Chủ Nhật, 24 tháng 7, 2022

GIÁO DỤC ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM TRONG CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ 4: CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC

 Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 với tốc độ phát triển nhanh chóng và có những tác động sâu rộng đến sự phát triển của mỗi quốc gia, nếu bị bỏ lại phía sau của cuộc cách mạng này thì sự tụt lùi về phát triển cũng là tất yếu. Ngược lại nếu tận dụng tốt những lợi thế của cuộc cách mạng này mang lại thì cơ hội là rất to lớn. Cách mạng công nghiệp 4.0 có nền tảng là con người, trong đó nhân lực chất lượng cao là cốt lỗi cho sự phát triển. Đây cũng là hướng phát triển mà Việt Nam cần chuẩn bị cho những thay đổi không ngừng trong tương lai.

Khái quát về cuộc cách mạng công nghiệp 4.0

Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 là sự gắn kết giữa các ngành công nghệ. Đó là các công nghệ Internet vạn vật, trí tuệ nhân tạo, người máy, xe tự lái, in ba chiều, máy tính siêu thông minh, công xưởng thông minh, công nghệ nano, công nghệ sinh học… Theo Khoa và cộng sự (2016), xuất hiện từ thập niên đầu của thế kỷ XXI, cuộc cách mạng này đã thay đổi mạnh mẽ về nguồn lực sản xuất, máy móc được kết nối Internet và liên kết với nhau qua một hệ thống có thể tự vận hành toàn bộ quá trình sản xuất theo một kế hoạch đã được xác lập từ trước. Các thiết bị tinh vi hơn như máy tính, điện thoại, các vệ tinh kết nối thông tin, hệ thống Internet lần lượt ra đời. Trong một báo cáo của chính phủ Đức năm 2011, cụm từ “Cách mạng công nghiệp 4.0” đã trở nên phổ biến tại nhiều quốc gia phát triển trên thế giới và được định nghĩa là “một cụm thuật ngữ cho các công nghệ và khái niệm của tổ chức trong chuỗi giá trị” đi cùng với các hệ thống vật lý trong không gian ảo, Internet kết nối vạn vật (IoT) và Internet của các dịch vụ (IoS). Bản chất của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 là dựa trên nền tảng công nghệ số và tích hợp tất cả các công nghệ thông minh để tối ưu hóa qui trình, phương thức sản xuất, nhấn mạnh những công nghệ đang và sẽ có tác động lớn nhất là công nghệ in 3D, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hóa, người máy.

Vậy cuộc cách mạng công nghệ 4.0 đối với giáo dục đại học Việt Nam được hiểu như thế nào? Đó là một mô hình giáo dục thông minh, nhằm liên kết chủ yếu giữa các yếu tố nhà trường - nhà quản lý - nhà doanh nghiệp. Đây là một môi trường thuận lợi tạo điều kiện cho sinh viên cũng như giảng viên thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp, gắn kết giữa giáo dục đại học với các doanh nghiệp cùng nỗ lực phát triển kinh tế - xã hội. Ngoài ra cũng giúp cho hoạt động giảng dạy được diễn ra thuận lợi mọi lúc mọi nơi, người học có thể cá nhân hóa, hoàn toàn quyết định việc học tập của mình mà không cần gò bó về thời gian, địa điểm. Sinh viên có thể đeo kính VR (kính thực tế ảo) và có cảm giác như đang ngồi trong lớp nghe bài giảng, hay nhập vai để chứng kiến những trận đánh giả lập, ngắm nhìn di tích, mang lại cảm xúc và sự ghi nhớ sâu sắc, giúp bài học thấm thía hơn. Trường đại học không chỉ là nơi đào tạo, nghiên cứu mà còn là trung tâm đổi mới sáng tạo, giải quyết các vấn đề thực tiễn, mang giá trị cho xã hội. Xóa bỏ quan niệm giảng đường, lớp học hay phòng thí nghiệm là dính chặt với bốn bức tường, mà phải mở rộng kết hợp với các doanh nghiệp, với thị trường lao động để trở thành một hệ sinh thái giáo dục. Tác động của cuộc cách mạng 4.0 tới giáo dục của Việt Nam. Thế giới ngày nay đang trải qua những thay đổi lớn chưa từng có. Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã, đang và sẽ tiếp tục tạo ra những biến động mạnh mẽ, gây ảnh hưởng đến mọi mặt của cuộc sống con người trong thế kỷ 21. Cuộc cách mạng này sẽ ảnh hưởng sâu sắc đến nền kinh tế, xã hội toàn cầu, trong đó có nền giáo dục Việt Nam. Nếu coi giáo dục đại học là bước chuẩn bị hành trang cần thiết cho người học tự tin bước vào cuộc sống, thì nhà trường cần trang bị một cách đầy đủ những kỹ năng cũng như kiến thức cần thiết cho họ, không chỉ cho hiện tại mà còn cả cho tương lai. Từ sự xuất hiện robot có trí tuệ nhân tạo với những tính năng có thể thay thế con người thậm chí có khả năng tính toán, ghi nhớ, nói được nhiều ngôn ngữ khác nhau và hơn nữa là có sức lao động bền bỉ, năng suất cao. Với những tính năng đó có thể tạo ra nguy cơ phá vỡ thị trường lao động, trên thực tế những nước tiên tiến như nước Nhật, Mỹ cũng đã dùng robot trong một số lĩnh vực sản xuất như sản xuất xe ôtô, các ngành công nghiệp cơ khí,… Bởi một khi tự động hóa, số lượng lao động mà máy móc có thể thay thế được sẽ bị dư thừa và các công việc an toàn với thu nhập cao hơn có thể sẽ gia tăng. Lao động nghề, lao động phổ thông có thể dần sẽ được thay thế bằng những dây chuyền sản xuất tự động; lao động trình độ cao, bác sĩ, kỹ sư, giáo viên, … phải không ngừng học tập, cải tiến, chủ động tiếp cận những cái mới cái tiến bộ của thời đại, có như thế mới có thể cạnh tranh, mới có thể làm chủ được máy móc và làm chủ được thời cuộc. Thực tế hiện nay, giáo dục đại học về tổng thể vẫn chưa đáp ứng nhu cầu của các nhà tuyển dụng. Quy mô thiếu hụt kỹ năng khác nhau tùy theo lĩnh vực ngành nghề. Theo TS. Mai Văn Tỉnh (2017), thì khảo sát điều tra của Học viện chế tạo và Hãng Deloitte với 450 giám đốc điều hành sản xuất cho thấy những lĩnh vực mà nhân công thiếu kỹ năng nhất là: Công nghệ và máy tính (70%), giải quyết vấn đề (69%), đào tạo kỹ thuật cơ bản (67%) và kỹ năng tính toán (60%). Theo các chuyên gia trong ngành giáo dục, trong thời đại mới, người ta sẽ không còn quá quan trọng đến một tấm bằng một cách hình thức, đến nguồn gốc xuất thân hay những mối quan hệ, vấn đề là kiến thức, trình độ chuyên môn, kỹ năng... Trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, cơ hội dành cho tất cả mọi người là như nhau. Ai có năng lực thực sự, có trình độ chuyên môn tốt, có kỹ năng và có thể tạo ra nhiều giá trị cho xã hội, người đó sẽ thành công. Đối với các trường đại học, cách mạng công nghiệp 4.0 đòi hỏi phải đào tạo ra nguồn nhân lực có các kỹ năng mới và trình độ giáo dục cao hơn. Như vậy, có thể thấy sự tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 tới giáo dục là rất lớn, vừa tạo ra cơ hội nhưng cũng đặt ra những thách thức ngày càng nhiều hơn cho các cơ sở giáo dục. Cơ hội và thách thức từ cách mạng công nghiệp 4.0 đối với giáo dục Việt Nam

