Từ
giữa Thế kỷ XX, cuộc đấu tranh vì chủ quyền và lợi ích quốc gia trên biển đã
diễn ra hết sức quyết liệt, giữa một bên là số ít các cường quốc biển với một
bên là các nước đang phát triển chiếm đa số. Qua hai hội nghị về luật biển (năm
1958 và 1960) do Liên hợp
quốc triệu tập, các nước đang phát triển đã nhận ra âm mưu của các nước đế quốc
muốn thu hẹp lãnh hải của các nước ven biển và lợi dụng ưu thế về khoa học công
nghệ để chiếm trước những khu vực rộng lớn của đại dương nên đã đẩy mạnh hơn cuộc
đấu tranh nhằm đạt tới sự phân chia, sử dụng biển và đại dương thế giới một
cách công bằng.
Hội
nghị quốc tế về
luật biển lần thứ ba, sau 5 năm trù bị (1967-1972) và 9 năm thương lượng (1973-1982), ngày 10/12/1982, với 119
đoàn đại biểu quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, đã chính thức ký kết “Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982” và có hiệu lực kể
từ ngày 16/11/1994 (sau
đây gọi là “Công ước về Luật Biển 1982”). Sự ra đời Công ước về
Luật Biển 1982 được đánh giá là kết quả của cuộc đấu tranh đòi thay đổi trật tự
pháp lý cũ trên biển của các nước thuộc thế giới thứ ba. Công ước được coi là “Hiến pháp đại dương”, bảo đảm việc sử
dụng, khai thác biển và đại dương một cách công bằng; đồng thời, bảo vệ được
môi trường, giữ gìn nguồn tài nguyên biển cho sự phát triển bền vững của các
thế hệ mai sau. Tuy
nhiên, Công ước về Luật Biển 1982 không thể thỏa mãn đòi hỏi của mọi quốc gia do
điều kiện địa lý biển và những yêu cầu khác nhau của từng quốc gia.
Công
ước về Luật Biển 1982 đã tạo ra sự thay đổi lớn về địa - chính trị trên biển và
đại dương thế giới, hầu hết các quốc gia ven biển phải vẽ lại bản đồ hành chính
của mình, phải xác định lại biên giới quốc gia và ranh giới vùng đặc quyền về
kinh tế và thềm lục địa. Nhiều nước phải điều chỉnh, bổ sung, thậm chí phải
thay đổi hàng loạt chiến lược và chính sách (kinh tế, đối ngoại, quốc phòng, an
ninh, khoa học, công nghệ, giáo dục...) cho phù hợp với sự thay đổi về địa lý
biển. Đối với nhiều nước có tiềm lực kinh tế và khoa học công nghệ mạnh, chiến
lược biển của họ là phải bảo đảm được hai lợi ích: lợi ích trên các vùng biển, thềm
lục địa quốc gia và lợi ích trên đại dương của thế giới; nên đối với họ, một vùng
đặc quyền về kinh tế rộng 200 hải lý và một thềm lục địa rộng 200 hoặc 350 hải lý là quá nhỏ
hẹp. Trong cuộc tiến quân ra biển, các nước mạnh về kinh tế và khoa học công
nghệ vẫn đang chiếm ưu thế. Công ước về Luật Biển 1982 có những điều khoản mà những
nước này có thể tận dụng, như:
Quyền tự do đánh cá, tự do nghiên cứu khoa học ở biển cả; khai thác đáy đại
dương...
Công
ước về Luật Biển 1982 cũng quy định trình tự và thủ tục giải quyết các tranh
chấp trên biển giữa các quốc gia bằng biện pháp hòa bình và thông qua cơ quan
tài phán của Liên hợp
quốc. Trong đó, bao gồm giải quyết các tranh chấp biển, đảo đã nảy sinh từ trước, cũng
như các tranh chấp,
bất đồng (kể
cả tranh chấp những hòn đảo nhỏ bé, thậm chí cả những bãi đá chưa nhô lên khỏi
mặt nước) giữa các nước khi vận dụng Công ước về Luật Biển 1982 để xác định
ranh giới vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa quốc gia. Tuy vậy, các tranh chấp
này phần lớn vẫn tồn tại đến ngày nay với tính chất ngày càng quyết liệt do trên
thế giới vẫn đang tồn tại những thế lực muốn giải quyết tranh chấp bằng sức
mạnh quân sự; vì họ cho rằng, đây là cơ hội cuối cùng để mở rộng biên giới ra
phía biển. Ngoài ra, trên biển và đại dương thế giới đang ẩn chứa những kho vũ
khí hạt nhân khổng lồ, tạo ra mối uy hiếp thường xuyên đối với sự tồn tại của
loài người. Các nước lớn đang tiếp tục tăng cường đầu tư cho phát triển hải
quân để thực hiện chiến lược đại dương của họ trong Thế kỷ XXI, đang sử dụng biển và
đại dương như những con đường thuận lợi nhất để tiến hành các hoạt động xâm
lược và can thiệp ở khắp nơi trên thế giới.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét