Việt
Nam nằm trên bờ phía Tây của Biển Đông. Biển Đông gắn bó mật thiết với lịch sử
dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.
Vùng biển nước ta
có diện tích hơn 1.000.000km2, rộng gấp ba lần diện tích lãnh thổ
đất liền. Nước ta có chủ quyền gần 3.000 hòn đảo lớn, nhỏ; trong
đó có 2
quần đảo xa bờ là Hoàng Sa và Trường Sa; có
bờ
biển dài khoảng 3.260km,
đứng thứ 27 về chiều dài bờ biển trong tổng số 157 quốc gia và vùng lãnh thổ ven
biển của thế giới.
Việt
Nam được đánh giá là quốc gia có nhiều thuận lợi về điều kiện địa lý biển, tỷ lệ
diện tích đất liền và chiều dài bờ biển là 100km2/1km (tỷ lệ đó trên thế
giới khoảng 600km2/1km). Tài nguyên vùng biển
và ven biển nước ta rất phong phú và đa dạng, phân bố rộng khắp ven biển, ven bờ, các hải đảo
và các vùng biển khơi. Ven bờ, ven biển nước ta có khoảng 110 cửa sông (trung bình khoảng 30km
bờ biển có một cửa sông),
khoảng 49 cảng biển... Cả nước có 28 tỉnh, thành có
biển; trong đó, có 11 huyện đảo và thành phố đảo Phú Quốc. Trên 50% số dân của
nước ta sống ở các tỉnh ven biển. Đó là những điều kiện khách quan thuận lợi để
chúng ta phát triển một cách đa dạng các ngành kinh tế biển, bao gồm kinh tế
biển khơi, kinh tế ven biển và kinh tế hải đảo.
Để
khai thác tiềm năng và lợi thế của biển, đáp ứng đòi hỏi khách quan của công
cuộc xây dựng đất nước trong thời kỳ đổi mới, ngày 06/5/1993, Bộ Chính trị Ban Chấp
thành Trung ương khóa VII đã
ra Nghị quyết số 03-NQ/TW về một số nhiệm vụ phát triển kinh tế biển trong
những năm trước mắt, trong đó xác định: “Trở thành một nước mạnh về biển là mục
tiêu chiến lược xuất phát từ yêu cầu và điều kiện khách quan của sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam”. Nghị quyết số 03-NQ/TW của Bộ Chính trị đã
nhanh chóng đi vào cuộc sống của đất nước, định hướng cho kinh tế biển và thúc
đẩy kinh tế biển phát triển. Chỉ trong thời gian ngắn, kinh tế biển nước ta đã
có sự phát triển đáng kể, đã chứng tỏ ưu thế so với các vùng kinh tế khác ở cả
ba giá trị: Nhịp độ tăng trưởng, kim ngạch xuất khẩu và thu hút vốn đầu tư của
nước ngoài.
Ngày 22/9/1997, Bộ Chính trị Ban Chấp thành Trung ương khóa VIII ra
Chỉ thị số 20-CT/TW về đẩy mạnh phát triển kinh tế biển theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa; trong đó đã chỉ rõ: “Vùng biển, hải đảo và ven biển là địa bàn
chiến lược có vị trí quyết định đối với sự phát triển của đất nước ta; là tiềm
năng và thế mạnh quan trọng cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa”. Đại hội lần thứ IX của Đảng tiếp tục khẳng định: “phát
triển tổng hợp kinh tế biển và ven biển, khai thác lợi thế của các khu vực cửa
biển, hải cảng để tạo thành vùng phát triển cao, thúc đẩy các vùng khác. Xây
dựng căn cứ hậu cần ở một số đảo để tiến ra biển khơi”[1]. Tại Đại hội lần thứ X của Đảng
cũng chỉ ra, cần phải “xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế biển
toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm; sớm đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về
kinh tế biển trong khu vực, gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh và hợp tác quốc
tế”[2]. Kế
thừa, phát triển các nghị quyết trên, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về
“Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn
đến năm 2045” (Nghị quyết số
36-NQ/TW khóa XII) đã
xác định: Mục tiêu tổng quát đến
năm 2030 là đưa Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh; đạt
cơ bản các tiêu chí về phát triển bền vững kinh tế biển; hình thành văn hóa
sinh thái biển; chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng; ngăn
chặn xu thế ô nhiễm, suy thoái môi trường biển...
Những thành tựu khoa học mới, tiên tiến, hiện đại trở thành nhân tố trực tiếp
thúc đẩy phát triển bền vững kinh tế biển.
Triển
khai thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, kinh tế biển đang phát huy vai
trò “đầu tàu” thúc đẩy các vùng kinh tế khác phát triển. Thu nhập của đất nước
từ kinh tế biển càng ngày càng tăng, kinh tế biển đang góp phần ngày càng quan
trọng hơn vào sự nghiệp xây dựng đất nước.
Trong thời gian tới, để kinh tế biển phát huy những thành
quả đã đạt được và nhanh chóng vươn lên, bên cạnh việc khai thác có hiệu quả những
nguồn lợi to lớn của biển, chúng ta cần phải khắc phục những hạn chế đã bộc lộ
trong những năm qua về đầu tư cơ sở vật chất của các ngành kinh tế biển, năng
lực khai thác tài nguyên biển; công tác điều tra cơ bản, nghiên cứu khoa học,
cũng như việc hoạch định quy hoạch, kế hoạch và chính sách về biển; quản lý các
hoạt động kinh tế biển...; cần có các giải pháp để đối phó có hiệu quả với môi
trường tự nhiên rất khắc nghiệt và nhiều biến động ở vùng ven biển, ở trên biển...
Vì vậy, Đại hội lần thứ XIII của Đảng tiếp
tục xác định: “Thực hiện tốt Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển, kết
hợp chặt chẽ với bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền biển, đảo, tài
nguyên, môi trường biển; phòng, chống thiên tai, tìm kiếm cứu nạn, thích ứng
với biến đổi khí hậu, nâng cao đời sống nhân dân vùng biển, đảo”[3].
Biển
Đông đã và đang cho chúng ta nhiều lợi ích để làm giàu cho Tổ quốc; đồng thời,
cũng đang đòi hỏi chúng ta phải đầu tư lớn hơn nữa về tiền của, sức lực và trí
tuệ của con người để Biển Đông có thể tiếp tục đóng góp ngày càng nhiều hơn vào
sự nghiệp xây dựng thành công Chủ nghĩa xã hội, đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, có vị
trí và tầm cao xứng đáng trong thời đại mới của loài người - “thời đại biển”.
[1]
Đảng Công sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb CTQG, HN, 2001, tr. 182
[2]
Đảng Công sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb CTQG, HN, 2006, tr. 93
[3]
Đảng Công sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb CTQG, HN, 2021, tr. 125
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét