Khẳng định ý nghĩa của Cách mạng Tháng Mười Nga, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng Tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu, hàng triệu người bị bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế”[1]. Cách mạng Tháng Mười Nga không chỉ đưa các tầng lớp nhân dân lao động Nga thoát khỏi thân phận bị áp bức, bóc lột trở thành người làm chủ xã hội, làm chủ đất nước, mà còn mở ra một thời đại mới trong lịch sử nhân loại: thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, soi sáng con đường cho các dân tộc bị áp bức và giải phóng hàng triệu người lao động trên trái đất. Cách mạng Tháng Mười Nga đã biến nước Nga Sa hoàng lạc hậu và chịu tổn thất nặng nề sau chiến tranh thành một siêu cường đứng đầu hệ thống xã hội chủ nghĩa một thời kỳ dài trong lịch sử, là chỗ dựa cho hàng trăm dân tộc đứng lên chống ách thống trị của chủ nghĩa thực dân đế quốc, giành độc lập dân tộc, bảo vệ hòa bình thế giới. Có thể khẳng định rằng, nếu không có Cách mạng Tháng Mười, nhân loại không thể sống trong kỷ nguyên độc lập, tự do. Ngay trong lòng chủ nghĩa tư bản hiện đại, những quyền dân sinh, dân chủ, quyền con người… mà nhân dân lao động có được cũng nhờ ảnh hưởng to lớn của Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại.
Hiện nay, các thế lực thù địch, những
kẻ chống chủ nghĩa xã hội, những phần tử cơ hội chính trị đang tìm mọi cách phủ
nhận những giá trị, ý nghĩa thời đại của Cách mạng Tháng Mười, nhưng họ không
thể phủ nhận được một sự thật là, Cách mạng Tháng Mười Nga đã và đang tác động
và ảnh hưởng to lớn đến tiến trình vận động và phát triển của thế giới đương
đại. Những lý tưởng cao đẹp mà hiện nay nhân loại đang tiếp tục hướng tới như:
Độc lập dân tộc, tự do cho nhân dân, hòa bình, dân chủ, bình đẳng, bác ái cho
mọi người, xóa bỏ áp bức, bóc lột, xóa nghèo nàn, lạc hậu, xóa bỏ tệ phân biệt
chủng tộc… cũng chính là lý tưởng của Cách mạng Tháng Mười Nga.
Đi theo con đường của Cách mạng Tháng
Mười, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo nhân dân ta
làm nên Cách mạng Tháng Tám năm 1945, mở ra kỷ nguyên mới cho đất nước – kỷ
nguyên độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta đã đánh thắng các đế quốc sừng sỏ trong thế kỷ
XX, nêu gương sáng cho sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, tự do của các dân tộc
bị áp bức trên toàn thế giới. Tiếp đó là những thắng lợi to lớn có ý nghĩa lịch
sử trong sự nghiệp đổi mới đất nước.
Cách mạng Tháng Mười Nga đã để lại cho
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, cho các dân tộc đang đấu tranh để tự
giải phóng nhiều bài học quý báu về phương pháp đấu tranh giành và giữ chính
quyền, vai trò lãnh đạo của chính Đảng Cộng sản cầm quyền, về xây dựng một nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa… Những bài học đó đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh
và Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng sáng tạo vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của
Việt Nam trong quá trình xây dựng một đảng cầm quyền và một Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa.
Tính tất yếu lịch sử của việc xây dựng
Nhà nước pháp quyền Việt Nam bắt nguồn từ bài học thực tiễn của Cách mạng Tháng
Mười Nga và lịch sử xây dựng và phát triển của Nhà nước ta. Ngay từ khi mới ra
đời và trong quá trình phát triển, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã là một
nhà nước hợp hiến, hợp pháp. Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở các
quy định của Hiến pháp, pháp luật, là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân; luôn vận hành trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Các đạo luật tổ
chức Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và các đạo
luật về chính quyền địa phương được xây dựng trên cơ sở Hiến pháp năm 1946, năm
1959, năm 1980, năm 1992 và năm 2013. Những lần Hiến pháp được sửa đổi và thông
qua là những bước củng cố cơ sở pháp luật cho tổ chức và hoạt động của các cơ
quan nhà nước. Vì vậy, có thể nói, sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là một quá trình lịch sử được bắt đầu ngay từ Tuyên ngôn
Độc lập năm 1945 và Hiến pháp năm 1946, được định hướng từ tư tưởng Hồ Chí Minh
về xây dựng nhà nước. Quá trình đó đã trải qua hơn 70 năm và ngày nay vẫn đang
được tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới đất nước dưới ánh
sáng của Cách mạng Tháng Mười Nga.
Đi theo con đường của Cách Mạng Tháng
Mười, chúng ta ý thức sâu sắc rằng, để xây dựng được một chế độ xã hội mới và
một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thì tất yếu phải đặt dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam và dựa vững chắc trên nền tảng lý luận chủ nghĩa Mác
– Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Tính tất yếu khách quan ấy còn xuất phát từ đặc
điểm của thời đại với xu thế toàn cầu hoá; đòi hỏi Nhà nước tiếp tục đẩy mạnh
cải cách hành chính, cải cách pháp luật, đảm bảo cho Nhà nước phát triển vững
mạnh, giải quyết hiệu quả các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, thực hành
dân chủ, giữ vững độc lập, tự chủ và hội nhập vững chắc vào đời sống quốc tế.
Vận
dụng những bài học thực tiễn của Cách mạng Tháng Mười Nga vào xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay, quán triệt quan điểm Nghị quyết
Đại hội XIII của Đảng về “Tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động, đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng,
thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tạo bước đột phá trong cải cách hành
chính”[2],
chúng ta cần tập trung thực hiện tốt những vấn đề cơ bản sau:
Trước hết, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, quản lý toàn diện các hoạt
động kinh tế – xã hội; giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội và mở rộng quan hệ đối ngoại với các nước trên thế giới, đồng thời
quản lý, điều hành mọi hoạt động xây dựng và thi hành luật pháp; hoàn thiện bộ
máy tổ chức, trong đó chất lượng con người trong từng tổ chức, từng cơ quan của
bộ máy nhà nước cần được nâng lên một tầm cao mới. Nhiệm vụ của Nhà nước Cộng
hòa XHCN Việt Nam là thực hiện nguyện vọng chính đáng của nhân dân và Cương
lĩnh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhằm khơi dậy khát vọng phát triển
đất nước, thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”. Đây là nhiệm vụ hết sức nặng nề, do đó đòi hỏi một Nhà nước
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, có trình độ tổ chức hiện đại với đội
ngũ cán bộ có đức, có tài, có năng lực quản lý, điều hành toàn diện.
Hai
là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền
pháp luật để toàn dân hiểu được bản chất dân chủ của Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam; nắm vững và thực hiện quyền làm chủ và
nghĩa vụ công dân của mình, hiểu được mọi quyền lực của Nhà nước đều do nhân
dân và vì nhân dân giao phó, các cơ quan nhà nước không tự có quyền lực.
V.I.Lênin chỉ rõ: Điều cần thiết không phải chỉ là cơ quan đại biểu theo kiểu
chế độ dân chủ, mà là toàn bộ việc quản lý nhà nước từ dưới lên phải do bản
thân quần chúng tổ chức, quần chúng thực sự tham gia vào từng bước của cuộc
sống và đóng vai trò tích cực trong việc quản lý. Quyền lực của nhân dân được
thể hiện qua việc bầu ra cơ quan đại diện cho mình để xây dựng pháp luật và thi
hành pháp luật, giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước các cấp. Điều này, thể
hiện tính dân chủ, tính nhân văn của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam – một nhà nước mang tính nhân dân sâu sắc.
Ba
là, tiếp tục đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của Quốc hội theo
hướng: Xây dựng Quốc hội bảo đảm thực hiện đúng, đầy đủ
và kịp thời tất cả các quyền hạn, nhiệm vụ do Hiến pháp và luật quy
định theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; nâng cao chất lượng, hiệu
quả trong việc quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và thực hiện các
chức năng giám sát của Quốc hội; phát huy vai trò, trách nhiệm, nâng cao năng
lực của đại biểu Quốc hội; tăng cường mối quan hệ hai chiều giữa Quốc hội với
nhân dân.
