Chính trị,
Ban Bí thư, Ban Chấp hành Trung ương Đảng trong thời gian gần đây,
trong một số lần phát biểu, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đã yêu cầu
giảm hội họp và tăng cường giải quyết những công việc cấp bách. Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ cũng có nhiều chỉ đạo với tinh thần “mỗi người
làm việc bằng hai”; "3 ca, bốn kíp"... Trước khi diễn ra Hội nghị Trung
ương, Bộ Chính trị đã trực tiếp đi kiểm tra và chỉ đạo khắc phục cơn bão
số 3 tại các địa phương để có những quyết sách ngay tại chỗ cũng như
những chính sách lâu dài tiếp theo.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần
này thảo luận, cho ý kiến về 10 nội dung thuộc 2 nhóm vấn đề chiến lược
và một số việc cụ thể. Đây là những nội dung mang tính chất vĩ mô, có ý
nghĩa quan trọng không chỉ trong 1 nhiệm kỳ mà cả 1 giai đoạn.
Khối lượng công việc lớn cần phải giải
quyết trong thời gian ngắn, với tinh thần công tâm, trong sáng, khoa
học, khách quan, thận trọng, kỹ lưỡng, Trung ương cho ý kiến về những
công việc quan trọng để tăng tốc “về đích” thực hiện thắng lợi Nghị
quyết Đại hội XIII của Đảng - mục tiêu cao nhất của toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân ta trong năm 2025; là nền tảng để thực hiện thắng lợi các mục
tiêu chiến lược 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng và hướng tới 100 năm
thành lập nước.
Chính vì vậy, trong suốt mấy ngày diễn ra Hội nghị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã làm việc cả ngoài giờ hành chính.
Kết thúc Hội nghị, Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa XIII đã thảo luận, cho ý kiến về các nội dung: Dự thảo
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII; Dự thảo
Báo cáo Tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn về công cuộc đổi mới
theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong 40 năm qua ở Việt Nam; Dự thảo
Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tổng kết công tác
xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng; Dự thảo Báo cáo đánh giá 5 năm
thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030;
phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2026 - 2030;
Báo cáo Tổng kết thực hiện Quy chế bầu cử trong Đảng ban hành kèm theo
Quyết định số 244-QĐ/TW, ngày 09/6/2014 của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa XI và dự thảo sửa đổi, bổ sung Quy chế bầu cử trong Đảng; dự
thảo Tổng kết công tác nhân sự Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII
và Phương hướng công tác nhân sự Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIV;
giới thiệu quy hoạch Bộ Chính trị, Ban Bí thư khóa XIV, nhiệm kỳ 2026 -
2031; bổ sung quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIV, nhiệm
kỳ 2026 - 2031; Báo cáo tình hình thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội năm 2024, dự kiến Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2025;
Báo cáo đánh giá tình hình thực hiện ngân sách nhà nước năm 2024, dự
toán ngân sách nhà nước năm 2025; Kế hoạch tài chính - ngân sách nhà
nước 3 năm quốc gia 2025 - 2027; chủ trương đầu tư toàn tuyến Dự án
đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam; chủ trương thành lập thành phố
Huế trực thuộc Trung ương; bầu bổ sung Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Trung
ương khóa XIII và một số nội dung quan trọng khác.
Ban Chấp hành Trung ương thông qua nội
dung cơ bản các dự thảo văn kiện trình Đại hội XIV; giao Bộ Chính trị
căn cứ ý kiến thảo luận của Trung ương, Báo cáo tiếp thu, giải trình của
Bộ Chính trị để chỉ đạo các Tiểu ban hoàn chỉnh các dự thảo văn kiện
trên để lấy ý kiến đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV của
Đảng.
Trung ương thống nhất chủ trương chưa bổ
sung, sửa đổi Điều lệ Đảng tại Đại hội XIV; trên cơ sở tổng kết công
tác thi hành Điều lệ Đảng, đề nghị Đại hội XIV giao Ban Chấp hành Trung
ương khoá XIV chỉ đạo các cơ quan chức năng tiếp tục triển khai nghiên
cứu, tổng kết thực tiễn thi hành Điều lệ Đảng ngay từ đầu nhiệm kỳ để
báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, đề xuất bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng
vào thời điểm phù hợp.
Ban Chấp hành Trung ương đánh giá Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã ban hành và thống nhất thực hiện
Quy chế bầu cử trong Đảng đúng thời điểm, đã kịp thời cụ thể hóa các
nguyên tắc, quy định của Đảng về công tác bầu cử, tháo gỡ những vướng
mắc, phát huy dân chủ, siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng, đáp ứng
yêu cầu thực tiễn đặt ra. Về cơ bản, hầu hết các nội dung của Quy chế
bầu cử trong Đảng vẫn phù hợp với thực tiễn hiện nay. Trên cơ sở tổng
kết việc thực hiện, Ban Chấp hành Trung ương thống nhất bổ sung, sửa đổi
một số nội dung nhằm làm rõ hơn, bảo đảm chặt chẽ, cụ thể, bố cục hợp
lý hơn, đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
Có thể thấy một khối lượng công việc đồ
sộ, rất quan trọng nhưng trước yêu cầu của thực tiễn đặt ra, Trung ương
xác định các công việc phải được thực hiện với quyết tâm cao nhất, nỗ
lực lớn nhất, hành động quyết liệt với nhiều giải pháp để đạt hiệu quả
cao nhất, bảo đảm đạt và phấn đấu vượt các mục tiêu đề ra. Điều đó cho
thấy, trách nhiệm của Đảng trước nhân dân, trước lịch sử vẻ vang, hào
hùng của dân tộc, trước bạn bè quốc tế; là minh chứng khẳng định năng
lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng, do vậy phải tập trung
mọi nguồn lực, biện pháp để hoàn thành.
Trong bài viết mới đây, Tổng Bí thư, Chủ
tịch nước Tô Lâm đã khẳng định: Trong hơn 94 năm lãnh đạo Cách mạng,
Đảng ta không ngừng tìm tòi, phát triển, bổ sung, hoàn thiện phương thức
lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền. Đây là yếu tố
then chốt bảo đảm cho Đảng luôn trong sạch, vững mạnh, đưa con thuyền
cách mạng vượt qua mọi thác ghềnh, giành hết thắng lợi này đến thắng lợi
khác. Trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, Đại hội VII của Đảng lần đầu tiên đề cập “đổi mới nội dung và
phương thức lãnh đạo của Đảng”, nhấn mạnh cần “quy định cụ thể mối quan
hệ và lề lối làm việc giữa Đảng với Nhà nước và các đoàn thể nhân dân ở
các cấp, trước hết là ở Trung ương”. Các Đại hội VIII, IX, X, XI và XII
đều tiếp tục bổ sung, phát triển quan điểm về phương thức lãnh đạo của
Đảng. Đại hội XIII nhấn mạnh “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh
đạo của Đảng trong điều kiện mới”.
Trong bài viết của mình, Tổng Bí thư,
Chủ tịch nước Tô Lâm cũng đã trích câu nói nổi tiếng của V.I. Lênin:
“Khi tình hình đã thay đổi và chúng ta phải giải quyết nhiệm vụ thuộc
loại khác thì không nên nhìn lại đằng sau và sử dụng những phương pháp
của ngày hôm qua”. Thực tiễn đổi mới luôn vận động, phát triển, đòi hỏi
đổi mới không ngừng phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng trên cơ sở
kiên định các nguyên tắc của Đảng; thấm nhuần lời dạy của Tổng Bí thư Lê
Duẩn “Phải lãnh đạo chặt chẽ và có nguyên tắc, không bao giờ lung lay
trước những khó khăn, thử thách của cách mạng”.
Trước thực tiễn thời gian để hoàn thành
các mục tiêu của Đại hội Đảng XIII không còn nhiều, tình hình trong nước
và thế giới còn nhiều yếu tố bất lợi, hậu quả của bão số 3 - cơn bão
mạnh nhất trong vòng 30 năm qua cũng đang đòi hỏi những giải pháp cấp
bách và lâu dài để sớm ổn định cuộc sống của người dân, khôi phục lại
các hoạt động kinh tế - xã hội, tiếp tục duy trì đà tăng trưởng, đồng
thời đang phải ứng phó với cơn bão số 4 đang ảnh hưởng đến các tỉnh khu
vực Bắc Trung Bộ và Trung Trung Bộ. Bởi vậy, đây chính là lúc cần tiếp
tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, năng lực cầm quyền của Đảng mà
Hội nghị Trung ương lần này đã có những bước tiên phong, thể hiện trong
việc tổ chức các kỳ họp, hội nghị... để tập trung cho các công việc cấp
bách quan trọng vì nước, vì dân. Chính điều đó, một lần nữa làm tăng
thêm niềm tin của nhân dân với Đảng.
Để đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo,
năng lực cầm quyền của Đảng, đảm bảo Đảng là người cầm lái vĩ đại, đưa
dân tộc ta tiến lên mạnh mẽ theo yêu cầu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước
Tô Lâm, mỗi một địa phương, đơn vị sẽ có những giải pháp cụ thể khác
nhau xoay quanh 4 nội dung công tác trọng tâm trên cơ sở kiên định các
nguyên tắc của Đảng. Và bất cứ sự đổi mới nào cũng sẽ có những lực cản,
khó khăn nhất định nhưng với phương châm đặt lên hàng đầu lợi ích chung,
lợi ích quốc gia, dân tộc và cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân,
chúng ta sẽ hoàn thành các mục tiêu của Đại hội XIII để bước vào kỷ
nguyên vươn mình của dân tộc.
Chúng ta tin tưởng và hy vọng rằng, tinh
thần nêu gương của Trung ương Đảng trước thời điểm lịch sử mới, kỷ
nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, chắc chắn sẽ lan tỏa đến
các cấp, các ngành trong toàn hệ thống chính trị. Khí thế mới, quyết tâm
mới sẽ tạo nên sức mạnh để chúng ta vượt qua giai đoạn khó khăn trước
mắt để hoàn thành tốt các chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội XIII đã đề ra./.
TCCS - Trong bối cảnh hội nhập quốc tế diễn ra mạnh mẽ, Việt Nam đứng trước nhiều cơ hội, nhưng cũng đối mặt với không ít khó khăn, thách thức. Thực trạng này đòi hỏi cán bộ, đảng viên không ngừng rèn luyện, học tập và nâng cao trình độ chuyên môn, đạo đức cách mạng để có thể đáp ứng được yêu cầu phát triển đất nước trong thời đại mới.
Bàn về đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong thời đại mới
Hiện nay, trong bối cảnh Việt Nam hội nhập quốc tế sâu rộng và toàn diện, cán bộ, đảng viên phải chịu tác động bởi nhiều nhân tố, như xu thế toàn cầu hóa, biến động to lớn của tình hình thế giới và khu vực, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ... càng đòi hỏi cán bộ, đảng viên có năng lực cần thiết để đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới. Theo Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, “đất nước ta đang đứng trước những yêu cầu, nhiệm vụ mới với nhiều thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen. Sự nghiệp đổi mới, hội nhập quốc tế, phát triển đất nước đang chuyển sang giai đoạn mới, yêu cầu cao hơn, ngày càng đi vào chiều sâu, khó khăn, phức tạp hơn so với trước. Bối cảnh trong nước, quốc tế đã có nhiều thay đổi, đang diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường”(1). Điều đó yêu cầu cán bộ, đảng viên thường xuyên trau dồi đạo đức cách mạng, tuyệt đối trung thành với Đảng và Nhà nước, bảo vệ danh dự Tổ quốc và lợi ích quốc gia, không mất phương hướng, mất cảnh giác, không vì lợi ích cá nhân mà xem nhẹ lợi ích quốc gia. Yêu cầu về bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng là nền tảng bắt buộc đối với cán bộ, đảng viên. Muốn phục vụ nhân dân tốt, mỗi cán bộ, đảng viên phải có đạo đức trong sáng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân. Đây là vấn đề quan trọng hàng đầu của mỗi cán bộ, đảng viên.
Bàn về vai trò của cán bộ, đảng viên, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Sự trưởng thành, lớn mạnh và phát triển của đội ngũ cán bộ trong mấy chục năm qua là nhân tố hàng đầu quyết định làm nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay”(2). Thực tiễn cho thấy, cán bộ, đảng viên là nòng cốt, là một trong những nhân tố quyết định tạo nên những thành tựu to lớn về kinh tế, chính trị, giáo dục... của nước ta thời gian qua. Tuy nhiên, dưới tác động của bối cảnh mới, trong tác phẩm Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã luận bàn về các phẩm chất đạo đức cách mạng mà mỗi cán bộ, đảng viên cần có, đó là:
Thứ nhất, cán bộ, đảng viên phải có tinh thần yêu nước sâu sắc, có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, đường lối của Đảng, Hiến pháp của Nhà nước và lợi ích của quốc gia, dân tộc. Có ý chí chiến đấu cao, gương mẫu thực hiện nguyên tắc, kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước; dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm; nói đi đôi với làm, gắn bó mật thiết với nhân dân, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, quyết liệt trong hành động(3). Như vậy, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã bổ sung các phẩm chất quan trọng mà cán bộ, đảng viên phải có trong bối cảnh mới là dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm và dám đương đầu với khó khăn, thử thách, quyết liệt trong hành động. Đây là các phẩm chất cách mạng, tiên phong cần được hình thành, vun đắp và bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên nhằm xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh và văn minh.
Thứ hai, cán bộ, đảng viên phải có phẩm chất đạo đức và lối sống trong sáng, gương mẫu, được cán bộ, đảng viên và nhân dân tín nhiệm. Có tinh thần trách nhiệm cao, tâm huyết, tận tụy với công việc; bản thân không tham nhũng, quan liêu, cơ hội, vụ lợi, tham vọng quyền lực và kiên quyết đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực, quan liêu, tham nhũng; không để vợ, chồng, con, người thân lợi dụng chức quyền để trục lợi. Có ý thức giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, gương mẫu chấp hành sự phân công và nguyên tắc tổ chức, kỷ luật của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình; công minh, công bằng trong đánh giá, sử dụng cán bộ(4). Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng rất quan tâm đến công tác nêu gương của cán bộ, đảng viên. Đặc biệt, khi một bộ phận nhỏ cán bộ, đảng viên đang có những biểu hiện suy thoái về đạo đức, lung lay niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng cùng những biểu hiện tham nhũng, gây mất lòng tin của nhân dân thì công tác nêu gương của cán bộ, đảng viên càng có ý nghĩa quan trọng. Tổng Bí thư yêu cầu: “Mỗi cán bộ, đảng viên cần nghiêm túc thực hiện trách nhiệm nêu gương; người có chức vụ càng cao, cương vị càng lớn, nhất là người đứng đầu các cơ quan, đơn vị trong Đảng và trong bộ máy chính quyền lại càng phải gương mẫu trong tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, phong cách, tác phong, lề lối công tác để quần chúng, nhân dân noi theo, như lời Bác dạy: “một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền””(5). Có như thế, nhân dân mới tin vào cán bộ, đảng viên, tin vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, Nhà nước và chung tay xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thứ ba, cán bộ, đảng viên phải có trí tuệ, tầm nhìn và kiến thức tương đối toàn diện để tham gia hoạch định đường lối, chính sách. Có năng lực cụ thể hóa và lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách, nhiệm vụ của Đảng, chiến lược phát triển đất nước trong giai đoạn mới tại lĩnh vực, địa bàn công tác được phân công; qua thực tiễn tỏ rõ là người có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, với nhân dân, có năng lực sáng tạo, nhiệt huyết, làm việc có hiệu quả, có “sản phẩm” cụ thể, rõ rệt; dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm; đoàn kết, quy tụ, phát huy được đội ngũ cán bộ trong lĩnh vực, địa bàn được phân công. “Nói tóm lại là phải vừa có Đức vừa có Tài, trong đó Đức là gốc(6). Đáp ứng yêu cầu thời đại, mỗi cán bộ, đảng viên phải vừa có trình độ chuyên môn cao, vừa phải có tư duy khoa học, nhãn quan chính trị sắc bén để có thể nhận định, đánh giá tình hình, xu thế thời đại chính xác, có tư duy chiến lược và kiến thức tương đối toàn diện để tham gia hoạch định đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước. Quan trọng hơn, cán bộ, đảng viên phải có năng lực lãnh đạo, tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách, nhiệm vụ của Đảng, chiến lược phát triển đất nước trong giai đoạn mới. Cán bộ, đảng viên phải vừa có đức, vừa có tài thì mới có thể đảm đương những nhiệm vụ quan trọng của đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng hiện nay.
Qua tác phẩm, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã xác định những phẩm chất đạo đức cách mạng cần thiết của cán bộ, đảng viên trong thời đại mới. Những phẩm chất đạo đức cách mạng này là nhân tố quan trọng để xây dựng hình ảnh người cán bộ, đảng viên chân chính, trung thành, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân; là nền tảng củng cố niềm tin của toàn dân vào sự lãnh đạo của Đảng, đưa sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đến những thành công mới. Tuy nhiên, theo Tổng Bí thư, thực trạng đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong thời gian qua cũng tồn tại một số vấn đề yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu của thời đại.
Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; tệ quan liêu, tham nhũng, tiêu cực trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức đang diễn ra ngày càng phức tạp. Toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế đặt ra cho cán bộ, đảng viên yêu cầu cao về năng lực nhận định, đánh giá các vấn đề quốc tế để có thái độ ứng xử phù hợp. Quan trọng hơn, cán bộ, đảng viên phải hiểu đúng bản chất các vấn đề quốc tế và xây dựng thế giới quan khoa học, kiên định lập trường, tin tưởng đường lối lãnh đạo của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đây là yêu cầu cấp thiết trong bối cảnh hiện nay. Bởi vì, toàn cầu hóa mang lại nhiều thời cơ cho quá trình hội nhập và phát triển của Việt Nam, song cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng vẫn còn đối mặt không ít thách thức “khi chủ nghĩa tư bản vẫn còn những tiềm năng nhất định, lại có sự điều chỉnh cần thiết, trong khi nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội vẫn chưa đạt tới sự thống nhất trong các tầng lớp nhân dân các nước đang phát triển”(7). Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cảnh báo: “Trong điều kiện Đảng ta là đảng cầm quyền, hoạt động trong môi trường phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế; cán bộ, đảng viên giữ nhiều trọng trách, hằng ngày, hằng giờ tiếp xúc với hàng và tiền, gắn liền với lợi ích cá nhân, đối mặt với bao cám dỗ, với mặt trái của cơ chế thị trường”(8).
Thực tế thời gian qua, một bộ phận cán bộ, đảng viên, thậm chí là một số cán bộ chủ chốt trong hàng ngũ đảng viên dao động, có những biểu hiện suy thoái trong nhận thức lẫn hành động. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ tình trạng tha hóa, suy thoái và chuyển biến trong đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay rất phức tạp. Một bộ phận cán bộ, đảng viên cấp cao trong hàng ngũ Đảng đang tự chuyển biến, biến chất gây hại đến sự tồn tại và phát triển, hội nhập của Việt Nam, là nhân tố kìm hãm sự phát triển của đất nước.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu rõ thực tế đau lòng là vẫn còn tình trạng một số cán bộ, đảng viên cấp cao mà “Làm việc gì, giữ chức vụ gì cũng chỉ tính đến lợi quyền, bổng lộc cho cá nhân mình, gia đình mình trước nhất, quên cả thanh liêm, danh dự”(9). Thực trạng này tác động không nhỏ đến công cuộc xây dựng đất nước và hội nhập quốc tế của Việt Nam. Trên thực tế “những khuyết điểm, yếu kém của một bộ phận cán bộ và những hạn chế, bất cập trong công tác cán bộ cũng là một nguyên nhân quan trọng làm cho đất nước phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh và mong muốn của chúng ta, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước”(10). Niềm tin của nhân dân vào Đảng là nhân tố quyết định đến sự thành công trong thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước trên con đường xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa.
Ngoài ra, theo Tổng Bí thư, “đội ngũ cán bộ của ta hiện nay đông nhưng chưa thật mạnh; tình trạng vừa thừa, vừa thiếu cán bộ vẫn xảy ra ở nhiều nơi; sự liên thông giữa các cấp, các ngành còn hạn chế. Tỷ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số chưa đạt chỉ tiêu mong muốn. Thiếu cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, nhà khoa học và chuyên gia đầu ngành trên nhiều lĩnh vực. Năng lực của đội ngũ cán bộ chưa toàn diện, có mặt còn hạn chế, yếu kém; không ít cán bộ, trong đó có cả cán bộ cấp cao thiếu tính chuyên nghiệp, làm việc không đúng chuyên môn, sở trường; trình độ ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp và khả năng làm việc trong môi trường quốc tế còn nhiều hạn chế”(11). Việc Tổng Bí thư chỉ rõ thực trạng thiếu những cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, nhà khoa học và chuyên gia đầu ngành trên nhiều lĩnh vực là thay đổi quan trọng trong việc đánh giá cán bộ, đảng viên. Chúng ta cần có sự nhìn nhận, đánh giá năng lực cán bộ, đảng viên thẳng thắn, trung thực để mỗi cán bộ, đảng viên ý thức hơn việc không ngừng học tập, nâng cao trình độ chuyên môn, rèn luyện đạo đức, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
Theo Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, cán bộ, đảng viên là “cái gốc của mọi công việc”, là linh hồn, là nòng cốt của Đảng, Nhà nước, là nhân tố bảo đảm đưa các chỉ đạo đúng đắn của Đảng vào đời sống và hội nhập quốc tế, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, do tác động của hội nhập quốc tế, của những hạn chế chủ quan, một bộ phận cán bộ, đảng viên bị dao động, thiếu niềm tin vào Đảng, suy thoái chính trị, đạo đức, làm mất lòng tin của nhân dân với Đảng. Vì vậy, cán bộ, đảng viên phải luôn tu dưỡng đạo đức cách mạng.
Rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên
Trước bối cảnh tình hình thế giới và khu vực có những diễn biến phức tạp, các thế lực thù địch tăng cường chống phá thành quả cách mạng của đất nước ta thì vấn đề đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên càng phải được quan tâm rèn luyện và phát huy cao hơn nữa để phục vụ nhân dân, đáp ứng sự tồn tại và phát triển của đất nước. Cụ thể:
Một là, công tác cán bộ phải chú trọng hơn nữa phẩm chất đạo đức cách mạng và năng lực chuyên môn. Tổng Bí thư yêu cầu: “công tác tổ chức, cán bộ phải là điểm đột phá, là “then chốt” của nhiệm vụ “then chốt”, có liên quan đến sự sống còn của Đảng, vận mệnh của chế độ; sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Phải hết sức chú trọng xây dựng và làm trong sạch đội ngũ cán bộ, nhất là xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; phát huy trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên; chức vụ càng cao càng phải gương mẫu”(12). Để đạt được mục tiêu này, mỗi cán bộ, đảng viên và tổ chức cơ sở đảng cần “Chú trọng giáo dục giữ vững bản lĩnh, có ý thức nhạy bén chính trị, tăng sức đề kháng trước những biểu hiện tiêu cực, mặt trái của xã hội và sự chống phá, xuyên tạc của các thế lực thù địch, tuyệt đối không để các thế lực thù địch lợi dụng lòng yêu nước chân chính của công nhân, người lao động để kích động, lôi kéo biểu tình, tụ tập gây rối, làm mất an ninh, trật tự, gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc”(13). Cán bộ, đảng viên được phân công nhiệm vụ, được bổ nhiệm vào các vị trí càng quan trọng thì càng phải rèn luyện bản lĩnh chính trị, đạo đức cách mạng để có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; phát huy trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên; chức vụ càng cao càng phải gương mẫu để nhân dân noi theo, làm theo.
Hai là, cán bộ, đảng viên phải không ngừng học tập, rèn luyện bản lĩnh chính trị, đạo đức cách mạng và trung thành tuyệt đối với Đảng. Theo Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, nhiệm vụ cấp bách hiện nay là “chúng ta càng phải chăm lo giữ vững bản chất cách mạng và tính tiên phong của Đảng. Nếu không nhận thức sâu sắc điều này, nếu cán bộ, đảng viên không tích cực và kiên trì rèn luyện thì rất dễ bị thoái hóa, biến chất”(14). Năm 2020, trong bài Diễn văn tại Lễ kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh “Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI và khóa XII về xây dựng Đảng đã khẳng định, phải tiến hành xây dựng, chỉnh đốn Đảng với tinh thần tích cực và kiên quyết, mạnh mẽ, nhằm tạo ra một bước chuyển biến rõ rệt hơn nữa trên các mặt, ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái, củng cố sự kiên định về mục tiêu, lý tưởng cách mạng; tăng cường sự thống nhất ý chí và hành động; củng cố tổ chức chặt chẽ; tăng cường mối liên hệ mật thiết với nhân dân; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, coi đây là vấn đề sống còn của Đảng ta, chế độ ta. Một đảng cách mạng chân chính có đường lối đúng, có tổ chức chặt chẽ, có đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, gương mẫu, tận tụy, gắn bó máu thịt với nhân dân, được nhân dân ủng hộ, thì đảng đó có sức mạnh vô địch, không thế lực nào ngăn cản nổi trên con đường dẫn dắt dân tộc đi lên”(15). Nhiệm vụ của toàn Đảng hiện nay là phải tích cực tăng cường thực hiện các biện pháp nhằm rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng cho từng cán bộ, đảng viên. Các tổ chức cơ sở đảng phải xây dựng, chỉnh đốn Đảng với tinh thần tích cực và kiên quyết, mạnh mẽ, nhằm ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái, củng cố sự kiên định về mục tiêu, lý tưởng cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Niềm tin với Đảng là yếu tố quan trọng nhất để cán bộ, đảng viên thực hiện nghiêm túc các chuẩn mực đạo đức cách mạng, trung thành với Đảng và phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc.
Ba là, tăng cường bản chất cách mạng và tính tiên phong của Đảng, xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh để củng cố niềm tin của nhân dân vào cán bộ, đảng viên. Tổng Bí thư chỉ đạo “Phương hướng chung của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay là phải tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp, giữ vững và tăng cường bản chất cách mạng và tính tiên phong của Đảng, xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức, cán bộ, đổi mới phương thức lãnh đạo, tăng cường mối liên hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân, bảo đảm cho Đảng đủ sức lãnh đạo sự nghiệp của đất nước không ngừng phát triển”(16). Mỗi tổ chức cơ sở đảng phải luôn nâng cao ý thức rèn luyện đạo đức cách mạng, rèn luyện kỹ năng nghiệp vụ và không ngừng nâng cao năng lực chuyên môn để có thể nhận diện được những vấn đề của thời đại, có những đề xuất, hoạch định chính sách đúng đắn, khoa học góp phần đưa đất nước ngày càng phát triển, nâng cao vị thế trên trường quốc tế.
Bốn là, cán bộ, đảng viên phải thực hiện tốt Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15-5-2016, của Bộ Chính trị, “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18-5-2021, của Bộ Chính trị, “Về tiếp tục thực hiện chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị “về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. “Mỗi cán bộ, đảng viên cần nghiêm túc thực hiện trách nhiệm nêu gương; người có chức vụ càng cao, cương vị càng lớn càng phải gương mẫu trong tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, phong cách, tác phong, lề lối công tác để quần chúng, nhân dân noi theo; phải thể hiện được tư tưởng vững vàng, quan điểm đúng đắn, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, hết lòng vì nước, vì dân; có phong cách lãnh đạo khoa học, dân chủ, sâu sát thực tiễn, thật sự là hạt nhân đoàn kết, quy tụ, tạo động lực và phát huy trí tuệ tập thể”(17). Tổng Bí thư yêu cầu cán bộ, đảng viên phải “Kiên quyết, kiên trì thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về xây dựng Đảng gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh bằng các biện pháp mạnh mẽ, quyết liệt, đồng bộ để ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”(18).
Năm là, việc học tập, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên phải thực hiện thường xuyên và đi vào thực chất. Tổng Bí thư chỉ đạo các tổ chức đảng và mỗi cán bộ, đảng viên phải chú trọng đến hiệu quả, thực chất và sáng tạo trong học tập và làm theo tấm gương tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Theo Tổng Bí thư, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên “phải kiên trì, sáng tạo và thực chất trong việc tổ chức học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, đề cao trách nhiệm nêu gương, tự giác học trước, làm trước của cán bộ công đoàn các cấp, đồng thời coi trọng việc xây dựng và nhân rộng các điển hình tiên tiến”(19). Nhiệm vụ quan trọng của các cấp ủy, chính quyền và cơ quan, đơn vị là cần phát huy kết quả đã đạt được trong những năm qua, tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Nghiêm túc, tự giác thực hiện một cách hiệu quả yêu cầu, nhiệm vụ được giao. Chú trọng quán triệt, tập trung làm tốt ba vấn đề: Học tập, làm theo Bác và nêu gương của cán bộ, đảng viên. Có như thế, cán bộ, đảng viên mới thật sự thể hiện tính tiên phong, bản lĩnh chính trị vững vàng và đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế./.
TCCS - Bên cạnh những thành tựu to lớn, toàn diện, có ý nghĩa lịch sử qua gần 40 năm đổi mới, đất nước ta vẫn còn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức; trong đó, tệ tham nhũng, tiêu cực trên một số lĩnh vực, như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ ra, vẫn nghiêm trọng, phức tạp, với những biểu hiện ngày càng tinh vi, gây bức xúc trong xã hội, ảnh hướng tới sự tồn vong của Đảng và chế độ ta. Yêu cầu cấp thiết đặt ra hiện nay để thực hiện hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là tập trung xây dựng ba nền tảng mang tính chiến lược: thể chế, kinh tế và văn hóa.
Về công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực thời gian qua
Tham nhũng luôn luôn là căn bệnh quái ác, không chỉ làm hao hụt ngân sách quốc gia, tiền của của nhân dân, mà còn gây mất cán bộ, làm xói mòn niềm tin của nhân dân đối với chính quyền. Đây là vấn đề mà Đảng ta đã nhận thức rõ từ sớm, chưa bao giờ chủ quan, mà luôn cảnh giác ở mức độ cao nhất, bởi nó liên quan đến sự tồn vong của chế độ, đến vai trò lãnh đạo của Đảng. Từ Đại hội VII, Đảng ta đã xác định tham nhũng là một trong bốn nguy cơ đối với Đảng và cách mạng Việt Nam, trở thành “một nguy cơ lớn đe dọa sự sống còn của chế độ ta”(1), là “thách thức nghiêm trọng đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lý của Nhà nước”(2); đến nay, đây “vẫn là một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ”(3). Vì vậy, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là một việc làm cần thiết, tất yếu, một xu thế không thể đảo ngược.
Trước tình hình tham nhũng, tiêu cực diễn biến rất nghiêm trọng, phức tạp, Hội nghị Trung ương 5 khóa XI đã quyết định thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, trực thuộc Bộ Chính trị do đồng chí Tổng Bí thư làm Trưởng ban để chỉ đạo trực tiếp, toàn diện công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trên phạm vi cả nước. Hơn 10 năm qua, công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đã được lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt với quyết tâm chính trị rất cao, được thực hiện ngày càng bài bản, đi vào chiều sâu; nhờ đó, đã phát hiện, xử lý nhiều vụ việc, vụ án nghiêm trọng, được dư luận đặc biệt quan tâm với tinh thần “kiên quyết, kiên trì, không ngừng, không nghỉ, không có vùng cấm, không có ngoại lệ”, để lại nhiều dấu ấn tốt đẹp; góp phần giữ vững ổn định chính trị, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; tạo hiệu ứng tích cực và lan tỏa mạnh mẽ quyết tâm phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong xã hội và đội ngũ cán bộ, đảng viên; phản bác các quan điểm sai trái, xuyên tạc, kích động, chống phá của các thế lực thù địch về vấn đề này. Báo cáo Chỉ số cảm nhận tham nhũng (CPI) năm 2022 của Tổ chức Minh bạch Quốc tế (TI) xác nhận, Việt Nam là một trong số 6 quốc gia ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương có tiến bộ nổi trội, với 42 điểm, tăng 9 điểm kể từ năm 2018(4). Kết quả này cho thấy nỗ lực, sự quyết tâm mạnh mẽ của Đảng và Nhà nước ta trong phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Đồng thời, quá trình tổng kết công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong giai đoạn 2012 - 2022 đã đúc rút nhiều bài học, kinh nghiệm quý giá, là cơ sở quan trọng để toàn hệ thống chính trị tiếp tục kiên quyết, kiên trì đấu tranh với vấn nạn tham nhũng, tiêu cực trong thời gian tới.
Bốn mục tiêu trong phòng, chống tham nhũng, tiêu cực
Cho dù có những nỗ lực, quyết tâm chính trị rất cao của Đảng và của toàn hệ thống chính trị, thì bên cạnh những kết quả nổi bật đã đạt được, tình trạng tham nhũng, tiêu cực vẫn diễn biến hết sức phức tạp, khó lường. Nhiều vụ án, vụ việc tham nhũng nghiêm trọng, thậm chí liên quan đến nhiều cán bộ lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nước đã được phát hiện, xử lý thời gian gần đây; không chỉ gây ra những hậu quả nặng nề về kinh tế, mà còn làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, ảnh hưởng đến sự tồn vong của chế độ. Vì vậy, bên cạnh việc đẩy mạnh phát hiện, xử lý hành vi tham nhũng, tiêu cực, cần chú trọng công tác phòng ngừa, phát hiện từ sớm, xử lý từ đầu, không để vi phạm nhỏ tích tụ thành sai phạm lớn; “phòng” là chính, là cơ bản, lâu dài, “chống” là quan trọng, cấp bách.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, bản chất của tham nhũng là hành vi “ăn cắp của công làm của tư”(5). Có thể thấy, mọi hành động vụ lợi về vật chất, quyền lực, chức quyền của cán bộ, đảng viên thường bắt đầu từ quá trình phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân, từ sự hư hỏng, lệch lạc trong đạo đức, lối sống, bị cám dỗ bởi lợi ích, vật chất, trở nên vô cảm trước khó khăn, nỗi đau khổ của nhân dân. Vì vậy, không có giải pháp căn cơ, tối ưu nào để phòng, chống tham nhũng, tiêu cực từ sớm, từ xa hơn là tiến hành phòng, chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ngay trong chính bản thân mỗi cán bộ, đảng viên, thành viên cơ quan công quyền. Do đó, các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể cần tập trung vào việc giáo dục, uốn nắn nhận thức, ý chí, tư tưởng, đạo đức trong mỗi cá nhân; đồng thời, triệt tiêu, hạn chế tối đa môi trường, điều kiện, động cơ dẫn đến tham nhũng, tiêu cực. Trong những năm tới, công tác phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực phải hướng tới mục tiêu cao nhất là mỗi cán bộ, đảng viên ở từng địa phương, cơ quan, đơn vị “không thể”, “không dám”, “không cần” và “không muốn” tham nhũng, tiêu cực. Đây chính là bốn mục tiêu cơ bản của cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực hiện nay. Hơn bao giờ hết, phải làm sao xây dựng được một thể chế chặt chẽ, hướng đến phủ kín các khoảng trống, khe hở để “không thể” tham nhũng; đặc biệt, các quy định phải bảo đảm sự ràng buộc chặt chẽ đối với các quyền hạn, nhiệm vụ được giao của mỗi cán bộ, đảng viên. Hơn nữa, một cơ chế xử lý phải thực sự có tính răn đe, nghiêm khắc, “pháp bất vị thân” để mỗi cá nhân thực sự e ngại, bị răn đe trước những hậu quả nghiêm trọng về mặt chính trị, pháp lý, những tổn hại về danh dự, nhân phẩm, lòng tự trọng nếu có hành vi vi phạm để “không dám” tham nhũng. Cuối cùng là, hình thành một môi trường sống, học tập và làm việc chuẩn mực, nền nếp, khoa học; đặc biệt, chú trọng xây dựng nền văn hóa, đạo đức chuẩn mực, trong đó “người dân có đạo làm người, cán bộ có đạo làm quan, đạo làm tướng” để “không cần, không muốn tham nhũng”.
Ba nền tảng để hiện thực hóa bốn mục tiêu của công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực
Để hiện thực hóa mục tiêu cao nhất của công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là mỗi cán bộ, đảng viên “không thể”, “không dám”, “không cần” và “không muốn” tham nhũng, tiêu cực, thì các cấp, các ngành cần có kế sách chiến lược, đồng bộ, tổng thể, đột phá trên tất cả lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; trong đó, trọng tâm ở ba nền tảng: thể chế, kinh tế, văn hóa.
Thứ nhất, về thể chế:
Đầu tiên, để ngăn chặn hiệu quả tình trạng cán bộ, đảng viên tham nhũng, tiêu cực, yêu cầu quan trọng là có một hệ thống thể chế chi tiết, chặt chẽ, bịt kín những lỗ hổng, sơ hở trong từng cơ chế, chính sách, pháp luật. Tham nhũng, tiêu cực là “bóng tối vươn theo quyền lực”, có sự gắn kết chặt chẽ với quyền lực, do người có chức, có quyền thực hiện. Ở nước ta, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, và nhân dân thực hiện quyền lực này bằng dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện thông qua các cơ quan dân cử; bất cứ ai được giao sử dụng quyền lực đều phải vì nhân dân phục vụ, chịu trách nhiệm trước nhân dân và dưới sự giám sát của nhân dân. Vì vậy, hơn lúc nào hết, mọi quyền lực đều phải được kiểm soát chặt chẽ để không ai có thể lạm dụng, lợi dụng quyền lực nhằm trục lợi, phải “nhốt quyền lực vào trong lồng cơ chế”. Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 9-11-2022, của Hội nghị Trung ương 6 khóa XII, “Về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới”, nêu rõ: Hoàn thiện cơ chế thực thi quyền lực nhà nước, xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của mỗi cơ quan và mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; nghiên cứu thành lập các thiết chế mới về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Đến nay, hệ thống quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, trong đó có phòng, chống tham nhũng, tiêu cực(6) đã tương đối đầy đủ. Tuy nhiên, một số quy định còn chưa thống nhất; việc tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu, chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu của thực tiễn; việc chấp hành pháp luật nhìn chung chưa nghiêm; kỷ luật, kỷ cương có nơi còn bị xem nhẹ; xử lý vi phạm pháp luật chưa kịp thời, chế tài xử lý chưa đủ sức răn đe; cải cách hành chính, cải cách tư pháp chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu phát triển đất nước trong bối cảnh mới.
Trong những năm tiếp theo, yêu cầu, nhiệm vụ là phải đẩy mạnh việc rà soát, bổ sung, hoàn thiện quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trên tất cả lĩnh vực, khắc phục kịp thời sơ hở, bất cập trong quản lý, điều hành kinh tế, xã hội, đặc biệt trong lĩnh vực đấu thầu, đấu giá, quản lý, sử dụng đất đai, tài chính; quy định thực hiện thanh toán, giao dịch không sử dụng tiền mặt... Về thể chế phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực, tập trung hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực trong các lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng, tiêu cực, phát sinh nhiều khiếu nại, tố cáo, kiến nghị phản ánh(7); cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc thực thi quyền lực của người có chức, có quyền, theo hướng quyền hạn đến đâu, trách nhiệm đến đó; phân định rõ thẩm quyền và trách nhiệm tập thể, cá nhân trong từng công đoạn giải quyết công việc và có chế tài xử lý nghiêm minh hành vi vi phạm; thực hiện trách nhiệm giải trình bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch; cơ chế bảo vệ, khuyến khích người dân phản ánh, tố giác cán bộ, đảng viên tham nhũng, tiêu cực; cơ chế kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn; cơ chế kiểm tra, giám sát đối với cấp ủy, tổ chức đảng, đảng viên; phát huy hơn nữa vai trò của cơ quan dân cử, đại biểu dân cử, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, báo chí và nhân dân trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực...
Trong thời gian tới, yêu cầu đặt ra là tiếp tục kết hợp chặt chẽ giữa phòng ngừa và phát hiện, đẩy mạnh xử lý nghiêm minh, kịp thời hành vi tham nhũng, tiêu cực; trong đó, quá trình xử lý tiến hành đồng bộ giữa kỷ luật của Đảng với kỷ luật hành chính của Nhà nước, kỷ luật của đoàn thể và xử lý hình sự; kỷ luật của Đảng được thực hiện trước, mang tính tiền đề để kỷ luật hành chính, đoàn thể và xử lý hình sự; kỷ luật của Đảng phải nghiêm hơn xử lý theo pháp luật. Mục đích của việc xử lý tham nhũng, tiêu cực là để cảnh tỉnh, cảnh báo, răn đe, giáo dục, với phương châm “phòng ngừa là chính, phát hiện từ sớm, xử lý từ đầu không để vi phạm nhỏ tích tụ thành sai phạm lớn”, dùng kỷ luật nghiêm minh và giám sát nghiêm khắc để cán bộ, đảng viên biết giữ gìn, suy nghĩ thấu đáo trước khi thực hiện mọi hành động. Mặc dù xử lý cán bộ tham nhũng đưa đến tổn thất lớn về nhân sự, nhưng vì sự tôn nghiêm của kỷ luật đảng, pháp luật của Nhà nước, vì sự nghiệp chung, các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương phải quyết tâm thực hiện quyết liệt, mạnh mẽ hơn nữa; theo phương châm “kỷ luật một vài người để cứu muôn người”. Như vậy, với nhiều biện pháp chặt chẽ về thể chế, mỗi cán bộ sẽ “không thể”, “không dám” tham nhũng, tiêu cực.
Thứ hai, về kinh tế:
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” đã chỉ ra những nguyên nhân chủ quan và khách quan dẫn đến sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Nguyên nhân khách quan đến từ mặt trái của nền kinh tế thị trường, khoảng cách giàu - nghèo ngày càng được nới rộng giữa các tầng lớp, bộ phận xã hội. Nhiều thách thức, khó khăn, như dịch bệnh, lạm phát, suy thoái kinh tế,... tác động mọi mặt đến các nước trên thế giới. Bên cạnh đó, những yếu tố khách quan, như mức thu nhập, tiền lương còn bất cập khi so sánh thu nhập của người lao động cùng trình độ làm việc trong doanh nghiệp nhà nước, khu vực tư nhân, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài; đời sống của đa số cán bộ, công chức, viên chức còn nhiều khó khăn... đã và đang tác động, khiến cho một bộ phận cán bộ, đảng viên kém tu dưỡng sa vào chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, hẹp hòi, bị cám dỗ bởi các lợi ích vật chất, mà không làm tròn trách nhiệm, bổn phận của mình trước Đảng, trước nhân dân.
Vì vậy, một trong những chính sách rất quan trọng, có ý nghĩa lâu dài, tích cực trong phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là giải quyết vấn đề thu nhập một cách hợp lý. Theo đó, tập trung phát triển nền kinh tế năng động, nhanh và bền vững; phấn đấu đến năm 2030, Việt Nam là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; có thể chế quản lý hiện đại, cạnh tranh, hiệu lực, hiệu quả; từ đó, có đủ nguồn lực để nhanh chóng triển khai chủ trương cải cách chính sách tiền lương theo Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 21-5-2018, của Hội nghị Trung ương 7 khóa XII, “Về cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp”, để nâng cao thu nhập, đãi ngộ, chất lượng cuộc sống, kết hợp với chính sách đãi ngộ, khen thưởng xứng đáng cho cán bộ, công chức, viên chức. Cần nâng cao mức độ tự chủ về tài chính của các đơn vị sự nghiệp công lập, tạo điều kiện cải thiện và nâng cao thu nhập cho đội ngũ viên chức, nhất là trong lĩnh vực giáo dục, y tế, để mỗi cá nhân yên tâm công tác khi được thỏa mãn các nhu cầu cơ bản, mà không nhất thiết phải làm thêm, “kiếm thêm”; có chính sách hỗ trợ kịp thời đối với cán bộ, công chức, viên chức có hoàn cảnh kinh tế khó khăn. Đồng thời, một yêu cầu quan trọng khác là thay đổi tư duy về tiền lương; lương cần được trả theo vị trí việc làm và năng suất, hiệu quả lao động; chi tiền lương không phải chỉ là chi cho hoạt động thường xuyên, mà còn là chi cho đầu tư phát triển, đầu tư nguồn lực con người, là nguồn lực nội sinh quan trọng, là động lực tăng trưởng kinh tế - xã hội, để mở ra chu kỳ kinh tế mới.
Thứ ba, về văn hóa:
Khi nói đến văn hóa là thường nói đến những gì tinh hoa, tinh túy nhất, được kết tinh, hun đúc thành những giá trị tốt đẹp, rất nhân văn, nhân ái, tiến bộ; ngược lại, những gì xấu xa, việc làm ti tiện, hành động phi pháp... là trái với truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc ta. Với lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, đất nước ta đã có một nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển. Nhận thức sâu sắc được vị trí, vai trò, ý nghĩa và tầm quan trọng của văn hóa trong sự phát triển của đất nước ta, trong Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943, Đảng ta đã coi “mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa)”(8), hết sức coi trọng vai trò của công tác xây dựng văn hóa trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước; trong đó, đặc biệt chú trọng xây dựng văn hóa trong xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhiều lần nhấn mạnh, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là cuộc đấu tranh ngay trong chính bản thân mỗi con người, trong mỗi cơ quan, tổ chức, đơn vị, địa phương mình; vì vậy, cần khơi dậy, phát huy những giá trị văn hóa tốt đẹp trong mỗi con người, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh trong mỗi cơ quan, tổ chức; xây dựng văn hóa, lối sống có lòng tự trọng, tự chủ, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, khẳng định, tôn vinh cái đúng, cái tích cực, cao thượng, nhân văn, đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, sai trái, tiêu cực trong toàn xã hội.
Để thực hiện hiệu quả các nội dung trên, trước hết, cần chú trọng xây dựng văn hóa từ trong Đảng và hệ thống chính trị, nêu cao tinh thần tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên. Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 9-6-2014, của Hội nghị Trung ương 9 khóa XI, “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”, khẳng định: “Văn hóa, đạo đức và lối sống lành mạnh phải được thể hiện trước hết trong mọi tổ chức đảng, nhà nước, đoàn thể, trong cán bộ, công chức, viên chức nhà nước, trong từng đảng viên, hội viên. Sự gương mẫu của mỗi cán bộ, đảng viên là yêu cầu quan trọng trong công tác lãnh đạo của Đảng”(9).
Trong thời gian tới, các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền các cấp cần đẩy mạnh, nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, giáo dục, kiên trì xây dựng, thực hành văn hóa liêm chính, tiết kiệm trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và toàn xã hội; xây dựng, hoàn thiện chuẩn mực đạo đức cách mạng của đảng viên, đạo đức công vụ, chuẩn mực của con người Việt Nam phù hợp với truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc; gắn công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực với xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; đưa nội dung phòng, chống tham nhũng, tiêu cực vào chương trình giáo dục quốc dân và đặc biệt là chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Phải kiên trì giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức về đức tính liêm khiết, chính trực, tận tụy, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, có ý thức thượng tôn pháp luật, biết trọng liêm sỉ, giữ danh dự, biết xấu hổ khi bản thân và người nhà có hành vi tham nhũng, tiêu cực. Thực hiện tốt quy tắc ứng xử, đạo đức nghề nghiệp; đồng thời, nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình, đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, khuyến khích và bảo vệ những người dám nghĩ, dám làm, dám đổi mới sáng tạo, dám chịu trách nhiệm vì sự nghiệp chung. Xây dựng và duy trì nền văn hóa công vụ tiến bộ của mỗi ngành, cơ quan, đơn vị, góp phần bảo đảm tính chuyên nghiệp, trách nhiệm, minh bạch, hiệu quả trong thực thi nhiệm vụ. Người đứng đầu địa phương, cơ quan, đơn vị phải nêu cao tinh thần nêu gương, đảng viên phải gương mẫu hơn quần chúng, cán bộ phải gương mẫu hơn nhân viên, cán bộ giữ chức vụ càng cao càng phải gương mẫu.
Những kết quả tích cực, đáng ghi nhận trong thời gian qua là cơ sở, nền tảng để công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực tiếp tục gặt hái nhiều thành công hơn nữa trong thời gian tới; đặc biệt, để mỗi cán bộ, đảng viên thực sự “không dám”, “không thể”, “không cần”, “không muốn” tham nhũng, thực hiện lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”(10). Kết quả trong công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực sẽ góp phần giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, làm thất bại mọi âm mưu, hành động xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch, củng cố hơn nữa niềm tin yêu của cán bộ, đảng viên và nhân dân với Đảng, Nhà nước ta./.