Tầm nhìn là một trong những yêu cầu quan trọng hàng đầu về năng lực, phẩm chất của người lãnh đạo, của một đảng chính trị, nhất là đảng cầm quyền. Tầm nhìn thể hiện lý tưởng phấn đấu, thể hiện mục tiêu cần đạt được, là cơ sở để xác định nhiệm vụ, giải pháp thực hiện; để thống nhất tư tưởng, đoàn kết trong Đảng, tập hợp, đoàn kết, cổ vũ, động viên mạnh mẽ các tầng lớp nhân dân, các lực lượng xã hội phát huy sức mạnh to lớn của toàn dân tộc vượt qua mọi khó khăn, thử thách, gian khổ, hy sinh để thực hiện mục tiêu, lý tưởng đó.
BỐI
CẢNH ĐẠI HỘI XIII VÀ YÊU CẦU ĐẶT RA ĐỐI VỚI TẦM NHÌN CỦA ĐẢNG VỀ PHÁT TRIỂN ĐẤT
NƯỚC
Đại
hội XIII của Đảng được tổ chức vào thời điểm toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta
đã thực hiện thắng lợi nhiều chủ trương, mục tiêu, nhiệm vụ trong Nghị quyết
Đại hội XII của Đảng; đất nước đã qua 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, 10
năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
10 năm 2011-2020, đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Quy mô,
trình độ phát triển kinh tế, xã hội của đất nước được nâng lên. Đất nước ta
chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay.
Đây là động lực, nguồn lực quan trọng để đất nước ta vượt qua khó khăn, thách
thức, phát triển nhanh, bền vững trong những năm tới. Tuy nhiên, kinh tế - xã
hội phát triển vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của đất nước và còn
nhiều khó khăn, thách thức. Bốn nguy cơ mà Đảng đã chỉ ra vẫn tồn tại, có mặt
gay gắt hơn. Nguy cơ tụt hậu, rơi vào bẫy thu nhập trung bình còn lớn. Việc
phát triển văn hóa, bảo đảm phúc lợi xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã
hội, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường; việc
phát triển đồng bộ các vùng, miền, địa phương trên cơ sở phát huy tiềm năng,
lợi thế của từng vùng vẫn còn nhiều hạn chế. Tham nhũng, lãng phí, quan liêu,
suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” trong nội bộ, mâu thuẫn xã hội còn diễn biến phức tạp. Xu hướng già hóa
dân số, đô thị hóa tăng nhanh; biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh ảnh hưởng
ngày càng lớn đến sự phát triển đất nước. Các thế lực thù địch tiếp tục chống
phá Đảng, Nhà nước, xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, biển đảo
của đất nước.
Trên
thế giới, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song đứng trước
nhiều khó khăn, trở ngại. Tình hình chính trị, an ninh, kinh tế thế giới có
những biến động lớn, nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo. Cạnh tranh chiến lược
giữa các nước lớn, xung đột cục bộ tiếp tục diễn ra phức tạp, quyết liệt; chủ
nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa dân túy, cường quyền nước lớn trong quan hệ
quốc tế gia tăng. Toàn cầu hóa tiếp tục tiến triển nhưng gặp nhiều trở ngại,
luật pháp quốc tế và các thể chế đa phương toàn cầu đứng trước những thách thức
lớn. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tạo ra cả thời cơ và thách thức đối
với mọi quốc gia, dân tộc. Cạnh tranh kinh tế, chiến tranh thương mại giữa các
nước, các nền kinh tế ngày càng quyết liệt. Nhiều vấn đề an ninh truyền thống,
phi truyền thống, an ninh mới như an ninh mạng, biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi
trường, thiên tai, dịch bệnh... trở thành những thách thức lớn trên quy mô toàn
cầu. Đại dịch Covid-19 làm đảo lộn, suy thoái nghiêm trọng kinh tế thế giới.
Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á là khu vực
cạnh tranh gay gắt giữa các nước lớn, tiềm ẩn nhiều bất ổn. Tranh chấp chủ
quyền lãnh thổ, biển, đảo căng thẳng, phức tạp. ASEAN có vai trò quan trọng
trong duy trì hòa bình, ổn định, thúc đẩy hợp tác trong khu vực, nhưng đứng
trước nhiều khó khăn, thách thức.
Trong
bối cảnh đó, đất nước đứng trước nhiều thời cơ, thuận lợi và nhiều khó khăn,
thách thức đan xen, nhiều vấn đề mới đặt ra đòi hỏi Đảng, Nhà nước phải giải
quyết, có những quyết định đúng đắn, mạnh mẽ để phát triển đất nước ta nhanh và
bền vững. Đại hội XIII của Đảng có nhiệm vụ kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết
Đại hội XII trên tất cả các lĩnh vực phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, củng
cố quốc phòng, an ninh, mở rộng, nâng cao hiệu quả đối ngoại, hội nhập quốc tế;
cả đối nội và đối ngoại, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và công tác xây dựng Đảng;
trên cơ sở đó, quyết định phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ phát triển đất nước,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong
nhiệm kỳ 5 năm 2021-2025 tới, như Đại hội các nhiệm kỳ khác. Đồng thời, Đại hội
XIII còn đánh giá tình hình và kết quả thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế
- xã hội 10 năm 2011-2020 do Đại hội XI của Đảng (năm 2011) thông qua và quyết
định mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội đất nước 10 năm tới, 2021-2030, như một số Đại hội Đảng có nhiệm vụ xây
dựng chiến lược phát triển đất nước định kỳ 10 năm. Nhưng ý nghĩa của Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội đất nước 10 năm lần này là: năm 2030 là kỷ
niệm 100 năm thành lập Đảng. Đặc biệt, Đại hội XIII còn đề ra tầm nhìn của Đảng
về mục tiêu phát triển đất nước xa hơn, đến năm 2045, năm kỷ niệm 100 năm thành
lập Nhà nước Việt Nam mới. Đây là điểm mới, có ý nghĩa rất quan trọng.
Tầm
nhìn là một trong những yêu cầu quan trọng hàng đầu về năng lực, phẩm chất của
người lãnh đạo, của một đảng chính trị, nhất là đảng cầm quyền. Tầm nhìn thể
hiện lý tưởng phấn đấu, thể hiện mục tiêu cần đạt được, là cơ sở để xác định
nhiệm vụ, giải pháp thực hiện; để thống nhất tư tưởng, đoàn kết trong Đảng, tập
hợp, đoàn kết, cổ vũ, động viên mạnh mẽ các tầng lớp nhân dân, các lực lượng xã
hội phát huy sức mạnh to lớn của toàn dân tộc vượt qua mọi khó khăn, thử thách,
gian khổ, hy sinh để thực hiện mục tiêu, lý tưởng đó. Yêu cầu đặt ra với tầm
nhìn là sự đúng đắn, chính xác của định hướng, mục tiêu đề ra, phù hợp với lý
tưởng của Đảng, tính chất, xu thế của thời đại, yêu cầu phát triển của đất nước
trong từng giai đoạn, có cơ sở, căn cứ khoa học, phù hợp với thực tiễn, điều
kiện của đất nước, khả thi, thể hiện khát vọng, ý chí quyết tâm phấn đấu cao
nhưng không chủ quan, duy ý chí.
Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Đại hội
VII của Đảng thông qua năm 1991 (Cương lĩnh 1991) và Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011)
của Đảng đã đề ra tầm nhìn, mục tiêu phát triển đất nước đến giữa thế kỷ XXI và
đến khi kết thúc (hoàn thành) thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tầm nhìn,
mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập Nước là sự
kế thừa, cụ thể hóa tầm nhìn, mục tiêu do Cương lĩnh đề ra. Đây là vấn đề có ý nghĩa
rất quan trọng đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự phát triển của đất nước, là cơ
sở bảo đảm sự nhất quán, kết nối, kế thừa trong chủ trương, đường lối phát
triển đất nước của Đảng qua các kỳ Đại hội Đảng đến giữa thế kỷ XXI, bảo đảm sự
kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong đường lối phát
triển đất nước. Đây là yêu cầu đặc biệt quan trọng trong bối cảnh tình hình thế
giới diễn biến phức tạp, các thế lực thù địch vẫn tìm mọi cách chống phá sự
nghiệp cách mạng của nhân dân ta, chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ
nghĩa, xâm phạm quyền độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, biển đảo của đất
nước ta; trong khi đó, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối
sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên vẫn chưa được ngăn chặn, đẩy lùi; thách thức trên con đường phát triển của
đất nước còn nhiều, không thể xem thường, chủ quan, dao động, mất cảnh giác.
NHỮNG ĐIỂM MỚI TRONG TẦM NHÌN
VỀ PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC
Những điểm mới trong chủ đề Đại hội:
Chủ
đề Đại hội XIII của Đảng là: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, hệ thống
chính trị trong sạch, vững mạnh; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát
huy ý chí, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; tiếp
tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; xây dựng và bảo vệ vững chắc
Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI,
nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. So với
chủ đề Đại hội XII (1),
chủ đề Đại hội XIII có nhiều điểm mới, cụ thể là:
Thứ nhất, bổ sung “chỉnh đốn” và “hệ
thống chính trị” vào nội dung “tăng cường xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh” để thành “Tăng cường xây dựng chỉnh
đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh”.
Sự
lãnh đạo đúng đắn của Đảng, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng là nhân
tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam 90 năm qua, tạo nên những thành
tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của đất nước ta trong 35 năm đổi mới vừa qua và
cũng sẽ là yếu tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội,
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của đất nước ta, nhân ta ta trong những năm
tới. Tới đây, trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến nhanh chóng, phức
tạp, sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nước ta đứng trước nhiều
thời cơ và khó khăn, thách thức to lớn, đặt ra nhiều vấn đề mới đòi hỏi Đảng
phải không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của mình. Bởi vậy,
trong tiêu đề Báo cáo chính trị Đại hội X và Đại hội XI của Đảng đều có nội
dung “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng”. Nhưng năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng lại phụ
thuộc vào chất lượng các tổ chức Đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên
của Đảng; trong đó, đặc biệt là phụ thuộc vào sự trong sạch, vững mạnh của tổ
chức Đảng, của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, phát
triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, trong những năm gần đây, có một bộ
phận cán bộ, đảng viên bị suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống,
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” dẫn đến quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vi
phạm quyền làm chủ của nhân dân... làm ảnh hưởng xấu đến sự ổn định, phát triển
đất nước, uy tín của Đảng, Nhà nước, đe dọa sự tồn vong của chế độ. Do đó, công
tác xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh được Đảng hết sức quan tâm trong những
năm gần đây, đặc biệt được đẩy mạnh trong nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng.
Tiêu
đề Báo cáo chính trị Đại hội XII của Đảng được mở đầu với nội dung “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh”.
Thực tiễn công tác xây dựng Đảng cho thấy trong bối cảnh có sự suy thoái của
một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên hiện nay, để xây dựng Đảng phải có
chỉnh đốn, phải chỉnh đốn thì mới xây dựng được Đảng trong sạch, vững mạnh. Hội
nghị Trung ương bốn khóa XII đã ra Nghị quyết chuyên đề “Về tăng cường xây
dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội
bộ”. Do đó, cần phải bổ sung “chỉnh đốn” vào nội dung “xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh” trong tiêu đề Báo cáo chính trị Đại hội XIII.
Đồng
thời, trong bối cảnh Đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo tổ chức và hoạt động của Nhà
nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội, của cả hệ thống chính
trị. Sự trong sạch, vững mạnh của Đảng gắn liền với sự trong sạch, vững mạnh
của cả hệ thống chính trị. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng gắn liền
với hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, chất lượng, hiệu quả hoạt động của
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội. Bởi vậy, bổ sung “hệ thống chính trị” vào “Tăng cường xây dựng,
chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh” để thành “Tăng
cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh” là
đúng đắn và cần thiết.
Thứ
hai, bổ sung “khơi dậy khát vọng phát
triển đất nước, phát huy ý chí”, và “kết
hợp với sức mạnh của thời đại” vào nội dung “phát huy sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc” để trở thành “Khơi dậy
khát vọng phát triển đất nước, phát huy ý chí, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
tộc kết hợp với sức mạnh thời đại...”.
Cùng
với sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, trong mọi giai đoạn cách mạng, khối đại đoàn
kết toàn dân tộc luôn luôn là nguồn sức mạnh to lớn để đất nước ta vượt qua mọi
khó khăn, thử thách, đạt được những thắng lợi vẻ vang. Bởi vậy, “phát huy sức
mạnh toàn dân tộc” luôn là một nội dung quan trọng trong đường lối của Đảng,
được nêu trong tiêu đề Báo cáo chính trị của nhiều Đại hội Đảng (trong tiêu đề
Báo cáo chính trị Đại hội XI, XII đều có nội dung này). Báo cáo chính trị Đại
hội XIII của Đảng tiếp tục đưa nội dung “phát huy sức mạnh toàn dân tộc” vào tiêu
đề của Báo cáo.
Việc
kết hợp nội lực và ngoại lực, trong đó nội lực là quyết định, kết hợp sức mạnh
dân tộc và sức mạnh của thời đại là một quan điểm lớn, nội dung lớn trong đường
lối cách mạng, phát triển đất nước của Đảng. Từ lâu, nội dung này đã được nêu
trong nhiều văn kiện của Đảng; tuy nhiên, còn chưa được nêu trong tiêu đề Báo
cáo chính trị của các đại hội toàn quốc của Đảng. Ngày nay, trong thời đại toàn
cầu hóa, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ trên thế
giới, tạo ra cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia; nước ta đã hội nhập
quốc tế ngày càng sâu, rộng, toàn diện, ảnh hưởng và tác động quốc tế đối với
nước ta ngày càng lớn, nhanh chóng và trực tiếp. Xu thế của thời đại, luật
pháp, các quan hệ quốc tế, sự hợp tác, ủng hộ của các nước, cộng đồng quốc tế
là nguồn sức mạnh to lớn để đất nước ta nắm bắt thời cơ, vượt qua khó khăn,
thách thức giữ vững độc lập, chủ quyền, môi trường hòa bình ổn định, phát triển
nhanh, bền vững. Do đó, việc đưa nội dung “phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại” vào tiêu đề Báo cáo chính trị Đại
hội XIII là cần thiết, đúng đắn, có ý nghĩa quan trọng.
Thực
tiễn lịch sử thế giới, cũng như mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc
ta, đất nước ta đã cho thấy tinh thần, ý chí, khát vọng của một dân tộc là một
sức mạnh to lớn. Chính ý chí, khát vọng cháy bỏng phải giành, bảo vệ cho được
độc lập, tự do, thống nhất đất nước đã tạo nên sức mạnh thần kỳ để nước ta, một
nước nghèo, kinh tế kém phát triển đã đánh thắng những kẻ thù hùng mạnh của
thời đại. Ngày nay, bên cạnh những khó khăn, thách thức, đất nước ta có những
thuận lợi, cơ hội to lớn để phát triển, chúng ta rất cần phải phát huy mạnh mẽ
ý chí, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước giàu mạnh trong toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân để tạo nên động lực mạnh mẽ, sức mạnh to lớn đưa đất nước vượt
qua mọi khó khăn, thử thách, nắm bắt, tận dụng tốt mọi thuận lợi, thời cơ, phát
triển đất nước nhanh, bền vững. Đây là yêu cầu, là lời hiệu triệu của Đảng, của
đất nước đối với mỗi người Việt Nam yêu nước.
Thứ ba, xác định mục tiêu “phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát
triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Thành
tố cuối cùng trong tiêu đề Báo cáo chính trị tại các đại hội Đảng ở nhiều nhiệm
kỳ đều là mục tiêu phát triển đất nước, như, trong tiêu đề Báo cáo chính trị
của Đại hội XI của Đảng có mục tiêu “tạo nền tảng
để đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”,
của Đại hội XII có mục tiêu “phấn đấu sớm đưa
nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển
năm 2011) đề ra mục tiêu đến giữa thế kỷ XXI “phấn
đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng
xã hội chủ nghĩa”. Theo truyền thống ấy, thành tố cuối trong tiêu đề Báo
cáo chính trị Đại hội XIII là mục tiêu “phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta
trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”; trong đó nội dung
“theo định hướng xã hội chủ nghĩa” đã được khẳng định trong nhiều văn kiện của
Đảng; điểm mới là “nước ta trở thành nước phát triển”.
Trong
nhiều năm qua, trong các văn kiện của Đảng đều xác định mục tiêu phấn đấu sớm
đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại và trở thành nước
công nghiệp hiện đại vào giữa thế kỷ XXI. Đây là quan điểm đúng đắn, có ý nghĩa
quan trọng định hướng cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển
đất nước trong nhiều năm qua. Tuy nhiên, cho đến nay, việc xây dựng các tiêu
chí để xác định thế nào là nước công nghiệp, nước công nghiệp theo hướng hiện
đại và nước công nghiệp hiện đại vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. Trong khi đó,
trên thế giới hiện nay, ngoài Tổ chức Công nghiệp của Liên hợp quốc (UNIDO) có
phân chia các nước thành nước đã công nghiệp hóa, nước công nghiệp hóa, còn hầu
hết các nước, các tổ chức quốc tế không sử dụng cách phân loại này. Các nước,
các tổ chức quốc tế (như Liên hợp quốc, Ngân hàng thế giới, Quỹ tiền tệ quốc
tế...) đều đánh giá, phân loại các nước thành: (1) nước phát triển, nước đang
phát triển, nước kém phát triển, hay (2) nước có thu nhập cao, nước có thu nhập
trung bình cao, nước có thu nhập trung bình thấp và nước có thu nhập thấp. Hai
cách phân loại này đều dựa vào tiêu chí chính là thu nhập kết quả đầu người.
Tuy không phân loại các nước thành nước đã công nghiệp hóa hay chưa công nghiệp
hóa, những nước phát triển, như các nước G7, G20, đồng thời, cũng được xác định
là những nước đã công nghiệp hóa, nước công nghiệp mới nổi.
Nước
ta đã hội nhập ngày càng sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới, việc xác định mục
tiêu phát triển đất nước đến giữa thế kỷ XXI sử dụng cách phân loại nước theo
thông lệ quốc tế là cần thiết để thuận lợi cho việc phân tích, đánh giá và so
sánh quốc tế. Trong nhiều văn kiện của Đảng, Nhà nước ta những năm vừa qua đã
xác nhận nước ta là nước đang phát triển có thu nhập trung bình thấp theo như
đánh giá của các tổ chức kinh tế quốc tế.
Những điểm mới trong mục tiêu phát triển đất
nước
Điểm mới trong mục tiêu tổng quát
Thứ
nhất, mục tiêu tổng quát phát triển đất nước trong những năm tới trong Báo cáo
chính trị Đại hội XIII là: “Nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến
đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn
diện; củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, nhà nước, chế độ
xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc;
phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời
đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại
hóa; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn
định; phấn đấu giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định
hướng xã hội chủ nghĩa”(2). So với mục tiêu tổng quát
của Đại hội XII(3), ngoài những điểm mới đã nêu
trong chủ đề Đại hội, còn có những điểm mới sau:
Thứ hai, bổ sung “năng lực cầm quyền” vào nội dung “nâng cao năng
lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng” để thành “nâng
cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền, sức chiến đấu của Đảng”.
Năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu là những yêu cầu hàng đầu đối với Đảng để Đảng
làm tốt được vai trò lãnh đạo của Đảng mọi mặt hoạt động kinh tế, văn hóa, xã
hội, quốc phòng, an ninh, đối nội, đối ngoại của đất nước. Những diễn biến phức
tạp của tình hình khu vực, thế giới; sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc của đất nước đặt ra nhiều vấn đề mới đòi hỏi Đảng phải giải quyết, phải
không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của mình. Vì vậy, nhiệm
vụ “nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng” đã được nhiều lần đề
ra trong các văn kiện của Đảng. Tuy nhiên, khi là Đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo
chủ yếu bằng Nhà nước, thông qua Nhà nước. Đây là điều rất khác với sự lãnh đạo
của Đảng khi chưa có chính quyền. Cầm quyền là lãnh đạo nhưng thông qua Nhà
nước, phương thức cầm quyền có điểm chung, tcó điểm khác với phương thức lãnh
đạo. Đây là vấn đề rất cần phải tiếp tục làm rõ. Trong thực tế, những năm vừa
qua, vừa có tình trạng Đảng làm thay Nhà nước, vừa có tình trạng buông lỏng
lãnh đạo Nhà nước. Vì vậy, việc bổ sung “năng lực cầm quyền” vào nội dung “nâng
cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng” sẽ nhấn mạnh cần phải chú ý, cần
phải quan tâm nghiên cứu, hoàn thiện thể chế để thực hiện tốt nhiệm vụ này.
Thứ ba, bổ sung “toàn diện”, “củng cố
niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa” vào
nội dung “xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh” để thành “xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh
toàn diện; củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội
chủ nghĩa”.
Bổ
sung “toàn diện” vào “xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững
mạnh” là nhấn mạnh yêu cầu xây dựng trong sạch, vững mạnh cả đối với Đảng, Nhà
nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội và trong mỗi tổ chức
này cần xây dựng toàn diện cả về tổ chức, cán bộ, phương thức hoạt động; với
cán bộ phải xây dựng toàn diện cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tác phong
làm việc...
Bổ
sung “củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ
nghĩa” bởi trong những năm vừa qua tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị, đạo
đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận không nhỏ cán
bộ, đảng viên đã làm ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà
nước, chế độ xã hội chủ nghĩa. Một trong những yêu cầu, mục tiêu của xây dựng
Đảng, hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện là phải củng cố được
niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa, đó là nền
tảng chính trị của Nhà nước, của chế độ ta.
Thứ ba, bổ sung “công nghiệp hóa, hiện đại hóa” vào câu “Đẩy
mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới” để thành “Đẩy
mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa”.
Đẩy
mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới là quan điểm, chủ trương lớn của Đảng
được nêu trong mục tiêu tổng quát phát triển đất nước của Báo cáo chính trị các
Đại hội X, XI, XII và trong nhiều văn kiện của Đảng. Ở các Đại hội này, trong
mục tiêu tổng quát, sau câu “Đẩy mạnh toàn diện,
đồng bộ công cuộc đổi mới” là “phát
triển đất nước nhanh, bền vững”, một mục tiêu tổng quát hết sức quan
trọng, bao gồm nhiều lĩnh vực. Trong đó, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây
dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội được xác định là nhiệm vụ
trung tâm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong nhiều nhiệm kỳ đại hội
Đảng, nhiệm vụ này được quan tâm đẩy mạnh, đạt một số thành tựu; nhưng kết quả
còn nhiều hạn chế, mục tiêu đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại chưa đạt được; trình độ công nghệ, năng suất, chất lượng, hiệu
quả, sức cạnh tranh kinh tế thấp... Đây là hạn chế, điểm yếu quan trọng của
nước ta. Trong những năm tới, trong bối cảnh toàn cầu hóa, cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư diễn ra mạnh mẽ, cạnh tranh quốc tế hết sức gay gắt, quyết
liệt, yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao năng suất, chất
lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh kinh tế đặt ra cấp thiết, có ý nghĩa sống còn
đối với đất nước ta. Vì vậy, bổ sung nội dung này vào mục tiêu tổng quát trong
văn kiện Đại hội XIII của Đảng là quan trọng, cần thiết để nhiệm vụ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa được quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, được thực hiện mạnh mẽ, có
hiệu quả cao hơn trong những năm tới.
Những điểm mới trong các mục tiêu cụ thể
Đại hội XII chỉ đề ra các chỉ tiêu cụ thể về
phát triển đất nước trong 5 năm 2016-2020 để phấn đấu sớm đưa nước ta trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Trong văn kiện Đại hội XIII của Đảng không chỉ
có mục tiêu cụ thể cho 5 năm, tới năm 2025, mà còn có các mục tiêu cho 10 năm,
tới năm 2030 và tầm nhìn cho đến năm 2045. Đây cũng là ba mốc lịch sử quan
trọng của đất nước ta: năm 2025 là năm kỷ niệm 50 năm giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước; năm 2030 là năm kỷ niệm 100 năm ngày thành lập Đảng và năm
2045 là năm kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam mới.
Khi xác định mục tiêu cho những năm tới, Đại
hội XIII vừa kế thừa những quan điểm của Đảng trong Cương lĩnh, trong Nghị
quyết các nhiệm kỳ đại hội trước, trong đó xác định mục tiêu phấn đấu đưa nước
ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại và sau đó trở thành nước công
nghiệp hiện đại; đồng thời, tiếp thu các cách đánh giá, phân loại các nước theo
thông lệ quốc tế, được các tổ chức quốc tế như Liên hợp quốc (UN), Ngân hàng
thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Tổ
chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) và hầu hết các nước trên thế giới sử
dụng. Đó là việc đánh giá, phân loại các nước thành: Nước kém phát triển, nước
đang phát triển và nước phát triển; Nước có thu nhập thấp, nước có thu nhập
trung bình thấp, nước có thu nhập trung bình cao và nước có thu nhập cao.
Căn cứ chính để phân loại các nước trong cả
hai cách phân loại này là thu nhập bình quân đầu người, số liệu này được Ngân
hàng thế giới công bố hàng năm. Những nước kém phát triển cũng là nước có thu
nhập thấp; những nước đang phát triển bao gồm những nước có thu nhập trung bình
thấp và nước có thu nhập trung bình cao; những nước phát triển là nước có thu
nhập cao (tuy nhiên, không phải mọi nước có thu nhập bình quân đầu người cao
đều được xem là nước phát triển, như một số nước có thu nhập bình quân đầu
người cao chỉ nhờ khai thác và xuất khẩu dầu mỏ). Tháng 7/2020, Ngân hàng thế
giới công bố tiêu chí phân loại các nước theo thu nhập bình quân đầu người:
Nước có thu nhập thấp là nước có thu nhập bình quân đầu người dưới 1.036
USD/năm (tiêu chí công bố năm 2019 là 1.026 USD/năm). Nước có thu nhập trung
bình thấp là nước có thu nhâp bình quân đầu người từ 1.036 đến dưới 4.045
USD/năm (tiêu chí công bố năm 2019 là từ 1.026-3.395 USD/năm). Nước có thu nhập
trung bình cao là nước có thu nhập bình quân đầu người từ 4.045-12.535 USD/năm
(tiêu chí công bố năm 2019 là 3.396-12.375 USD/năm). Nước có thu nhập cao là
nước có thu nhập bình quân đầu người trên 12.535 USD/năm.
Cuối nhiệm kỳ Đại hội X của Đảng, Việt Nam đã
ra khỏi tình trạng nước nghèo (có thu nhập thấp), kém phát triển, trở thành
nước đang phát triển có thu nhập trung bình thấp (Khái niệm nước đang phát
triển có thu nhập trung bình thấp đã được sử dụng trong nhiều văn kiện của
Đảng, Nhà nước ta). Năm 2020, nước ta đã có thu nhập bình quân đầu người 2.750
USD, vẫn là nước đang phát triển có thu nhập trung bình thấp. Trên cơ sở vừa kế
thừa mục tiêu được các Đại hội trước đề ra, vừa tiếp thu các tiêu chí theo
thông lệ quốc tế, Đại hội XIII của Đảng đã đề ra các mục tiêu cụ thể phát triển
đất nước trong những năm tới. Theo đó, đến năm 2025, kỷ niệm
50 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước: Là nước đang phát triển, có
công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến
năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển, có
công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045, kỷ
niệm 100 năm thành lập nước: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
Đây cũng là những nhận thức mới, quan điểm mới
của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa ở nước ta.
PGS.TS Nguyễn Văn Thạo
Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương
.
Trả lờiXóa