Các cuộc bầu cử dân chủ là hoạt động
tiêu biểu quan trọng nhất trong các hoạt động dân chủ trực tiếp của người dân.
Thông qua các cuộc bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân, quyền công dân, quyền
làm chủ của Nhân dân được thể hiện đúng với bản chất của Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa: mọi quyền lực thuộc về dân, do dân và vì dân. Mức độ dân chủ của
cuộc bầu cử Quốc hội phụ thuộc vào tư tưởng, nhận thức của các cơ quan lãnh đạo
về quyền làm chủ của dân, về trách nhiệm của dân đối với cơ quan đại diện cho
họ. Vì vậy, chúng ta phải làm cho cuộc bầu cử Quốc hội đúng với tinh thần là
ngày hội của toàn dân, toàn dân hăng hái, nô nức chờ đón ngày được đi bầu cơ
quan đại diện cho mình. Quốc hội – cơ quan đại diện quyền lực cao nhất của nhân
dân phải có cơ cấu hợp lý, hội tụ đầy đủ đại biểu của các dân tộc anh em trên
đất nước Việt Nam, hội tụ đầy đủ trí tuệ, năng lực, bản lĩnh, sức mạnh của dân
tộc Việt Nam, mang đậm nét dân tộc, nhân văn Việt Nam.
Bốn
là, hoàn thiện hệ thống pháp luật, bảo đảm cho pháp luật thể hiện đúng ý
chí, nguyện vọng và quyền lực của dân, thực sự bảo vệ được các quyền của công
dân. Nhà nước quản lý, điều hành bằng
pháp luật. Do đó, pháp luật chiếm vị trí tối thượng trong hoạt động của Nhà
nước và trong đời sống xã hội. Một trong những biểu hiện của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa là pháp luật của Nhà nước được thể chế hóa và bảo vệ
quyền công dân, quyền con người. Điều này, thể hiện tính nhân văn, nhân đạo sâu
sắc của hệ thống pháp luật thuộc Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Muốn vậy, việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thực hiện hệ
thống pháp luật phải tuân thủ các nguyên tắc: (1) Bảo đảm sự phù hợp giữa
ý chí chủ quan với tồn tại khách quan trong xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật; (2) Bảo đảm pháp chế trong xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật; (3) Bảo đảm tính khoa học trong xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật; (4) Bảo đảm sự phù hợp giữa pháp luật quốc gia với luật pháp quốc tế
mà Nhà nước ta đã tham gia ký kết hoặc gia nhập; (5) Bảo đảm sự lãnh đạo
của Đảng đối với hoạt động xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tổ chức
thực hiện pháp luật.
Năm
là, đẩy mạnh cải cách nền hành chính nhà nước. Nền hành chính nhà nước là hệ thống các cơ quan hành chính nhà
nước ở trung ương và chính quyền địa phương, cơ sở gắn với hệ thống thể chế
hành chính, đội ngũ cán bộ, công chức và hệ thống quản lý tài chính công, tài
sản công, thực thi quyền hành pháp để quản lý, điều hành các lĩnh vực của đời
sống xã hội. Nó bảo đảm cho hoạt động quản lý nhà nước đối với các lĩnh vực đời
sống xã hội được thực hiện theo chương trình, kế hoạch đã đề ra; xử lý các tình
huống, diễn biến phát sinh trong đời sống xã hội, bảo đảm trật tự, an toàn xã
hội; từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Trước mắt,
cần tập trung đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới tổ chức và hoạt động của
Chính phủ theo hướng xây dựng hệ thống cơ quan hành pháp thống nhất, thông
suốt, hiện đại. Luật hóa cơ cấu, tổ chức của Chính phủ; tổ chức bộ quản lý đa
ngành, đa lĩnh vực, bảo đảm tinh gọn và hợp lý. Phân cấp mạnh, giao quyền chủ
động hơn nữa cho chính quyền địa phương, nhất là trong việc quyết định về ngân
sách, tài chính, đầu tư, nguồn nhân lực, thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với
trung ương.
Trong quá
trình thực hiện phải cải cách đồng bộ các yếu tố của nền hành chính nhà
nước: cải cách thể chế nền hành chính; cải cách tổ chức và hoạt động
của bộ máy hành chính nhà nước ở trung ương và chính quyền địa phương; đổi mới,
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; đẩy mạnh cải cách tài
chính công.
Sáu
là, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đủ năng lực, phẩm chất; đồng thời, đẩy mạnh đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng và những
tiêu cực khác đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, mang đậm nét dân tộc và nhân đạo. Đội ngũ
cán bộ có vai trò quyết định sự thành bại của cách mạng và hiệu lực, hiệu quả
hoạt động của hệ thống chính trị. Cần phân công lao động hợp lý đội ngũ cán bộ,
công chức, tránh tình trạng bộ máy hành chính phình ra quá lớn; đào tạo, bồi
dưỡng theo yêu cầu nâng cao chất lượng cả về năng lực và phẩm chất đạo đức.
Thực hiện trách nhiệm trong đề cử, bổ nhiệm chức vụ lãnh đạo theo hướng cấp
trưởng giới thiệu cấp phó, cấp sử dụng trực tiếp giới thiệu để cấp có thẩm
quyền xem xét, quyết định. Phải kết hợp chặt chẽ các khâu quy hoạch, đào tạo,
bồi dưỡng, đánh giá, luân chuyển, sắp xếp, bố trí, điều động cán bộ và tăng
cường công tác quản lý, kiểm tra, giám sát cán bộ và công tác cán bộ để xây
dựng đội ngũ cán bộ có tâm, đức, năng lực và thực sự là công bộc của dân. Có
ngăn chặn và chống được quan liêu, tham nhũng mới xây dựng được Đảng, Nhà nước
trong sạch, vững mạnh, thực sự là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Để
cuộc đấu tranh chống tham nhũng có hiệu quả đòi hỏi toàn bộ hệ thống chính trị
và toàn dân phải có quyết tâm chính trị cao. Nhà nước khuyến khích, tạo
điều kiện hơn nữa cho người dân thể hiện quyền dân chủ và trách nhiệm của mình
thông qua các hoạt động tự quản ở địa phương và cơ sở. Chức năng, nhiệm vụ của
Nhà nước được Hiến pháp quy định, song Nhà nước không thể làm hết mọi
công việc trong xã hội. Hiện nay, hoạt động tự quản của người dân đang được
phát huy và đã có đóng góp đáng kể vào quản lý xã hội. Đây là kết quả quan trọng
trong việc dân chủ hóa các hoạt động kinh tế – xã hội, sự đổi mới rất cơ bản về
mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Đây
cũng là nét đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
– một nhà nước mang tính nhân dân sâu sắc.
Xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay phải giữ
vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc
của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, bảo đảm Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam không chỉ là nhà nước của giai cấp công nhân mà còn là nhà nước của
các tầng lớp nhân dân và các dân tộc Việt Nam. Đồng thời, phải giải quyết đúng
đắn mối quan hệ giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân, tính dân
tộc trong xây dựng nhà nước pháp quyền, không tuyệt đối hóa hay xem nhẹ mặt
nào.
Vận dụng những
thành tựu của Cách mạng Tháng Mười trong điều kiện mới, chúng ta tiếp tục
nghiên cứu, nắm vững và thực hiện tốt những vấn đề cơ bản trên để không chỉ làm
cho việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thu được nhiều
thành tựu to lớn, quan trọng; mà còn là sự khẳng định, bổ sung, phát triển
những giá trị lịch sử và bài học thực tiễn của Cách mạng Tháng Mười trong xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân, đặc biệt là trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế; trên cơ sở đó để
Đảng, Nhà nước đề ra chủ trương, đường lối đúng đắn lãnh đạo nhân dân ta thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi
trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI (kỷ niệm 100 năm thành
lập Nước 1945-2045) nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội
chủ nghĩa./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét