Cách
đây 70 năm, Hiệp định Geneva về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam đã được ký kết, mở
ra một trang mới trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất
nước của nhân dân ta.
Trải qua 70 năm, những bài học từ đàm phán, ký kết
và thực thi Hiệp định Geneva vẫn còn nguyên giá trị đối với công cuộc xây dựng,
phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc ngày nay.
Ý nghĩa và tầm vóc lịch sử của Hiệp định Geneva
Cuối năm 1953, trước những chuyển biến mạnh mẽ trên
cục diện chiến trường ở Đông Dương, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ
trương mở cuộc đấu tranh trên mặt trận ngoại giao, phối hợp với cuộc tiến công
chiến lược Đông Xuân 1953-1954 để đi tới chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình
ở Việt Nam và toàn Đông Dương. Trả lời phỏng vấn của một nhà báo Thụy Điển ngày
26-11-1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Nếu
Chính phủ Pháp đã rút được bài học trong cuộc chiến mấy năm nay, muốn đi đến
đình chiến ở Việt Nam bằng cách thương lượng và giải quyết vấn đề Việt Nam theo
lối hòa bình, thì nhân dân và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng tiếp
ý muốn đó" và “cơ sở của việc đình chiến ở Việt Nam là Chính phủ Pháp thật
thà tôn trọng nền độc lập thật sự của nước Việt Nam”.
Ngày 8-5-1954, đúng một ngày sau Chiến thắng Điện
Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, Hội nghị Geneva bắt
đầu bàn về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương. Trải qua 75 ngày đàm phán căng
thẳng và phức tạp với 7 phiên toàn thể và 24 phiên họp cấp trưởng đoàn, Hiệp
định Geneva đã được ký vào ngày 21-7-1954. Cùng với bản Tuyên bố về vấn đề lập
lại hòa bình ở Đông Dương và hiệp định đình chiến ở Đông Dương, bản hiệp định
đình chiến ở Việt Nam đã khẳng định độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ của Việt Nam, quy định quân đội nước ngoài phải rút khỏi Đông Dương,
xác định các giới tuyến quân sự chỉ có tính tạm thời và mỗi nước Đông Dương sẽ
tổ chức tổng tuyển cử tự do để thực hiện thống nhất đất nước, v.v...
Trong “Lời kêu gọi sau khi Hội nghị Geneva thành
công” ngày 22-7-1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá: “Hội
nghị Geneva đã kết thúc. Ngoại giao ta đã thắng lợi to”.
Quả thực, nếu trong Hiệp định Sơ bộ năm 1946, Pháp chỉ công nhận Việt Nam là
quốc gia tự do nằm trong khối Liên hiệp Pháp, thì với Hiệp định Geneva, lần đầu
tiên trong lịch sử dân tộc ta, các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam là độc
lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ đã chính thức được khẳng định
trong một điều ước quốc tế và được các nước tham dự Hội nghị Geneva thừa nhận.
Đây là cơ sở chính trị, pháp lý rất quan trọng để nhân dân ta đấu tranh trên
mặt trận chính trị, ngoại giao trong công cuộc giải phóng miền Nam và thống
nhất đất nước sau này.
Cùng với Chiến thắng Điện Biên Phủ, việc ký kết
Hiệp định Geneva đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của
nhân dân ta cũng như chấm dứt hoàn toàn sự đô hộ của chủ nghĩa thực dân cũ kéo
dài gần 100 năm tại Việt Nam. Với ý nghĩa đó, hiệp định đã mở ra thời kỳ chiến
lược mới của cách mạng Việt Nam là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đồng
thời tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam để đi tới thực
hiện trọn vẹn mục tiêu độc lập dân tộc và thống nhất đất nước.
Thắng lợi tại Hội nghị Geneva bắt nguồn từ đường
lối cách mạng đúng đắn và sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt của Đảng và Chủ tịch
Hồ Chí Minh; từ khát vọng hòa bình cháy bỏng, chủ nghĩa yêu nước cùng bản lĩnh
và trí tuệ của dân tộc Việt Nam được hun đúc qua hàng nghìn năm dựng nước và
giữ nước. Hiệp định Geneva là kết tinh thành quả đấu tranh quật cường và bền bỉ
của quân và dân ta, từ Chiến thắng Việt Bắc Thu-Đông 1947 đến Chiến dịch Biên
giới Thu Đông 1950 và tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 mà đỉnh cao là Chiến
thắng Điện Biên Phủ.
Cùng với Hiệp định Sơ bộ 1946 và Hiệp định Paris
1973, Hiệp định Geneva 1954 là một mốc son lịch sử của ngoại giao cách mạng
Việt Nam, mang đậm dấu ấn tư tưởng, phong cách và nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí
Minh. Hội nghị Geneva đã tôi luyện nên những nhà lãnh đạo đồng thời cũng là
những nhà ngoại giao xuất sắc trong thời đại Hồ Chí Minh như các đồng chí Phạm
Văn Đồng, Tạ Quang Bửu, Hà Văn Lâu và nhiều cán bộ ngoại giao ưu tú khác. Nhìn
lại 70 năm ngày ký Hiệp định Geneva, chúng ta biết ơn vô hạn đối
với Chủ tịch Hồ Chí Minh và các thế hệ cách mạng tiền bối cũng như sự hy sinh
vô cùng to lớn của quân và dân ta trong kháng chiến chống thực dân Pháp.
Chúng ta luôn ghi nhớ tình đoàn kết trong sáng và
sự ủng hộ, giúp đỡ của nhân dân Lào, Campuchia, các nước xã hội chủ nghĩa và
nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, trong đó có nhân dân Pháp dành cho
Việt Nam trong suốt cuộc kháng chiến chống thực dân và đế quốc. Do đó, Hiệp
định Geneva không chỉ là thắng lợi của Việt Nam, mà còn là thắng lợi chung của
ba nước Đông Dương và cũng là thắng lợi của các dân tộc bị áp bức trong đấu
tranh giải phóng dân tộc. Cùng với Chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Geneva
đã cổ vũ mạnh mẽ cho phong trào đấu tranh vì hòa bình và độc lập dân tộc, mở
đầu cho sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên toàn thế giới. Từ năm
1954-1964, có tới 17 trong 22 thuộc địa của Pháp đã giành độc lập; riêng năm
1960 có tới 17 nước ở châu Phi tuyên bố độc lập.
Những bài học trường tồn với nền ngoại giao Việt
Nam mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”
Đàm phán, ký kết và thực thi Hiệp định Geneva là
cuốn cẩm nang quý báu về trường phái đối ngoại và ngoại giao Việt Nam với nhiều
bài học còn nguyên giá trị về nguyên tắc, phương pháp và nghệ thuật ngoại giao,
mang đậm bản sắc ngoại giao Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Trước
hết, đó là bài học về kiên định độc lập, tự chủ trên
cơ sở lợi ích quốc gia-dân tộc. Quá trình đàm phán, ký kết Hiệp định Geneva cho
chúng ta hiểu sâu sắc hơn giá trị của nguyên tắc độc lập, tự chủ trong các vấn
đề quốc tế. Bởi các quốc gia đều vì lợi ích của mình, nên chỉ có kiên định độc
lập, tự chủ mới giúp chúng ta giữ vững thế chủ động và bảo đảm cao nhất lợi ích
quốc gia-dân tộc.
Thứ hai, bài
học về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, gắn đoàn kết dân tộc với
đoàn kết quốc tế để tạo nên “một sức mạnh vô địch”. Bên cạnh phát huy tối đa
sức mạnh ngọn cờ chính nghĩa và khối đại đoàn kết dân tộc, Đảng ta đã có chủ
trương đúng đắn về không ngừng mở rộng đoàn kết quốc tế, trước hết là đoàn kết
với Lào, Campuchia, các nước xã hội chủ nghĩa, bạn bè quốc tế và nhân dân yêu
chuộng hòa bình trên thế giới.
Thứ ba, bài
học về kiên định mục tiêu, nguyên tắc, song cơ động, linh hoạt sách lược theo
phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng
định “mục đích bất di bất dịch của ta vẫn là hòa bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ. Nguyên tắc của ta thì phải vững chắc, sách lược
của ta thì linh hoạt”, trong đàm phán và thực thi Hiệp định
Geneva, cái gốc “bất biến” là Việt Nam độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ. Đó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đến Hiệp định Paris 1973 sau này. Còn “vạn
biến” là trong lúc chưa thể thực hiện được trọn vẹn mục tiêu cuối cùng, có thể
linh hoạt và biến hóa trong sách lược để rồi từng bước tiến tới đạt được mục
tiêu bất biến. Đó là một phương pháp và nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh được
kế thừa, vận dụng sáng tạo và phát triển trong công cuộc đổi mới và hội nhập
quốc tế của nước ta; đồng thời, thể hiện bản sắc “cây tre Việt Nam” của nền
ngoại giao cách mạng Việt Nam, “gốc vững”, “thân chắc”, “cành uyển chuyển”.
Thứ tư,
bài học về coi trọng nghiên cứu, đánh giá và dự báo tình hình, “biết mình”,
“biết người”, “biết thời”, “biết thế” để từ đó “biết tiến”, “biết thoái”, “biết
cương”, “biết nhu”. Đây là bài học sâu sắc, nhất là trong bối cảnh thể giới
hiện nay đang trải qua những biến động lớn, phức tạp và khó lường, càng phải
đẩy mạnh công tác nghiên cứu, dự báo tình hình thế giới, nhất là chuyển động
của các xu hướng lớn, điều chỉnh chiến lược, chính sách của các đối tác, trên
cơ sở đó chủ động có đối sách phù hợp với từng đối tác, từng vấn đề.
Thứ năm,
bài học về sử dụng đối thoại và đàm phán hòa bình để giải quyết bất đồng, xung
đột trong quan hệ quốc tế. Cùng với quyết định mở cuộc tiến công chiến lược
Đông-Xuân 1953-1954, Đảng ta đã chủ trương dùng biện pháp đàm phán hòa bình để
chấm dứt chiến tranh, từ đó đã mở hướng đi tới một cuộc đàm phán để kết thúc
chiến tranh ở Đông Dương. Dù có thể có góc nhìn khác nhau, song không thể phủ
nhận Hội nghị Geneva đã để lại một bài học mang tính thời đại về giải quyết bất
đồng và xung đột quốc tế bằng biện pháp hòa bình, nhất là trong bối cảnh thế
giới hiện nay đang diễn ra nhiều xung đột phức tạp.
Thứ sáu, bài
học bao trùm là sự lãnh đạo thống nhất, tuyệt đối của Đảng đối với sự nghiệp
cách mạng của nhân dân ta nói chung và mặt trận ngoại giao nói riêng. Đảng đã
đề ra chủ trương, đường lối và sách lược cách mạng đúng đắn, mở ra mặt trận ngoại
giao chủ động tiến công, phối hợp chặt chẽ và thống nhất với các mặt trận chính
trị, quân sự để tạo nên sức mạnh tổng hợp, bảo đảm cao nhất lợi ích dân tộc.
Những bài học nổi bật nói trên cùng nhiều bài học
quý báu khác từ Hiệp định Geneva đã được Đảng ta kế thừa, vận dụng sáng tạo và
phát triển trong suốt quá trình đàm phán, ký kết và thực thi Hiệp định Paris
1973 cũng như trong triển khai công tác đối ngoại hiện nay. Trong gần 40 năm
tiến hành đổi mới, chúng ta luôn nhất quán thực hiện đường lối đối ngoại độc
lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế
toàn diện, sâu rộng; là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có
trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Thực hiện đường lối đối ngoại đúng đắn này,
đến nay nước ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 193 quốc gia thành viên
Liên hợp quốc, có quan hệ đối tác chiến lược và đối tác chiến lược toàn diện
với 5 nước Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, có mạng lưới quan
hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với 30 nước. Việt Nam là thành viên
tích cực, có trách nhiệm của hơn 70 tổ chức, diễn đàn khu vực và quốc tế lớn
như Liên hợp quốc, ASEAN, WTO, APEC, ASEM...; đã tham gia và đang đàm phán 19
hiệp định thương mại tự do, tạo nên một mạng lưới liên kết kinh tế rộng mở với
khoảng 60 nền kinh tế trên thế giới.
Phát huy các bài học của Hiệp định Geneva và truyền
thống vẻ vang của ngoại giao cách mạng Việt Nam, toàn ngành ngoại giao dưới sự
lãnh đạo của Đảng quyết tâm xây dựng nền ngoại giao Việt Nam vững mạnh, toàn
diện, hiện đại, đóng góp xứng đáng vào thực hiện thắng lợi đường lối đối ngoại
Đại hội XIII của Đảng vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét