Thứ Tư, 28 tháng 4, 2021

Vai trò sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được khẳng định .

Trong lịch sử phát triển của dân tộc ta, việc ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 1930) là sự kiện chính trị quan trọng đối với đất nước và dân tộc Việt Nam. Từ đó đến nay, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội được thực tiễn lịch sử ghi nhận và quy định trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Dân tộc Việt Nam trong những thập kỷ đầu của thế kỷ XX khi chưa có Đảng chìm đắm trong đêm dài nô lệ, bởi sự nô dịch, đàn áp, bóc lột của thực dân-phong kiến. Nhưng từ khi có Đảng ra đời, tổ chức và lãnh đạo, cách mạng Việt Nam từng bước phát triển, giành những thắng lợi vĩ đại. Cách mạng Tháng Tám thành công là một dấu mốc lịch sử khởi đầu cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân ta và tiếp đó là công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Những thắng lợi oanh liệt đó đều gắn liền với vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh bằng đường lối độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đúng đắn, sáng tạo. Ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã xác định: Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân, mang bản chất giai cấp công nhân, tính dân tộc và tính nhân dân sâu sắc. Điều đó được thể hiện ở mục tiêu, lý tưởng của Đảng là lãnh đạo nhân dân xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, tiến tới chủ nghĩa cộng sản; chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động; đồng thời, giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ. Đảng thường xuyên liên hệ mật thiết với quần chúng, lấy tự phê bình và phê bình làm phương châm hành động, quy luật phát triển... Cần khẳng định, việc ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là kết quả của sự kết hợp hài hòa, nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa Mác - Lê-nin với chủ nghĩa yêu nước, mà biểu hiện tập trung là sự kết hợp của phong trào công nhân với phong trào yêu nước của quần chúng cách mạng; mục tiêu, lý tưởng, lợi ích của Đảng luôn thống nhất với mục tiêu, lý tưởng, lợi ích của giai cấp công nhân, của dân tộc và toàn thể nhân dân Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng định, Đảng ta không những là đảng của giai cấp công nhân, mà còn là đảng của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc là thống nhất. Việc Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã khẳng định giai cấp công nhân và đảng tiên phong của mình đứng ở vị trí trung tâm, giữ vai trò lãnh đạo cách mạng; đồng thời, quyết định xu hướng phát triển của xã hội Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; phù hợp với xu thế của thời đại, được mở ra từ Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại (1917). Cần nhấn mạnh rằng, đây là sứ mệnh lịch sử mà nhân dân, dân tộc Việt Nam đã tin cậy và trao cho Đảng, hoàn toàn mang tính hiện thực khách quan chứ không phải là sự chủ quan, áp đặt nào đó như một số người vẫn thường rêu rao, xuyên tạc, kích động. Với mục tiêu, lý tưởng đó, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, tồn tại, hoạt động không có lợi ích nào khác ngoài việc phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đã có biết bao cán bộ, đảng viên của Đảng anh dũng chiến đấu, hy sinh trong lao tù đế quốc, trên chiến trường chống ngoại xâm, giữ vững chí khí của người cộng sản để thực hiện một chân lý là đánh đổ đế quốc, tay sai, giành độc lập cho dân tộc, mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân. Trong thời bình, mặc dù phải đối mặt với những cám dỗ, tiêu cực của nền kinh tế thị trường, hội nhập, mở cửa, nhưng đại bộ phận cán bộ, đảng viên vẫn giữ vững bản lĩnh chính trị vững vàng, trong sạch về phẩm chất đạo đức, lối sống, gắn bó máu thịt với nhân dân và trở thành tấm gương sáng, ấn tượng đẹp trong lòng nhân dân. Mặc dù vậy, trước những khó khăn, thách thức, phức tạp mới của tình hình hiện nay, Đảng ta càng phải không được chủ quan, tự mãn. Để làm tròn vai trò lãnh đạo đối với Nhà nước và xã hội, Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, chỉnh đốn; cán bộ, đảng viên phải không ngừng tu dưỡng, rèn luyện về bản lĩnh, năng lực, trí tuệ, đạo đức cách mạng và phương pháp, tác phong công tác, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, hoàn thành tốt sứ mệnh lịch sử, tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên. Đó là cơ sở, nền tảng vững chắc nhất để nhân dân ta luôn giữ trọn niềm tin, một lòng đi theo Đảng, thừa nhận sự lãnh đạo của Đảng; đồng thời, cũng là minh chứng thuyết phục nhất để bác bỏ mọi luận điệu thù địch hòng hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng, chống phá Đảng. Thực tiễn hơn 85 năm qua đã khẳng định, sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam đã trở thành lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội một cách chính đáng, hợp lòng dân, được lịch sử chấp nhận, Hiến pháp quy định và giao phó sứ mệnh mà không một lực lượng nào có thể thay thế được. Thực tiễn cũng cho thấy, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng gặp không ít khó khăn, trở ngại, có lúc do giáo điều, chủ quan, duy ý chí, hành động chưa đúng quy luật khách quan dẫn đến sai lầm, khuyết điểm. Điều quan trọng là ở chỗ, mỗi khi phạm phải sai lầm, khuyết điểm, Đảng không bảo thủ, bàng quan, trái lại đều kiên quyết sửa chữa, thể hiện tinh thần cầu thị, trách nhiệm chính trị trước nhân dân, dân tộc. Nhưng, trớ trêu là một số kẻ thù địch, cơ hội chính trị lại không thấy hoặc cố tình lờ đi điều ấy, hơn thế họ còn thổi phồng những khuyết điểm, sai lầm đó và quy kết Đảng ta không đủ năng lực lãnh đạo Nhà nước và xã hội trong điều kiện mới của đất nước. Cần phải dè chừng và hết sức tỉnh táo với những luận điệu thâm độc này. Đảng ta không né tránh và phủ nhận hiện nay, vẫn còn một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, làm ảnh hưởng đến uy tín, niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng đã thẳng thắn chỉ ra tình trạng trên và đề ra hệ thống các giải pháp cấp bách để tiếp tục đổi mới, xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Việc kiểm điểm, tự phê bình và phê bình trong Đảng đã tạo sự chuyển biến bước đầu, có tác dụng cảnh báo, răn đe, phòng ngừa những hành vi tham nhũng, tiêu cực, góp phần ngăn chặn tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Vì vậy, không thể vin vào những khuyết điểm, hạn chế, yếu kém hiện nay để phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng; cũng không thể đồng nhất toàn bộ Đảng Cộng sản với một số cán bộ, đảng viên tham nhũng, thoái hóa, biến chất, quy chụp mọi khuyết điểm, sai lầm, tiêu cực trong xã hội về cho Đảng. Làm như vậy là “chỉ thấy cây mà không thấy rừng”, không thấy được bản chất cũng như công lao to lớn của Đảng đối với dân tộc. Phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng là phủ nhận lịch sử, phủ nhận lòng tin của nhân dân, đi ngược lại quyền lợi của dân tộc. Gần 86 năm đồng hành cùng dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định được vai trò sứ mệnh lịch sử đối với cách mạng Việt Nam. Càng trong những hoàn cảnh khó khăn, bước ngoặt lịch sử thì bản lĩnh, trí tuệ, ý chí của Đảng càng tỏa sáng; đường lối, chủ trương của Đảng càng thể hiện sự đúng đắn, khoa học, bám sát thực tiễn đất nước và đòi hỏi bức thiết của nhân dân. Mỗi khi tình hình cách mạng có sự biến động, phát triển, Đảng đều chủ động điều chỉnh, hoàn thiện Cương lĩnh, đường lối, phương thức lãnh đạo, đề ra chủ trương, giải pháp, phát huy vai trò đội ngũ cán bộ, đảng viên, huy động sức mạnh toàn dân tộc, vượt qua khó khăn, thách thức để lãnh đạo hoàn thành mục tiêu cách mạng đề ra. Điều đó đã thể hiện bản lĩnh của một Đảng được tôi luyện trong các phong trào đấu tranh cách mạng, đủ khả năng giải quyết những vấn đề trọng đại của đất nước trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Thực tế là vậy, song các thế lực thù địch, những kẻ cơ hội chính trị vẫn không ngừng chĩa mũi nhọn công kích, bôi nhọ, nói xấu Đảng bằng những lời lẽ quy chụp, bịa đặt. Chúng lấy quan điểm “dân chủ”, “nhân quyền” tư sản để đồng nhất dân chủ với đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập; nhà nước pháp quyền với thiết chế tam quyền phân lập; nhân quyền với tuyệt đối hóa quyền của cá nhân rồi vu cáo Đảng ta là “mất dân chủ”... Không phải ngẫu nhiên mà chúng lại đưa những bài viết xuyên tạc vai trò lãnh đạo của Đảng, nói xấu một số cán bộ, đảng viên cấp cao của Đảng đúng vào thời điểm Đảng ta đang chuẩn bị đại hội các cấp tiến tới Đại hội lần thứ XII của Đảng. Với kiểu tuyên truyền như vậy, chúng hy vọng làm cho người dân hiểu rằng cán bộ, đảng viên của Đảng, nhất là những người nắm những chức vụ quan trọng trong bộ máy lãnh đạo Đảng, Nhà nước đã lợi dụng quyền hạn để vun vén cá nhân; gây ra mối nghi ngờ, làm mất niềm tin của nhân dân đối với Đảng, chế độ... Đối với các đảng viên cộng sản chân chính và quảng đại quần chúng nhân dân, không còn lạ lẫm gì kiểu tuyên truyền "chọc ngoáy" này và chắc chắn sẽ nhận ra đó chỉ là những sự bịa đặt không hơn không kém. Sự thực Đảng có còn vai trò lãnh đạo đối với Nhà nước và xã hội hay không chỉ có người dân Việt Nam mới có quyền trả lời điều đó. Chính nhân dân-chứ không phải ai khác mới là người đánh giá chính xác nhất vai trò, uy tín của Đảng, là người có tiếng nói quyết định trong việc lựa chọn sự lãnh đạo đối với cách mạng Việt Nam, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Còn những người vụ lợi chính trị, tuyên truyền bịa đặt... thì đều không đủ tư cách để có tiếng nói trong vấn đề này. Hiến pháp là đạo luật cơ bản, là căn cứ xây dựng toàn bộ hệ thống pháp luật, điều chỉnh các mối quan hệ giữa Nhà nước với các tổ chức chính trị, kinh tế, xã hội và công dân. Do đó, việc Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khẳng định về mặt nguyên tắc Đảng Cộng sản Việt Nam "là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật" không phải do Đảng tự đề xướng, mà là có tính chất bắt buộc đối với chính đảng duy nhất lãnh đạo và cầm quyền, thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiến pháp và pháp luật. Vi phạm nguyên tắc này là vi phạm pháp luật, phải bị xem xét, xử lý theo quy định của pháp luật. Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội không chỉ được quy định trong Hiến pháp, mà còn được cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, các tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế hoặc điều lệ của các cơ quan, tổ chức tùy theo mối quan hệ cụ thể. Có thể nói, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội được xây dựng trên cơ sở pháp lý đồng bộ (hệ thống các văn bản pháp luật) và đồng thuận (điều lệ, quy định) của các tổ chức có liên quan, không phải do Điều lệ Đảng "đơn phương" quy định. Đây là một yếu tố quan trọng bảo đảm tính chính danh đầy đủ được quy định tại Điều 4 Hiến pháp và Điều lệ Đảng, điều lệ các tổ chức chính trị-xã hội và tổ chức xã hội nghề nghiệp về mối quan hệ của Đảng với các tổ chức khác. Để giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, Đảng phải thường xuyên đổi mới, thống nhất về nhận thức và hành động, làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ; đấu tranh làm thất bại chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, nhất là thủ đoạn “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, bảo đảm giữ vững trong sạch nội bộ Đảng. Trước mắt, phải phát huy trí tuệ tập thể, sự đoàn kết, thống nhất, đồng thuận trong Đảng và trong xã hội, tiến hành thành công Đại hội lần thứ XII của Đảng, đề ra đường lối đúng đắn lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế trong tình hình mới. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội đang đặt ra những yêu cầu mới rất cao và toàn diện, song còn nhiều khó khăn, thách thức, trở ngại. Nhưng, với bản lĩnh đã được tôi luyện trong thực tiễn cách mạng, nhất định Đảng ta sẽ vượt qua, làm tốt sứ mệnh lịch sử mà dân tộc và nhân dân giao phó. Mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá nhằm làm mất uy tín, danh dự, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội nhất định sẽ thất bại thảm hại.

1 nhận xét: