Thứ Tư, 1 tháng 2, 2023

Xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng

 


Kế thừa tinh thần các kỳ Đại hội trước, Đại hội XIII của Đảng coi “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị”[1]. Trên tinh thần nhiệm vụ trọng tâm này, Đại hội XIII đề ra một số giải pháp xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045. Đó là các giải pháp định hướng cơ bản sau:

 

Một là, trên cơ sở tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cần tập trung “Xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trên cơ sở nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước”[2]. Đây vừa là nhiệm vụ quan trọng nhất vừa là giải pháp hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bởi lẽ, nhà nước của chúng ta không thực hiện tam quyền phân lập mà thực hiện nguyên tắc phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước. Đây vừa là nhiệm vụ trước mắt vừa là nhiệm vụ lâu dài. Bởi lẽ, chỉ trên cơ sở phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước chúng ta mới bảo đảm được trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam không xảy ra tình trạng lạm quyền, lộng quyền hay buông lỏng quyền lực. Như vậy thì Nhà nước mới được tổ chức và  hoạt động theo tinh thần pháp quyền, quyền lực của nhân dân mới được bảo đảm trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật. Để thực hiện tốt giải pháp này cần tổ chức thực hiện một số biện pháp cụ thể sau:

 

Hai là, “Đẩy mạnh việc hoàn thiện pháp luật gắn với nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật”[6]. Định hướng giải pháp này xuất phát từ thực tế những hạn chế trong xây dựng nhà nước mà Đại hội XIII đã chỉ ra “Hệ thống pháp luật còn một số quy định chưa thống nhất, chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu thực tiễn. Chấp hành pháp luật nhìn chung chưa nghiêm; kỷ cương phép nước có nơi, có lúc còn bị xem nhẹ, xử lý vi phạm pháp luật chưa kịp thời, chế tài xử lý chưa đủ sức răn đe”[7]. Để đẩy mạnh việc hoàn thiện pháp luật gắn với nâng cao hiệu quả, hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật có hiệu quả, Đại hội XIII đề ra một số các biện pháp cụ thể:

 

Thứ nhất, tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, “tăng tính chuyên nghiệp trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội, trong thực hiện chức năng lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao”[8].

 

Thứ hai,trên cơ sở đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, xây dựng hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, có sức cạnh tranh quốc tế, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân là trung tâm, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển bền vững kinh tế, xã hội và quốc phòng, an ninh trong điều kiện mới[9]. Rõ ràng là trên cơ sở hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định,v.v.. như vậy thì việc việc hoàn thiện pháp luật gắn với nâng cao hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật mới đạt kết quả. Trên cơ sở đó thì việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động mới thành công.

 

Thứ ba, nhà nước quản lý, điều hành nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các công cụ điều tiết trên cơ sở các quy luật thị trường. Tất nhiên, nhà nước cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, chủ động điều tiết các tác động tiêu cực của thị trường nhưng không can thiệp làm sai lệch các quy luật thị trường[10]. Nghĩa là, nhà nước phải giải quyết tốt quan hệ nhà nước và thị trường, tránh rơi vào “nhà nước tối thiểu” trong cơ chế thị trường tự do, nhưng cũng không được rơi vào “nhà nước tối đa” trong cơ chế kinh tế tập trung bao cấp. Muốn vậy phải tuân thủ nguyên tắc là nhà nước điều hành, quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các công cụ điều tiết trên cơ sở các quy luật thị trường.

 

Thực hiện tốt ba biện pháp này sẽ đẩy mạnh được việc hoàn thiện pháp luật gắn với nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật của nhà nước. Trên  cơ sở đó xây dựng, hoàn thiện được nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo, phát triển, liêm chính, hành động.

 

Ba là, “Nâng cao năng lực tổ chức có hiệu quả hệ thống pháp luật, thể chế và các chính sách phát triển kinh tế - xã hội”[11]. Chúng ta đều biết, nhìn chung hệ thống pháp luật, thể chế, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của chúng ta chưa thật hoàn thiện toàn diện nhưng cũng đủ tạo điều kiện cho nhà nước nâng cao năng lực kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động, mặc dù còn yếu ở khâu tổ chức thực hiện có hiệu quả hệ thống pháp luật, thể chế và các chính sách. Do vậy, nâng cao cao năng lực tổ chức có hiệu quả hệ thống pháp luật, thể chế và các chính sách phát triển kinh tế - xã hội là một định hướng giải pháp quan trọng để nâng cao năng lực kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Để nâng cao cao năng lực tổ chức có hiệu quả hệ thống pháp luật, thể chế và các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, Đại hội XIII xác định cần thực hiện tốt một số biện pháp cụ thể:

 

Thứ nhất, thực hiện tốt việc gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng pháp luật với tổ chức thi hành pháp luật. Tập trung đầu tư cơ sở vật chất, các điều kiện cần thiết để thực hiện tốt các nhiệm vụ nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật; thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật[12].

 

Thứ hai, chú trọng quản lý phát triển xã hội, thực hiện ngày càng tốt hơn an sinh xã hội và phúc lợi xã hội, bảo vệ và trợ giúp các đối tượng dễ bị tổn thương trong nền kinh tế thị trường[13]. Chúng ta đều rõ, một trong những chức năng quan trọng của Nhà nước ta là quản lý phát triển xã hội bền vững, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và trong từng chính sách phát triển. Thực hiện tốt chức năng này mới có cơ sở thực hiện tốt chức năng kiến tạo phát triển. Đảng và Nhà nước ta phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa như một công cụ, phương tiện thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Do vậy, để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của kinh tế thị trường, Đảng, Nhà nước ta rất quan tâm tới an sinh xã hội và phúc lợi xã hội, bảo vệ và trợ giúp các đối tượng dễ bị tổn thương trong nền kinh tế thị trường. Cũng vì vậy, trong các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước luôn có sự thống nhất giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội; gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường trong từng bước và từng chính sách phát triển. Đồng thời thực hiện phân phối công bằng, ngoài phân phối theo quy luật kinh tế thị trường như theo kết quả, hiệu quả sản xuất kinh doanh, theo đóng góp vốn và các nguồn lực khác còn thực hiện phân phối theo an sinh xã hội và phúc lợi xã hội. Vì vậy, thực hiện tốt giải pháp này góp phần giải quyết tốt quan hệ Nhà nước, thị trường và xã hội. Trên cơ sở đó nâng cao được năng lực tổ chức có hiệu quả hệ thống pháp luật, thể chế và các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, để góp phần xây dựng được nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động.

 

Thứ ba, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô và an ninh kinh tế; thực hiện tốt chức năng quản lý, phát triển mạnh nguồn nhân lực và hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội đáp ứng yêu cầu phát triển. Quản lý và sử dụng hiệu quả tài sản quốc gia, thực hiện đúng, tốt chức năng chủ sở hữu đối với doanhh nghiệp nhà nước[14]. Rõ ràng là nếu kinh tế không ổn định thì không thể phát triển được. Hơn nữa, để phát triển đất nước phải có nguồn nhân lực, hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội, sử dụng hiệu quả tài sản quốc gia, phát huy vai trò của doanh nghiệp nhà nước. Những chức năng này đều thuộc chức năng quản lý, điều hành của nhà nước. Nếu thực hiện chức năng quản lý, điều hành những vấn đề này tốt mới tạo cơ sở, điều kiện tiền đề để xây dựng được nhà nước kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động.

 

Thứ tư, hoàn thiện hệ thống các đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng tinh gọn, có cơ cấu hợp lý, có năng lực tự chủ, quản trị tiên tiến, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; cung ứng dịch vụ sự nghiệp công cơ bản, thiết yếu có chất lượng ngày càng cao[15]. Rõ ràng, Nhà nước pháp quyền kiến tạo phát triển không thể là nhà nước có bộ máy cồng kềnh, quản trị lạc hậu, cung cấp dịch vụ công phức tạp, kém chất lượng. Do vậy, đây là biện pháp quan trọng để nâng cao năng lực tổ chức có hiệu quả hệ thống pháp luật, thể chế và các chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời  đẩy mạnh chuyển giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các đơn vị sự nghiệp công lập. Phát triển thị trường dịch vụ sự nghiệp công, kiểm soát độc quyền và bảo vệ người tiêu dùng[16].

 

Thực hiện tốt bốn biện pháp trên sẽ từng bước nâng cao được năng lực tổ chức có hiệu quả hệ thống pháp luật, thể chế và các chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Trên cơ sở đó tăng cường hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động.

 

Bốn là, “Tập trung xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, bảo đảm công khai, minh bạch, quản lý thống nhất, thông suốt, hiệu lực, hiệu quả”[17]. Giải pháp này bắt nguồn từ thực trạng cải cách hành chính mà Đại hội XIII đã tổng kết chỉ ra rằng cải cách hành chính chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu phát triển đất nước[18]. Để thực hiện hiệu quả giải pháp này, Đại hội XIII đề ra nhiệm vụ thực hiện bốn biện pháp cụ thể:

 

Thứ nhất, tiếp tục thực hiện chương trình tổng thể cải cách hành chính và hiện đại hóa nền hành chính quốc gia. Hoàn thiện tổ chức bộ máy chính quyền các cấp gắn với tinh giản biên chế, bảo đảm hoạt động hiệu lực, hiệu quả[19].

 

Thứ hai, đẩy mạnh hoàn thiện cơ chế phân cấp, phân quyền, bảo đảm quản lý thống nhất, hiệu lực, hiệu quả hoạt động; đồng thời phát huy tính chủ động sáng tạo, đề cao tinh thần trách nhiệm của từng cấp, từng ngành gắn với tăng cường kiểm soát quyền lực[20].

 

Thứ ba, trên cơ sở phân cấp, phân quyền, xác định rõ trách nhiệm giữa chính phủ với các bộ, ngành; giữa Chính phủ, bộ, ngành với địa phương; khắc phục tình trạng chồng chéo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn. Chính phủ tập trung vào quản lý vĩ mô, nâng cao chất lượng xây dựng thể chế, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch. Tăng cường năng lực dự báo và khả năng dự báo và khả năng phản ứng chính sách trong trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế[21].

 

Thứ tư, tiếp tục hoàn thiện tổ chức chính quyền địa phương phù hợp với địa bàn nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính, kinh tế đặc biệt. Tổng kết việc thí điểm chính quyền đô thị nhẳm xây dựng và vận hành các mô hình chính quyền đô thị theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả[22].

 

Thứ năm, mở rộng dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ cương. Phát huy dân chủ để phát huy tính sáng tạo, chủ động, tích cực của các cấp, các ngành, các địa phương nhưng phải tăng cường kỷ cương, kỷ luật, tăng cường kiểm tra, giám sát quyền lực trong hoạt động của Nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức.

 

Thứ sáu,“nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý, điều hành và năng lực kiến tạo phát triển”[23]. Chúng ta đều rõ quản lý, điều hành là chức năng vốn có của bất kỳ nhà nước nào, còn khi nói đến năng lực kiến tạo phát triển là muốn nói đến năng lực chủ động, tích cực tham gia, dẫn dắt, tạo lập, khuyến khích, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội bằng trách nhiệm, uy tín, bằng cơ chế, chính sách, bằng môi trường cạnh tranh lành mạnh mà nhà nước tạo lập ra. Để xây dựng được nhà nước kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động thì trước hết phải nâng cao được năng lực, hiệu quả quản lý, điều hành và năng lực kiến tạo phát triển. Hai năng lực quản lý, điều hành và năng lực kiến tạo phát triển không đối lập nhau mà bổ sung cho nhau, đòi hỏi ở nhau, thúc đẩy cùng nhau và đòi hỏi nhà nước pháp quyền phải trong sạch, vững mạnh.

 

Thực hiện tốt sáu biện pháp này sẽ xây dựng được nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, bảo đảm công khai, minh bạch, quản lý thống nhất, thông suốt, hiệu lực, hiệu quả. Trên cơ sở đó việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động sẽ hiệu quả.

 

Năm là, “Xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”[24]. Chúng ta đều rõ, nền tư pháp xã hội chủ nghĩa của Nhà nước ta có trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, bảo vệ quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ quyền, lợi ích chính đảng, hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Do vậy, xây dựng được nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân sẽ góp phần trực tiếp vào xây dựng được nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động.

Để thực hiện tốt giải pháp này, Đại hội XIII yêu cầu thực hiện tốt các biện pháp cụ thể sau:

 

Thứ nhất, tăng cường khả năng tiếp cận pháp luật của người dân và doanh nghiệp. Muốn vậy, cần phát triển các hoạt động dịch vụ pháp lý và các thiết chế giải quyết tranh chấp ngoài tòa án.

 

Thứ hai, nâng cao hiệu quả và rút ngắn thời gian giải quyết tranh chấp, thi hành án trong lĩnh vực dân sự, hành chính, đầu tư, kinh doanh, thương mại, bảo vệ người tiêu dùng[25].

 

Thứ ba, tiếp tục đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng hiệu qảu hoạt động và uy tín của toàn án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án và các cơ quan, tổ chức tham gia vào quá trình tố tụng tư pháp[26].

Thực hiện tốt ba biện pháp này sẽ xây dựng được nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Trên cơ sở đó sẽ xây dựng, hoàn thiện từng bước nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo, phát triển, liêm chính, hành động.

 

Sáu là, “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có tính chuyên nghiệp cao, có năng lực sáng tạo dựa trên cơ chế cạnh tranh về tuyển dụng, chế độ đãi ngộ và đề bạt; có phẩm chất đạo đức tốt và bản lĩnh chính trị vững vàng”[27]. Rõ ràng là, đội ngũ đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đóng vai trò quyết định trong việc xây dựng thành công nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo, phát triển, liêm chính, hành động. Do vậy, đây là giải pháp rất quan trọng. Để thực hiện được giải pháp này, Đại hội XIII yêu cầu thực hiện tốt các biện pháp cụ thể sau:

 

Thứ nhất, cùng với có quy định rõ ràng về trách nhiệm của người đứng đầu thì cần có cơ chế khuyến khích, khơi dậy tinh thần cống hiến vì đất nước, tạo động lực và áp lực để mọi cán bộ, công chức, viên chức hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ được giao; tận tụy phục vụ nhân dân; có cơ chế bảo vệ cán bộ đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Đồng thời cũng phải có cơ chế sàng lọc, thay thế kịp thời những người không hoàn thành nhiệm vụ, quan liêu, xa dân, vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp, bị xử lý kỷ luật, mất uy tín trước nhân dân[28].

 

Thứ hai, cải cách cơ bản chế độ tiền lương của cán bộ, công chức, viên chức, cũng như chế độ chính sách đãi ngộ, tạo điều kiện, môi trường làm việc để thúc đẩy đổi mới, sáng tạo, phục vụ phát triển[29]. Trong điều kiện đất nước còn khó khăn nhưng chúng ta vẫn phải tạo điều kiện tốt nhất về điều kiện vật chất, tinh thần để cán bộ, công chức, viên chức sáng tạo trong công việc.

 

Thứ ba, kiên trì, kiên quyết đấu tranh có hiệu quả phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Bởi vì, đúng như Đại hội XIII đã đánh giá “Tham nhũng, lãng phí trên một số lĩnh vực, địa bàn vẫn còn nghiêm trọng, phức tạp, với những biểu hiện ngày càng tinh vi gây bức xúc trong xã hội. Tham nhũng vẫn là một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ ta”[30]. Do vậy, kiên trì, kiên quyết đấu tranh có hiệu quả phòng, chống tham nhũng, đi đôi với thực hành tiết kiệm, chống lãng phí là một trong những biện pháp quan trọng để xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có tính chuyên nghiệp cao, có năng lực sáng tạo, có phẩm chất đạo đức tốt và bản lĩnh chính trị vững vàng.

 

Thứ tư, nâng cao hiệu quả công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra. Để thực hiện tốt biện pháp này, Đảng, Nhà nước chủ trương không hình sự hóa các mối quan hệ kinh tế, hành chính, dân sự. Phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội của nhân dân, của Mặt trận Tổ quốc, các cơ quan thông tin đại chúng trong quá trình hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội, trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí[31].

 

Thực hiện tốt bốn biện pháp này sẽ xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có tính chuyên nghiệp cao, có năng lực sáng tạo, có phẩm chất đạo đức tốt và bản lĩnh chính trị vững vàng. Trên cơ sở đó, xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo, phát triển, liêm chính, hành động.

 

Như vậy, Đại hội XIII của Đảng trên tinh thần kế thừa các kỳ đại hội trước đã định hướng sáu giải pháp xây dựng được nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045. Thực hiện đồng bộ sáu giải pháp này trên thực tế, chúng ta sẽ từng bước thực hiện được mục tiêu đề ra góp phần xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh toàn diện.

 


 KHEN THƯỞNG ĐẠI UÝ QNCN NGUYỄN VĂN HIỀN, THỢ SỬA CHỮA, PHÒNG KỸ THUẬT, LỮ ĐOÀN 293!


Ngày 30/01/2023 đồng chí Thiếu tướng Đinh Ngọc Tường, Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Binh chủng Binh chủng Công binh đã có thư khen gửi đồng chí Đại úy QNCN Nguyễn Văn Hiền, Thợ sửa chữa, Phòng Kỹ thuật, Lữ đoàn 293. Cùng ngày, đồng chí Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 293 cũng đã ký Quyết định tặng thưởng Giấy khen cho đồng chí Nguyễn Văn Hiền, vì: Đã có hành động đẹp, nêu gương sáng về phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, nhặt được của rơi, trả người đánh mất!


“NỐI MẠCH ĐƯỜNG XUÂN” trân trọng chia sẻ nguyên văn thư của đồng chí Chính ủy Binh chủng Công binh và Quyết định khen thưởng của đồng chí Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 293.

🌺🌸🌺

             Hà Nội, ngày 30 tháng 01 năm 2023

 

             CHÍNH ỦY BINH CHỦNG CÔNG BINH

                                                                               

​Thân ái gửi đồng chí Đại úy QNCN Nguyễn Văn Hiền, Thợ sửa chữa, Phòng Kỹ thuật, Lữ đoàn 293!

​Thường vụ Đảng uỷ, Thủ trưởng Bộ Tư lệnh Binh chủng rất vui mừng biết tin vào sáng ngày 26/01/2023, Đại úy QNCN Nguyễn Văn Hiền trên đường từ đơn vị về nhà riêng đã nhặt được chiếc ví bên lề đường (thuộc địa bàn Tổ dân phố Hòa Do 6A, phường Cam Phúc Bắc, TP Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa); trong ví có gần 21 triệu đồng và căn cước công dân mang tên Nguyễn Văn Qua, sinh năm 1967 (trú tại Tổ dân phố Hòa Do 6A, phường Cam Phúc Bắc, thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa) cùng nhiều giấy tờ tùy thân khác. Đồng chí Hiền đã kịp thời báo cáo chỉ huy đơn vị và trực tiếp liên hệ cán bộ tổ dân phố để tìm, trả lại người đánh mất. Ngay sau đó, trước sự chứng kiến của đại diện Tổ dân phố Hòa Do 6A, ông Nguyễn Văn Qua đã nhận lại toàn bộ tài sản cùng giấy tờ của mình. Đây là hành động đẹp, mang ý nghĩa lớn về lòng trung thực và tính nhân văn sâu sắc, là nét đẹp văn hóa, truyền thống đạo đức của người dân Việt Nam - “Nhặt được của rơi, trả lại người đánh mất”. Đồng chí đã thiết thực góp phần tỏa sáng phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, Bộ đội Công binh trong lòng nhân dân.


​Thay mặt Thường vụ Đảng ủy, Thủ trưởng Bộ Tư lệnh Binh chủng, tôi khen ngợi, biểu dương hành động cao đẹp của đồng chí. Mong rằng trong thời gian tới, đồng chí tiếp tục hăng hái phấn đấu phát huy truyền thống “Mở đường thắng lợi” của Bộ đội Công binh Việt Nam anh hùng, là tấm gương tiêu biểu có sức lan tỏa trong đơn vị, cùng nhau cố gắng hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.  


​Chúc đồng chí cùng gia đình mạnh khỏe, hạnh phúc và thành công.


​Chào thân ái và quyết thắng!​

 

​Thiếu tướng Đinh Ngọc Tường


Ảnh: Thư của đồng chí Chính ủy BCCB; đồng chí Phó Chính ủy Lữ đoàn 293 trao thưởng cho đồng chí Nguyễn Văn Hiền.

Thành Nguyễn ST

 TỔNG TIẾN CÔNG XUÂN MẬU THÂN 1968: BIỂU TƯỢNG SÁNG CỦA LÒNG YÊU NƯỚC


Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 mãi mãi là biểu tượng sáng ngời của lòng yêu nước, tinh thần quyết chiến, quyết thắng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân để giành độc lập, tự do.

 

55 năm đã trôi qua nhưng khí thế hào hùng của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 vẫn còn vang vọng, bởi đây là sự kiện lịch sử có tầm vóc lớn, đánh dấu bước ngoặt có ý nghĩa chiến lược quyết định trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta.


Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 mãi mãi là biểu tượng sáng ngời của lòng yêu nước, của ý chí quyết tâm sắt đá, tinh thần quyết chiến, quyết thắng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta để giành độc lập, tự do, được dẫn dắt, soi đường bởi sự lãnh đạo tài tình, đường lối đúng đắn của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.


Tình thế mới của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và chủ trương của Đảng ta


Sau 10 năm (1954-1964), Mỹ thế chân Pháp vào miền Nam Việt Nam và sau bốn năm (1961-1964) tiến hành chiến lược “chiến tranh đặc biệt,” mặc dù đã bỏ ra nhiều tiền của và công sức, thi hành nhiều thủ đoạn và biện pháp, nhưng Mỹ vẫn không dập tắt được phong trào cách mạng miền Nam.


Từ năm 1964 đến đầu năm 1965, cuộc đấu tranh cách mạng của đồng bào, chiến sỹ ở miền Nam phát triển nhanh chóng, thu được những thắng lợi ngày càng to lớn, khiến cho chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ bị thất bại nghiêm trọng.


Trước tình hình ấy, đế quốc Mỹ chuyển sang thực hiện chiến lược "chiến tranh cục bộ," ồ ạt đưa quân Mỹ và chư hầu vào miền Nam; đồng thời, mở rộng hoạt động không quân và hải quân, ném bom bắn phá miền Bắc để gây áp lực hòng làm giảm sự chi viện về sức người, sức của từ hậu phương lớn miền Bắc cho tiền tuyến lớn miền Nam.


Tuy nhiên, bằng sức mạnh của sự đoàn kết và sẵn sàng hy sinh, với đường lối quân sự đúng đắn, quân và dân miền Nam đã làm thất bại hai cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965-1966 và 1966-1967 của Mỹ-ngụy. Hai gọng kìm "tìm diệt" và "bình định" bị bẻ gãy.


Mục tiêu mà Mỹ đề ra chẳng những không thực hiện được mà còn chịu tổn thất nặng cả về sinh lực và phương tiện chiến tranh. Không cam chịu, Mỹ liều lĩnh quyết định đưa thêm 10 vạn quân chiến đấu vào miền Nam Việt Nam.


Về phía ta, tháng 12/1967, Bộ Chính trị họp phiên đặc biệt, chính thức thông qua Kế hoạch chiến lược năm 1968 và nhiệm vụ của quân và dân ta, chủ trương chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam sang một thời kỳ mới - thời kỳ tiến công và nổi dậy, giành thắng lợi quyết định, tạo ra bước ngoặt lớn cho cuộc chiến tranh.


Để thực hiện quyết tâm chiến lược đó, nhiệm vụ cấp bách lúc này huy động toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta ở cả hai miền Nam-Bắc cùng gấp rút chuẩn bị lực lượng, phương tiện cho cuộc tổng công kích và tổng khởi nghĩa.


Miền Nam gấp rút chuẩn bị lực lượng, xây dựng phương án tác chiến và phương án phát động quần chúng nổi dậy, bảo đảm hậu cần tiếp tế, thông tin liên lạc; chuẩn bị cơ sở giấu ém lực lượng và bàn đạp xuất phát tiến công ở vùng ven và trong các đô thị trên toàn miền Nam.


Cùng với đó, ta thực hiện kế nghi binh và đánh lạc hướng quân địch. Ta (và Lào) mở chiến dịch Nậm Bạc ở Thượng Lào, Chiến dịch Đường 9-Khe Sanh, nhằm đánh lạc hướng, thu hút quân cơ động của Mỹ, vây hãm, giam chân, tiêu hao lực lượng và sinh lực địch tạo thế cho các chiến trường khác tiến công và nổi dậy.


Đồng loạt nổ súng tiến công


Các hoạt động nghi binh, đặc biệt chiến dịch Đường 9-Khe Sanh đã làm cho Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ tại miền Nam và giới lãnh đạo Oasinhtơn bị lạc hướng. Trong khi họ dồn toàn trí và lực lượng ra hướng Đường 9-Khe Sanh và nhận định đây là chiến trường chính, thì cuộc Tổng tiến công và nổi dậy bất ngờ diễn ra ở một loạt đô thị trên toàn miền Nam.


Đúng 0 giờ ngày 29/1/1968 (giao thừa theo lịch miền Bắc) quân ta tiến công địch tại sân bay Nha Trang (Khánh Hòa). Từ 0 giờ 30 phút đến 1 giờ 15 phút ngày 30/1/1968 (đêm giao thừa Tết Mậu Thân theo lịch miền Nam), quân ta đồng loạt tiến công vào thị trấn Tân Cảnh, thị xã Kon Tum (Kon Tum), thị xã Buôn Ma Thuột (Đắk Lắk), thị xã Pleiku (Gia Lai), thành phố Qui Nhơn (Bình Định), thành phố Đà Nẵng, thị xã Hội An...


Cũng trong đêm 29 rạng ngày 30/1/1968, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy diễn ra ở khắp các tỉnh và thành phố, thị xã, thị trấn trên toàn miền Nam. Bộ binh, đặc công, pháo binh, biệt động ta đánh mạnh, đánh trúng các mục tiêu trọng yếu của địch ở Sài Gòn-Gia Định, Huế, Quảng Trị, Đà Nẵng, Tam Kỳ, Quảng Ngãi, Phan Thiết, Phan Rang, Đà Lạt, Tây Ninh, Bến Tre, Kiến Tường, Định Tường, Gò Công, Biên Hoà, Mỹ Tho, Cần Thơ, Trà Vinh, Châu Đốc, Vĩnh Long, Cà Mau, Sóc Trăng, Rạch Giá, Kiên Giang, Tuyên Đức...


Tại Sài Gòn-Gia Định - trọng điểm lớn nhất của Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 (bởi vì đây là trung tâm đầu não chỉ đạo toàn bộ bộ máy điều hành chiến tranh của Mỹ-ngụy tại miền Nam với một hệ thống phòng thủ vững chắc nhiều tầng, nhiều lớp với nhiều loại lực lượng tham gia), ngay từ phút đầu nổ súng, biệt động ta đã đồng loạt đánh vào các mục tiêu lớn như Dinh Độc Lập, Bộ Tổng tham mưu quân lực Việt Nam cộng hoà, Bộ Tư lệnh hải quân, Sân bay Tân Sơn Nhất, Đài Phát thanh, toà Đại sứ Mỹ…


Trận đánh toà Đại sứ Mỹ hơn 6 tiếng đồng hồ với 17 chiến sỹ biệt động của ta đương đầu với lực lượng quân cảnh, lính dù của Mỹ đã gây một tiếng vang lớn làm chấn động nước Mỹ.


Đồng thời với lực lượng biệt động, các tiểu đoàn mũi nhọn trang bị gọn nhẹ, từ các bàn đạp vùng ven, nhanh chóng tiến vào nội đô trên các hướng. Xung quanh Sài Gòn-Gia Định, các căn cứ quân sự, trụ sở quân đội và chính quyền Sài Gòn ở Biên Hoà, Bình Dương, Hậu Nghĩa, Long An... cũng bị tiến công.


Tại mặt trận Trị Thiên, lực lượng ta tiến công Nhà đèn, Ty cảnh sát, Toà tỉnh trưởng, trụ sở cơ quan bình định và trụ sở Bộ chỉ huy viện trợ quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam (MACV), Tri Bưu, Thành Cổ, La Vang, điểm cao 49.


Nhân dân Triệu Phong, Hải Lăng, Bến Đá rầm rộ nổi dậy cùng bộ đội địa phương bao vây địch ở trong các quận lỵ cầu Nhùng, Bến Đá làm chủ đoạn quốc lộ 1 từ Diên Sanh đến Mỹ Chánh; đánh chiếm quận lỵ Phú Lộc, cắt đứt quốc lộ 1 đoạn từ Đà Nẵng ra Huế, phá sập Cầu Hai, cầu Nước Ngọt, giải phóng khu vực xung yếu ven biển và phía nam Cầu Hai, khu vực Truồi.


Tại mặt trận Huế, lúc 22 giờ 33 phút, ngày 31/1/1968, tiếng súng tấn công bắt đầu vang lên khắp thành phố; sau 4 ngày chiến đấu liên tục, quân và dân ta đánh chiếm hầu hết các mục tiêu quan trọng như Dinh tỉnh trưởng, đồn cảnh sát, đài phát thanh, khách sạn Thuận Hóa, Hương Giang (hang ổ của Mỹ), sân bay Phú Bài…


Đông đảo nhân dân Huế đã nổi dậy, dẫn đường cho bộ đội, đào hầm, dựng chiến lũy, tiếp tế, chăm sóc thương binh… và thành lập chính quyền cách mạng ở nhiều khu vực.


Hàng nghìn thanh niên đã gia nhập các đội du kích, tự vệ, các đội công tác. Sau 25 ngày đêm chiến đấu và làm chủ thành phố Huế (từ ngày 31/1 đến 24/2/1968), quân và dân ta đã diệt, bắt sống, bức hàng và làm tan rã hàng chục nghìn tên địch, bắn rơi và phá hỏng nhiều máy bay, tàu chiến, xe quân sự, giải phóng hơn 200.000 dân, 20 xã, 271 thôn, thành lập chính quyền ở 200 thôn.


Bị tiến công đồng loạt, bất ngờ, địch lúc đầu choáng váng. Chúng dồn về mặt trận đô thị, bỏ ngỏ vùng nông thôn. Nắm thời cơ, lực lượng vũ trang tại chỗ tiếp tục hỗ trợ nhân dân nổi dậy giải phóng nhiều vùng rộng lớn.


Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, quân và dân ta đã đánh vào 4 trong 6 thành phố lớn, 37 trong số 44 thị xã và hàng trăm thị trấn, quận lỵ, 4 bộ tư lệnh quân đoàn, 8 trong 11 bộ tư lệnh sư đoàn quân đội Sài Gòn, 2 bộ tư lệnh biệt khu, 2 bộ tư lệnh dã chiến Mỹ cùng nhiều bộ tư lệnh lữ đoàn, trung đoàn, chi khu và hàng trăm căn cứ quân sự địch bị tiến công đồng loạt. Chúng ta tiêu diệt và làm tan rã 15 vạn quân địch, giải phóng thêm 100 xã với hơn 1,6 triệu dân.


Biểu tượng sáng ngời về ý chí và sức mạnh quật cường của dân tộc Việt Nam


Bằng cuộc tiến công và nổi dậy đồng loạt, táo bạo, dũng mãnh, nhằm vào đô thị trên toàn miền Nam, quân và dân ta đã đánh đòn quyết định vào ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải đơn phương “xuống thang chiến tranh.”


Ngày 31/3/1968, Tổng thống Mỹ Johnson phải tuyên bố ba điểm: Đơn phương ngừng đánh phá miền Bắc Việt Nam từ vĩ tuyến 20 trở ra; chấp nhận đàm phán với ta tại Hội nghị Paris; không ra tranh cử Tổng thống Mỹ nhiệm kỳ hai.


Đến tháng 5/1968, Mỹ bắt đầu khởi động quá trình đàm phán với ta về chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam. Cho dù phải 5 năm sau Mỹ mới rút hết quân ra khỏi miền Nam và phải 7 năm sau chế độ Sài Gòn mới sụp đổ, nhưng về mặt chiến lược, Mỹ đã thua cuộc từ mùa Xuân năm 1968.


Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 dù chưa đạt được mục tiêu cao nhất đặt ra nhưng ta đã tiêu diệt, làm tiêu hao một lực lượng quan trọng quân địch, phá huỷ nhiều vũ khí, phương tiện chiến tranh, phá vỡ hệ thống phòng thủ đô thị của chúng trên quy mô toàn miền Nam, tạo một bước phát triển đột biến trong cục diện chiến tranh, tiếp tục đưa sự nghiệp kháng chiến tiến lên.


Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là một biểu tượng sáng ngời về ý chí và sức mạnh quật cường của quân và dân Việt Nam, là tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, tài mưu lược trong nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh của Đảng ta: nghệ thuật nắm bắt thời cơ để chủ động giáng đòn quyết định làm chuyển biến cục diện chiến tranh; nghệ thuật tiến công bằng cách đánh chiến lược mới, giành thế bất ngờ, đưa chiến tranh vào thành thị; là nghệ thuật tổ chức, bố trí và sử dụng lực lượng “lấy nhỏ đánh lớn,” “lấy ít địch nhiều,” “lấy chất lượng cao thắng số lượng đông,” lấy trí tuệ của con người Việt Nam để chiến thắng vũ khí và trí tuệ của bộ máy điều hành chiến tranh của đế quốc Mỹ.


55 năm đã trôi qua, nhưng ý nghĩa và bài học của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 vẫn còn vẹn nguyên giá trị. Đó là khát vọng về độc lập, tự do và hòa bình cho Tổ quốc, là niềm tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, là tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo trong hoạch định đường lối và chỉ đạo chiến lược, là sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, là sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, là tinh thần đoàn kết quốc tế cao cả.


Nhìn lại những chiến công hào hùng của ông cha năm xưa để các thế hệ trẻ ngày nay thêm tự hào, thêm yêu quê hương đất nước và thêm nỗ lực phấn đấu, cùng chung sức đồng lòng xây dựng một Việt Nam phát triển, hội nhập; vì một Việt Nam hùng cường, thịnh vượng./.

PBVN ST 

“TẬP THỂ LÃNH ĐẠO VÀ CÁ NHÂN PHỤ TRÁCH CẦN PHẢI LUÔN LUÔN ĐI ĐÔI VỚI NHAU”

 Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong bài viết “Cách làm việc tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách” (ký tên X.Y.Z), đăng trên Báo Sự Thật, số 100, ra ngày 23 tháng 9 năm 1948. Đây là một trong những nguyên tắc lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Hơn 80 năm qua, nhờ thực hiện nguyên tắc này, Đảng ta đã phát huy trí tuệ của cán bộ, đảng viên trong Đảng đề ra đường lối cách mạng đúng đắn trong mỗi thời kỳ, phát huy vai trò, trách nhiệm của từng cán bộ, đảng viên trong hoạt động thực tiễn, đưa sự nghiệp cách mạng không ngừng tiến lên giành được những thắng lợi có ý nghĩa to lớn.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền ở nước ta, nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách có mối quan hệ mật thiết với nguyên tắc tập trung dân chủ. Cũng có thể nhìn nhận, tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách vừa là một nguyên tắc trong hoạt động lãnh đạo của Đảng, vừa là một nội dung, một biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ. Nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách góp phần xây dựng Đảng vững mạnh trên các mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Do đó, phải hiểu và làm đúng, đầy đủ toàn diện nguyên tắc tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách là yêu cầu cấp thiết đặt ra cho mọi cấp ủy đảng, nhất là trong bối cảnh hiện nay.
Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp trong Đảng bộ Quân đội luôn quán triệt sâu sắc và triển khai thực hiện nghiêm túc, thống nhất nguyên tắc tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách, góp phần xây dựng tổ chức đảng các cấp trong sạch vững mạnh, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, lãnh đạo đơn vị hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Mọi công việc trong cơ quan, đơn vị đều phải được bàn bạc tập thể trong cấp ủy, chỉ huy các cấp, nhằm phát huy dân chủ, tạo sự thống nhất cao trong cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị. Mỗi lĩnh vực công tác do một cấp ủy viên hoặc người chỉ huy phụ trách chỉ đạo, tham mưu, đề xuất với tập thể cấp ủy, chỉ huy cho ý kiến, từ đó trở thành chủ trương của cấp ủy, chỉ huy đơn vị mới triển khai thực hiện. Mặt khác, mỗi cá nhân phải làm tốt trách nhiệm được phân công để lĩnh vực họ phụ trách được tốt, nên vai trò cá nhân phụ trách cũng vô cùng quan trọng sau khi có nghị quyết về lĩnh vực họ phụ trách. Đồng thời mỗi cá nhân phải báo cáo kết quả công tác lĩnh vực mình phụ trách cho tập thể để mọi người tham gia ý kiến góp trí tuệ cho mình. Đây cũng là thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Phát huy tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của cá nhân, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu; chống mọi biểu hiện độc đoán, gia trưởng, áp đặt ý kiến cá nhân, hoặc nể nang, né tránh, dựa dẫm vào tập thể.
ST


