Chủ Nhật, 5 tháng 1, 2025

VƯƠN MÌNH TRONG KỶ NGUYÊN MỚI ĐỂ GIỮ VỮNG MỤC TIÊU ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

 Đảng ta vừa khẳng định đi lên CNXH là xu thế không thể đảo ngược (mặc dù tình hình khu vực, thế giới có nhiều thay đổi, diễn biến hết sức phức tạp) và cơ chế hoạt động chính trị luôn được củng cố, giữ vững là “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ”, vừa tiến hành đổi mới tư duy trên cơ sở nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật từ Đại hội VI (12/1986). Việc đổi mới mạnh mẽ sự lãnh đạo của Đảng; sự quản lý của nhà nước; cơ chế nhân dân làm chủ không chỉ giữ vững sự ổn định về chính trị, mà còn góp phần để đất nước đạt được nhiều thành tựu về kinh tế, xã hội và tiếp tục tiến những bước hết sức ngoạn mục.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, với việc đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, từ một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, Việt Nam đã chuyển sang cơ chế thị trường, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng. Với việc lựa chọn con đường phát triển đúng trọng tâm, phù hợp quy luật, từ một nước nông nghiệp, lạc hậu, nghèo nàn, quy mô nền kinh tế nhỏ bé, Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008. Từ một nền kinh tế đóng cửa, khép kín, Việt Nam trở thành đối tác thương mại lớn thứ 22 toàn cầu…

Sau gần 40 năm tiến hành đổi mới, sự thay đổi trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội đã mang đến cho Việt Nam cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín mới trong khu vực và cộng đồng quốc tế. Chính những thành tựu vĩ đại dưới sự lãnh đạo của Đảng đã “giúp Việt Nam tích lũy thế và lực cho sự phát triển bứt phá trong giai đoạn tiếp theo (...). Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; lợi ích quốc gia, dân tộc được bảo đảm. Quy mô nền kinh tế năm 2023 tăng gấp 96 lần so với năm 1986. Việt Nam trong nhóm 40 nước có nền kinh tế lớn nhất thế giới và 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại và thu hút đầu tư nước ngoài; có quan hệ ngoại giao với 193 nước là thành viên Liên hợp quốc; xây dựng các mối quan hệ đối tác, hợp tác chiến lược, đối tác chiến lược toàn diện với tất cả các cường quốc trên thế giới và khu vực...” như Tổng Bí thư Tô Lâm đã trao đổi với các học viên Lớp bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, kỹ năng đối với cán bộ quy hoạch Ủy viên Trung ương Đảng khóa XIV, ngày 31/10/2024.

Trước thềm Đại hội XIV của Đảng, Việt Nam đang đứng trước một ngã rẽ quan trọng trong lịch sử phát triển quốc gia, nhưng chắc chắn “mô hình chính trị hiện tại”- một Đảng Cộng sản lãnh đạo - không hề làm “cản trở sự phát triển bền vững và hội nhập sâu rộng với cộng đồng quốc tế” của Việt Nam. Mà trái lại, việc kiên định con đường đi lên CNXH dưới sự lãnh đạo của Đảng; kiên định thể chế chính trị nhất nguyên chứ không thực hiện dân chủ đa nguyên; kiên định xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng… đã mang đến cho Việt Nam độc lập, tự do, thống nhất, hòa bình và phát triển ổn định gần nửa thế kỷ qua. Đó chính là sự thật, chứ không phải mô hình một Đảng Cộng sản lãnh đạo và việc lựa chọn xây dựng CNXH dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là “giới hạn tiềm năng phát triển quốc gia và làm suy yếu vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế” như các thế lực chống phá vẫn thường rêu rao bịa đặt.

Sự thật là, việc “tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, không ngừng nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam”(3) và “bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc, trên cơ sở nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác cùng có lợi”(4) của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới đã không chỉ mang lại sự tăng cường hợp tác chiến lược và sự tin tưởng lẫn nhau, mà còn gia tăng hiệu quả trong hợp tác quốc phòng và an ninh và tăng cường hợp tác kinh tế và hội nhập toàn cầu…

Những sự thật khách quan nêu trên đã chứng minh con đường mà Việt Nam đang đi là đúng đắn. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, những thành tựu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN đã đạt được là không thể phủ nhận. Những sự thật đó là bằng chứng phủ nhận hoàn toàn những giọng điệu “ngụy phản biện”, rằng: Việt Nam muốn vươn mình trong kỷ nguyên mới thì phải từ bỏ “chế độ chính trị độc đảng lãnh đạo” và lựa chọn chế độ “dân chủ đa nguyên”(!).

Đổi mới là bản chất của cách mạng, của phát triển, vì thế Việt Nam sẽ tiếp tục đổi mới để hướng đến tương lai tươi sáng, nhưng chắc chắn không “đổi màu”. Việc kiên định độc lập dân tộc và CNXH chính là để làm cho quá trình thực hiện đổi mới tiến bộ được thực hiện hiệu quả; để CNXH phát huy được bản chất ưu việt, tránh sự giáo điều, trì trệ, xơ cứng trong tư duy và tư tưởng; để làm sinh động những giá trị bền vững của một Việt Nam hòa bình, độc lập, tự do, tự chủ, giàu mạnh, phồn vinh, hạnh phúc trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH.

Việc “đổi mới thể chế chính trị”, thực hiện dân chủ đa nguyên, tổ chức xã hội dân sự không phải là “lối đi duy nhất”; càng không phải là Việt Nam đang đứng trước một cơ hội lớn “cần phải” thực hiện “chuyển đổi thể chế và trở thành một quốc gia tự do, dân chủ, phù hợp với các giá trị phương Tây” như các phần tử bất mãn, cơ hội, phản động cổ súy. Cho nên, một điều chắc chắn là, Việt Nam sẽ vươn mình trong kỷ nguyên mới nhưng không thay đổi chế độ chính trị; không từ bỏ con đường và mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH - sợi chỉ đỏ, xuyên suốt, nhất quán của con đường cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng; không khi nào từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng.

Đúng như Tổng Bí thư Tô Lâm đã khẳng định, Việt Nam tiếp tục đổi mới trong bối cảnh thế giới đang nhiều thay đổi có tính thời đại và đất nước cũng đang bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng để xây dựng một nước Việt Nam XHCN phồn vinh, hạnh phúc, song đó không phải là “con đường toàn trị”, “tiếp tục chính sách đàn áp các tiếng nói bất đồng” như các thế lực thù địch bôi đen. Mà đó là nhân nguồn sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với Nhà nước và xã hội; tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và đảm bảo, bảo vệ, thực thi, thúc đẩy quyền con người, quyền công dân theo Hiến pháp và pháp luật Việt Nam... chứ không chấp nhận dân chủ đa nguyên, đa đảng đối lập, tổ chức xã hội dân sự và càng không đi theo con đường tư bản chủ nghĩa./.

Nhận diện thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc để kích động "ly khai", "tự trị"

 Nhằm thực hiện mưu đồ chống phá Nhà nước Việt Nam, thời gian qua, các thế lực thù địch, tổ chức phản động tăng cường các hoạt động tuyên truyền, kích động, vu cáo Ðảng, Nhà nước trên không gian mạng, với rất nhiều chiêu trò, thủ đoạn tinh vi. 

Nổi lên gần đây là việc lập kênh mạng xã hội để cổ xúy, ca ngợi những đối tượng là người H’Mông có hành vi vi phạm chính sách, pháp luật của Ðảng và Nhà nước Việt Nam hiện đã bỏ trốn ra nước ngoài hoặc đang thụ án tại các cơ sở giam giữ trong nước, coi họ là nạn nhân của chế độ trong nước, qua đó lôi kéo, kích động hận thù và chia rẽ trong đồng bào dân tộc thiểu số, xuyên tạc tình hình nhân quyền tại Việt Nam...

Theo ghi nhận của Cục An ninh nội địa (Bộ Công an), Tây Bắc và các vùng phụ cận vẫn là một trong những địa bàn cần được quan tâm, chú trọng khi thường xuyên bị các thế lực thù địch, phản động lợi dụng đồng bào người dân tộc thiểu số tiến hành các hoạt động tuyên truyền chia rẽ, kích động "ly khai", "tự trị" gắn liền với âm mưu thành lập cái gọi là "Nhà nước H’Mông".

Nổi lên trong số này là những tổ chức phản động như Hmong United for Justice (Liên minh người H’Mông vì công lý - HUJ), Hmong Human Rights Coalition (Liên minh nhân quyền người H’Mông - HmongHRC), Against Religion Oppression (Chống lại sự đàn áp tôn giáo), Xaivcialis CMA..., tự xưng là các tổ chức độc lập, ôn hòa, không liên quan đến bất kỳ nhóm hoặc cá nhân nào xúi giục thúc đẩy, âm mưu hoặc tiếp tay cho việc sử dụng bạo lực vì bất kỳ mục đích gì, song trên thực tế đây đều là những "tổ chức ma" do Vàng Chỉnh Mình (là người dân tộc H’Mông, sinh ra và lớn lên tại Việt Nam, hiện đang định cư tại Mỹ) và số đối tượng trong HUJ lập ra. Từ đó, tạo thành hệ thống "chân rết" với nhiều kênh tuyên truyền để tìm kiếm, lôi kéo người H’Mông nhẹ dạ, cả tin nhằm thực hiện những mưu đồ đen tối.

Chỉ trong 9 tháng năm 2024, các đối tượng hoạt động cho cái gọi là "Nhà nước H’Mông" ở hải ngoại đã sử dụng hàng trăm tài khoản mạng xã hội Facebook, YouTube, Twitter thường xuyên đăng tải tin, hình ảnh xuyên tạc tình hình an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội ở trong nước, vu cáo Việt Nam vi phạm nhân quyền. Ðồng thời, các nhóm do Vàng Chỉnh Mình và đồng bọn đẩy mạnh việc bắt liên lạc, tuyển mộ thành viên, nhất là các phần tử từng tham gia tổ chức bất hợp pháp "Nhà nước H’Mông" ở trong nước.

Mục tiêu chính của chúng là tìm ra các đối tượng người H’Mông được học tập, đào tạo bài bản trong hệ thống giáo dục của nhà nước, được thụ hưởng những ưu đãi của chế độ dành cho người dân tộc thiểu số nhưng vì một lý do nào đó trở nên bất mãn, lầm lạc hoặc suy thoái, biến chất, cố tình lợi dụng quyền tự do, dân chủ để "trở cờ", xuyên tạc chủ trương, đường lối, chính sách của Ðảng, Nhà nước, đưa thông tin sai sự thật về công tác tôn giáo, dân tộc. Sau đó, chúng tập hợp, tổ chức, hỗ trợ cho các phần tử chống phá này cùng gia đình vượt biên trái phép sang Thái Lan, lập hồ sơ xin tị nạn sang các nước thứ ba như Mỹ, Canada để gửi tới Văn phòng của Cao ủy về Người tị nạn của Liên hợp quốc (UNHCR).

Bên cạnh đó, lợi dụng tập quán du canh, du cư của một số đồng bào H’Mông tại các khu vực biên giới, các đối tượng đã thu nạp thành công một số người dân nhẹ dạ, thiếu hiểu biết, cực đoan nhằm củng cố vây cánh để cùng thực hiện những thủ đoạn chống phá mới, mà nổi lên là các chương trình phỏng vấn "nạn nhân người H’Mông của Nhà nước Việt Nam".

Khách mời của loạt chương trình này tự xưng là đại diện cho những "người H’Mông không Tổ quốc", "tù nhân người H’Mông ở Việt Nam" nhằm che giấu danh tính thật là những thành viên, cộng tác viên mới được các tổ chức chống phá người H’Mông ở nước ngoài tuyển mộ. Qua sự mớm lời, dẫn dắt thông tin của người dẫn chương trình, nhóm đối tượng này sắm vai "nhân chứng sống" ra sức xuyên tạc sai sự thật về đời sống vật chất và tinh thần của người H’Mông ở Việt Nam.

Thông qua chương trình, những đối tượng này đề cập đến một số vụ án, vụ việc vi phạm an ninh, trật tự, hộ tịch, đất đai, tôn giáo trong quá khứ liên quan đến một số người H’Mông vốn đã được cơ quan chức năng xử lý công bằng, dân chủ, minh bạch theo quy định của pháp luật Việt Nam.

Tuy nhiên, bằng thủ đoạn ngụy tạo nhân chứng, đánh tráo khái niệm, họ vu cáo Ðảng và Nhà nước Việt Nam đàn áp, bắt bớ, phân biệt đối xử với người H’Mông khiến dân tộc này "bị cô lập", "bức hại", "mất đất đai", "không được thực hành niềm tin tôn giáo", "không được thụ hưởng các chính sách an sinh, xã hội", "không được cấp giấy tờ tùy thân". Thậm chí, họ còn bịa đặt trắng trợn rằng bản thân và gia đình sẽ gặp nguy hiểm, có thể bị sát hại nếu quay về Việt Nam.

Ðáng chú ý, các video trên đều dàn dựng kịch bản khá bài bản, một số chương trình còn được dịch phụ đề bằng nhiều thứ tiếng. Trong đó, nhiều đối tượng trao đổi trực tiếp bằng ngôn ngữ tiếng Việt thay vì tiếng H’Mông như trước đây. Từ đây cho thấy mục đích của chúng không chỉ là lan truyền những thông tin xấu độc, sai sự thật đến đồng bào người H’Mông mà còn hướng đến cộng đồng các dân tộc thiểu số trên lãnh thổ Việt Nam, cũng như cộng đồng người Việt Nam đang sinh sống, học tập và làm việc ở nước ngoài.

Chưa dừng lại ở đó, khi khoác lên mình tấm áo "nạn nhân", các đối tượng chống phá cũng tích cực tham gia phỏng vấn trên các kênh truyền hình, tờ báo mang khuynh hướng chống cộng cực đoan ở hải ngoại, thể hiện mối quan hệ hợp tác công khai giữa tổ chức bất hợp pháp "Nhà nước H’Mông" với các hội, nhóm chống phá khác ở nước ngoài khác như BPSOS, Người Thượng vì công lý để hình thành một liên minh chống, phá Ðảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam trên lĩnh vực nhân quyền, tôn giáo, dân tộc.

Ðồng thời, tranh thủ sự ủng hộ của một số cá nhân, tổ chức thiếu thiện chí để qua đó đánh bóng tên tuổi, gây sức ép nhằm can thiệp vào tình hình nội bộ của nước ta. Nghe theo sự xúi giục của kẻ xấu, một số người H’Mông đã tự ý rời khỏi địa phương, không khai báo thông tin về nơi cư trú mới, tham gia các hoạt động tẩy chay, phản đối, bất hợp tác trong quá trình làm thủ tục cấp, đổi thẻ căn cước mới.

Một số thành phần cực đoan khi vượt biên trái phép sang các quốc gia khác còn bỏ lại, tiêu hủy giấy tờ tùy thân để không bị trục xuất về Việt Nam. Chính vì vậy, cơ quan chức năng ở Việt Nam và các nước láng giềng trong khu vực gặp nhiều thách thức trong việc hoàn thiện thủ tục, hồ sơ để cấp giấy tờ tùy thân cho những trường hợp này.

Thực tế, các "nạn nhân" nêu trên chỉ là hiện tượng cá biệt, không phản ánh toàn cảnh đời sống vật chất và tinh thần của cộng đồng người H’Mông cũng như đồng bào dân tộc thiểu số đang sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Ðảng và Nhà nước, công tác chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào tại các tỉnh miền núi phía bắc nói riêng, vùng sâu, vùng cao, vùng xa trên địa bàn cả nước nói chung không ngừng được cải thiện, nâng cao với nhiều chuyển biến tích cực trên tất cả các lĩnh vực.

Ðảng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản quan trọng có tính chất chỉ đạo hệ thống chính trị các cấp quan tâm hơn nữa đến công tác ở vùng đồng bào dân tộc. Trên cơ sở này, chính quyền tại các địa phương đã triển khai nhiều biện pháp, cách làm hiệu quả giúp đồng bào vươn lên thoát nghèo, phát huy tinh thần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; trong đó, nhấn mạnh đến các chính sách đối thoại, gặp gỡ, giải đáp các khúc mắc của đồng bào đang sinh sống tại địa bàn trên tinh thần thẳng thắn, cởi mở để cùng nhau tìm ra các chính sách tối ưu nhất phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội và tình hình thực tế.

Bên cạnh đó, các cấp chính quyền cũng tăng cường các biện pháp nhằm ngăn chặn hiệu quả, từ sớm, từ xa nhiều âm mưu, thủ đoạn gây chia rẽ dân tộc, tôn giáo, lợi dụng quyền tự do, dân chủ để thực hiện những hành vi chống phá khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Chính quyền và cơ quan chức năng cũng ngày một chủ động hơn trong việc tạo cơ hội, điều kiện cho những người dân từng lầm đường, lạc lối đi theo các đối tượng xấu có cơ hội được hòa nhập, sinh sống ổn định bên gia đình và cộng đồng...

Ðáng tiếc là vẫn có những tổ chức quốc tế, cơ quan chuyên môn làm công tác nhân quyền tại một số quốc gia lại dựa vào các cáo buộc sai sự thật về đời sống vật chất và tinh thần của người H’Mông tại Việt Nam như những "bằng chứng", "nhân chứng" xác thực để từ đó, lập nên những báo cáo, khuyến nghị phiến diện, thiếu khách quan về cuộc sống của người dân tộc thiểu số tại Việt Nam, đưa ra những yêu sách phi lý đòi thay đổi pháp luật Việt Nam.

Bởi vậy, thời gian tới, bên cạnh việc quan tâm chăm lo, thực hiện tốt chính sách đối với đồng bào người dân tộc thiểu số, Việt Nam cần tiếp tục quan tâm, nâng cao hơn nữa chất lượng công tác thông tin, đối ngoại để những thành tựu trong bảo vệ, bảo đảm, phát huy đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số nói chung, người H’Mông nói riêng được cộng đồng quốc tế biết đến một cách rộng rãi, đầy đủ, thuyết phục.

Cùng với đó, cần nhanh chóng vạch trần âm mưu, quyết liệt đấu tranh trước các thủ đoạn lợi dụng quyền tự do, dân chủ để đòi "ly khai", "tự trị" các tổ chức chống phá người H’Mông lưu vong. Song song với việc phát huy hiệu quả công tác dân tộc, cần lồng ghép công tác này với các nhiệm vụ chuyên môn để các cơ quan chức năng thường xuyên bám sát cơ sở, kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn, không để xảy ra các "điểm nóng" về an ninh, trật tự../.

Nhận diện thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc để kích động "ly khai", "tự trị"

 

Nhằm thực hiện mưu đồ chống phá Nhà nước Việt Nam, thời gian qua, các thế lực thù địch, tổ chức phản động tăng cường các hoạt động tuyên truyền, kích động, vu cáo Ðảng, Nhà nước trên không gian mạng, với rất nhiều chiêu trò, thủ đoạn tinh vi. 

Nổi lên gần đây là việc lập kênh mạng xã hội để cổ xúy, ca ngợi những đối tượng là người H’Mông có hành vi vi phạm chính sách, pháp luật của Ðảng và Nhà nước Việt Nam hiện đã bỏ trốn ra nước ngoài hoặc đang thụ án tại các cơ sở giam giữ trong nước, coi họ là nạn nhân của chế độ trong nước, qua đó lôi kéo, kích động hận thù và chia rẽ trong đồng bào dân tộc thiểu số, xuyên tạc tình hình nhân quyền tại Việt Nam...

Theo ghi nhận của Cục An ninh nội địa (Bộ Công an), Tây Bắc và các vùng phụ cận vẫn là một trong những địa bàn cần được quan tâm, chú trọng khi thường xuyên bị các thế lực thù địch, phản động lợi dụng đồng bào người dân tộc thiểu số tiến hành các hoạt động tuyên truyền chia rẽ, kích động "ly khai", "tự trị" gắn liền với âm mưu thành lập cái gọi là "Nhà nước H’Mông".

Nổi lên trong số này là những tổ chức phản động như Hmong United for Justice (Liên minh người H’Mông vì công lý - HUJ), Hmong Human Rights Coalition (Liên minh nhân quyền người H’Mông - HmongHRC), Against Religion Oppression (Chống lại sự đàn áp tôn giáo), Xaivcialis CMA..., tự xưng là các tổ chức độc lập, ôn hòa, không liên quan đến bất kỳ nhóm hoặc cá nhân nào xúi giục thúc đẩy, âm mưu hoặc tiếp tay cho việc sử dụng bạo lực vì bất kỳ mục đích gì, song trên thực tế đây đều là những "tổ chức ma" do Vàng Chỉnh Mình (là người dân tộc H’Mông, sinh ra và lớn lên tại Việt Nam, hiện đang định cư tại Mỹ) và số đối tượng trong HUJ lập ra. Từ đó, tạo thành hệ thống "chân rết" với nhiều kênh tuyên truyền để tìm kiếm, lôi kéo người H’Mông nhẹ dạ, cả tin nhằm thực hiện những mưu đồ đen tối.

Chỉ trong 9 tháng năm 2024, các đối tượng hoạt động cho cái gọi là "Nhà nước H’Mông" ở hải ngoại đã sử dụng hàng trăm tài khoản mạng xã hội Facebook, YouTube, Twitter thường xuyên đăng tải tin, hình ảnh xuyên tạc tình hình an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội ở trong nước, vu cáo Việt Nam vi phạm nhân quyền. Ðồng thời, các nhóm do Vàng Chỉnh Mình và đồng bọn đẩy mạnh việc bắt liên lạc, tuyển mộ thành viên, nhất là các phần tử từng tham gia tổ chức bất hợp pháp "Nhà nước H’Mông" ở trong nước.

Mục tiêu chính của chúng là tìm ra các đối tượng người H’Mông được học tập, đào tạo bài bản trong hệ thống giáo dục của nhà nước, được thụ hưởng những ưu đãi của chế độ dành cho người dân tộc thiểu số nhưng vì một lý do nào đó trở nên bất mãn, lầm lạc hoặc suy thoái, biến chất, cố tình lợi dụng quyền tự do, dân chủ để "trở cờ", xuyên tạc chủ trương, đường lối, chính sách của Ðảng, Nhà nước, đưa thông tin sai sự thật về công tác tôn giáo, dân tộc. Sau đó, chúng tập hợp, tổ chức, hỗ trợ cho các phần tử chống phá này cùng gia đình vượt biên trái phép sang Thái Lan, lập hồ sơ xin tị nạn sang các nước thứ ba như Mỹ, Canada để gửi tới Văn phòng của Cao ủy về Người tị nạn của Liên hợp quốc (UNHCR).

Bên cạnh đó, lợi dụng tập quán du canh, du cư của một số đồng bào H’Mông tại các khu vực biên giới, các đối tượng đã thu nạp thành công một số người dân nhẹ dạ, thiếu hiểu biết, cực đoan nhằm củng cố vây cánh để cùng thực hiện những thủ đoạn chống phá mới, mà nổi lên là các chương trình phỏng vấn "nạn nhân người H’Mông của Nhà nước Việt Nam".

Khách mời của loạt chương trình này tự xưng là đại diện cho những "người H’Mông không Tổ quốc", "tù nhân người H’Mông ở Việt Nam" nhằm che giấu danh tính thật là những thành viên, cộng tác viên mới được các tổ chức chống phá người H’Mông ở nước ngoài tuyển mộ. Qua sự mớm lời, dẫn dắt thông tin của người dẫn chương trình, nhóm đối tượng này sắm vai "nhân chứng sống" ra sức xuyên tạc sai sự thật về đời sống vật chất và tinh thần của người H’Mông ở Việt Nam.

Thông qua chương trình, những đối tượng này đề cập đến một số vụ án, vụ việc vi phạm an ninh, trật tự, hộ tịch, đất đai, tôn giáo trong quá khứ liên quan đến một số người H’Mông vốn đã được cơ quan chức năng xử lý công bằng, dân chủ, minh bạch theo quy định của pháp luật Việt Nam.

Tuy nhiên, bằng thủ đoạn ngụy tạo nhân chứng, đánh tráo khái niệm, họ vu cáo Ðảng và Nhà nước Việt Nam đàn áp, bắt bớ, phân biệt đối xử với người H’Mông khiến dân tộc này "bị cô lập", "bức hại", "mất đất đai", "không được thực hành niềm tin tôn giáo", "không được thụ hưởng các chính sách an sinh, xã hội", "không được cấp giấy tờ tùy thân". Thậm chí, họ còn bịa đặt trắng trợn rằng bản thân và gia đình sẽ gặp nguy hiểm, có thể bị sát hại nếu quay về Việt Nam.

Ðáng chú ý, các video trên đều dàn dựng kịch bản khá bài bản, một số chương trình còn được dịch phụ đề bằng nhiều thứ tiếng. Trong đó, nhiều đối tượng trao đổi trực tiếp bằng ngôn ngữ tiếng Việt thay vì tiếng H’Mông như trước đây. Từ đây cho thấy mục đích của chúng không chỉ là lan truyền những thông tin xấu độc, sai sự thật đến đồng bào người H’Mông mà còn hướng đến cộng đồng các dân tộc thiểu số trên lãnh thổ Việt Nam, cũng như cộng đồng người Việt Nam đang sinh sống, học tập và làm việc ở nước ngoài.

Chưa dừng lại ở đó, khi khoác lên mình tấm áo "nạn nhân", các đối tượng chống phá cũng tích cực tham gia phỏng vấn trên các kênh truyền hình, tờ báo mang khuynh hướng chống cộng cực đoan ở hải ngoại, thể hiện mối quan hệ hợp tác công khai giữa tổ chức bất hợp pháp "Nhà nước H’Mông" với các hội, nhóm chống phá khác ở nước ngoài khác như BPSOS, Người Thượng vì công lý để hình thành một liên minh chống, phá Ðảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam trên lĩnh vực nhân quyền, tôn giáo, dân tộc.

Ðồng thời, tranh thủ sự ủng hộ của một số cá nhân, tổ chức thiếu thiện chí để qua đó đánh bóng tên tuổi, gây sức ép nhằm can thiệp vào tình hình nội bộ của nước ta. Nghe theo sự xúi giục của kẻ xấu, một số người H’Mông đã tự ý rời khỏi địa phương, không khai báo thông tin về nơi cư trú mới, tham gia các hoạt động tẩy chay, phản đối, bất hợp tác trong quá trình làm thủ tục cấp, đổi thẻ căn cước mới.

Một số thành phần cực đoan khi vượt biên trái phép sang các quốc gia khác còn bỏ lại, tiêu hủy giấy tờ tùy thân để không bị trục xuất về Việt Nam. Chính vì vậy, cơ quan chức năng ở Việt Nam và các nước láng giềng trong khu vực gặp nhiều thách thức trong việc hoàn thiện thủ tục, hồ sơ để cấp giấy tờ tùy thân cho những trường hợp này.

Thực tế, các "nạn nhân" nêu trên chỉ là hiện tượng cá biệt, không phản ánh toàn cảnh đời sống vật chất và tinh thần của cộng đồng người H’Mông cũng như đồng bào dân tộc thiểu số đang sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Ðảng và Nhà nước, công tác chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào tại các tỉnh miền núi phía bắc nói riêng, vùng sâu, vùng cao, vùng xa trên địa bàn cả nước nói chung không ngừng được cải thiện, nâng cao với nhiều chuyển biến tích cực trên tất cả các lĩnh vực.

Ðảng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản quan trọng có tính chất chỉ đạo hệ thống chính trị các cấp quan tâm hơn nữa đến công tác ở vùng đồng bào dân tộc. Trên cơ sở này, chính quyền tại các địa phương đã triển khai nhiều biện pháp, cách làm hiệu quả giúp đồng bào vươn lên thoát nghèo, phát huy tinh thần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; trong đó, nhấn mạnh đến các chính sách đối thoại, gặp gỡ, giải đáp các khúc mắc của đồng bào đang sinh sống tại địa bàn trên tinh thần thẳng thắn, cởi mở để cùng nhau tìm ra các chính sách tối ưu nhất phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội và tình hình thực tế.

Bên cạnh đó, các cấp chính quyền cũng tăng cường các biện pháp nhằm ngăn chặn hiệu quả, từ sớm, từ xa nhiều âm mưu, thủ đoạn gây chia rẽ dân tộc, tôn giáo, lợi dụng quyền tự do, dân chủ để thực hiện những hành vi chống phá khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Chính quyền và cơ quan chức năng cũng ngày một chủ động hơn trong việc tạo cơ hội, điều kiện cho những người dân từng lầm đường, lạc lối đi theo các đối tượng xấu có cơ hội được hòa nhập, sinh sống ổn định bên gia đình và cộng đồng...

Ðáng tiếc là vẫn có những tổ chức quốc tế, cơ quan chuyên môn làm công tác nhân quyền tại một số quốc gia lại dựa vào các cáo buộc sai sự thật về đời sống vật chất và tinh thần của người H’Mông tại Việt Nam như những "bằng chứng", "nhân chứng" xác thực để từ đó, lập nên những báo cáo, khuyến nghị phiến diện, thiếu khách quan về cuộc sống của người dân tộc thiểu số tại Việt Nam, đưa ra những yêu sách phi lý đòi thay đổi pháp luật Việt Nam.

Bởi vậy, thời gian tới, bên cạnh việc quan tâm chăm lo, thực hiện tốt chính sách đối với đồng bào người dân tộc thiểu số, Việt Nam cần tiếp tục quan tâm, nâng cao hơn nữa chất lượng công tác thông tin, đối ngoại để những thành tựu trong bảo vệ, bảo đảm, phát huy đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số nói chung, người H’Mông nói riêng được cộng đồng quốc tế biết đến một cách rộng rãi, đầy đủ, thuyết phục.

Cùng với đó, cần nhanh chóng vạch trần âm mưu, quyết liệt đấu tranh trước các thủ đoạn lợi dụng quyền tự do, dân chủ để đòi "ly khai", "tự trị" các tổ chức chống phá người H’Mông lưu vong. Song song với việc phát huy hiệu quả công tác dân tộc, cần lồng ghép công tác này với các nhiệm vụ chuyên môn để các cơ quan chức năng thường xuyên bám sát cơ sở, kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn, không để xảy ra các "điểm nóng" về an ninh, trật tự../.

                                                                                       PHAN KỶ (nhandan.vn)

VƯƠN MÌNH TRONG KỶ NGUYÊN MỚI ĐỂ GIỮ VỮNG MỤC TIÊU ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

 

Đảng ta vừa khẳng định đi lên CNXH là xu thế không thể đảo ngược (mặc dù tình hình khu vực, thế giới có nhiều thay đổi, diễn biến hết sức phức tạp) và cơ chế hoạt động chính trị luôn được củng cố, giữ vững là “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ”, vừa tiến hành đổi mới tư duy trên cơ sở nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật từ Đại hội VI (12/1986). Việc đổi mới mạnh mẽ sự lãnh đạo của Đảng; sự quản lý của nhà nước; cơ chế nhân dân làm chủ không chỉ giữ vững sự ổn định về chính trị, mà còn góp phần để đất nước đạt được nhiều thành tựu về kinh tế, xã hội và tiếp tục tiến những bước hết sức ngoạn mục.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, với việc đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, từ một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, Việt Nam đã chuyển sang cơ chế thị trường, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng. Với việc lựa chọn con đường phát triển đúng trọng tâm, phù hợp quy luật, từ một nước nông nghiệp, lạc hậu, nghèo nàn, quy mô nền kinh tế nhỏ bé, Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008. Từ một nền kinh tế đóng cửa, khép kín, Việt Nam trở thành đối tác thương mại lớn thứ 22 toàn cầu…

Sau gần 40 năm tiến hành đổi mới, sự thay đổi trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội đã mang đến cho Việt Nam cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín mới trong khu vực và cộng đồng quốc tế. Chính những thành tựu vĩ đại dưới sự lãnh đạo của Đảng đã “giúp Việt Nam tích lũy thế và lực cho sự phát triển bứt phá trong giai đoạn tiếp theo (...). Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; lợi ích quốc gia, dân tộc được bảo đảm. Quy mô nền kinh tế năm 2023 tăng gấp 96 lần so với năm 1986. Việt Nam trong nhóm 40 nước có nền kinh tế lớn nhất thế giới và 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại và thu hút đầu tư nước ngoài; có quan hệ ngoại giao với 193 nước là thành viên Liên hợp quốc; xây dựng các mối quan hệ đối tác, hợp tác chiến lược, đối tác chiến lược toàn diện với tất cả các cường quốc trên thế giới và khu vực...” như Tổng Bí thư Tô Lâm đã trao đổi với các học viên Lớp bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, kỹ năng đối với cán bộ quy hoạch Ủy viên Trung ương Đảng khóa XIV, ngày 31/10/2024.

Trước thềm Đại hội XIV của Đảng, Việt Nam đang đứng trước một ngã rẽ quan trọng trong lịch sử phát triển quốc gia, nhưng chắc chắn “mô hình chính trị hiện tại”- một Đảng Cộng sản lãnh đạo - không hề làm “cản trở sự phát triển bền vững và hội nhập sâu rộng với cộng đồng quốc tế” của Việt Nam. Mà trái lại, việc kiên định con đường đi lên CNXH dưới sự lãnh đạo của Đảng; kiên định thể chế chính trị nhất nguyên chứ không thực hiện dân chủ đa nguyên; kiên định xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng… đã mang đến cho Việt Nam độc lập, tự do, thống nhất, hòa bình và phát triển ổn định gần nửa thế kỷ qua. Đó chính là sự thật, chứ không phải mô hình một Đảng Cộng sản lãnh đạo và việc lựa chọn xây dựng CNXH dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là “giới hạn tiềm năng phát triển quốc gia và làm suy yếu vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế” như các thế lực chống phá vẫn thường rêu rao bịa đặt.

Sự thật là, việc “tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, không ngừng nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam”(3) và “bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc, trên cơ sở nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác cùng có lợi”(4) của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới đã không chỉ mang lại sự tăng cường hợp tác chiến lược và sự tin tưởng lẫn nhau, mà còn gia tăng hiệu quả trong hợp tác quốc phòng và an ninh và tăng cường hợp tác kinh tế và hội nhập toàn cầu…

Những sự thật khách quan nêu trên đã chứng minh con đường mà Việt Nam đang đi là đúng đắn. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, những thành tựu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN đã đạt được là không thể phủ nhận. Những sự thật đó là bằng chứng phủ nhận hoàn toàn những giọng điệu “ngụy phản biện”, rằng: Việt Nam muốn vươn mình trong kỷ nguyên mới thì phải từ bỏ “chế độ chính trị độc đảng lãnh đạo” và lựa chọn chế độ “dân chủ đa nguyên”(!).

Đổi mới là bản chất của cách mạng, của phát triển, vì thế Việt Nam sẽ tiếp tục đổi mới để hướng đến tương lai tươi sáng, nhưng chắc chắn không “đổi màu”. Việc kiên định độc lập dân tộc và CNXH chính là để làm cho quá trình thực hiện đổi mới tiến bộ được thực hiện hiệu quả; để CNXH phát huy được bản chất ưu việt, tránh sự giáo điều, trì trệ, xơ cứng trong tư duy và tư tưởng; để làm sinh động những giá trị bền vững của một Việt Nam hòa bình, độc lập, tự do, tự chủ, giàu mạnh, phồn vinh, hạnh phúc trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH.

Việc “đổi mới thể chế chính trị”, thực hiện dân chủ đa nguyên, tổ chức xã hội dân sự không phải là “lối đi duy nhất”; càng không phải là Việt Nam đang đứng trước một cơ hội lớn “cần phải” thực hiện “chuyển đổi thể chế và trở thành một quốc gia tự do, dân chủ, phù hợp với các giá trị phương Tây” như các phần tử bất mãn, cơ hội, phản động cổ súy. Cho nên, một điều chắc chắn là, Việt Nam sẽ vươn mình trong kỷ nguyên mới nhưng không thay đổi chế độ chính trị; không từ bỏ con đường và mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH - sợi chỉ đỏ, xuyên suốt, nhất quán của con đường cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng; không khi nào từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng.

Đúng như Tổng Bí thư Tô Lâm đã khẳng định, Việt Nam tiếp tục đổi mới trong bối cảnh thế giới đang nhiều thay đổi có tính thời đại và đất nước cũng đang bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng để xây dựng một nước Việt Nam XHCN phồn vinh, hạnh phúc, song đó không phải là “con đường toàn trị”, “tiếp tục chính sách đàn áp các tiếng nói bất đồng” như các thế lực thù địch bôi đen. Mà đó là nhân nguồn sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với Nhà nước và xã hội; tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và đảm bảo, bảo vệ, thực thi, thúc đẩy quyền con người, quyền công dân theo Hiến pháp và pháp luật Việt Nam... chứ không chấp nhận dân chủ đa nguyên, đa đảng đối lập, tổ chức xã hội dân sự và càng không đi theo con đường tư bản chủ nghĩa./.

KIÊN ĐỊNH ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG

 

Gần 95 năm về trước, ngay từ khi mới ra đời, trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên (2/1930), Đảng ta đã khẳng định rõ nhiệm vụ giải phóng dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội (CNXH). Theo đó cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn: Cách mạng tư sản dân quyền (giành độc lập dân tộc; mang lại ruộng đất cho dân cày) và cách mạng xã hội chủ nghĩa (XHCN) (xây dựng CNXH, chủ nghĩa cộng sản). Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH - Ý Đảng và khát vọng của lòng Dân gặp nhau đã bồi tụ nên nguồn sức mạnh vô song của khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, góp phần làm nên thắng lợi của sự nghiệp giải phóng dân tộc, khai sinh Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (2/9/1945).

Thực tế cho thấy, dù phải trải qua các cuộc chiến tranh nhân dân để bảo vệ nền độc lập, tự do của Tổ quốc, song một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ, ngày càng giàu mạnh, phồn vinh, hạnh phúc đã và đang hiển hiện trên thực tế. Một Việt Nam kiên định độc lập dân tộc và CNXH “đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Quy mô, trình độ kinh tế được nâng lên. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt cả về vật chất và tinh thần. Đất nước ta chưa bao giờ có được tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” là minh chứng sinh động cho thấy rằng: 1) Lý tưởng cộng sản, con đường cách mạng vô sản do Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam lựa chọn và được triển khai ở Việt Nam dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là đúng đắn, phù hợp điều kiện cụ thể của Việt Nam; phù hợp xu thế phát triển tất yếu của nhân loại. 2) CNXH không “mất đi”, không bị “xóa bỏ”, dù mô hình CNXH hiện thực ở Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu sụp đổ mà vẫn hiện diện trong đời sống đương đại. 3) Bài học kinh nghiệm về những sai lầm trong đường lối cải tổ (xóa bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ; xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản; phi chính trị hóa lực lượng vũ trang; sự thoái hóa, biến chất trong nội bộ; sai lầm trong công tác cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt cấp chiến lược…) của Liên Xô đã được Đảng Cộng sản Việt Nam rút kinh nghiệm để tiến hành thành công sự nghiệp đổi mới từ Đại hội VI (12/1986)...

Thực tế là, từ năm 1930 đến nay, ngoài Đảng Cộng sản - đội tiền phong của giai cấp và dân tộc thì không có đảng phái, tổ chức chính trị của các nhân sĩ, trí thức yêu nước hay của giai cấp tư sản dân tộc nào đủ năng lực, uy tín chính trị để lãnh đạo thành công sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Vị thế, vai trò lãnh đạo của Đảng không chỉ được ghi rõ trong các văn kiện, nghị quyết, chỉ thị, kết luận, quy định, chuyên đề của Đảng; không chỉ được khẳng định trong các công trình nghiên cứu, đánh giá, tổng kết về lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, mà còn được các tầng lớp nhân dân tin tưởng và các chính đảng khác (Việt Nam Cách mạng Đồng minh Hội, Việt Nam Quốc dân Đảng, Đảng Dân chủ, Đảng Xã hội…) ghi nhận. Vì thế, những luận điệu bẻ cong sự thật, rằng: “Đảng độc tài tự phong mình là lực lượng lãnh đạo” và “tự quyết định” xây dựng CNXH mà không hỏi “xem người dân Việt Nam có muốn hay không” là xuyên tạc và phản động.

Thực tế, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và xã hội không phải bằng mệnh lệnh hành chính mà bằng Cương lĩnh, quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng; bằng công tác cán bộ và hoạt động của các tổ chức Đảng, của đội ngũ cán bộ, đảng viên theo đúng tinh thần “các tổ chức Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” như Hiến pháp năm 2013 quy định. Cho nên, cũng không có cái gọi là Đảng “tự đặt mình lên trên Hiến pháp” như các thế lực thù địch xuyên tạc để chống phá Đảng và chế độ.

Hơn nữa, Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam có Hiến pháp và một hệ thống pháp luật được xây dựng, điều chỉnh, bổ sung, ngày càng hoàn thiện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, xã hội… để không chỉ thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, quản lý đời sống xã hội hướng đến mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mà còn bảo đảm, bảo vệ, thực thi, thúc đẩy quyền con người, quyền công dân và chủ động hội nhập quốc tế khi tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới theo tinh thần Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 9/11/2022.

Thực tế là, kiên định con đường đi lên CNXH, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Việt Nam thực sự là người chủ và đã, đang, tiếp tục làm chủ vận mệnh của mình, của dân tộc mình trên hành trình hướng đến tương lai. Nền dân chủ XHCN mà Việt Nam xây dựng và thực hiện là yêu cầu nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam; là mục tiêu, là động lực cho sự phát triển của đất nước, không chỉ thể hiện sinh động tư tưởng Hồ Chí Minh: “NƯỚC TA LÀ NƯỚC DÂN CHỦ./ Bao nhiêu lợi ích đều vì dân./ Bao nhiêu quyền hạn đều của dân./ Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân./ Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân./ Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra./ Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên./ Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”, mà còn tạo điều kiện để bảo đảm và phát huy quyền dân chủ của người dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Cần khẳng định rằng, một Việt Nam bứt phá, phát triển với diện mạo mới, tầm vóc và vị thế mới đã khác xa những ngày Đảng chưa ra đời; khác nhiều hơn so với trước khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công và đã “thay da đổi thịt” từ khi cả nước thống nhất cùng đi lên CNXH sau thắng lợi của cuộc Tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975. Do đó, dù các phần tử bất mãn, cơ hội, phản động có “lập luận” và “lập lờ đánh lận con đen” dưới bất cứ hình thức cũng đều là sự xuyên tạc, cố tình bẻ cong sự thật hòng phủ nhận và đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: ĐỔI MỚI, SÁNG TẠO, TĂNG TỐC, BỨT PHÁ, ĐƯA ĐẤT NƯỚC VỮNG BƯỚC TIẾN VÀO KỶ NGUYÊN VƯƠN MÌNH, PHÁT TRIỂN GIÀU MẠNH, VĂN MINH, THỊNH VƯỢNG CỦA DÂN TỘC!

         Nhân dịp đón Năm Mới 2025, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính có bài viết "Đổi mới, sáng tạo, tăng tốc, bứt phá, đưa đất nước vững bước tiến vào Kỷ nguyên vươn mình, phát triển giàu mạnh, văn minh, thịnh vượng của dân tộc"!

Xin trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của Thủ tướng:

"Những kết quả quan trọng, toàn diện, nổi bật đạt được trên các lĩnh vực trong bối cảnh khó khăn, thách thức nhiều hơn thời cơ, thuận lợi của năm 2024 khẳng định nỗ lực vượt bậc, ý chí kiên cường, quyết tâm sắt đá tiếp tục đẩy mạnh toàn diện sự nghiệp đổi mới của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta; qua đó củng cố nền tảng, tạo động lực mạnh mẽ để phấn đấu thực hiện thành công Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KTXH) năm 2025, góp phần hoàn thành cao nhất các mục tiêu, nhiệm vụ của giai đoạn 2021-2025, đưa đất nước vững bước tiến vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, văn minh, thịnh vượng của dân tộc Việt Nam.

I. Năm 2024, tình hình thế giới tiếp tục diễn biến nhanh, phức tạp, nhiều vấn đề chưa có tiền lệ, vượt dự báo; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn gay gắt; xung đột quân sự leo thang ở nhiều nơi; tình hình chính trị bất ổn tại một số quốc gia; kinh tế, thương mại, đầu tư toàn cầu phục hồi chậm, không đồng đều, thiếu vững chắc; các vấn đề an ninh phi truyền thống, biến đổi khí hậu, an ninh năng lượng, lương thực, an ninh mạng ngày càng nghiêm trọng. Ở trong nước, thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen, nhưng khó khăn thách thức nhiều hơn; nền kinh tế tiếp tục chịu "ảnh hưởng kép" từ những yếu tố bất lợi bên ngoài và những hạn chế, bất cập nội tại kéo dài nhiều năm; trong khi thiên tai, bão lũ gây thiệt hại lớn cho sản xuất kinh doanh và đời sống của Nhân dân.

Trong bối cảnh đó, với tinh thần nỗ lực vượt bậc "biến nguy thành cơ", "thay đổi trạng thái, xoay chuyển tình thế"; với phương châm "kỷ cương trách nhiệm, chủ động kịp thời, tăng tốc sáng tạo, hiệu quả bền vững", "chỉ bàn làm, không bàn lùi"; ngay từ những ngày đầu năm 2024, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo các cấp, các ngành, các địa phương tập trung triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, các Nghị quyết, Kết luận của Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội; chủ động, linh hoạt, bám sát thực tiễn, thực hiện đồng bộ, hiệu quả, có trọng tâm, trọng điểm các nhiệm vụ, giải pháp đề ra trên các lĩnh vực; trong đó ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng gắn với giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế; tập trung tháo gỡ những vướng mắc, điểm nghẽn về thể chế, pháp luật; đẩy nhanh tiến độ các dự án hạ tầng trọng điểm; chú trọng các nhiệm vụ phát triển văn hóa, xã hội, phòng chống thiên tai, bảo vệ môi trường; tăng cường phòng chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí; củng cố quốc phòng, an ninh; đẩy mạnh đối ngoại và hội nhập quốc tế; đồng thời nắm chắc tình hình, phản ứng chính sách kịp thời, hiệu quả trước những biến động từ bên ngoài.

Nhờ sự quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt của cả hệ thống chính trị, Nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp dưới sự lãnh đạo của Đảng, mà thường xuyên, trực tiếp là Bộ Chính trị, Ban Bí thư, đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư, tình hình KTXH nước ta tiếp tục phục hồi tích cực, với xu hướng tốt hơn qua từng tháng, từng quý, tính chung cả năm 2024 đạt và vượt toàn bộ 15 chỉ tiêu chủ yếu, trong đó có những kết quả nổi bật trên nhiều lĩnh vực, được Nhân dân cả nước và cộng đồng quốc tế đánh giá cao.

Việt Nam tiếp tục là điểm sáng về tăng trưởng và thuộc nhóm nước tăng trưởng cao trong khu vực và trên thế giới. Tăng trưởng GDP cả năm ước đạt khoảng 7%; quy mô kinh tế đạt khoảng 470 tỷ USD; cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch tích cực; tỷ trọng khu vực nông nghiệp còn khoảng 11%. Chất lượng tăng trưởng được cải thiện; tăng năng suất lao động ước đạt 5,7%, vượt mục tiêu đề ra; chỉ số tự do kinh tế tăng 13 bậc, lên vị trí 59/176 quốc gia, vùng lãnh thổ[1].

Việt Nam được đánh giá cao về kiểm soát lạm phát, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô trong bối cảnh thế giới biến động mạnh, nhiều khó khăn. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm 2024 tăng khoảng 3,6%, trong khi vẫn thực hiện tăng lương, tăng giá một số mặt hàng do Nhà nước quản lý. Các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm; tổng kim ngạch xuất nhập khẩu ghi nhận kỷ lục, cùng với kỷ lục xuất khẩu nông sản trên 62 tỷ USD; thặng dư thương mại ước đạt khoảng 24 tỷ USD, góp phần cải thiện cán cân thanh toán quốc tế. Nhờ nền kinh tế phục hồi tích cực và tăng cường, nâng cao hiệu quả quản lý thuế, tổng thu NSNN vượt trên 19% dự toán (khoảng 320 nghìn tỷ đồng), góp phần bổ sung nguồn lực cho đầu tư phát triển; nợ công, nợ chính phủ, nợ nước ngoài quốc gia và bội chi NSNN thấp hơn giới hạn quy định[2].

Việt Nam tiếp tục là điểm đến an toàn, hấp dẫn của các doanh nghiệp, đối tác, nhà đầu tư quốc tế; thuộc nhóm 15 nước đang phát triển thu hút vốn đầu tư nước ngoài lớn nhất thế giới, đạt khoảng 40 tỷ USD, trong đó vốn FDI thực hiện khoảng 25 tỷ USD; là một trong 20 nền kinh tế có quy mô thương mại lớn nhất thế giới với 17 FTA, trở thành một mắt xích quan trọng trong các chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu. Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi mạnh mẽ sang nền kinh tế số, kinh tế xanh, công nghệ cao, thân thiện với môi trường; đặc biệt đã xác lập được vị thế quan trọng trong chuỗi công nghiệp bán dẫn toàn cầu, thu hút được nhiều tập đoàn công nghệ lớn. Giá trị thương hiệu quốc gia năm 2024 đạt 507 tỷ USD, xếp thứ 32/193, tăng 1 bậc so với năm 2023.

Các đột phá chiến lược được tập trung chỉ đạo thực hiện quyết liệt và đạt nhiều kết quả rõ nét. Tập trung rà soát, hoàn thiện thể chế, pháp luật; Quốc hội đã thông qua nhiều Luật, Nghị quyết nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, điểm nghẽn cho phát triển trên các lĩnh vực[3]. Phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng chiến lược được đẩy mạnh toàn diện; đã đưa vào khai thác trên 2.000 km đường bộ cao tốc; hoàn thành Dự án đường dây 500 kV mạch 3 Quảng Bình - Hưng Yên trong thời gian ngắn kỷ lục 6 tháng; tập trung chuẩn bị, khẩn trương triển khai các dự án đường sắt quốc gia. Phát triển nguồn nhân lực chuyển biến tích cực; khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp được thúc đẩy mạnh mẽ. Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu năm 2024 xếp hạng 44/132 quốc gia, vùng lãnh thổ, tăng 02 bậc so với năm 2023. Công tác quy hoạch được đẩy mạnh; đã phê duyệt, triển khai thực hiện toàn bộ 111 quy hoạch ngành, lĩnh vực, quy hoạch cấp tỉnh và quy hoạch quốc gia; đồng thời tập trung xử lý các dự án tồn đọng, kém hiệu quả, kéo dài[4]; góp phần khơi thông nguồn lực, chống lãng phí, tạo không gian, động lực mới cho phát triển.

Phát triển văn hóa, xã hội được chú trọng; an sinh xã hội được bảo đảm; đời sống người dân tiếp tục được cải thiện. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều giảm còn khoảng 1,9%; thu nhập bình quân người lao động tăng khoảng 7,4%; chỉ số hạnh phúc tăng 11 bậc, xếp thứ 54/143[5]; chỉ số phát triển bền vững (SDGs) xếp thứ 54/166 quốc gia, vùng lãnh thổ, tăng 1 bậc so với năm 2023[6]. Kịp thời khắc phục hậu quả và hỗ trợ người dân bị ảnh hưởng bởi cơn bão số 3 với những hình ảnh, nghĩa cử cao đẹp, xúc động, ấm áp "tình dân tộc, nghĩa đồng bào" trên mọi miền đất nước.

Công tác cải cách hành chính, phòng chống tham nhũng tiêu cực tiếp tục được đẩy mạnh. Tập trung đơn giản hoá, cắt giảm thủ tục hành chính; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền; thực hiện nghiêm túc, hiệu quả chủ trương sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy. Tăng cường thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại tố cáo; nâng cao hiệu quả xử lý tham nhũng, tiêu cực, không để ảnh hưởng đến phát triển KTXH, góp phần củng cố, tăng cường niềm tin trong Nhân dân.

Độc lập, chủ quyền quốc gia được giữ vững; tiềm lực quốc phòng, an ninh được tăng cường; đối ngoại và hội nhập quốc tế được đẩy mạnh; uy tín, vị thế đất nước tiếp tục được nâng cao. Thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân gắn với thế trận lòng dân được tăng cường, củng cố vững chắc; công nghiệp quốc phòng đạt nhiều kết quả tích cực. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Hợp tác quốc tế tiếp tục được đẩy mạnh, nâng cấp[7], ngoại giao kinh tế được chú trọng; tạo lập được cục diện đối ngoại thuận lợi; góp phần giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định, hợp tác phát triển.

II. Vui mừng, phấn khởi trước những thành tựu, kết quả nổi bật đạt được trong năm 2024, nhưng chúng ta cũng thẳng thắn nhìn nhận còn những hạn chế, bất cập, khó khăn, thách thức cần được tiếp tục tập trung xử lý, giải quyết, hóa giải một cách kịp thời, hiệu quả trong thời gian tới. Trong đó, ổn định kinh tế vĩ mô còn tiềm ẩn rủi ro, sức ép điều hành về tỷ giá, lãi suất, lạm phát còn lớn, nhất là trước những tác động bất lợi từ bên ngoài. Tình hình sản xuất kinh doanh một số lĩnh vực còn khó khăn; sức mua thị trường phục hồi chậm, chưa rõ nét. Việc triển khai một số dự án kết cấu hạ tầng còn vướng mắc; giải ngân vốn đầu tư công chưa đáp ứng yêu cầu.

Thể chế, pháp luật vẫn là "điểm nghẽn của điểm nghẽn"; tư duy xây dựng pháp luật còn nặng về quản lý hơn là kiến tạo phát triển; quy trình, thủ tục có điểm còn bất cập. Một số quy định pháp luật, cơ chế, chính sách còn chậm được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn. Phân cấp, phân quyền còn vướng mắc, vẫn còn nhiều công việc cụ thể ở cấp trung ương; thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh có lĩnh vực còn rườm rà, ách tắc. Lãng phí vẫn còn trong nhiều ngành, lĩnh vực, gây nhiều hệ lụy, làm suy giảm nguồn lực, tăng gánh nặng chi phí, tạo rào cản, bỏ lỡ thời cơ cho phát triển của đất nước.

Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, chưa góp phần tạo đột phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Khoảng cách phát triển giữa các vùng, miền, tầng lớp nhân dân chưa được cải thiện nhiều; đời sống của một bộ phận người dân còn khó khăn. Việc giải quyết các vấn đề ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, ùn tắc giao thông, ngập úng tại các thành phố lớn còn chậm. Biến đổi khí hậu, thiên tai, bão lũ, sạt lở, ngập lụt, sụt lún, khô hạn biến động khó lường, gây hậu quả nặng nề. Tình hình tội phạm công nghệ cao, lừa đảo qua mạng và công tác bảo đảm an ninh, trật tự ở một số địa bàn diễn biến phức tạp...

Những hạn chế, bất cập, khó khăn, thách thức nêu trên có những nguyên nhân khách quan và chủ quan. Nguyên nhân khách quan chủ yếu là do tình hình thế giới phức tạp, khó lường, nhiều khó khăn, thách thức; hậu quả của đại dịch COVID-19 tiếp tục có những ảnh hưởng tiêu cực; trong khi đó thiên tai, bão lũ, nhất là bão số 3 (Yagi) gây hậu quả nặng nề. Nguyên nhân chủ quan là do kỷ luật, kỷ cương có lúc, có nơi chưa nghiêm; phân cấp, phân quyền ở một số lĩnh vực còn vướng mắc; một bộ phận cán bộ né tránh, đùn đẩy, sợ trách nhiệm; việc nắm bắt tình hình, tham mưu, phản ứng chính sách một số trường hợp chưa kịp thời, hiệu quả, chưa tận dụng hết các cơ hội phát triển; tinh thần nỗ lực vượt khó, tự lực, tự cường của một số cơ quan, đơn vị và một bộ phận cán bộ, công chức chưa cao…

Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình các lĩnh vực và từ thực tiễn công tác lãnh đạo, chỉ đạo điều hành, chúng ta có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm quý, sâu sắc, góp phần bổ sung, hoàn thiện về tư duy, phương pháp luận, định hướng chính sách và tổ chức thực hiện trong thời gian tới.

Thứ nhất, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng là sức mạnh vô địch, là yếu tố nền tảng căn bản cho phát triển bền vững, là điểm tựa để vượt qua mọi khó khăn; cần phát huy tinh thần tự lực, tự cường, nỗ lực đổi mới vươn lên của toàn dân tộc; luôn đặt lợi ích quốc gia, dân tộc và lợi ích của Nhân dân lên trên hết, trước hết.

Thứ hai, phải có tư duy phát triển đột phá, tầm nhìn chiến lược, nhìn xa, trông rộng, nghĩ sâu, làm lớn; làm việc nào dứt việc đó; coi trọng thời gian, trí tuệ, sự sáng tạo, quyết đoán, đúng thời điểm. Tập trung nắm chắc tình hình, phản ứng chính sách linh hoạt, kịp thời, hiệu quả; chủ động, linh hoạt, sáng tạo trong thực hiện các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước.

Thứ ba, phải tập trung khơi thông, huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực; lấy nội lực là cơ bản, chiến lược, lâu dài, quyết định và ngoại lực là quan trọng, cần thiết, đột phá; phát huy tối đa tiềm năng, thế mạnh, trí tuệ, bản lĩnh con người Việt Nam.

Thứ tư, phải đặc biệt chú trọng bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân; lấy con người là trung tâm, là chủ thể, là mục tiêu và là nguồn lực, động lực quan trọng nhất cho sự phát triển; không hy sinh tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần, "không để ai bị bỏ lại phía sau".

Thứ năm, phải tăng cường kỷ luật, kỷ cương, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền gắn với phân bổ nguồn lực và tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực; quyết liệt cải cách thủ tục hành chính; kiên quyết, kiên trì xóa bỏ cơ chế "xin - cho"; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, góp phần củng cố niềm tin trong Nhân dân và toàn xã hội.

III. Thời gian tới, dự báo tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường; kinh tế thế giới phục hồi chậm, rủi ro gia tăng; xu hướng phân tách, phân cực ngày càng rõ nét. Trong nước, bên cạnh những yếu tố thuận lợi, nền kinh tế tiếp tục xu hướng phục hồi, các chủ trương, cơ chế, chính sách mới đang tiếp tục phát huy hiệu quả tích cực; nhưng khó khăn, thách thức còn rất lớn, nhất là từ những yếu tố bất lợi bên ngoài và những hạn chế, bất cập nội tại kéo dài; các yếu tố an ninh phi truyền thống, thiên tai, biến đổi khí hậu, cạn kiệt tài nguyên, già hoá dân số tác động, ảnh hưởng ngày càng nghiêm trọng; trong khi nước ta là nước đang phát triển, nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi, quy mô còn khiêm tốn, độ mở cao, sức chống chịu và khả năng cạnh tranh còn hạn chế.

Năm 2025 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là năm tăng tốc, bứt phá để về đích để thực hiện thắng lợi Kế hoạch phát triển KTXH 5 năm 2021-2025, là năm diễn ra nhiều sự kiện trọng đại của đất nước - kỷ niệm 95 năm thành lập Đảng, 50 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, 135 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, 80 năm thành lập Nước và là năm tiến hành Đại hội Đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIV, mở ra kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình, phát triển giàu mạnh, văn minh, thịnh vượng của dân tộc, như đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm đã định hướng. Để thực hiện thành công mục tiêu chiến lược phấn đấu đến năm 2030 là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao; ngay từ năm 2025 chúng ta phải nỗ lực tối đa, tạo những yếu tố đột phá thu hút đầu tư, thúc đẩy mạnh mẽ sản xuất kinh doanh, phấn đấu đạt mức tăng trưởng ít nhất 8% hoặc phấn đấu cao hơn trong điều kiện thuận lợi; trên cơ sở đó tạo nền tảng vững chắc để đạt tốc độ tăng trưởng hai con số từ năm 2026.

Đất nước trong những thời điểm lịch sử cần những quyết sách mang tính lịch sử. Việc thực hiện các mục tiêu chiến lược kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng và 100 năm thành lập Nước trên đây là sứ mệnh đầy thử thách, nhưng cũng rất vẻ vang của các thế hệ chúng ta hôm nay và mai sau, là điểm kết nối quá khứ, hiện tại và tương lai, là điều kiện tiên quyết để đưa đất nước thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình, vươn lên trở thành nước phát triển. Chúng ta hoàn toàn có thể thực hiện được với tư duy đổi mới, quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, giải pháp đột phá, cách làm hiệu quả, tổ chức thực hiện kịp thời, linh hoạt, hiệu quả. Tập trung hiện thực hoá những tiềm năng khác biệt, cơ hội nổi trội, lợi thế cạnh tranh của đất nước, từng cấp, từng ngành, mỗi cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, từng người dân Việt Nam cần phát huy cao độ tinh thần đoàn kết, chung sức, đồng lòng, "dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung"; "đã nói là làm, đã cam kết là phải thực hiện; đã làm, đã thực hiện là phải có hiệu quả, cân đong, đo đếm được"; quán triệt và thực hiện hiệu quả phương châm "Đảng chỉ đạo, Chính phủ thống nhất, Quốc hội đồng tình, Nhân dân ủng hộ, Tổ quốc mong đợi, thì chỉ bàn làm, không bàn lùi, làm việc nào ra việc đấy, làm việc nào dứt việc đó".

Nghị quyết Đại hội Đảng XIII, các Nghị quyết, Kết luận của Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội, Chính phủ, chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ đã thể hiện rõ các nhiệm vụ, giải pháp trên tất cả các lĩnh vực và cần được các cấp, các ngành, các địa phương triển khai đồng bộ, toàn diện, hiệu quả với tinh thần "rõ người, rõ việc, rõ trách nhiệm, rõ thời hạn, rõ kết quả"; trong đó tập trung vào một số nội dung trọng tâm sau:

1. Tiếp tục tập trung hoàn thiện thể chế, pháp luật để thực sự là "đột phá của đột phá", tạo động lực phát triển đất nước với tinh thần "chính sách thông thoáng, hạ tầng thông suốt, quản trị thông minh". Đặc biệt chú trọng tư duy đổi mới, kiến tạo phát triển, tạo ra không gian phát triển mới. Đổi mới, số hoá, công khai, minh bạch, nâng cao hiệu quả của các loại thị trường; thực hiện đồng bộ các giải pháp để phục hồi, phát triển lành mạnh thị trường bất động sản và sớm nâng hạng thị trường chứng khoán. Quyết liệt sắp xếp lại tổ chức bộ máy theo hướng "Tinh - Gọn - Mạnh - Hiệu năng - Hiệu lực - Hiệu quả" gắn với cơ cấu lại, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức theo tinh thần Nghị quyết 18-NQ/TW; có chính sách cụ thể, tạo thuận lợi cho cán bộ, công chức dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách, đơn giản hoá thủ tục hành chính, xây dựng Chính phủ điện tử, thực hiện Đề án 06; thực hiện hiệu quả các giải pháp cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, bảo đảm khả năng cạnh tranh khu vực, quốc tế.

2. Tiếp tục ưu tiên thúc đẩy mạnh mẽ tăng trưởng kinh tế gắn với ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế. Nâng cao năng lực phân tích, dự báo; điều hành chủ động, kịp thời, linh hoạt, hài hoà, hiệu quả các chính sách tài khoá, tiền tệ để khơi thông, huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, nhất là trong Nhân dân. Tập trung làm mới các động lực tăng trưởng truyền thống, nhất là các giải pháp kích cầu đầu tư, tiêu dùng, xuất khẩu; đồng thời tạo đột phá thúc đẩy các động lực tăng trưởng mới, nhất là chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, phát triển các ngành, lĩnh vực mới nổi như chíp bán dẫn, dữ liệu lớn (big data), trí tuệ nhân tạo (AI), internet vạn vật (IoT), điện toán đám mây...

3. Tập trung phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng chiến lược đồng bộ, hiện đại; đẩy nhanh các dự án trọng điểm; kết nối hệ thống đường bộ cao tốc với sân bay, cảng biển; khẩn trương triển khai đường sắt tốc độ cao, đường sắt đô thị; Phấn đấu đến hết năm 2025 hoàn thành 3.000 km đường bộ cao tốc và trên 1.000 km đường bộ ven biển. Phát triển mạnh hạ tầng số, hạ tầng đô thị, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế, thể dục thể thao…; nghiên cứu, khai thác hiệu quả không gian ngầm, không gian biển, không gian vũ trụ.

4. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh. Phát triển mạnh các ngành, lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ có tiềm năng, lợi thế, ứng dụng công nghệ cao, theo hướng xanh hoá, hiệu quả, bền vững; giảm chi phí logistics; đánh thức tiềm năng, phát triển mạnh các loại hình du lịch. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước; xây dựng chính sách khuyến khích phát triển mạnh mẽ doanh nghiệp tư nhân; đẩy mạnh thu hút có chọn lọc đầu tư nước ngoài; tham gia sâu rộng hơn vào các chuỗi giá trị khu vực, toàn cầu.

5. Xác định rõ và có cơ chế, chính sách, giải pháp đột phá cả ở tầm chiến lược và sách lược để nguồn nhân lực chất lượng cao, khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đối số thực sự là quốc sách hàng đầu theo tinh thần Nghị quyết số 57-NQ/TW, tạo sự bứt phá, bay cao, vươn xa trong nỗ lực "bắt kịp, tiến cùng, tăng tốc, bứt phá và vượt lên", đưa đất nước vào quỹ đạo phát triển nhanh và bền vững. Tập trung rà soát, có cơ chế, chính sách đột phá nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, thúc đẩy tăng năng suất lao động. Đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia, phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, tạo động lực, truyền cảm hứng cho cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân, người Việt Nam ở trong nước và nước ngoài, đặc biệt là cho thế hệ trẻ Việt Nam xung kích đi đầu, vươn lên mạnh mẽ.

6. Chú trọng phát triển văn hóa hài hòa với kinh tế, xã hội; xây dựng cơ chế, chính sách phát triển công nghiệp văn hoá, công nghiệp giải trí; xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam phát triển toàn diện; thực hiện tốt các chính sách người có công, bảo trợ xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, giảm nghèo bền vững; chú trọng các chính sách dân tộc, tôn giáo, phát huy tinh thần "đạo pháp và dân tộc", sống "tốt đời, đẹp đạo". Triển khai hiệu quả các Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững, phát triển KTXH vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, phát triển văn hóa và phòng, chống ma tuý. Đẩy mạnh phong trào thi đua "Chung tay xóa nhà tạm, nhà dột nát trên phạm vi cả nước trong năm 2025"; phấn đấu sớm hoàn thành trên 100 nghìn căn nhà ở xã hội.

ĐỔI MỚI, SÁNG TẠO, TĂNG TỐC, BỨT PHÁ, ĐƯA ĐẤT NƯỚC VỮNG BƯỚC TIẾN VÀO KỶ NGUYÊN VƯƠN MÌNH, PHÁT TRIỂN GIÀU MẠNH, VĂN MINH, THỊNH VƯỢNG CỦA DÂN TỘC- Ảnh 9.
Thủ tướng bấm nút khởi công Dự án nhà ở xã hội Golden Square Lào Cai, ngày 22/12/2024 - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

7. Đẩy mạnh phòng chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Tiếp tục hoàn thiện thể chế, khắc phục những sơ hở, bất cập trong cơ chế, chính sách, pháp luật. Tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình; kiểm soát có hiệu quả tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn. Tiếp tục đẩy mạnh thanh tra, kiểm tra, xử lý các hành vi nghiêm các hành vi tham nhũng, tiêu cực, lãng phí.

8. Tiếp tục củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh; giữ vững độc lập, chủ quyền, lợi ích quốc gia; đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh lưỡng dụng; bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Tăng cường các giải pháp kiềm chế tội phạm, phấn đấu kéo giảm 5% số vụ phạm tội về trật tự xã hội; bảo đảm trật tự an toàn giao thông; chú trọng nâng cao hiệu quả phòng, chống cháy, nổ.

9. Nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế; tiếp tục đưa quan hệ với các đối tác ngày càng đi vào chiều sâu, thực chất, hiệu quả, đan xen lợi ích. Nâng cao chất lượng tham mưu, dự báo chiến lược, chủ động ứng phó, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ khi chưa lâm nguy. Thúc đẩy mạnh mẽ công tác ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hóa, giao lưu nhân dân phục vụ phát triển đất nước.

10. Đẩy mạnh công tác thông tin truyền thông, nhất là truyền thông chính sách; tăng cường tuyên truyền, cổ vũ, nhân rộng những mô hình hay, cách làm sáng tạo, gương người tốt, việc tốt. Nâng cao hiệu quả công tác tuyên giáo, dân vận, phối hợp chặt chẽ với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể nhân dân, góp phần tạo đồng thuận xã hội, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phấn đấu hoàn thành toàn diện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển KTXH đề ra.

*

* *

Nhiệm vụ đặt ra cho năm 2025 và thời gian tới là rất nặng nề. Phát huy những thành tựu đạt được sau gần 40 năm đổi mới; với tinh thần đoàn kết, chung sức, đồng lòng, ý thức trách nhiệm cao, ý chí tự lực, tự cường của cả hệ thống chính trị, Nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh, đất nước ta nhất định sẽ vượt qua mọi khó khăn, thách thức, nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển KTXH năm 2025, góp phần hoàn thành cao nhất kế hoạch phát triển KTXH 5 năm 2021 - 2025. Chúng ta tin tưởng chắc chắn rằng, trí tuệ và bản lĩnh Việt Nam đã được thử thách qua lịch sử hào hùng đấu tranh dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm của dân tộc ta sẽ tiếp tục tỏa sáng để đưa đất nước ta vươn lên tầm cao mới, đạt được những thành tựu to lớn hơn nữa trong kỷ nguyên vươn mình, phát triển giàu mạnh, văn minh, thịnh vượng của dân tộc, đưa đất nước ta sánh vai với các cường quốc năm châu, như Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu hằng mong muốn./.
-----------------------
[1] Theo xếp hạng Quỹ di sản (Heritage Foundation).

[2] Trong đó, dư nợ công khoảng 36-37% GDP, dư nợ Chính phủ khoảng 33-34% GDP.

[3] Năm 2024, Quốc hội đã thông qua 31 luật, 67 nghị quyết, chiếm hơn 40% tổng số luật, nghị quyết đã thông qua từ đầu nhiệm kỳ khóa XV đến nay; riêng Kỳ họp thứ 8 thông qua 18 luật và 21 nghị quyết.

[4] Trong đó có các dự án nhiệt điện Thái Bình 2, Vân Phong 1, Sông Hậu 1, Khí hóa lỏng Cái Mép - Thị Vải; chuỗi dự án điện khí điện Lô B - Ô Môn; các nhà máy đạm, nhà máy thép Việt - Trung…

[5] Theo báo cáo của Mạng lưới Giải pháp phát triển bền vững của Liên hợp quốc (UN).

[6] Theo Báo cáo của Liên Hợp Quốc (UN).

[7] Trong năm 2024 đã thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện với Australia, Pháp, Malaysia; Đối tác toàn diện với Mông Cổ, UAE, Đối tác chiến lược với Brazil; ký kết nhiều cam kết, thỏa thuận quốc tế trên tất cả các kênh Đảng, Nhà nước và nhân dân, các cấp, các lĩnh vực./.
Yêu nước ST.

ĐẬP TAN LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH VỀ KỶ NGUYÊN MỚI CỦA DÂN TỘC!

     Phát biểu bế mạc tại Hội nghị Trung ương 10 và trong nhiều bài viết, phát biểu quan trọng vừa qua, Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định: “Với thế và lực đã tích luỹ được sau 40 năm đổi mới, với sự đồng lòng, chung sức của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, với những thời cơ, thuận lợi mới, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, chúng ta đã hội tụ đủ những điều kiện cần thiết đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam”!

Tuy nhiên, bằng nhiều thủ đoạn, phương thức khác nhau, các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị lại ra sức xuyên tạc, phủ nhận mục tiêu đó của dân tộc ta. Vừa qua trên trang Thongluan-rdp, Kỷ Nguyên có bài “Những gì cần thấy đằng sau kỷ nguyên mới của Tô Lâm”, đã xuyên tạc, bóp méo quan điểm về kỷ nguyên mới của dân tộc Việt Nam. Chúng ta cần khẳng định:

1. Cơ sở định vị mục tiêu đưa đất nước ta bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
Kỷ nguyên là một giai đoạn lịch sử được đánh dấu bởi những đặc điểm quan trọng hoặc sự kiện có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của xã hội - văn hóa - chính trị - tự nhiên. Kỷ nguyên thường được sử dụng để phân chia thời gian trong lịch sử theo những biến cố lớn hoặc có sự thay đổi căn bản trong đời sống chính trị hay khoa học, công nghệ, môi trường. Kỷ nguyên vươn mình hàm ý tạo sự chuyển động mạnh mẽ, dứt khoát, quyết liệt, tích cực, nỗ lực, nội lực, tự tin để vượt qua thách thức, vượt qua chính mình, thực hiện khát vọng, vươn tới mục tiêu, đạt được những thành tựu vĩ đại. Đích đến của kỷ nguyên vươn mình là, dân giàu, nước mạnh, xã hội xã hội chủ nghĩa, sánh vai với các cường quốc năm châu. 

Những thành tựu vĩ đại đạt được sau 40 năm đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, giúp Việt Nam tích lũy thế và lực cho sự phát triển bứt phá trong giai đoạn tiếp theo: Từ một nước nghèo nàn, lạc hậu, trình độ thấp, bị bao vây, cấm vận, Việt Nam đã trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình, hội nhập sâu, rộng vào nền chính trị thế giới, nền kinh tế toàn cầu, nền văn minh nhân loại, đảm nhiệm nhiều trọng trách quốc tế, phát huy vai trò tích cực tại nhiều tổ chức, diễn đàn đa phương quan trọng. Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; lợi ích quốc gia - dân tộc được bảo đảm. Quy mô nền kinh tế năm 2023 tăng gấp 96 lần so với năm 1986. Việt Nam trong nhóm 40 nước có nền kinh tế lớn nhất thế giới và 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại và thu hút đầu tư nước ngoài; có quan hệ ngoại giao với 194 nước là thành viên Liên hợp quốc; xây dựng các mối quan hệ đối tác, hợp tác chiến lược và có quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với 8 nước trên thế giới. Đời sống người dân được cải thiện rõ rệt, tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh; hoàn thành về đích sớm các mục tiêu Thiên niên kỷ. Tiềm lực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học - công nghệ, quốc phòng, an ninh không ngừng nâng cao; tham gia đóng góp tích cực duy trì hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới.

2. Mục tiêu của kỷ nguyên mới 

Theo Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, mục tiêu tổng quát của kỷ nguyên mới chính là: Phấn đấu đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng, là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; có thể chế quản lý hiện đại, cạnh tranh, hiệu lực, hiệu quả; kinh tế phát triển năng động, nhanh và bền vững, độc lập, tự chủ trên cơ sở khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo gắn với nâng cao hiệu quả trong hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế. Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy sức sáng tạo, ý chí và sức mạnh toàn dân tộc, xây dựng xã hội phồn vinh, dân chủ, công bằng, văn minh, trật tự, kỷ cương, an toàn, bảo đảm cuộc sống bình yên, hạnh phúc của nhân dân. Không ngừng nâng cao đời sống mọi mặt của nhân dân; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Phấn đấu đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là Cộng hòa XHCN Việt Nam, trở thành nước phát triển, thu nhập cao.

Thế giới đang trong thời kỳ thay đổi có tính thời đại, từ nay đến năm 2030 là giai đoạn quan trọng nhất để xác lập trật tự thế giới mới, đây cũng là thời kỳ cơ hội chiến lược quan trọng, giai đoạn nước rút của cách mạng Việt Nam để đạt mục tiêu chiến lược 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, tạo tiền đề vững chắc đạt mục tiêu 100 năm thành lập nước. Sự biến chuyển có tính thời đại đem đến thời cơ, thuận lợi mới, đồng thời cũng có nhiều thách thức, trong đó mặt thách thức nổi trội hơn và thời cơ mới còn có thể xuất hiện trong khoảnh khắc giữa những thay đổi đột biến trong cục diện thế giới. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là trí tuệ nhân tạo và công nghệ số đem đến cơ hội mà những quốc gia đang phát triển, chậm phát triển có thể nắm bắt để đi trước đón đầu, phát triển vượt bậc. 

Lịch sử cách mạng Việt Nam cho thấy, dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng, khơi dậy ý chí tự lực, tự chủ, tự tin, tự cường, tự hào dân tộc, huy động sức mạnh toàn dân kết hợp với sức mạnh thời đại, con thuyền cách mạng Việt Nam sẽ đạt được những kỳ tích (kỳ tích về một nước dân chủ thuộc địa nửa phong kiến có thể chiến thắng hai đế quốc thực dân hùng mạnh; kỳ tích về một nước từ bị bao vây cấm vận thực hiện thành công công cuộc đổi mới với những thành tựu vĩ đại). Hiện nay là thời điểm ý Đảng hòa quyện với lòng dân trong khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc, sớm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, sánh vai với các cường quốc năm châu.

Những vấn đề đã được đề cập ở trên là minh chứng khách quan, sinh động, phản bác những luận điệu xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch về mục tiêu đưa đất nước ta bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc./.
Yêu nước ST.

VIỆT NAM VÔ ĐỊCH!

Chúc mừng đội tuyển bóng đá Việt Nam!
Yêu nước ST.

AI BẢO GiỚI TRẺ KHÔNG YÊU ĐẤT NƯỚ

“Ai bảo giới trẻ không yêu đất nước, không trân trọng lịch sử? Chúng tôi yêu bằng cách gìn giữ và dựng xây, đôi khi không cần lời”

Chúng mình yêu nước bằng cách khác. Không phải lúc nào cũng là những câu khẩu hiệu vang dội, hay những bài diễn văn hùng hồn. Tình yêu ấy hiện diện trong những việc nhỏ bé nhưng đầy ý nghĩa: một bạn trẻ cầm chổi quét rác trên phố, một nhóm sinh viên trồng cây gây rừng, hay những ý tưởng sáng tạo để quảng bá văn hóa Việt Nam ra thế giới.

Nếu có dịp đến bảo tàng hoặc những buổi trò chuyện với các cựu chiến binh, bạn sẽ thấy, giới trẻ vẫn lặng lẽ ngồi đó, chăm chú lắng nghe từng câu chuyện của những năm tháng khốc liệt. Những bức ảnh, kỷ vật cũ trong bảo tàng không chỉ là những món đồ vô tri, mà là cả một kho báu ký ức quý giá mà chúng mình cố gắng giữ gìn.

Chúng mình yêu đất nước bằng cách học tập, làm việc, đổi mới tư duy, mang công nghệ và trí tuệ đến những vùng đất xa xôi. Đó là cách chúng mình đóng góp, không chỉ để kế thừa những gì cha ông để lại, mà còn để xây dựng tương lai tốt đẹp hơn cho thế hệ sau.

Tình yêu đất nước của giới trẻ hôm nay không ồn ào, nhưng sâu sắc. Nó nằm trong cách chúng mình tôn trọng lá cờ Tổ quốc, trong những lần tự hào khi nhìn thấy dòng chữ "Made in Vietnam" trên sản phẩm, hay khi một vận động viên mang về vinh quang cho dân tộc.

Vậy nên, đừng vội phán xét nếu chúng mình không thể hiện tình yêu đất nước như thế hệ trước. Ai bảo giới trẻ không yêu nước? Chúng mình yêu bằng cách riêng, lặng thầm nhưng bền bỉ, và luôn tự hào được là người Việt Nam! ❤️


TRƯỞNG THÀNH

Trưởng thành chính là điều chỉnh tiếng khóc của bạn trở về chế độ im lặng. Phê phán là tốt nhưng chúng ta cũng cần tỉnh táo xem xét thấu đáo bản chất sự vật, hiện tượng đó xảy ra ở đâu, lúc nào, trong hoàn cảnh nào. Nếu không khéo chúng ta lại bị kẻ xấu dắt mũi làm tình hình phức tạp rối rắm thêm. 

Tham gia mạng xã hội cần có trái tim nóng, cái đầu lạnh. Lấy sự việc không biết bản chất thực hư thế nào để chửi bới, công kích là hành vi không thể chấp nhận.

“Chim có đường bay của chim

Cây có hướng mọc của cây”…

Muốn nhẹ lòng hãy từ bỏ những phán xét người khác, những điều nhỏ nhặt xung quanh mình, gạt bớt những sân si để hướng về cái chân, thiện, mỹ. Có những chuyện cần nói thì hãy nói, cái gì cần hờ hững thì hờ hững, phải biết lắng nghe để thấu hiểu, sẻ chia. Người nào thích lấn lướt cứ mặc cho họ lấn lướt hơn thua chi một cái nhấn ga rồi ai cũng trở về nhà mình rốt cùng trở thành vô nghĩa. 

Cuộc đời nếu như chỉ biết nói không biết nghe, chỉ tính toán mà không biết cho qua càng làm cho cuộc sống thêm nặng nề, phiền não. Chỉ cần nội tâm bình thản với tấm lòng bao dung vị tha chính là bạn đã biết sống một cuộc đời hạnh phúc./.



ĐẤT NƯỚC TÔI LÀ THẾ

Xin lỗi bạn, đất nước tôi là thế!

Yêu chuộng hòa bình, căm ghét chiến tranh

Chẳng muốn khăn tang nặng trĩu mái đầu xanh

Chẳng muốn Mẹ "Ba lần tiễn con đi, hai lần khóc thầm lặng lẽ"

Nỗi đau chiến tranh đến giờ vẫn quằn quại con trẻ

Nước mắt vợ buồn đêm chảy chẳng hề nguôi.

Đất nước tôi chẳng bao giờ buông xuôi

Dù phải đốt cháy dãy Trường Sơn cũng không hề nao núng

Vì độc lập, tự do buộc chúng tôi cầm súng

Khoét núi, ngủ hầm, cơm vắt chẳng hề nao

Máu trộn bùn non thấm đẫm chiến hào

Vẫn khí phách hiên ngang lao vào trận chiến

Già, trẻ, gái, trai đồng lòng cống hiến

Dâng trọn đời mình vì Tổ quốc thân thương

Biết bao con em nằm lại chiến trường

Biết bao đứa trẻ chẳng bao giờ gặp bố

Tình nghĩa vợ chồng chẳng có ngày hội ngộ

Chiến tranh qua rồi tìm mộ chẳng hề ra.

Đất nước tôi chuộng hòa bình thiết tha

Nhưng nếu bị xâm lăng thì còn "cái lai quần cũng đánh"

Lòng yêu nước chẳng bao giờ nguội lạnh

Độc lập, chủ quyền là hết sức thiêng liêng

Muốn ấm êm với các nước láng giềng

Muốn là bạn với bạn bè thế giới

Muốn bầu trời trong xanh vời vợi 

Muốn trái đất này mãi mãi được bình an.



MỖI CHÚNG TA HÃY LÀ MỘT CHIẾN SĨ TRÊN KGM

 Ngày nay, trước sự tác động toàn diện, mạnh mẽ, không gian mạng đã trở thành một không gian xã hội mới, nơi con người có thể thực hiện các hành vi giao tiếp, sáng tạo, lao động, sản xuất, tiêu dùng, học tập và vui chơi giải trí mà không bị giới hạn bởi không gian và thời gian. Tuy nhiên, cùng với những lợi ích to lớn, không gian mạng đang tạo ra các nguy cơ và thách thức đối với an ninh quốc gia, an ninh con người và trật tự, an toàn xã hội. Việt Nam là một trong 20 nước có số người sử dụng Internet cao nhất thế giới nên đây chính là điều thuận lợi mà các thế lực thù địch thường lợi dụng để tiến hành các âm mưu, thủ đoạn chống phá nước ta trên không gian mạng.

Thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động, đối tượng cơ hội chính trị ngày càng chống phá quyết liệt hơn, toàn diện hơn. 

Chúng đã có điều chỉnh cả lực lượng công khai và lực lượng bí mật, với phương thức hoạt động mới là lợi dụng các vấn đề an sinh xã hội để tổ chức các hoạt động công kích, hòng làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào chế độ; gây mất đoàn kết chia rẽ lực lượng công an, quân đội; bác bỏ, phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang… Đây là những vấn đề khiến mỗi chúng ta không thể chủ quan. Lực lượng nòng cốt đấu tranh với các thế lực thù địch, phản động đến nay cơ bản đã rõ thì công tác đấu tranh, phản bác trên không gian mạng cần mạnh mẽ, quyết liệt hơn trong thời gian tới, để bảo vệ nền tảng tư tưởng, chính trị của Đảng.

Để hành động quyết liệt, chủ động tiến công ngoài các lực lượng chức năng của Đảng, Nhà nước thì mỗi người dân chúng ta cũng đề cao cảnh giác đồng thời tích cực chủ động, mỗi người dân là một chiến sĩ bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng./.

THẤT BẠI LÀ MẸ THÀNH CÔNG

Ở đời ai thành công mà chưa từng thất bại, ai nên khôn mà không dại một vài lần. Mỗi lần vấp ngã hãy xem như một bài học quý giá, phải trải qua đủ mọi cung bậc cảm xúc, nếm đủ hương vị cuộc đời thì ta mới có thể khôn lớn trưởng thành được. 

Con người ta chỉ hơn nhau về mặt ý chí và nghị lực. Có nhiều người suy sụp tinh thần sau khi gặp thất bại, đánh mất bản thân sau khi bị tình phụ, cũng có nhiều người thất bại rất nhiều lần nhưng họ vẫn miệt mài làm lại, để rồi trở thành người thành công. 

Muốn gặt gái thành quả phải trải qua tháng năm rèn giũa và không ngừng cố gắng,. Cho  dù không thành công thì cũng không thể nào bi đát được, khi đã nỗ lực  hết mình thì không có điều gì làm ta hối tiếc.

Thứ Bảy, 4 tháng 1, 2025

 BẢO VỆ VỮNG CHẮC CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO, THỀM LỤC ĐỊA THIÊNG LIÊNG CỦA TỔ QUỐC

Trong những ngày đầu năm 2025, cán bộ, chiến sĩ Bộ Tư lệnh Vùng 4 Hải quân vui mừng, phấn khởi khi đơn vị vinh dự được tặng thưởng danh hiệu “Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân”. Đây là phần thưởng cao quý của Đảng, Nhà nước và nhân dân dành cho đơn vị, ghi nhận những thành tích đặc biệt xuất sắc của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Vùng 4 Hải quân trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc.

Ngay sau khi đất nước thống nhất, non sông liền một dải, trước yêu cầu cấp bách của nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong tình hình mới, ngày 26/10/1975, Vùng 4 Duyên hải được thành lập - nay là Vùng 4 Hải quân.

Vùng được giao nhiệm vụ quản lý, bảo vệ vùng biển rộng trên 360.000 km², từ Cù Lao Xanh, tỉnh Bình Định đến Mũi Ba Kiệm, tỉnh Bình Thuận, bao gồm quần đảo Trường Sa, vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng cả về chính trị, kinh tế, quốc phòng và an ninh của đất nước.

Trải qua gần 50 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, ngay từ những ngày đầu thành lập, cán bộ, chiến sĩ Vùng 4 Hải quân đã vượt lên mọi khó khăn, gian khổ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, bảo vệ vững chắc chủ quyền vùng biển, các đảo, điểm đảo thuộc quần đảo Trường Sa; tham gia và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quốc tế cao cả tại Campuchia, là lực lượng nòng cốt trong chiến dịch CQ-88 lịch sử.

Trong những năm gần đây, cán bộ, chiến sĩ Vùng 4 Hải quân luôn quán triệt sâu sắc các nghị quyết, phương châm, đối sách của Đảng, Nhà nước, chỉ thị, mệnh lệnh của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và Đảng uỷ, Bộ Tư lệnh Hải quân.

Toàn Vùng đã duy trì nghiêm chế độ trực, bảo đảm lực lượng, phương tiện luôn ở trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao nhất. Tổ chức quan sát, trinh sát, phát hiện hơn 5 triệu lượt mục tiêu trên không, trên biển, tham mưu và trực tiếp xử lý tốt các tình huống trên biển không để bị động, bất ngờ, giữ vững được chủ quyền, môi trường hòa bình trên biển.

Trước những diễn biến phức tạp của tình hình trên biển, hàng ngàn lượt cán bộ, chiến sĩ được điều động đến các khu vực trọng điểm, khó khăn, gian khổ, nhưng cán bộ, chiến sĩ luôn thể hiện bản lĩnh kiên cường và ý chí quyết tâm sắt đá, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.

Để xây dựng Vùng 4 Hải quân tiến thẳng lên hiện đại, những năm qua, các cơ quan, đơn vị trong toàn Vùng đã không ngừng đổi mới toàn diện, hoàn thành đặc biệt xuất sắc nhiệm vụ huấn luyện, diễn tập, góp phần nâng cao chất lượng tổng hợp, trình độ, khả năng sẵn sàng chiến đấu và sức mạnh chiến đấu của các lực lượng.

Toàn Vùng đã bám sát phương châm huấn luyện “cơ bản, thiết thực, vững chắc”, chú trọng huấn luyện đồng bộ, chuyên sâu; sát phương án, đối tượng tác chiến, chiến trường, tổ chức, biên chế và vũ khí trang bị; lấy nhiệm vụ bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo và xây dựng đơn vị cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại làm mục tiêu huấn luyện.

Với tinh thần cầu thị, ham học hỏi, cán bộ, chiến sĩ các đơn vị đã nhanh chóng làm chủ và khai thác hiệu quả nhiều vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện đại, đáp ứng các yêu cầu nhiệm vụ; hoàn thành xuất sắc các nội dung, khoa mục huấn luyện mới, độ khó cao.

Đơn vị cũng tăng cường huấn luyện đêm, huấn luyện trong điều kiện thời tiết phức tạp; huấn luyện và diễn tập đối kháng; tổ chức bắn thành công các loại tên lửa được trang bị trên tàu chiến đấu, tên lửa bờ… và các loại vũ khí mới được trang bị.

Bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa thiêng liêng của Tổ quốc ảnh 3


Phiên trực trên điểm đảo thuộc quần đảo Trường Sa.

Thông qua các cuộc diễn tập lớn do Bộ Quốc phòng và Quân chủng Hải quân tổ chức, các lực lượng của Vùng 4 Hải quân đã khẳng định rõ bản lĩnh, trí tuệ, trình độ hiệp đồng tác chiến, hoàn toàn làm chủ vũ khí trang bị kỹ thuật mới, hiện đại, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, của Tổ quốc trong tình hình mới.


Thực hiện phương châm “Cứu giúp nhân dân là nhiệm vụ chiến đấu trong thời bình, là mệnh lệnh từ trái tim người lính”; mỗi cán bộ, chiến sĩ Vùng 4 Hải quân luôn quán triệt và thực hiện tốt tư tưởng chỉ đạo: “Khi dân cần, khi dân khó có bộ đội Hải quân”, luôn coi nhiệm vụ bảo vệ tính mạng, tài sản của Nhân dân là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là trách nhiệm thiêng liêng và cao cả của người lính.


Dẫu cho bão tố, sóng dữ hay điều kiện khắc nghiệt, hiểm nguy nơi biển khơi, mỗi khi có ngư dân gặp nạn, lực lượng và phương tiện của Vùng 4 nhanh chóng xuất phát, cơ động và có mặt kịp thời để cứu giúp ngư dân.


Đồng thời, toàn Vùng tiếp tục triển khai hiệu quả nhiều chương trình, cách làm sáng tạo góp phần xây dựng “thế trận lòng dân”, thế trận chiến tranh nhân dân trên biển.


Cụ thể như Chương trình “Hải quân Việt Nam làm điểm tựa cho ngư dân vươn khơi, bám biển”, “Hải quân nhận đỡ đầu con ngư dân”...


Chỉ tính trong 10 năm gần đây, Vùng 4 Hải quân đã thực hiện hơn 650 lượt tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn; cấp cứu, điều trị trên 6.000 lượt ngư dân; cứu kéo hơn 200 lượt tàu cá bị nạn về nơi an toàn; huy động hàng chục nghìn lượt cán bộ, chiến sĩ và hàng trăm lượt phương tiện các loại để hỗ trợ nhân dân địa phương phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai. Mỗi đảo, điểm đảo, mỗi con tàu của Vùng 4 Hải quân thực sự là điểm tựa và niềm tin vững chắc cho ngư dân vươn khơi bám biển.


Cùng với nhiệm vụ cứu hộ, cứu nạn, cán bộ, chiến sĩ Vùng 4 còn tích cực tham gia hoạt động dân vận, xây dựng mối quan hệ gắn bó mật thiết với địa phương; kịp thời hỗ trợ các chương trình phát triển kinh tế-xã hội, xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới; tổ chức khám chữa bệnh, cấp thuốc miễn phí, thăm hỏi và tặng quà cho các gia đình chính sách, những hoàn cảnh khó khăn với tổng giá trị hỗ trợ lên đến hàng chục tỷ đồng.


Hình ảnh cán bộ, chiến sĩ Vùng 4 Hải quân vượt sóng to, gió lớn để cứu dân, tận tụy đồng hành cùng sự phát triển của địa phương nơi đóng quân đã để lại nhiều tình cảm và ấn tượng tốt đẹp. Những nỗ lực ấy tiếp tục làm sâu sắc thêm hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ - Người chiến sĩ Hải quân” thời kỳ mới trong lòng nhân dân.


Ghi nhận thành tích của đơn vị, mới đây, Chủ tịch nước Lương Cường đã ký quyết định phong tặng danh hiệu “Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân” cho Bộ Tư lệnh Vùng 4 Hải quân.


Theo đồng chí Chuẩn Đô đốc Nguyễn Anh Tuấn, Tư lệnh Vùng 4 Hải quân, phần thưởng cao quý này là nguồn cổ vũ, động viên to lớn để cán bộ, chiến sĩ toàn Vùng tiếp tục nỗ lực, phấn đấu hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước và nhân dân giao.


Trao đổi với chúng tôi, đồng chí Thượng tá Bùi Xuân Bình, Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Vùng 4 Hải quân chia sẻ: Tự hào về chặng đường đã qua, mỗi cán bộ, chiến sĩ Vùng 4 Hải quân hôm nay nguyện tiếp bước cha anh; trung thành tuyệt đối với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân, đoàn kết một lòng, nỗ lực khắc phục khó khăn, quyết tâm xây dựng Vùng thực sự “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ hiện đại”, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa thiêng liêng của Tổ quốc; xứng đáng với danh hiệu cao quý “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân” mà Đảng, Nhà nước và nhân dân trao tặng./.


Báo Nhân Dân

DẤU MỐC VÀNG LỊCH SỬ CỦA NỀN DÂN CHỦ VIỆT NAM

 Tròn 79 năm trước - ngày 6 tháng 1 năm 1946 - cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên trong lịch sử Việt Nam diễn ra chỉ 124 ngày sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử đất nước, đồng bào ta, không phân biệt giai cấp, giới tính, tôn giáo, trực tiếp cầm lá phiếu bầu ra những đại biểu ưu tú, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của mình lập thành Quốc hội. Sự kiện vẻ vang này không chỉ kết tinh khát vọng và bản lĩnh quật cường vì độc lập, tự do mà còn thể hiện tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc và phù hợp với xu thế tiến bộ của nhân loại.

Và, Quốc hội Khóa I ra đời, với 333 đại biểu đại diện cho các tầng lớp nhân dân, các vùng miền và các tổ chức chính trị, xã hội trên dải đất Việt Nam độc lập, tự do. Quốc hội Khóa I không chỉ ban hành Hiến pháp năm 1946 - bản Hiến pháp đầu tiên đặt nền móng cho hệ thống chính trị dân chủ, pháp quyền, quyết định các chính sách lớn, xây dựng nền tảng cho sự phát triển của đất nước mà thật sự là nơi hội tụ và khẳng định ý chí, tiếng nói và sức mạnh của toàn thể Nhân dân suốt 79 năm qua. Đây là sự kiện lịch sử bằng vàng trên con đường nước ta xây dựng nền dân chủ cộng hòa, dưới ngọn cờ của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Trước thềm Xuân Ất Tỵ năm 2025, trên nền tảng đất nước sau 79 năm kể từ ngày Tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội khóa đầu tiên, tổng kết chặng đường lịch sử vẻ vang, nhân lên sức mạnh toàn diện không ngừng của Quốc hội, tổng kết 40 năm công cuộc đổi mới toàn diện, đồng bộ, phát huy cao nhất sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, nắm chắc thời cơ, đón lấy vận hội, “Tìm con đường ngắn nhất đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới”, như yêu cầu của Tổng Bí thư Tô Lâm, vì hoài bão Tổ quốc hùng cường, Nhân dân hạnh phúc, Việt Nam nhịp bước tiến cùng thời đại./.

St Đào Dịu