Thứ Năm, 30 tháng 3, 2023

TỰ HÀO PHỤ NỮ VIỆT NAM

 Là bông hoa mang áo lính thời bình

Nét rạng ngời hiền dịu đẹp lung linh
Chất thanh lịch giữ trọn tình chung thủy
Trước muôn vạn màu áo xanh bình dị
Em tự hào nữ chiến sĩ Việt Nam
Lịch sử dân tộc Việt Nam sẽ luôn ghi đậm dấu ấn sáng ngời của những nữ anh hùng hào kiệt, bất khuất, không chấp nhận kiếp sống nô lệ và đã anh dũng đứng lên chống giặc ngoại xâm, giành lại độc lập tự do cho dân tộc.
Phụ nữ ngày nay đã phát huy truyền thống tốt đẹp của mình, đã và đang có những đóng góp to lớn trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần quan trọng vào công cuộc thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước!
ST




Những thông tin xuyên tạc, bóp méo tình hình chống tham nhũng của Việt Nam

Những năm qua, với quan điểm “phòng, chống tham nhũng, tiêu cực không có vùng cấm, không có ngoại lệ”, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, giải pháp đẩy mạnh cuộc đấu tranh này. Với tinh thần kiên quyết, kiên trì, công khai, minh bạch, công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được tiến hành một cách bài bản, đạt được những kết quả tích cực.

Tuy nhiên, thực hiện mưu đồ chống phá Việt Nam, các thế lực thù địch đã lợi dụng các trang mạng xã hội và kênh truyền thông không thiện chí với Việt Nam để lan truyền những thông tin xuyên tạc, bóp méo tình hình chống tham nhũng, tiêu cực ở nước ta. Một mặt, họ cho rằng các hoạt động phòng, chống tham nhũng của Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện nay “chỉ là để mị dân”, hay “Đảng Cộng sản Việt Nam không thật sự quyết tâm chống tham nhũng”(!). Mặt khác, trước kết quả phòng, chống tham nhũng thời gian qua, nhiều tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên bị xử lý kỷ luật, hoặc xử lý hình sự do tham nhũng, họ lại cho rằng “tham nhũng là sản phẩm của chế độ chính trị ở Việt Nam”(!) và “Việt Nam càng chống tham nhũng thì tham nhũng càng nhiều, bởi đó là căn bệnh kinh niên của thể chế chính trị một đảng cầm quyền”(!). Từ đây, họ kêu gọi phải thay đổi thể chế chính trị, thực hiện chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập thì mới có thể chống được tham nhũng. Cổ súy cho khuynh hướng này, ngày 24/6/2022, Đài Á châu tự do (RFA) đăng bài viết “Thuốc đặc trị chữa tham nhũng: thay đổi thể chế” xuyên tạc công cuộc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng và Nhà nước ta; trong đó, họ nêu câu hỏi mang tính kích động chính trị, rằng: “Liệu có diệt được tham nhũng trong thể chế hiện hành hay không?”(!). Từ đó đưa ra “lời khuyên”: Việt Nam nên từ bỏ chế độ chính trị hiện hành để chuyển sang chế độ tư bản chủ nghĩa mới chống được tham nhũng. Những luận điểm kiểu này thực sự nguy hiểm, dễ làm cho người dân lầm tưởng tham nhũng gắn liền với thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa và do chế độ một đảng cầm quyền gây ra; qua đó, làm suy giảm lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, vào con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên và gây nên nguy cơ bất ổn về chính trị trong xã hội.

Cần khẳng định dứt khoát rằng, luận điểm coi tham nhũng là “căn bệnh kinh niên” của chế độ xã hội chủ nghĩa, của chế độ một đảng cầm quyền và “chế độ một đảng không chống được tham nhũng” là hoàn toàn sai cả về lý luận và thực tiễn. Thực tiễn ở nước ta cũng cho thấy, ngay từ những ngày đầu thành lập nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết liệt lên án những biểu hiện của sự tha hóa quyền lực nhà nước trong không ít cán bộ, đảng viên có chức, có quyền. Người coi tham ô, tham nhũng là thứ “giặc nội xâm”. Người viết: “Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu là kẻ thù của nhân dân, của bộ đội và của Chính phủ”1. Người yêu cầu: “chống tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu cũng quan trọng và cần kíp như việc đánh giặc trên mặt trận”2, phải kiên quyết đấu tranh, quét sạch. Với cương vị là Đảng cầm quyền, trong suốt quá trình lãnh đạo sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta chưa bao giờ buông lỏng nhiệm vụ chống tham nhũng, tiêu cực. Tại Đại hội VII, Đảng ta đã khẳng định tham nhũng, tiêu cực là một trong bốn nguy cơ đe dọa sự tồn vong của chế độ, cản trở tiến trình phát triển của đất nước, cần phải quyết liệt xóa bỏ.

Để khắc phục những sơ hở, bất cập trước đây làm phát sinh tiêu cực, tham nhũng, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện bước đi rất bài bản bằng việc ban hành và đưa vào tổ chức thực hiện nhiều chủ trương, quy định của Đảng, văn bản pháp luật của Nhà nước về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực3, nhằm “nhốt” quyền lực vào trong “lồng” cơ chế. Công tác phát hiện, xử lý tham nhũng đã được lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện một cách quyết liệt, công khai, minh bạch. Theo tổng kết của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, trong giai đoạn 2012 - 2022, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật 2.740 tổ chức đảng, hơn 167.700 cán bộ, đảng viên, trong đó có 7.390 đảng viên bị kỷ luật do tham nhũng; đã kỷ luật 170 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý, trong đó có 04 Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị; 29 Ủy viên Trung ương, nguyên Ủy viên Trung ương; 50 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang. Riêng từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII đến tháng 6/2022, đã thi hành kỷ luật 50 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý (cao gấp 04 lần so với nhiệm kỳ khóa XI và bằng gần một nửa số cán bộ cấp cao bị xử lý của nhiệm kỳ khóa XII); trong đó, có 08 Ủy viên Trung ương, nguyên Ủy viên Trung ương, 20 sĩ quan cấp tướng. Hoạt động phòng, chống tham nhũng từng bước được mở rộng ra cả khu vực ngoài nhà nước và sang cả lĩnh vực chống tiêu cực. Nhờ đó, tình trạng tham nhũng từng bước được kiềm chế, ngăn chặn, góp phần quan trọng giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, củng cố thêm niềm tin của cán bộ, đảng viên và Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước ta.

Những kết quả cụ thể đó đã tạo hiệu ứng tích cực, lan tỏa mạnh mẽ trong toàn xã hội, được cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình, ủng hộ, đánh giá cao; đồng thời, là bằng chứng thuyết phục bác bỏ mọi sự xuyên tạc, chống phá của các thế lực xấu, thù địch. Tham nhũng là một hiện tượng xã hội, gắn liền với quyền lực nhà nước, nên không thể xóa tận gốc tham nhũng trong một thời gian ngắn. Đó là điều mà cả thế giới đều nhận thấy.

Phản bác các luận điệu xuyên tạc chính sách Quốc phòng Việt Nam

Những năm qua, cùng với quan điểm, đường lối quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc được thể hiện nhất quán trong các Văn kiện, Nghị quyết của Đảng, Việt Nam đã công bố Sách trắng Quốc phòng, trong đó nêu rõ chủ trương Bốn khôngđó là: Không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Thể hiện rõ sự công khai, minh bạch tính chất của nền quốc phòng Việt Nam là hòa bình và tự vệ; phương châm nhất quán là kiên quyết, kiên trì đấu tranh giải quyết mọi tranh chấp, bất đồng bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế; tích cực, chủ động ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, chủ động bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Đồng thời, tăng cường hợp tác quốc phòng với các nước để nâng cao khả năng bảo vệ đất nước và giải quyết các thách thức an ninh chung; tăng cường sự hiểu biết và xây dựng lòng tin của các quốc gia khác với Việt Nam.

Tuy nhiên, bất chấp sự thật, các thế lực thù địch đã không từ thủ đoạn nào để công kích, xuyên tạc chính sách quốc phòng Việt Nam. Họ cho rằng, chính sách quốc phòng nói chung, chủ trương “Bốn không” của Đảng, Nhà nước ta nói riêng đã lỗi thời, lạc hậu, không còn phù hợp với tình hình thực tiễn; “không liên minh quân sự”, “không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế” là Việt Nam đã “từ bỏ bạo lực cách mạng trong bảo vệ đất nước”, là “tự trói tay, chân mình”, “tự cô lập mình”, đi ngược lại xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, tước đi cơ hội hợp tác với các nước lớn để tăng cường sức mạnh quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt, trước diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và khu vực Biển Đông, các thế lực thù địch cho rằng, với chính sách quốc phòng hiện nay thì Việt Nam không thể giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Do đó, chỉ có liên minh quân sự với các cường quốc thì Việt Nam mới giữ được chủ quyền, bảo vệ được lợi ích quốc gia - dân tộc, v.v.

Cần khẳng định rõ, những luận điệu trên hoàn toàn vô căn cứ, xuyên tạc trắng trợn chính sách quốc phòng của Việt Nam. Bởi, quan điểm nhất quán xuyên suốt của Đảng, Nhà nước ta là: “Bảo vệ Tổ quốc bằng sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại. Trong đó, sức mạnh bên trong của đất nước, của chế độ chính trị, nền kinh tế và tiềm lực quốc gia là nhân tố quyết định”. Điều 4, Luật Quốc phòng năm 2018 xác định: “Thực hiện đối ngoại quốc phòng phù hợp với đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chống chiến tranh dưới mọi hình thức; chủ động và tích cực hội nhập, mở rộng hợp tác quốc tế, đối thoại quốc phòng, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2019 nêu rõ: “Việt Nam không chấp nhận quan hệ hợp tác quốc phòng dưới bất kỳ điều kiện áp đặt hoặc sức ép nào. Việt Nam tăng cường hợp tác quốc phòng đa phương nhằm góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền quốc gia”. Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Nỗ lực phấn đấu để ngăn ngừa xung đột, chiến tranh và giải quyết các tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển của Tổ quốc”.

Trên thực tế, Việt Nam luôn nỗ lực thực thi đúng chính sách quốc phòng đã đề ra, tích cực thực hiện cam kết trở thành quốc gia thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần duy trì hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới. Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ hợp tác quốc phòng với hơn 100 nước trên thế giới, trong đó có 05 nước Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và tất cả các nước lớn trên nhiều lĩnh vực. Đặc biệt, Quân đội nhân dân Việt Nam đã cử hơn 510 lượt cán bộ, nhân viên với 03 lượt bệnh viện dã chiến và Đội Công binh số 1 đến thực hiện nhiệm vụ tại Phái bộ Nam Sudan, Cộng hòa Trung Phi, khu vực Abyei và Trụ sở Liên hợp quốc, được Liên hợp quốc cùng cộng đồng quốc tế đánh giá cao, tạo uy tín, vị thế, đưa Việt Nam trở thành Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 – 2021 với số phiếu bầu rất cao (192/193 phiếu tán thành). Đây là minh chứng thể hiện rõ mong muốn, thiện chí của Đảng, Nhà nước và Nhân dân Việt Nam trong thực thi chính sách quốc phòng mà không một thế lực nào có thể xuyên tạc, phủ nhận./.

BÁC HỒ THĂM VƯỜN HOA NGHÌN VIỆC TỐT

 Sáng mồng một Tết Đinh Mùi (9-2-1967), Bác Hồ về Tam Sơn gặp mặt đại biểu các dân tộc tỉnh Hà Bắc họp ở chùa Cảm Ứng.

Xe Bác vừa tiến vào đến nơi, Nguyễn Thế Hải học sinh lớp một đang nô đùa cùng bạn, bỗng reo lên:
- Bác Hồ! Bác Hồ!
- Bác Hồ về thăm quê hương nghìn việc tốt.
Cả đám thiếu nhi dừng chơi, xúm lại quây quanh xe Bác.
Đồng chí cần vụ từ trong xe bước ra nhắc nhở các em rồi mở cửa, mời Bác xuống.
Bác tươi cười nhìn các em rồi hỏi:
- Các cháu đang chơi Tết?
- Thưa Bác, vâng ạ!
- Thưa Bác, năm mới, chúng cháu kính chúc Bác mạnh khoẻ, sống lâu!...
Các em đua nhau nói những điều từ lâu mong được thưa với Bác, nhưng hồi hộp quá, nói không được nhiều…
Bác Hồ rất vui. Nghe các em nói xong, Bác bảo:
- Các cháu làm nghìn việc tốt, có nhớ và làm theo những điều Bác dặn không?
- Thưa Bác có ạ! - Nguyễn Thế Hải đứng nghiêm đọc liên hồi 5 điều Bác Hồ dạy như đọc đồng thanh ở lớp.
Tất cả đều cười. Nhưng ai cũng vui vì Hải đã trả lời đúng.
Khi Bác cùng các đồng chí lãnh đạo bước lên chùa. Đội thiếu nhi danh dự đã dâng hoa tặng Bác, Bác nhận bó hoa từ tay Liên đội trưởng Nguyễn Toàn Thắng rồi trao cho đồng chí cần vụ.
Bác hỏi Thắng:
- Cháu học có giỏi không? Có được phần thưởng của Bác không?
- Thưa Bác có ạ. Cháu được nhận phần thưởng của Bác hai lần: một lần một cuốn sổ một lần hai quả cam.
Cháu đã được phần thưởng của Bác, cháu phải giúp đỡ các bạn học thật giỏi, lao động thật giỏi… để nhiều người cùng được phần thưởng của Bác, thế mới tốt.
- Thưa Bác vâng ạ!
ST


THIẾU TƯỚNG NGUYỄN QUANG BÍCH VÀ NHỮNG NGÀY ĐẦU XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG PHÁO CAO XẠ

 Thiếu tướng Nguyễn Quang Bích (1922-2010), nguyên Phó tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân, một trong số những cán bộ đầu tiên được cử đi học về pháo cao xạ tại Trường Sĩ quan Cao xạ Thẩm Dương (Trung Quốc). Sau khi về nước, ông đã trở thành lớp cán bộ đầu tiên góp công xây dựng lực lượng Pháo cao xạ (PCX) của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Chàng trai Hà Nội Nguyễn Quang Bích tham gia cách mạng từ tháng 8-1945. Chưa đầy 1 tháng sau, ông theo đoàn quân Nam tiến vào chiến đấu ở mặt trận Quân khu 5. Giữa năm 1952, ông được cử ra dự hội nghị ở chiến khu Việt Bắc và được cấp trên giữ lại để chuẩn bị cho việc thành lập lực lượng mới. Năm 1953, Tổng Quân ủy có chủ trương thành lập đơn vị PCX, ông và đồng chí Trần Văn Giang được giao phụ trách đoàn 114 cán bộ sang học tập tại Trung Quốc.
Ông kể: “Trong buổi gặp mặt giao nhiệm vụ cho đoàn cán bộ được triệu tập từ các đơn vị trong toàn quân tại chiến khu Việt Bắc, Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái khẳng định, bộ đội cao xạ sẽ là lực lượng quan trọng cùng các đại đoàn bộ binh, đơn vị pháo binh mạnh hạn chế hơn nữa tác dụng của không quân địch.
Trung đoàn pháo cao xạ 37mm đầu tiên của Quân đội ta sẽ gồm 6 tiểu đoàn và phát triển các đại đội trợ chiến của các đại đoàn bộ binh thành các tiểu đoàn phòng không trang bị thống nhất súng máy cao xạ 12,7mm. Chúng tôi - lớp cán bộ đầu tiên vô cùng tự hào khi đề xuất đặt phiên hiệu cho đơn vị mới là 367 đã được cấp trên chấp nhận”.
Sau khi tiến hành các công tác chuẩn bị, ngày 26-1-1953, đoàn lên đường. Lúc này ở Trung Quốc đã có một đoàn 33 người do đồng chí Nguyễn Tâm Trinh phụ trách dự định học về không quân, nhưng do tình hình lúc đó Quân đội ta chưa có điều kiện xây dựng không quân nên các đồng chí này sáp nhập cùng đoàn của đồng chí Nguyễn Quang Bích để học PCX. Một thời gian sau, lại có thêm một đoàn nữa do đồng chí Đinh Thịnh làm trưởng đoàn sang sáp nhập vào là một đoàn.
Hướng về Tổ quốc thân yêu, những chiến sĩ cao xạ đầu tiên tích cực học tập, rèn luyện chờ ngày về nước để xây dựng lực lượng mới. Trong lúc đó ở Việt Nam, ngày 1-4-1953, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã ký quyết định thành lập Trung đoàn 367-Trung đoàn PCX đầu tiên của Quân đội ta. Theo quyết định, Trung đoàn gồm 6 tiểu đoàn hỏa lực mang phiên hiệu 381, 383, 385, 392, 394, 396, mỗi tiểu đoàn có 3 đại đội PCX 37mm (12 khẩu) và 1 đại đội súng máy 12,7mm (12 khẩu). Trung đoàn còn có một tiểu đoàn lái xe kéo pháo, xe vận tải và thợ sửa chữa. Một thời gian ngắn sau đó, 2.700 cán bộ chiến sĩ (có 350 đảng viên) của Trung đoàn 367 mới thành lập đã chia thành nhiều khối bí mật hành quân sang Trung Quốc.
Thiếu tướng Nguyễn Quang Bích kể: “Sau khi hoàn thành khóa đào tạo ngắn, đoàn của chúng tôi được biên chế vào Trung đoàn pháo cao xạ 367 từ trong nước sang. Ngày 15-5-1953, Trung đoàn bắt đầu bước vào khai giảng huấn luyện chuyển binh chủng. Sau khi khai giảng huấn luyện chúng tôi được học nguyên tắc chiến thuật của đại đội, tiểu đoàn và trung đoàn PCX trong chiến đấu độc lập, chiến đấu hiệp đồng, chi viện và bảo vệ bộ binh trong chiến đấu tiến công và phòng ngự.
Tài liệu học tập dựa vào giáo trình huấn luyện của Hồng quân Liên Xô và kinh nghiệm tác chiến phòng không của giải phóng quân Trung Quốc. Việc học tập lúc đó rất khó khăn với chúng tôi vì mọi người có trình độ văn hóa không đồng đều, nhiều đồng chí mới qua lớp “xóa mù”. Đã xuất hiện tình trạng một số đồng chí lo lắng, nảy sinh vấn đề về tư tưởng. Vì vậy, Đảng ủy, Ban Chỉ huy Trung đoàn đã họp, triển khai nhiều biện pháp phong phú, cụ thể phù hợp với đối tượng học tập. Các giáo viên sử dụng nhiều tranh vẽ, mô hình và vật thực làm cho buổi học sinh động, dễ hiểu, chú trọng hướng dẫn học viên thực hành thao tác. Tôi còn nhớ ngày 10-6, Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi thư động viên cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 367. Một tháng sau, trong dịp sang làm việc ở Trung Quốc đồng chí Nguyễn Chí Thanh, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị đã đến thăm và kiểm tra việc học tập của chúng tôi...”.
Tháng 11-1953, Đại tướng, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp điện triệu tập cán bộ Trung đoàn pháo cao xạ 367 về Bộ nhận nhiệm vụ. Đảng ủy và Ban Chỉ huy Trung đoàn đã cử Trung đoàn phó, Tham mưu trưởng Nguyễn Quang Bích, Tham mưu phó Hoàng Hoa Nam và một số cán bộ tác chiến về nước báo cáo với Tổng Quân ủy, Bộ Tổng tư lệnh kết quả huấn luyện và nhận nhiệm vụ về tham gia chiến đấu trong chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954 .
Tại mặt trận Điện Biên Phủ, những ngày đầu tháng 12 1953, khi lực lượng địch chưa được tăng cường, trận địa phòng ngự mới xây dựng, Bộ Chính trị và Tổng Quân ủy hạ quyết tâm tập trung lực lượng tiêu diệt quân địch theo phương châm “đánh nhanh, giải quyết nhanh”. Ngày 21-12-1953, Đại tướng Võ Nguyên Giáp trực tiếp giao nhiệm vụ cho Đại đoàn công pháo 351 và Trung đoàn PCX 367 tham gia chiến dịch. Cuộc hành quân đưa những khẩu pháo nặng hơn 2 tấn qua những đèo Lũng Lô, Pha Đin, suối Nà Nham, đỉnh Pha Sông, vực Nậm Khô Hu, cánh đồng Nà Hi, Bản Tấu… Những ngày vượt đèo cao, suối sâu, vực thẳm ấy mãi là bản hùng ca của bộ đội cao xạ mà không bao giờ Thiếu tướng Nguyễn Quang Bích có thể quên.
“Ngày 25-1-1954, chúng tôi đã đưa được một đại đội pháo vào bố trí trận địa đúng theo kế hoạch của trên giao. Nhưng lúc này địch tăng cường lực lượng lên Điện Biên Phủ, tổ chức hệ thống phòng thủ khá vững chắc. Thấy tình hình không thể “đánh nhanh, giải quyết nhanh", Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã quyết định thay đổi phương châm chiến dịch sang “đánh chắc, tiến chắc”. Đây là một quyết định sáng suốt, chính xác, bảo đảm cho chiến thắng sau này. Nhưng với bộ đội cao xạ lúc đó việc rút pháo ra là một gian nan thử thách. Có thể nói cuộc kéo pháo bằng tay trong chiến dịch Điện Biên Phủ là một sự kiện phi thường của Quân đội nhân dân Việt Nam” - Thiếu tướng Nguyễn Quang Bích tự hào nhớ lại.
Chiến dịch Điện Biên Phủ chính thức bắt đầu ngày 13-3-1953. Lúc này mới 32 tuổi, đồng chí Nguyễn Quang Bích đã chỉ huy một trung đoàn PCX lần đầu xuất quân với hai tiểu đoàn (383 và 394). Mặc dù có số lượng PCX ít ỏi, đối đầu với hàng trăm máy bay các loại của thực dân Pháp, nhưng ngay từ đợt 1 của chiến dịch, 2 hai gọng kìm của 2 tiểu đoàn PCX đã thành công kẹp và khống chế địch ở trung tâm Mường Thanh.
Trong ký ức rất nhiều đồng đội của ông, suốt chiến dịch, Trung đoàn phó Nguyễn Quang Bích luôn là người chỉ huy xuất sắc trong mọi thời điểm. Khi cần tháo gỡ những nút thắt khó khăn nhất, mở đường cho PCX lập công, ông đã tỏ rõ được bản lĩnh và khả năng xử lý tài tình. Thành công của ông không chỉ nằm ở việc giải quyết tốt những vấn đề về chiến thuật, kỹ thuật mà còn ở thái độ điềm tĩnh, cẩn trọng và cách hành xử độ lượng với cán bộ, chiến sĩ thuộc quyền. Trải qua 55 ngày đêm ở chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử, ông cùng đồng đội ở Trung đoàn 367-đơn vị nòng cốt của lực lượng phòng không chiến dịch đã bắn rơi hơn 50 máy bay và bắn bị thương gần 120 máy bay khác của thực dân Pháp./.
ST




“HÃY CHIẾN ĐẤU NHƯ NHỮNG NGƯỜI CỘNG SẢN!"

 “Có lớp người nào mang nhiều khát vọng như lớp người chúng ta đang sống trên chiến trường đánh Mỹ hôm nay... Hãy chiến đấu như những người cộng sản! Lời chúc của em cũng là lời thề của chị!”. Đó là tâm tình qua lá thư gửi lại của nữ chiến sĩ đã hiến trọn tuổi xuân cho cách mạng...

“Bức thư này chị Mai viết cho tôi trước ngày bước vào trận chiến đấu mới. Tôi đã giữ nó hơn 50 năm”, cựu chiến binh (CCB) Trần Chiến Chinh nói và đưa cho tôi xem lá thư của liệt sĩ Nguyễn Thị Xuân Mai, sinh năm 1948; quê ở huyện Điện Bàn (nay là thị xã Điện Bàn), tỉnh Quảng Nam. Ông kể: “Chị em chúng tôi biết nhau từ cuối năm 1968, khi chị từ Bệnh xá 79 của Mặt trận 44-Quảng Đà chuyển về Trung đội nữ Lê Thị Hồng Gấm, Đại đội 2-Khu 2 Hòa Vang. Tôi lúc đó là trinh sát của Huyện đội Hòa Vang, đến cuối năm 1970 cũng về đây công tác”.
Hai chị em rất thân nhau. Những lần trung đội nữ thực hiện nhiệm vụ khó khăn hoặc đi chuẩn bị chiến trường, chỉ huy đại đội đều phân công Trần Chiến Chinh đi cùng. Vì vậy, thường có dịp đi công tác cùng nhau, họ không quên nói về ước mơ sau ngày quê hương giải phóng. Chị Xuân Mai cũng như bao thanh niên khác cùng thế hệ, có ước mơ thật giản dị: “Chị ước sao tuổi xuân cứ kéo dài thêm nữa để có thể sau chiến tranh tiếp tục vào trường thực hiện cho trọn vẹn ước vọng của đời mình”.
Nhắc đến người nữ trung đội trưởng năm ấy, biết bao kỷ niệm lại ùa về. Ông Chinh không thể nào quên lần đi trinh sát mục tiêu khu đồn Cấm Chu Hương (nay thuộc xã Hòa Phong, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng) đêm 7-12-1972. Chuẩn bị chiến trường xong, về đến khe An Châu (Hòa Phong, Hòa Vang), ông kiệt sức nằm thiếp đi trên bờ ruộng. Lúc tỉnh dậy, ông ngạc nhiên nhìn thấy chiếc khăn voan trùm đầu của chị Xuân Mai dùng để chui qua hàng rào khỏi bị quấn tóc đang bọc kín đôi bàn chân giá lạnh của mình. Ông càng ngạc nhiên hơn nữa khi chị đang ủ đôi chân đó lên lòng chị. Đại đội trưởng Nguyễn Văn Thự thấy lạ hỏi: “Mi làm chi rứa?”. Chị Mai trả lời: “Thằng Chinh kiệt sức rồi. Ủ ấm cho nó mới có sức mà đi”...
Đêm 25-1-1973, đơn vị tổ chức hái hoa dân chủ để hôm sau Trung đội 2 lên đường chiến đấu. Chính trị viên Đại đội Lê Phú Tháo động viên: “Ngày mai, đồng chí Chinh cùng Trung đội 2 đi trước. Vài ngày nữa chúng ta cùng ra trận, kẻ đi trước, người đi sau, đêm nay chúng ta cùng hứa với quê hương mình: Đại đội 2 sẽ kiên cường trên chốt thép!”. Sáng hôm sau, Trần Chiến Chinh đi cùng trung đội sang cánh tây, là tuyến phòng thủ phía Tây của địch để bảo vệ sân bay Đà Nẵng. Sau đó, các bộ phận còn lại lần lượt hành quân theo mục tiêu đã định. Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt, ta và địch giành giật nhau từng tấc đất, góc hào.
Chiều 29-1-1973, Trần Chiến Chinh nhận được tin tổ giữ chốt của chị Xuân Mai đã chiến đấu đến viên đạn cuối cùng và hy sinh anh dũng. Trung đội 2 ở cánh tây vẫn kiên cường giữ chốt trong suốt dịp Tết Nguyên đán Quý Sửu 1973. Sáng 25-2-1973, Trần Chiến Chinh có lệnh về căn cứ. Lúc đi qua hang đá trước đây đơn vị từng trú ẩn, ông bùi ngùi chạy vào chỗ chiếc sạp thường ngày của chị Xuân Mai. “Trên cái gùi bằng vải kate màu xám, chị úp cái chén ăn cơm bằng sành. Bàn tay tôi run run mở dây buộc gùi, hai bông hoa mua đã héo chị đặt bên trên và một tờ giấy học trò gấp ngay ngắn bên ngoài bọc một tờ giấy pơ-luya màu hồng”, ông Chinh xúc động kể.
Miền Nam giải phóng, bước chân người lính trận Trần Chiến Chinh tiếp tục hòa vào đoàn quân của Sư đoàn 307 (Quân khu 5) làm nghĩa vụ quốc tế ở Campuchia. Lá thư của Trung đội trưởng, liệt sĩ Nguyễn Thị Xuân Mai vẫn luôn được ông ép chặt trong những cuốn nhật ký chiến trường như một bảo vật. Ngày 29-1-2019, tức là sau 46 năm, nhân dịp tổ chức lễ tưởng niệm Trung đội nữ Lê Thị Hồng Gấm và ra mắt phim tài liệu “Chị tôi người chiến sĩ” mà ông tham gia sản xuất, CCB Trần Chiến Chinh mới chính thức công bố lá thư của liệt sĩ Xuân Mai. Tình chị em, tình đồng chí, đồng đội đã thấm đượm trong ông hơn nửa thế kỷ. Đến nay, ở tuổi 71, nhận thấy không thể giữ mãi lá thư, CCB Trần Chiến Chinh có nguyện vọng hiến tặng bảo tàng nhằm góp phần giáo dục truyền thống đấu tranh cách mạng cho thế hệ sau. Địa chỉ nhà riêng của ông: Số 15 Nguyễn Cư Trinh, phường Hòa Cường Bắc, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng; điện thoại: 0903.527.595.
ST

NGÀY ĐOÀN TỤ

 Anh Lê Văn Thức bị địch đày ra Côn Đảo và kết án tử hình, xúc động gặp lại người mẹ thân yêu trong ngày vui chiến thắng.

Tấm ảnh “Mẹ con ngày đoàn tụ” của nhiếp ảnh gia Lâm Hồng Long đã đi vào lịch sử khi ghi lại khoảnh khắc xúc động của người tử tù Lê Văn Thức đang ôm người mẹ của mình là bà Trần Thị Bính. Ngày 30/4/1975 là ngày thống nhất đất nước, cũng là ngày đoàn tụ của hàng triệu người Việt Nam đã phải xa cách do chiến tranh ./.
ST


ANH HÙNG TUỔI THIẾU NIÊN NGUYỄN BÁ NGỌC

  Nguyễn Bá Ngọc là học sinh lớp 4B (năm học 1964- 1965) trường phổ thông cấp I xã Quảng Trung. huyện Quảng Xương tỉnh Thanh Hóa.

Năm 1964, giặc Mỹ vừa ồ ạt đưa quân vào miền Nam, vừa cho máy bay leo thang ra đánh phá các tỉnh miềm Bắc nước ta . Chúng ném bom cả trường học và bệnh viện . Nguyễn Bá Ngọc và các bạn phải đi học trong cảnh sơ tán dưới hầm hào.
Ngày 04/4/1965 máy bay Mỹ đã tới ném bom, bắn phá xã Quảng Trung. Lúc ấy người lớn đã ra đồng làm việc , trong nhà chỉ còn có trẻ em . Nghe tiếng máy bay , Ngọc đã kịp chạy xuống hầm và bom đã rơi xuống bên cạnh nhà Ngọc . ở dưới hầm, Ngọc nghe thấy có tiếng khóc to, bên nhà Khương, Khương là bạn của Ngọc. Không chút ngần ngừ Ngọc nhào lên, chạy sang nhà Khương thì thấy bạn của mình đã bị thương. Các em nhỏ của Khương và Toanh, Oong, Đơ đang kêu khóc. Ngọc vội vừa bế vừa dìu 2 em Oong, Đơ xuống hầm . Ngọc bò gần tới nơi trú ẩn thì giặc lại thả bom bi và em đã bị 1 viên bi bắn vào lưng rất hiểm. Cứu được 2 em nhỏ rồi Ngọc mới tái mặt, lả đi, vết thương quá nặng, Ngọc đã hy sinh vào lúc 2 giờ sáng ngày 5/4/1965 ở bệnh viện,.
Noi gương quên mình cứu em nhỏ, thiếu nhi cả nước ta đã học tập và làm theo Nguyễn Bá Ngọc. Ngày nay ấy và năm sau đã xuất hiện : Trần Thị Miêm, Trần Thị Vệ (Thanh Hóa). Trần Quốc ý (Nghệ Tĩnh)... Đã liên tiếp dũng cảm cứu bạn, cứu em nhỏ trong bom đạn của địch./.
ST


SỨC NÓNG THÔNG TIN VÀ HẬU QUẢ KHÓ LƯỜNG

 

Mạng xã hội là nơi cung cấp, khai thác, phản hồi thông tin nhanh chóng hiệu quả. Đồng thời, cũng là nơi để các đối tượng chống phá lợi dụng nhằm làm nóng thông tin mà điển hình gần đây nhất như vụ giáo viên cắt tóc nữ sinh; việc Hiệu trưởng của một trường cấp tiểu học tác động vật lý vào mặt giáo viên hoặc như việc “bơm nịnh nhau” của các “thợ diễn” Gameshow đã gây bức xúc trong cộng đồng. Phải khẳng định, hành động cắt tóc học sinh, tác động vật lý vào mặt giáo viên trước tập thể trường, lớp là việc làm rất đáng tiếc ở môi trường giáo dục và sự việc của các thợ diễn cũng đã gây ra nhiều điều tiếng chẳng hay ho gì. Tuy nhiên, khi tiếp cận thông tin hoặc tham gia bình luận một vấn đề nào đó. Chúng ta, đều phải tìm hiểu kỹ và có cái nhìn khách quan, nhiều góc độ; đưa ra những nhận định cụ thể, đúng đối tượng tránh việc “đánh đồng” làm ảnh hưởng đến tập thể, cộng đồng khiến dư luận thêm hoang mang, gây khó cho việc xử lý của các cơ quan chức năng liên quan.  


Từ vụ việc giáo viên cắt tóc học sinh tại lớp học. Nhìn từ góc độ Nhà trường cho thấy. Đa số các trường đều đã có những quy định riêng để duy trì nền nếp trường lớp. Việc quy định Học sinh không được sử dụng điện thoại, không được nhuộm tóc, không được để tóc bổ đôi, không được hút thuốc lá điện tử, không được xăm trổ... Đó là quy định rất cần thiết để môi trường giáo dục thực sự là nơi phát triển Nhân - Đức - Trí - Thể - Mĩ mà mỗi học sinh bắt buộc phải thực hiện cũng như mong muốn của các bậc phụ huynh khi gửi gắm con em mình. 


Xét về góc độ gia đình. Trước tiên, trên cương vị bậc làm cha, làm mẹ phải tự soi, tự sửa lại mình. Soi lại cách dạy con; Soi lại việc khai thác, sử dụng công nghệ của con mình; Soi lại trách nhiệm, vai trò phối kết hợp cùng nhà trường trong việc quản lý, dạy bảo thế hệ trẻ. Từ đó, xem mình đã cùng nhà trường làm tốt các vấn đề đó chưa? còn vướng mắc ở đâu để cùng bàn và đưa ra phương pháp quản lý thuyết phục các cháu đang ở độ tuổi "muốn thể hiện mình". Chỉ có như vậy, mỗi đứa trẻ sau khi hoàn thành việc học tập để bước ra đời sống xã hội mới có được nền móng, kiến thức toàn diện, phát triển vững chắc trước muôn vàn cám dỗ cũng như khả năng trụ vững trước những sóng gió cuộc sống.  


Thuật toán cho phép các nền tảng mạng xã hội tự tổng hợp, tạo sức lan từ mỗi sự kiện hoặc vấn đề nóng nếu nhiều người cùng tương tác. Do vậy, nếu chúng ta tiếp cận thông tin thiếu kiểm chứng, chủ quan, muốn thể hiện mình, muốn tỏ ra “ có đẳng cấp” cũng đồng nghĩa với việc tiếp tay cho vấn đề đó lan nhanh hơn, đi xa hơn. Từ đó, khiến sự việc khó kiểm soát, tạo dư luận không tốt cho cộng đồng hoặc gây khó cho công tác xử lý. 


Cắt tóc học sinh tại lớp, tác động vật lý vào mặt giáo viên thuộc cấp là việc làm thiếu tính giáo dục. Bởi, nếu tách từ Giáo Dục thành 2 chữ riêng biệt thì chữ Giáo có nghĩa là dạy dỗ, chỉ bảo, hướng dẫn. Còn chữ Dục của từ giáo dục có nghĩa là chăm sóc, nuôi nấng, sinh thành. Như vậy việc cắt tóc học sinh trước mặt cả lớp là việc làm thiếu ý nghĩa. Cho con mang điện thoại dùng trong giờ học; nhuộm tóc xanh, tóc đỏ; xăm trổ; hút hít; tác phong nhem nhuốc đến trường thì trách nhiệm đó thuộc về gia đình. Gia đình chưa cắt nghĩa được chữ Dục. Giáo dục muốn phát triển phải có sự vào cuộc của cả Gia đình - Nhà trường - Xã hội. Chỉ có như vậy mới đào tạo được những con người “vừa hồng, vừa chuyên”, mới có những thành quả giáo dục đạt chất lượng cao. Cũng như thực tế, trong các gameshow truyền hình hiện nay, rất nhiều người hoạt động trong lĩnh vực giải trí luôn xưng mình là nghệ sỹ, khiến cho khái niệm này bị lẫn lộn giá trị và việc tôn vinh lẫn nhau của một số người bị cộng đồng cho là cách làm, cách PR thô thiển.


Thực tế cho thấy, hiện nay rất nhiều cơ sở giáo dục còn để học sinh thản nhiên hút thuốc lá điện tử trong lộ giới mình quản lý, nhiều học sinh còn mang tệ nạn xã hội vào học đường, nhiều người hoạt động trong lĩnh vực giải trí có những phát ngôn thiếu chuẩn mực, bậy bạ trước công chúng nhưng cả Nhà trường và cơ quan quản lý văn hóa các cấp yếu kiểm soát, thiếu xử lý kịp thời. Hay, vì lý do nào đó mà sợ ảnh hưởng đến thành tích chung nên chưa đưa ra biện pháp giải quyết mang tính thống nhất, toàn diện, triệt để dẫn đến hệ quả khó lường, gây bất bình trong công chúng. Tình trạng trên nếu để kéo dài sẽ dẫn đến việc "tự hòa tan" trước luồng văn hóa ngoại lai, lệch chuẩn với giáo dục, xa rời văn hóa truyền thống. 


Thành quả phát triển công nghệ giúp mọi người tiếp cận thông tin nhanh hơn, giao lưu rộng hơn và trách nhiệm đấu tranh với những hành động, phát ngôn gây sốc, gây nhiễu cộng đồng phải là trách nhiệm của tất cả mọi người chứ không phải của riêng ai. Mỗi người đóng góp một lời bình luận có tính xây dựng, mang tính xác nhận, định hướng; thể hiện rõ tính đấu tranh với những cái xấu, việc làm chưa đúng là hành động cần thiết góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN cả trên đất liền, trên không, trên biển và cả trên không gian mạng xã hội./.

LỜI DẠY NGÀY NÀY NĂM XƯA: NGÀY 31 THÁNG 3 NĂM 1959!

         “Không được chủ quan, thỏa mãn; phải đoàn kết nội bộ; đoàn kết quân dân; giữ gìn vũ khí, trang bị, máy móc”.
     Hơn 3 năm sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi, miền Bắc đã có nhiều thành tựu trong xây dựng kinh tế, phát triển văn hóa - xã hội. Đời sống của cán bộ, chiến sĩ, nhân dân được nâng cao, chính quyền nhân dân được củng cố. Trong bối cảnh hòa bình đó, tâm lý của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, nhân dân nói chung; của cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân nói riêng có sự buông lỏng, chủ quan, thỏa mãn. Công tác xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng ở một số đơn vị, địa phương có biểu hiện lơi lỏng. Ngày 31 tháng 3 năm 1959, sau khi Cục Hải quân được thành lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm Trường Huấn luyện Hải quân. Tại đây, nói chuyện với lãnh đạo, chỉ huy, cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên trong Cục, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Không được chủ quan, thỏa mãn; phải đoàn kết nội bộ; đoàn kết quân dân; giữ gìn vũ khí, trang bị, máy móc”.
     Lời căn dặn của Người không chỉ dành riêng cho cán bộ, chiến sĩ của Cục Hải quân mà là lời căn dặn, nhắc nhở chung cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta không một phút được lơi lỏng, chủ quan, thỏa mãn với những thành tựu bước đầu mới đạt được; phải không ngừng tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, đặc biệt củng cố mối quan hệ máu thịt giữa quân đội với nhân dân. Riêng đối với Quân đội, cần tiếp tục đẩy mạnh công tác huấn luyện, giữ gìn và đổi mới vũ khí, trang thiết bị; nhanh chóng trưởng thành về mọi mặt, đủ sức bảo vệ vững chắc miền Bắc xã hội chủ nghĩa, đồng thời sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
     Hiện nay, đất nước ta đang ở trong giai đoạn hòa bình, phát triển ổn định; tuy nhiên tình hình thế giới, khu vực vẫn tồn tại những diễn biến phức tạp; tranh chấp lãnh thổ, tranh chấp chủ quyền biển, đảo còn diễn ra gay gắt... Trước tình hình đó, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta lại càng phải ghi nhớ lời dạy của Bác, ra sức củng cố khối đại đoàn kết toàn dân; đặc biệt chú ý giữ gìn, phát triển mối quan hệ giữa Đảng, quân đội với nhân dân; kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng kinh tế với củng cố quốc phòng; không ngừng ra sức chăm lo, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam ngày càng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại, sẵn sàng chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược, bảo vệ vững chắc chế độ, bảo vệ toàn vẹn chủ quyền, lãnh thổ của đất nước. Đối với lãnh đạo, chỉ huy, cán bộ và chiến sĩ các đơn vị trong toàn quân cần luôn giữ gìn đoàn kết nội bộ; nghiêm túc thực hiện tốt công tác huấn luyện; bảo quản, giữ gìn vũ khí trang bị, luôn bảo đảm sẵn sàng chiến đấu trong mọi tình huống./.
Môi trường (Yn) ST.

Bộ đội Biên phòng đấu tranh, ngăn chặn tội phạm mua bán người qua không gian mạng

 


 

Việt Nam có tỷ lệ dân số sử dụng mạng internet rất cao. So với năm 2021, số người sử dụng mạng internet tại Việt Nam đã tăng thêm năm triệu người vào năm 2022. Theo thống kê đầu năm 2022, Việt Nam có gần 80 triệu người sử dụng mạng xã hội, chiếm hơn 78% dân số, trong đó có tới 97,6% số người tham gia sử dụng Facebook, Zalo, Wechat... Đáng chú ý, trang mạng xã hội này được đông đảo phụ nữ tin dùng. Mặt tích cực của mạng xã hội đã đem tới nhiều cơ hội để phụ nữ tiếp cận thông tin nâng cao kiến thức, kỹ năng. Tuy nhiên, bên cạnh đó, mạng xã hội cũng mang tới nhiều hệ lụy mà một trong số đó là phụ nữ có thể trở thành nạn nhân của nhiều loại hình tội phạm, trong đó có tội phạm mua bán người.

Việt - Trung khởi động tuyến 'Hai quốc gia - Sáu điểm đến'

 Bốn tỉnh của Việt Nam cùng Cục du lịch châu Hồng Hà của Trung Quốc khởi động lại tuyến "Hai quốc gia - Sáu điểm đến" sau thời gian trì hoãn vì dịch Covid-19.

Nhận diện và đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng trong Quân đội hiện nay

 


 

Chưa bao giờ cuộc đấu tranh phản bác các quan điểm, luận điệu sai trái thù địch; bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lại có tính thời sự, cấp thiết và nống bỏng như hiện nay. Vì bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là bảo vệ những giá trị lịch sử, bản chất cách mạng, khoa học, nhân văn của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ Cương lĩnh, đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản; chính sách, pháp luật của Nhà nước, làm cho hệ tư tưởng của Đảng cầm quyền thấm sâu vào đời sống chính trị, tinh thần của xã hội. Bởi vậy, tăng cường đấu tranh phản bác các quan điểm, luận điệu sai trái thù địch chống phá Đảng, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình hiện nay là vấn đề quan trọng cần được đầu tư toàn diện.

PHÒNG, CHỐNG ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN “XÂM LĂNG VĂN HÓA” CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH TRONG TÌNH HÌNH MỚI


          “Xâm lăng văn hóa” thực chất là một hình thức, thủ đoạn trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch nhằm chống phá cách mạng Việt Nam trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa; hòng làm băng hoại, lệch chuẩn hệ giá trị văn hóa xã hội chủ nghĩa và chuẩn mực con người Việt Nam, dẫn tới làm thay đổi bản chất chế độ, làm mất vai trò lãnh đạo của Đảng. Trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ở thời kỳ cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay, âm mưu, thủ đoạn “xâm lăng văn hóa” ngày càng trở nên tinh vi, xảo quyệt và rất nguy hại, đòi hỏi chúng ta phải luôn nêu cao cảnh giác và tích cực, chủ động đấu tranh phòng, chống.

CẦN ĐÀO THẢI CÁN BỘ SỢ SAI, CHỜ THỜI

 

Song hành với kết quả phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, gần đây trong bộ máy công quyền xuất hiện tình trạng cán bộ trì trệ, né trách nhiệm, không dám làm, sợ làm sai, sợ vi phạm pháp luật. Việc này ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của xã hội, khiến uy tín của cơ quan công quyền bị giảm sút.

QUÁN TRIỆT THỰC HIỆN CÔNG TÁC DÂN TỘC CỦA ĐẢNG

 

Trong văn kiện Đại hội XIII của Đảng; Kết luận số 65-KL/TW, ngày 30-10-2019, của Bộ Chính trị “Về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác dân tộc trong tình hình mới về thực hiện có hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng về công tác dân tộc; cần tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục nhận thức về thực hiện chính sách dân tộc cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân về các Nghị quyết của Đảng về vấn đề dân tộc.

Tếp tục đẩy mạnh công tác xóa đói giảm nghèo bền vững trên địa bàn các dân tộc. Huy động mọi nguồn lực để phát triển kinh tế phù hợp với đặc điểm, điều kiện từng huyện, từng xã đảm bảo cho đồng bào dân tộc thiểu số khai thác được thế mạnh của địa phương nhằm làm giàu cho gia đình và xã hội. Xây dựng kết cấu hạ tầng mà trước hết là giao thông nông thôn, công trình thủy lợi, nước sinh hoạt, điện thắp sáng và các công trình phúc lợi công cộng khác. Phát triển nông lâm nghiệp ứng dụng công nghệ cao, công nghiệp hóa hiện đại hóa gắn với xây dựng nông thôn mới. Khai thác tiềm năng lợi thế về đất đai, khí hậu, khoáng sản, danh lam thắng cảnh, các thế mạnh của từng địa phương trong phát triển kinh tế xã hội.

Thực hiện tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ là người dân tộc thiểu số cho từng vùng, từng dân tộc. Trong những năm trước mắt, cần tăng cường lực lượng cán bộ có năng lực, phẩm chất tốt đến công tác ở vùng dân tộc, nhất là các địa bàn xung yếu về chính trị, an ninh, quốc phòng; coi trọng việc bồi dưỡng, đào tạo thanh niên sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự làm nguồn cán bộ bổ sung cho cơ sở; nghiên cứu sửa đổi tiêu chuẩn tuyển dụng, bổ nhiệm và các cơ chế, chính sách đãi ngộ cán bộ công tác ở vùng dân tộc và miền núi, nhất là những cán bộ công tác lâu năm ở miền núi, vùng cao.

Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, phát huy vai trò người uy tín trong đồng bào để cùng tham gia xây dựng hệ thống chính trị cơ sở, tham gia công tác xóa đói giảm nghèo và theo dõi, giám sát việc thực hiện chính sách dân tộc. Tăng cường công tác vận động quần chúng trong việc bảo đảm thực hiện tốt chính sách dân tộc trong giai đoạn mới.

 

NGUYÊN NHÂN CHỦ QUAN ĐẾN TỰ DIỄN BIẾN, TỰ CHUYỂN HÓA

 

Hệ thống chính trị nước tа đã bộc lộ những hạn chế, bất cập, năng lực lãnh đạоcủа Đảng ở một số nơi có dấu hiệu giảm sút, hоạt động củа hệ thống bộ máy nhà nước chưа đáp ứng được yêu cầu quản lý trướcnhững yêu cầu đòi hỏi củа nhiệm vụ chính trị mới, những thаy đổi nhаnh chóng về các điều kiện kinh tế, xã hội trоng nước, những diễn biến phức tạp củа tình hình thế giới và tính phức tạp củа các quаn hệ đối ngоại. Đây chính là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những diễn biến phức tạp trоng xã hội, tạо điều kiện chо các thế lực thù địch tiến hành kích động, triển khаi những hoạt động tinh vi để thúc đẩy quá trình “tự diễn biến” và làm suy yếu nội bộ nước tа.

Dо tác động tiêu cực củа cơ chế thị trường, dо kém tu dướng rèn luyện bản lĩnh chính trị nên một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên ở các cấp, các ngành, các địа phương đã thоái hóа, biến chất, có hiện tượng chạy chức, chạy quyền, trаnh giành địа vị, thаm nhũng, sách nhiễu nhân dân, vị phạm pháp luật và chuẩn mực văn hóа, đạо đức, trở thành những tấm “gương xấu” làm vẩn đục hình ảnh cао đẹp củа Đảng, củа chính quyền nhân dân và các đоàn thể chính trị, xã hội, tạо phản ứng tiêu cực, thúc đẩy sự “tự diễn biến”, “tự chuyển hóа” trоng nội bộ. Tình trạng cán bộ, đảng viên, nhất là những người giữ vị trí lãnh đạо nói không đi đối với việc làm, cоi thường Nghị quyết, Chỉ thị củа Đảng, pháp luật củа Nhà nước, thаm ô, tư lợi, bè cánh... đã tác động tiêu cực đến tư tưởng, hành động củа cán bộ, đảng viên, làm xuất hiện những quаn điểm, đánh giá lệch lạc, cоi thường đường lối chính sách củа Đảng, pháp luật củа Nhà nước.

Công tác giáо dục, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, đảng viên có một số đơn vị chưа thường xuyên, chưа phù hợp và tương xứng với điều kiện hiện tại và chưа mаng lại hiệu quả cần thiết, dẫn tới một bộ phận cán bộ, đảng viên có nhận thức nоn kém về chính trị, không đứng vững trước những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch. Việc thiếu tu dưỡng, rèn luyện, không quаn tâm việc học tập nâng cао trình độ, hоаng mаng, dао động và mất định hướng trước những thách thức, khó khăn và những hiện tượng phức tạp nảy sinh trоng xã hội, đã làm một bộ phận cán bộ đảng viên sа sút niềm tin, xuất hiện tâm lý tư tưởng tiêu cực.

KẺ THÙ LỢI DỤNG TÔN GIÁO ĐỂ CHỐNG PHÁ ĐẢNG

 

Trong xu thế hội nhập và quá trình tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với nền kinh tế thị trường; chúng ta đã đạt được những thanh tựu to lớn: Nền kinh tế phát triển, ổn định chính trị, đời sống Nhân dân được cải thiện, lòng tin của Nhân dân với Đảng được củng cố. Vị trí, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Đất nước vẫn đứng trước những nguy cơ thách thức mới. Với bốn nguy cơ mà Đảng ta đã xác định vẫn còn nguyên giá trị và xuất hiện các nguy cơ mới. Các yếu tố gây mất ổn định từ bên trong đang nẩy sinh và đặt ra vấn đề xác định đối tượng trong nước. Lợi dụng sự yếu kém trong quản lý nhà nước, tệ tham nhũng đang hoành hành, sự suy thoái đạo đức trong một bộ phận không nhỏ của cán bộ đảng viên có chức có quyền đang gây mất niềm tin trong một bộ phận quần chúng Nhân dân với Đảng, hiện tượng khiếu kiện đông người có xu hướng gia tăng, có nguy cơ bị địch lợi dụng để kích động biểu tình.

Lợi dụng chính sách mở cửa của ta, các tổ chức tình báo nước ngoài đang núp danh các tổ chức kinh tế và các tổ chức phi chính phủ xâm nhập để phá hoại nước ta từ bên trong, móc nối, chỉ đạo các hoạt động chống phá trong nước. Trong khi đó, một số phần tử cơ hội, bất mãn, bọn ngụy quân nguy quyền từ thời chế độ cũ trong nước được sự hà hơi tiếp sức từ nước ngoài đang tìm cách nhen nhóm, hình thành các tổ chức đối lập, ra sức chống Đảng, chống chế độ, tìm cách hạ thấp, làm mất vai trò lãnh đạo của Đảng ta. Với các thủ đoạn: Viết bài gửi ra nước ngoài, tán phát tài liệu chống Đảng, bôi nhọ lãnh tụ, chúng đã và đang gây ra không ít khó khăn cho Đảng ta. Bọn phản động núp bóng các tổ chức tôn giáo đang tìm cách khôi phục hội đoàn bất hợp pháp, hô hào liên tôn và dựa vào các tổ chức quốc tế, cơ quan thường trú Mỹ tại Việt Nam để chống phá, khiêu khích, vu cáo chính sách của nhà nước ta.

Thường xuyên tiếp xúc với các tổ chức “nhân quyền” để tố cáo ta vấn đề dân tộc, tôn giáo đang cỏ xu hướng diễn biến hết sức phức tạp; bọn phản động trong các dân tộc đang đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược “Ba Tây” của Mỹ. Thông qua các hoạt động truyền đạo trái phép, lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo, chúng tìm cách kích động hằn thù, chia rê dân tộc, xu hưởng đòi ly khai thành lập quốc gia riêng.

 

GIỮ VỮNG LÒNG TIN CỦA NHÂN DÂN VỚI ĐẢNG NHÀ NƯỚC

 

Trước tình hình trên, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã nỗ lực phấn đấu giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình để xây dựng đất nước, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia dân tộc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, bảo vệ nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, một số yếu tố quan trọng để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc chậm được củng cố, tăng cường, có mặt còn giảm sút và phát sinh những vấn đề phức tạp mới. Thực hiện giải pháp này đòi hỏi người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị phải thực sự coi công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí là một nhiệm vụ trọng tâm và tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện; phải cam kết về sự liêm khiết và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, quản lý chặt chẽ đảng viên, cán bộ, thường xuyên kiểm tra nhắc nhở, ngăn ngừa và phát hiện cán bộ, đảng viên vi phạm; thực hiện công khai, minh bạch hoạt động của cơ quan, đơn vị, cán bộ, đảng viên. Đồng thời, hoàn thiện và thực hiện nghiêm cơ chế, chính sách về tổ chức, cán bộ, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch trong công tác cán bộ; tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử tham nhũng, lãng phí.

Quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước phải hướng vào nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, giữ vững ổn định chính trị - xã hội; thực hiện mục tiêu dân giầu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, từng bước củng cố lòng tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước, vào thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; tạo điều kiện để giải quyết tận gốc tình trạng nghèo làn, lạc hậu, xóa đói, giảm nghèo, giảm dần sự cách biệt về trình độ phát triển kinh tế, văn hóa giữa các vùng, miền; góp phần tăng cường sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân; mở rộng khả năng hội nhập, hợp tác quốc tế, nâng cao vị thế quốc tế của đất nước, tăng cường hơn nữa sự ủng hộ của bạn bè quốc tế đối với nước ta; tạo tiền đề và điều kiện cơ bản để xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, củng cố lòng tin của nhân dân vào sức mạnh bảo vệ Tổ quốc. Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại, phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

BIỂN ĐÔNG ĐẶT RA NHIỀU THÁCH THỨC TỚI AN NINH QUỐC GIA

 

Tranh chấp chủ quyền và cạnh tranh thế chiến lược, tranh giành ảnh hưởng, lợi ích của các nước lớn ở Biển Đông ngày càng diễn biến phức tạp, khó lường không chỉ đe dọa hòa bình, ổn định khu vực, chủ quyền của Việt Nam mà còn đặt ra nhiều thách thức, hệ lụy đối với an ninh quốc gia Việt Nam.

Tại Biển Đông hiện đang tồn tại 02 nhóm mâu thuẫn lớn; mâu thuẫn về tranh chấp chủ quyền đang diễn biến phức tạp và khó giải quyết do liên quan nhiều bên (05 nước, 06 bên) với quan điểm khác biệt cả về chủ quyền, lợi ích và cách thức giải quyết tranh chấp, nhất là khác biệt về quan điểm, chủ trương của Trung Quốc với các bên có tranh chấp còn lại.

Biển Đông không chỉ đơn thuần là tranh chấp chủ quyền mà đan xen với đó là sự cạnh tranh chiến lược, tranh giành ảnh hưởng và lợi ích của hầu hết các nước lớn trên thế giới, đặc biệt là sự tranh giành thế chiến lược giữa Mỹ và Trung Quốc. Thực tế quan hệ giữa các nước lớn và quan hệ Mỹ - Trung những năm gần đây đã phản ánh rõ, mỗi khi cạnh tranh chiến lược Mỹ-Trung diễn ra gay gắt thì vấn đề Biển Đông cũng diễn biến phức tạp, căng thẳng, hoạt động của Trung Quốc và sự can dự của các nước lớn vào vấn đề Biển Đông đều gia tăng.

Hai nhóm mâu thuẫn trên khiến tình hình Biển Đông còn diễn biến phức tạp, kéo dài, không thể giải quyết trong ngắn hạn và trung hạn, tiếp tục là yếu tố quan trọng chi phối môi trường an ninh trong khu vực, trực tiếp tác động, ảnh hưởng tới lợi ích, ANQG, môi trường đối ngoại của các nước trong khu vực trong đó có Việt Nam. Sự bế tắc trong giải quyết giữa các bên có tranh chấp ở Biển Đông và sự can dự mạnh mẽ của các nước lớn làm phát sinh những nguy cơ về xung đột cục bộ trên biển, xu hướng chạy đua vũ trang trong khu vực. Bệnh cạnh đó, những căng thẳng ở Biển Đông còn kéo theo hàng loạt các hệ lụy khác như tác động, ảnh hưởng, làm chậm đà phát triển kinh tế biển của đất nước, nhất là các hoạt động dầu khí, nghề cá; những đe dọa về an ninh ngay trong nội địa như các đối tượng phản động, cơ hội chính trị lợi dụng để xuyên tạc đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước, tiến hành các hoạt động chống phá, chia rẽ khối đại đoàn kết, kích động biểu tình, bạo loạn, phá hoại.

Nhận diện Cách mạng màu: Việt Nam có phải là mục tiêu bị tấn công?

 


Những biểu hiện của cái gọi là Cách mạng màu diễn ra ở các nước Đông Âu, Trung Đông và Bắc Phi cũng đã manh nha xuất hiện ở Việt Nam.

Hàng loạt quốc gia rơi vào khủng hoảng chính trị: nội chiến, chết chóc và sự bất ổn. Cách mạng màu là nguyên nhân dẫn đến tình trạng này. Nhận diện nó để tránh rơi vào tình trạng đó là điều mà nhiều quốc gia trên thế giới đang làm. Ở Việt Nam những biểu hiện của Cách mạng màu cũng manh nha xuất hiện. Làm thế nào để xử lý vấn đề này và chúng ta cần phải cảnh giác với nó ra sao? Đó là những vấn đề đặt ra trong chương trình Đối diện phát sóng ngày 27/5.

Cách mạng màu là gì?

Từ những năm cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, khái niệm cách mạng màu xuất hiện và bắt đầu được nhắc tới nhiều. Nhiều quốc gia ở Đông Âu thuộc Liên Xô (cũ) hay ở các quốc gia ở Trung Đông và Bắc Phi rơi vào tình trạng bất ổn chính trị và hệ quả của nó vẫn kéo dài đến tận bây giờ.

Có thể hiểu Cách mạng màu là các cuộc lật đổ chế độ hiện tại bằng phương pháp bất bạo động giữa những kẻ ủ mưu bên trong với các thế lực thù địch bên ngoài. Những kẻ chủ mưu giương ngọn cờ dân chủ, lôi kéo người dân tham gia vào các cuộc biểu tình tuần hành khiến đời sống xã hội bị tê liệt, Chính phủ dần mất kiểm soát xã hội. Khi những cuộc biểu tình tác động xấu đến đời sống xã hội và sự điều hành của Chính phủ ở mức độ nào đó, sẽ xuất hiện các thế lực bên ngoài thông qua các tổ chức phi chính phủ, thậm chí Chính phủ của một quốc gia khác lên tiếng ủng hộ. Từ đây, xung đột giữa người dân và chính quyền ngày càng đẩy lên và rồi hậu quả của nó là rất nặng nề.

Cảnh giác với thế lực thù địch muốn xóa bỏ chế độ XHCN ở Việt Nam

Từ thực tế từ các cuộc Cách mạng màu ở một số quốc gia Đông Âu và Trung Đông, Bắc Phi trong thời gian qua, câu hỏi đặt ra là: Việt Nam chúng ta có phải đối diện với nguy cơ xảy ra Cách mạng màu hay không? Theo các chuyên gia phân tích, Cách mạng màu là một trong những thủ đoạn vô cùng nguy hiểm nằm trong âm mưu diễn biến hòa bình mà các thế lực thù địch đã và đang thực hiện. Một trong những mục tiêu của âm mưu này là lật đổ các nước xã hội chủ nghĩa.

Vì vậy, Việt Nam là một trong những mục tiêu mà chúng sẽ tấn công. Các vụ việc trong nhiều năm qua cho thấy rằng các thế lực thù địch luôn không ngừng sử dụng chiến lược diễn biến hòa bình nhằm xóa bỏ chế độ XHCN ở Việt Nam. Những biểu hiện của cái gọi là Cách mạng màu vì thế cũng đã manh nha xuất hiện ở Việt Nam. Đó chính là các cuộc tụ tập đông người dưới nhiều lý do, trong đó có cả những cuộc tụ tập đập phá gây bất ổn xã hội.

Năm 2019, tổ chức khủng bố có tên Chính phủ Quốc gia Việt Nam lâm thời lôi kéo những người nhẹ dạ cả tin bằng cách tổ chức trưng cầu dân ý và cấp phát nhà miễn phí. Chúng hứa hẹn sẽ hỗ trợ tài chính, cấp đất, cấp nhà cho người nghèo. Đổi lại những người ai đăng ký nhận hỗ trợ sẽ phải tham gia chiến dịch trưng cầu dân ý, thể hiện quan điểm chống đối chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Ảo tưởng về miếng bánh vẽ không có thật, hàng trăm nạn nhân đã dính bẫy và cứ chờ đợi trong hy vọng. Nhà thì chẳng thấy đâu, chỉ thấy một ngày bất ngờ nhận giấy triệu tập của công an.

Ngoài ra còn những vụ việc lấy danh nghĩa bảo vệ môi trường năm 2016, lấy cớ đấu tranh bảo vệ chủ quyền năm 2014 lôi kéo những người thiếu tỉnh táo tụ tập đông người, thậm chí đốt phá nhà máy, cơ sở sản xuất…

Năm 2018, những thế lực thù địch lợi dụng cớ phản đối luật đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt để lôi kéo, kích động người dân tụ tập trái phép, đập phá trụ sở cơ quan công quyền. Chúng còn trả mỗi người vài trăm nghìn đồng để tham gia hưởng ứng, nếu đả thương công an, số tiền còn lớn hơn nữa.

Không có liều thuốc nào hữu hiệu bằng việc tự đề kháng và ngăn ngừa dịch bệnh từ xa. Loại bỏ tham nhũng tiêu cực, xử lý các cá nhân cán bộ biến chất, suy thoái, tự diễn biến, tự chuyển hóa là điều chúng ta bắt buộc phải làm.

Làm tốt việc này, không những đất nước phát triển giàu mạnh mà niềm tin của nhân dân dành cho Đảng, chính quyền sẽ tăng lên. Khi nhân dân có niềm tin, họ sẽ không dễ bị lôi kéo, kích động. Bài học ở nhiều quốc gia trên thế giới cho chúng ta thấy rõ ràng rằng, nếu những mâu thuẫn xã hội được khoét sâu và không cách nào được giải quyết, việc thổi bùng lên ngọn lửa phản kháng là điều dễ hiểu.

Những kẻ có ý đồ gây bất ổn rất giỏi nắm bắt tâm lý. Chúng sẽ len lỏi những kẽ hở, những hố sâu mâu thuẫn giữa người dân và chính quyền để hoạt động. Phải cảnh giác với chúng và cũng cần phải chấn chỉnh lại chính mình.

* Mời quý độc giả theo dõi các chương trình đã phát sóng của Đài Truyền hình Việt Nam trên TV Online!

LẠC PHONG


Vạch trần âm mưu chống phá thành tựu nhân quyền tại Việt Nam

 Một số trang tin thiếu thiện chí, tổ chức phản động lặp lại những luận điệu xuyên tạc về tình hình nhân quyền ở Việt Nam để bôi nhọ thể chế, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân.

  • Xuyên tạc, bôi nhọ, bịa đặt... là những thủ đoạn các lực lượng phản động, thù địch vẫn thường xuyên sử dụng để chống phá cách mạng Việt Nam. Gần đây nhất, những chiêu trò này lại được chúng sử dụng để chống phá thành tựu nhân quyền của Việt Nam.

Ngày 11/10, Việt Nam cùng 13 quốc gia khác đã được cộng đồng quốc tế tin tưởng bầu chọn tham gia Hội đồng Nhân quyền nhiệm kỳ 2023 - 2025. Thế nhưng, phủ nhận tiếng nói của đa số cộng đồng quốc tế, một số trang tin thiếu thiện chí, tổ chức phản động bên ngoài vẫn lặp lại những luận điệu xuyên tạc cũ rích, lạc lõng về tình hình nhân quyền ở Việt Nam để bôi nhọ thể chế, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân và giữa người dân với Đảng, chính quyền, hòng thực hiện mưu đồ không thay đổi là thay đổi thể chế chính trị ở Việt Nam.


Những bài viết này đăng ngay sau khi Việt Nam trúng cử Hội đồng Nhân quyền mới đây. Trích dẫn những báo cáo thiếu thực tế, thiếu khách quan về tình hình nhân quyền ở Việt Nam, có bài viết thậm chí xuyên tạc vô lối, cố tình bôi nhọ lá phiếu của đa số cộng đồng quốc tế ủng hộ Việt Nam tham gia Hội đồng Nhân quyền. Tổ chức phản động Việt Tân còn ngang ngược đòi xem lại cả cơ cấu Hội đồng Nhân quyền.

Cản trở Việt Nam tham gia Hội đồng Nhân quyền là mục tiêu của số tổ chức phản động ngay từ khi Việt Nam ứng cử. Có tổ chức rêu rao thỉnh nguyện thư cốt để đánh bóng tên tuổi. Có số thì ráo riết vận động để cản trở Việt Nam trúng cử. Có số lại tăng cường tuyên truyền xuyên tạc, rồi âm mưu kích động số chống đối trong nước tăng cường hoạt động khi Việt Nam trúng cử.

Thực tế, gần 30 năm qua, tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 60% xuống còn 2%. Không chỉ thu nhập được nâng lên mà chất lượng sống cũng được chú trọng. Tự do thông tin không chỉ nằm ở các cam kết quốc tế mà đã trở thành động lực cho phát triển. Đời sống tín ngưỡng, tôn giáo thực sự phong phú và phát triển với 43 tổ chức tôn giáo, 26 triệu tín đồ.

Ngay cả trong điều kiện ngặt nghèo của dịch bệnh, bản chất và năng lực của thể chế càng được khẳng định khi tính mạng, sức khỏe và phẩm giá của con người được đặt lên trên hết. Đây là những minh chứng đanh thép đáp trả những chiêu trò chống phá lạc lõng này.

Rõ ràng ngay cả khi Việt Nam ngày càng bảo đảm tốt hơn quyền con người thì cũng không làm thay đổi mưu đồ của các thế lực thù địch và tổ chức phản động. Thậm chí chúng ta càng làm tốt thì chúng càng tức tối hơn. Những lá phiếu bầu chọn Việt Nam vào Hội đồng Nhân quyền nhiệm kỳ này đã thể hiện rõ nhất sự tin tưởng và kỳ vọng của cộng đồng quốc tế với vai trò của Việt Nam trong thúc đẩy quyền con người, một trong những trụ cột của hợp tác quốc tế.

Lá phiếu bầu chọn Việt Nam vào Hội đồng Nhân quyền là sự ghi nhận của cộng đồng quốc tế đối với các nỗ lực và đóng góp của Việt Nam trong thúc đẩy quyền con người, cả ở trong nước và trên phạm vi quốc tế. Ở một khía cạnh khác, mỗi lá phiếu bầu chọn cho Việt Nam cũng là sự bác bỏ đối với các quan điểm sai trái, phủ nhận những thành tựu và đóng góp về nhân quyền của Việt Nam.

Bà Caitlin Wiesen, nguyên Đại diện thường trú Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) tại Việt Nam cho rằng: "Tôi nghĩ Việt Nam xứng đáng được biểu dương. Tôi muốn nhấn mạnh vai trò của Việt Nam trong Hội đồng Nhân quyền của Liên Hợp Quốc. Gần đây tại Geneva, Nghị quyết được thông qua vào tháng 7 do Việt Nam cùng với Bangladesh và Philippines khởi xướng được chấp thuận và đã được thông qua. Nghị quyết này xem xét tác động của biến đổi khí hậu đối với các nhóm dễ bị tổn thương. Tôi cho rằng đây là một đóng góp rất quan trọng của Việt Nam".

"Việt Nam luôn ở tuyến đầu trong những cải tổ của Liên Hợp Quốc, đi đầu triển khai sáng kiến Thống nhất hành động của Liên Hợp Quốc nhằm tăng hiệu quả hoạt động của Liên Hợp Quốc ở cấp độ quốc gia. Rất nhiều bài học về giảm nghèo và ứng phó COVID-19 của Việt Nam nên được ghi chép lại và chia sẻ hơn nữa", ông Kamal Malhotra, nguyên Điều phối viên thường trú Liên Hợp Quốc tại Việt Nam (2017-2021) nhấn mạnh.

Trong chuyến thăm chính thức Việt Nam mới đây, Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc António Guterres đã nhận định: "Từ chỗ là quốc gia nhận viện trợ lương thực, bị chiến tranh tàn phá, bị cô lập và nạn đói chực chờ, nay Việt Nam đang gửi những người lính đi gìn giữ hòa bình thế giới. Đó là minh chứng mạnh mẽ cho sự kiên cường, vượt khó của người Việt và là thành quả của chủ trương nhất quán lấy con người làm trung tâm của sự phát triển".

Nhìn lại cả quá trình phát triển của đất nước cho đến nay, ở bất cứ thời kỳ nào, dù là trong chiến tranh hay hòa bình, trong khó khăn hay thuận lợi thì chăm lo cho người dân về mọi mặt vẫn luôn là ưu tiên cao nhất của Đảng, Nhà nước Việt Nam. Và điều này cũng tương đồng với các mục tiêu về bảo đảm quyền con người mà thế giới luôn luôn theo đuổi.

LẠC PHONG