NHỮNG CÂU NÓI CỦA BÁC VỀ ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG

 1. Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông

Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc
Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính
Thiếu một mùa, thì không thành trời
Thiếu một phương, thì không thành đất
Thiếu một đức, thì không thành người.
2. Cần, Kiệm, Liêm, là gốc rễ của Chính. Nhưng một cây cần có gốc rễ, lại cần có cành, lá, hoa, quả mới là hoàn toàn. Một người phải Cần, Kiệm, Liêm, nhưng còn phải Chính mới là người hoàn toàn.
3. Học cái tốt thì khó, ví như người ta leo núi, phải vất vả, khó nhọc mới lên đến đỉnh. Học cái xấu thì dễ, như ở trên đỉnh núi trượt chân một cái là nhào xuống vực sâu.
4. Cần mà không Kiệm thì làm chừng nào xào chừng ấy. Cũng như một cái thùng không có đáy, nước đổ vào chừng nào, chảy ra hết chừng ấy, không lại hoàn không.
5. Không có đạo đức cách mạng thì tài cũng vô dụng.
6. Đạo đức, ngày trước thì chỉ trung với vua, hiếu với cha mẹ. Ngày nay, thời đại mới, đạo đức cũng phải mới. Phải trung với nước. Phải hiếu với toàn dân, với đồng bào.
7. Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài và gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ vẻ vang.
8. Mình đối với mình: Đừng tự mãn, tự túc; nếu tự mãn, tự túc thì không tiến bộ. Phải tìm học hỏi cầu tiến bộ. Đừng kiêu ngạo, học lấy điều hay của người ta. Phải siêng năng tiết kiệm.
9. Những người trong các công sở đều có nhiều hoặc ít quyền hành. Nếu không giữ đúng Cần - Kiệm - Liêm - Chính thì dễ trở thành hủ bại, biến thành sâu mọt của dân.
10. Tự mình phải chính trước, mới giúp được người khác.
ST


Sự cần thiết phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên không gian mạng trong tình hình hiện na

 

y

          Hiện nay thủ đoạn mà các thế lực thù địch, phản động sử dụng để tuyên truyền chống phá Đảng, Nhà nước, Quân đội ta trên không gian mạng là: Thiết lập các trang web, blog mở các “diễn đàn”, “câu lạc bộ” trên mạng nhằm tán phát các tài liệu phản động và truyên truyền phá hoại tư tưởng chính trị. Đăng tải các bài viết, hình ảnh, video clip có nội dung tuyên truyền chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa trên mạng xã hội. Sử dụng không gian mạng để tuyên truyền, kích động, kêu gọi khủng bố gây hoang mang trong dư luận xã hội.

Nội dung chống phá của chúng thường tập trung vào những vấn đề như: Phê phán, đả kích, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; xuyên tạc tình hình dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo; truyền bá các giá trị của xã hội tư bản, lối sống thực dụng phương Tây; đưa tin sai lệch về tình hình nội bộ của Việt Nam, bịa đặt sự chia rẽ, mâu thuẫn trong giới lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước, bôi nhọ, hạ thấp uy tín của các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước. Các thủ đoạn trên nhằm: Phá hoại tư tưởng chính trị, đời sống văn hóa tinh thần của các tầng lớp nhân dân; Gây nhiễu loạn thông tin, làm phức tạp về chính trị xã hội; Làm suy giảm niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước và chính quyền các cấp.

Trước yêu cầu nhiệm vụ mới, phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên không gian mạng chính là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, phải được triển khai tích cực, thường xuyên và lâu dài. Trong đấu tranh phải kiên quyết, kiên trì, linh hoạt, chủ động, kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”, lấy “xây” làm chính. Trong đó, chú trọng một số nội dung cơ bản sau:

Một là, cấp ủy, lãnh đạo, quản lý các cấp, các ngành phải không ngừng nâng cao nhận thức, xác định rõ quá trình tổ chức đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên không gian mạng là quá trình định hướng tiếp nhận thông tin một cách khách quan, có chọn lọc. Trên cơ sở đó, thống nhất cộng đồng trên cả hai bình diện nhận thức và hành động nhằm loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực, thúc đẩy phát triển cái tốt đẹp, tạo sự lan tỏa trong toàn xã hội. Việc định hướng thông tin đối với cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân phải được thực hiện thống nhất giữa mục tiêu đặt ra của hệ thống chính trị, của nhà lãnh đạo, quản lý các cấp với nhu cầu cần cung cấp thông tin chính thống của quần chúng nhân dân.

Hai là, trước những sự kiện chính trị, nhất là các vụ việc phức tạp, nhạy cảm tác động đến tư tưởng chính trị của đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân, các cơ quan thông tin, truyền thông cần khai thác thông tin từ cơ quan chức năng chịu trách nhiệm cung cấp, để thông tin, bình luận trung thực, khách quan, thu hút độc giả vào tầm ảnh hưởng của mình, góp phần định hướng, tạo sự thống nhất trong nhận thức, thái độ và phương pháp giải quyết vấn đề. Thực tiễn đã chứng minh, trước những vấn đề bức xúc về tư tưởng, dù độ phức tạp của sự việc đến đâu, nếu thực hiện công tác thông tin kịp thời, đúng đắn, làm tốt định hướng thông tin, thì sự việc sẽ được giải quyết một cách ổn thỏa, bức xúc trong xã hội sẽ được giải tỏa, nhất là không còn cơ hội để các thế lực thù địch, phản động lợi dụng xuyên tạc, bịa đặt chống phá.

Ba là, xây dựng cơ chế, hình thức và nội dung phát ngôn của cơ quan chịu trách nhiệm trước những vấn đề phức tạp, nhạy cảm. Sự lên tiếng chính thức, kịp thời của cơ quan có trách nhiệm cũng thể hiện rõ vai trò và năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của cấp ủy và chính quyền các cấp, các ngành trước mỗi vấn đề, sự kiện nảy sinh; đồng thời, nếu được thực hiện tốt sẽ là một biện pháp hiệu quả để định hướng dư luận, củng cố niềm tin, tạo sức đề kháng thúc đẩy sự phát triển và tiến bộ xã hội. Công tác thông tin cần nhận diện, phát hiện và dự báo sớm một số vấn đề có thể gây bức xúc về tư tưởng và phải luôn đi trước, đi cùng trong quá trình giải quyết vụ việc. Phải có sự vào cuộc tích cực của các cấp ủy, chính quyền, lãnh đạo ban tuyên giáo các cấp, kịp thời bám sát thực tiễn, bảo đảm tính chính xác, có chiều sâu trí tuệ, phù hợp với lợi ích và nguyện vọng của nhân dân thì mới hạn chế tối đa những tác động của thông tin xấu, độc trên không gian mạng hiện nay.

Bốn là, khắc phục sự yếu kém trong quản lý những nội dung thông tin trên không gian mạng phản ánh phiến diện, suy diễn liên quan đến các vụ việc phức tạp, những bài viết thiếu tính chính xác, sai lệch bản chất về những vấn đề văn hóa, chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống. Tăng cường nâng cao chất lượng công tác kiểm soát, định hướng trong việc đưa thông tin chạy theo thị hiếu tầm thường, giật gân, câu khách của một số báo điện tử.

Thực hiện tốt những vấn đề cơ bản trên, sẽ góp phần hữu hiệu ngăn chặn, bác bỏ các luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc, bảo vệ nền tảng tư tưởng, đường lối, quan điểm của Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa - chế độ tốt đẹp mà Đảng và Nhân dân ta đang xây dựng./.

V3.

 

 

QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP ĐẤU TRANH BẢO VỆ BIỂN, ĐẢO CỦA VIỆT NAM

 


Bảo vệ chủ quyền quốc gia, trong đó có chủ quyền quốc gia trên biển là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời”. “Mọi hành vi chống lại độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, chống lại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều bị nghiêm trị”.  

Trong bối cảnh tình hình biển Đông đã và đang có nhiều diễn biến phức tạp, cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và các lợi ích chính đáng, hợp pháp của Việt Nam theo luật pháp quốc tế ở Biển Đông ngày càng khó khăn, quyết liệt hơn bao giờ hết. Quan điểm thống nhất, xuyên suốt của Việt Nam là bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ và các lợi ích hợp pháp trên Biển Đông, đồng thời giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước, củng cố quan hệ hữu nghị, hợp tác với Trung Quốc, các nước ASEAN và các nước khác: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ chủ quyền và các lợi ích hợp pháp, chính đáng của quốc gia trên biển, đồng thời chủ động, tích cực giải quyết, xử lý các tranh chấp, bất đồng trên Biển Đông bằng các biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982; giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định và hợp tác để phát triển”.

Những quan điểm trên chính là căn cứ chính trị, pháp lý quan trọng để chúng ta cần kiên trì, kiên quyết đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, xuyên tạc vấn đề chủ quyền biển, đảo của Việt Nam. Mục đích của việc đấu tranh này là làm cho nhân dân Việt Nam hiểu rõ về lập trường, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề chủ quyền là nhất quán và đều vì lợi ích của dân tộc và nhân dân Việt Nam; đồng thời củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo hiện nay; từ đó góp phần làm cho cộng đồng quốc tế hiểu rõ về chủ quyền biển, đảo của Việt Nam trên khu vực Biển Đông, qua đó tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của bạn bè quốc tế đối với cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Việt Nam.

Để đấu tranh phản bác có hiệu quả những luận điệu sai trái của các thế lực thù địch về chủ quyền biển, đảo của Việt Nam, cần làm tốt những biện pháp có bản như sau:

Thứ nhất, tăng cường giáo dục, tuyên truyền cho cán bộ, đảng viên và nhân dân những quy định pháp lý về chủ quyền biển, đảo của Việt Nam; về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước trong việc bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Hình thức tuyên truyền phải phong phú, linh hoạt. Ngoài việc tuyên truyền trên sách báo, các phương tiện thông tin truyền thống; cần đẩy mạnh tuyên truyền trên internet và mạng xã hội để nhân dân dễ dàng tiếp cận những thông tin chính thống, có nội dung tích cực theo phương châm “lấy cái đẹp dẹp cái xấu”. Điều đó cũng giúp cho nhân dân tăng cường “sức đề kháng” trước những thông tin có nội dung xấu độc, xuyên tạc về chủ quyền biển, đảo của Việt Nam.

Thứ hai, phát huy vai trò của báo chí, truyền thông internet trong việc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo của đất nước và phản bác các thông tin sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động. Báo chí, truyền thông có vai trò quan trọng trong việc định hướng dư luận xã hội. Đặc biệt, trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo hiện nay; báo chí và truyền thông nói chung và báo mạng, truyền thông mạng nói riêng cần phải phát huy tốt vai trò của mình trong việc đưa tin, bài kịp thời, phát đi thông điệp chính thức của Việt Nam và truyền tải tinh thần yêu nước của nhân dân Việt Nam để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của bạn bè và cộng đồng quốc tế đối với công cuộc bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Việt Nam. Đồng thời, kịp thời phát hiện, đấu tranh lên án những hành động sai trái trên biển cũng như những hành vi lợi dụng những diễn biến phức tạp trên biển để thực hiện mưu đồ chống phá Đảng, Nhà nước và công cuộc bảo vệ chủ quyền biển, đảo hiện nay.

Thứ ba, tăng cường công tác đảm bảo an ninh mạng và quản lý đối với các trang mạng xã hội hoạt động tại Việt Nam. Cho đến nay, Đảng, Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách nhằm đảm bảo an ninh mạng và phòng, chống hoạt động chống phá của các thế lực thù địch trên không gian mạng và mạng xã hội như: Chỉ thị 28-CT/TW của Ban Bí thư khóa XI về “Tăng cường công tác đảm bảo an toàn thông tin mạng”; Chỉ thị 15/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về “Tăng cường công tác bảo đảm an ninh và an toàn thông tin mạng trong tình hình mới”; Luật An toàn thông tin mạng năm 2016 và Luật An ninh mạng năm 2018.

Bộ Quốc phòng, Bộ Công an chủ động triển khai công tác phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn, xử lý nghiêm các đối tượng lợi dụng internet, mạng xã hội để vi phạm pháp luật. Trước tình hình thế giới, khu vực và Biển Đông diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định, khó lường, việc bảo vệ không gian mạng góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia. Cần tăng cường công tác nắm bắt thông tin, tình hình dư luận liên quan đến các vấn đề chủ quyền biển, đảo Việt Nam đặc biệt là tình hình Biển Đông để đấu tranh kịp thời với những hành vi lợi dụng mạng xã hội và internet để xuyên tạc chủ trương, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về các vấn đề này.

Thứ tư, cần tiếp tục minh bạch hóa chính sách; chính xác hóa và cụ thể hóa thông tin về tình hình biển, đảo của Việt Nam. Internet là kênh thông tin phổ biến hiện nay, do đó, chúng ta cần tích cực đăng tải các bài viết thể hiện rõ lập trường, quan điểm của Việt Nam đối với những vấn đề trên biển. Tích cực tuyên truyền chủ trương, đường lối, chính sách đối ngoại và an ninh - quốc phòng của Việt Nam đến người dân trong và ngoài nước cũng như cộng đồng quốc tế.

Cần kịp thời cập nhật thông tin, đưa tin chính xác và cụ thể về những diễn biến phức tạp trên Biển Đông để định hướng dư luận, không để các thế lực xấu lợi dụng sự mập mờ, không rõ ràng trong công tác thông tin của các cơ quan báo chí, truyền thông để xuyên tạc tình hình, kích động người dân chống Đảng, Nhà nước.

Thứ năm, áp dụng các giải pháp kỹ thuật tăng cường rà quét, bóc gỡ, ngăn chặn những thông tin xấu độc về tình hình biển Đông nói chung và vấn đề chủ quyền biển, đảo của Việt Nam nói riêng. Tăng cường xử lý các đối tượng đăng tải, chia sẻ các bài viết, video, hình ảnh có nội dung tuyên truyền, xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với vấn đề chủ quyền biển, đảo. Thiết lập các trang mạng, tài khoản chính thống để huy động cán bộ, đảng viên và nhân dân tham gia đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch trên internet và mạng xã hội để tạo thành thế trận liên hoàn, sức mạnh tổng lực.

Bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển là tổng thể các hoạt động có tổ chức của cả hệ thống chính trị và toàn dân, do lực lượng chuyên trách làm nòng cốt, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành tập trung, thống nhất của Nhà nước nhằm thực thi, giữ vững chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia, chống lại mọi hành vi vi phạm chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia được luật pháp quốc tế công nhận, được quy định trong luật pháp Việt Nam.

V3.

 

Phòng, chống “diễn biến hòa bình” về văn hóa trên không gian mạng

 


 Việt Nam là nước có vị trí địa kinh tế - chính trị - quân sự chiến lược quan trọng trong khu vực, lại nằm ở vị trí địa - chiến lược, trung tâm của cạnh tranh chiến lược gay gắt giữa các nước lớn. Hơn 35 năm qua, Việt Nam đã tăng cường vị thế, uy tín, tiềm lực, thực lực và sức mạnh tổng hợp của mình trên trường quốc tế. Song song với công cuộc phát triển và xây dựng đất nước, chúng ta cũng không ngừng đẩy mạnh việc phòng, chống các âm mưu, thủ đoạn chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch đã và đang điên cuồng tấn công ta trên nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực văn hóa. Chúng coi đây là mặt trận hàng đầu, là mũi nhọn đột phá, thọc sâu, vừa dùng các lực lượng, phương tiện từ bên ngoài, vừa tận dụng phát triển các lực lượng và phương tiện ở trong nước, tạo ra sự chống đối mạnh mẽ từ nội bộ Đảng, nội bộ xã hội ta, từng bước làm cho nhân tố chống đối bên trong phát triển để phá ta từ bên trong. Âm mưu sâu xa của chúng là thông qua xâm nhập phá hoại tư tưởng văn hóa để dẫn dắt, làm nảy sinh biến động về chính trị của xã hội ta, từ đó làm rối loạn về tư tưởng chính trị và niềm tin cách mạng của nhân dân ta.

Nấp dưới vỏ “văn hóa”, các thế lực thù địch xuyên tạc, bôi đen giá trị văn hóa, đạo đức, lối sống trong đời sống xã hội ta, đồng thời tuyên truyền quảng bá văn hóa, lối sống phương Tây. Chúng kích động khuynh hướng đòi văn hóa, văn nghệ hoạt động độc lập với chính trị, không chịu sự quản lý của nhà nước, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực văn hóa; lôi kéo văn nghệ sĩ sáng tác theo các trường phái khác lạ theo kiểu phương Tây, coi rẻ truyền thống văn hóa dân tộc, làm phai mờ các giá trị văn hóa truyền thống và cách mạng, gieo rắc lối sống phản động, lạc hậu, suy đồi, biến Việt Nam thành “thuộc địa văn hóa” của ngoại bang. Chúng cổ xúy cho lối sống vị kỷ, bản năng, thực dụng làm con người Việt Nam mất gốc, làm thay đổi giá trị thẩm mỹ, thị hiếu nghệ thuật, chuyển đổi các thang bậc giá trị xã hội theo chiều hướng xấu. Chúng trắng trợn xuyên tạc lịch sử, chống phá nền tảng tư tưởng văn hóa - xã hội chủ nghĩa của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng tư tưởng của Đảng; bài xích, bác bỏ văn hóa, đạo đức, lối sống truyền thống dân tộc, văn hóa, đạo đức, lối sống xã hội chủ nghĩa.

Trong thời đại ngày nay, với sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật, sự bùng nổ của công nghệ cao, các thế lực thù địch đang sử dụng triệt để các phương tiện thông tin, truyền thông, báo chí, xuất bản, đặc biệt là mạng xã hội để thực hiện “diễn biến hòa bình” chống phá nước ta. Vì, mạng xã hội đang là một trong những phương tiện truyền thông có tốc độ nhanh, sức lan tỏa mạnh, tiếp cận nhiều đối tượng công chúng.

Thực tế ở nước ta những năm qua xuất hiện nhiều các website, blog, fanpage, dịch vụ thư điện tử (e-mail) và các trang mạng xã hội (Facebook), Zalo (các dịch vụ chat, nhắn tin, hội thoại), truyền thoại (VoIP), diễn đàn (forum), Twitter, Youtube, MySpace… phát tán dày đặc với tần suất lớn những thông tin, quan điểm trái chiều, xuyên tạc, chống phá Đảng và nhà nước ta. Dựa vào một số sự kiện đã hoặc sắp diễn ra, các thế lực thù địch đã nhào nặn hàng loạt tin, bài “sặc mùi” chính trị phản động; thêm bớt những số liệu không thể kiểm chứng, kèm theo trích dẫn “kim, cổ, đông, tây”, giả danh khoa học; sử dụng công nghệ chèn các tư liệu, hình ảnh để cắt ghép, chỉnh sửa, “live stream”... tạo ra những sự kiện “giật gân”, thông tin câu khách; cố tình đổi trắng thay đen, biến không thành có, rồi suy diễn, bình luận theo kiểu làm “sáng tỏ vấn đề”. Tần suất các luận điệu thâm độc đó ngày càng gia tăng cả về lưu lượng, cấp độ, mật độ; thực hiện chiến lược “bôi nhiều sẽ bẩn”, “nói lắm phải tin”, tung “hỏa mù” nhằm gây tâm lý hoài nghi, dao động trong xã hội; từng bước hướng cộng đồng đến những suy nghĩ lệch lạc dẫn đến “tự diễn biến” và rơi vào “tự chuyển hóa” lúc nào không hay. Chúng lợi dụng những sơ hở, thiếu sót trong quản lý kinh tế, văn hóa, xã hội; khai thác thông tin từ những vụ, việc tiêu cực xảy ra trong đời sống để xuyên tạc, thổi phồng; lấy hiện tượng quy kết thành bản chất; đăng tải thông tin thật, giả lẫn lộn, đưa ra cái gọi là “tài liệu chứng minh” để xuyên tạc vai trò lãnh đạo của Đảng, qua đó kích động xã hội phản đối chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước, kêu gọi từ bỏ Đảng; thúc đẩy lối sống thực dụng, thẩm thấu tư tưởng văn hóa ngoại lai vào đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân (nhất là thế hệ trẻ) làm phai nhạt lý tưởng cách mạng, băng hoại đạo đức xã hội...

Do tầm quan trọng đặc biệt của công tác đấu tranh tư tưởng và những thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch ngày càng tinh vi, phức tạp, nên Đảng, nhà nước ta luôn coi trọng, tập trung chỉ đạo và triển khai công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 22/10/2018, của Bộ Chính trị, về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới” nhấn mạnh: “Bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác có hiệu quả các quan điểm sai trái, thù địch là một nội dung cơ bản, hệ trọng, sống còn của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, trong đó lực lượng tuyên giáo các cấp là nòng cốt” Đại hội XIII của Đảng đề cập trực tiếp và nhấn mạnh việc quản lý và phát triển thông tin trên không gian mạng, trong đó có việc đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch: “Tăng cường quản lý và phát triển các loại hình truyền thông, thông tin trên internet. Kiên quyết đấu tranh, loại bỏ các sản phẩm, thông tin độc hại, xuyên tạc, phản động, ảnh hưởng xấu đến ổn định chính trị - xã hội, thuần phong mỹ tục”(2).

Trong thời gian tới, các thế lực thù địch tiếp tục sử dụng không gian mạng nói chung, mạng xã hội nói riêng để chống phá ta trên mọi lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực văn hóa, do đó cần tập trung vào một số vấn đề sau:

Một là, giáo dục nâng cao nhận thức, sự đồng thuận, nhất trí cao của các tổ chức, lực lượng phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực văn hóa nhận thức rõ vai trò của văn hóa trên mặt trận tư tưởng và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Hai là, xác định đúng nội dung, đa dạng hóa hình thức, biện pháp phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực văn hóa trên mạng xã hội. Về nội dung, tập trung vào việc nâng cao nhận thức lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, truyền thống dân tộc, quan điểm, đường lối của Đảng về văn hóa xã hội chủ nghĩa. Tạo sự thống nhất, đồng thuận về sự cần thiết phải giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Về hình thức, biện pháp, đẩy mạnh hơn nữa đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực văn hóa trên không gian mạng.

Ba là, xây dựng và phát huy vai trò của các cơ quan, lực lượng chuyên trách phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực văn hóa, tăng cường nguồn lực cho lĩnh vực văn hóa.

Bốn là, khắc phục sự yếu kém trong quản lý những nội dung thông tin trên không gian mạng. Tăng cường công tác kiểm soát, định hướng tư tưởng và dư luận xã hội trên không gian mạng, chủ động thiết kế xây dựng chủ đề để dẫn dắt dư luận; lựa chọn chủ đề tăng tính tương tác, cần “phân loại” công chúng trên cộng đồng mạng để xác định, lựa chọn cách thức, phương pháp dẫn dắt thông tin định hướng tư tưởng, dư luận trên mạng xã hội.

Năm là, các cơ quan tuyên truyền, các loại hình báo chí, nhất là các báo mạng điện tử, các trang mạng xã hội cần phát huy tốt vai trò đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, các luận điệu tuyên truyền, lừa mị về văn hóa của các thế lực thù địch. Kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh quân sự, quốc phòng, an ninh, đối ngoại với phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực văn hóa. Phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành trong phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực văn hóa.

V3.