Theo TS Nguyễn Thắng – Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam nhận định, trong trung hạn, một số ngành nghề ở Việt Nam có thể bị tác động tiêu cực, như nhóm ngành năng lượng, công nghiệp chế tạo, dệt may, điện tử… Tuy nhiên, ông cũng cho rằng, nhiều lĩnh vực cũng sẽ được hưởng lợi từ cuộc cách mạng này nếu đi đúng hướng và bắt được nhịp, như du lịch, thương mại nội địa, công nghệ thông tin, giáo dục, y tế, xây dựng, chính phủ điện tử. Vì vậy, chúng ta cần phải có kế hoạch tái cơ cấu phù hợp. Theo Thái An (2017), cách mạng công nghiệp 4.0 mở ra nhiều cơ hội cho các nước, đặc biệt là các nước đang phát triển để nâng cao năng suất và rút ngắn khoảng cách phát triển. Tại buổi triển lãm “Vietnam Manufacturing Expo (VME) 2017” với nội dung “Công nghiệp sản xuất Việt Nam – hành trình hướng tới ngành công nghiệp 4.0”, giám đốc điều hành công ty ReedTradex (Thái Lan) đã nhận định việc áp dụng thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ giúp doanh nghiệp sản xuất công nghiệp của Việt Nam giảm 3,6% chi phí hoạt động và tăng 4,1% hiệu suất trong một năm và nguồn nhân lực của Việt Nam đã sẵn sàng để học hỏi và bước vào kỷ nguyên công nghiệp 4.0. Cuộc cách mạng công nghiệp lần này là xu hướng phát triển dựa trên nền tảng số hóa và kết nối, có quy mô tác động mạnh mẽ tới mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội, làm thay đổi phương thức và lực lượng sản xuất trong tương lai và quá trình hội nhập quốc tế; đặc biệt khi Việt Nam đang hoàn tất nhiều hiệp định thương mại tự do quy mô lớn với các nước châu Âu, Liên minh kinh tế Á – Âu… thì việc bắt kịp với xu hướng phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ giúp nâng cao hiệu quả của việc tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy vậy, ở Việt Nam cách mạng công nghiệp 4.0 vẫn còn nằm ở dạng khái niệm, và chính phủ, các doanh nghiệp hay người lao động vẫn chưa định hình chính xác được sự tồn tại của cuộc cách mạng này trong quá trình phát triển của đất nước. Và điều kiện cần để một quốc gia sẵn sàng tiếp thu nguồn công nghệ mới từ cuộc cách mạng này đó là chiến lược tổng thể của quốc gia đó. Tuy nhiên, khi chúng ta vẫn chưa thực sự đi vào giai đoạn chín muồi của cuộc cách mạng lần thứ ba thì việc chủ động thay đổi chính sách phát triển cho phù hợp với tình hình hiện nay là vô cùng khó khăn và cần nhiều thời gian để thích ứng. Ngoài ra, đối mặt với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ là vô vàn thách thức cho Việt Nam khi những yếu tố mà chúng ta đang tự coi là ưu thế như lực lượng lao động thủ công trẻ, dồi dào sẽ không còn là thế mạnh nữa, thậm chí bị đe dọa nghiêm trọng. Theo PGS. TS Mạc Văn Tiến – Viện trưởng Viện nghiên cứu khoa học dạy nghề, lao động phổ thông không có chuyên môn kỹ thuật chiếm 83,28% tổng số lao động; lao động đã qua đào tạo nghề chỉ chiếm tỷ lệ 4,84%; lao động có trình độ trung cấp chuyên nghiệp là 3,61% và lao động có trình độ từ cao đẳng, đại học trở lên chiếm 8,26%. Đến năm 2016, con số này chỉ giảm khoảng 3% tương ứng với số lao động không có chuyên môn kỹ thuật chiếm đến 78,6% lực lượng lao động, trong đó có đến hơn 37 triệu lao động ở nông thôn và hơn 17,5 triệu lao động ở thành thị. Cả nước chỉ có khoảng 10,9 triệu người có việc làm, tương ứng với 20,6%, đã được đào tạo. Có sự chênh lệch đáng kể về tỷ lệ lao động đang làm việc đã qua đào tạo giữa thành thị và nông thôn, mức chênh lệch này là 24,4% (thành thị là 37,2% và nông thôn là 12,8%). Theo Tổng cục thống kê (2017), trong giai đoạn 2005-2015, mặc dù lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp có giảm, nhưng vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất. Cụ thể, nông nghiệp giảm từ 55,09% năm 2005, xuống 45,19% năm 2015; lần lượt công nghiệp tăng từ 17,59 lên 21,78%; dịch vụ tăng từ 27,32% lên 33,03%. Điều này sẽ gây khó khăn cho nước ta trong quá trình bước vào cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Trong bài phát biểu tại hội thảo quốc tế tại Việt Nam hồi tháng 11/2016, Chủ tịch Tập đoàn FPT Trương Gia Bình cũng khẳng định, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra rất nhanh và làm thay đổi toàn diện diện mạo, tư duy người chủ - người làm thuê, cũng như cách thức làm việc trước đây của con người. Để tận dụng cơ hội và vượt qua thách thức của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, Việt Nam cần thúc đẩy chính sách sáng tạo trong công nghệ, khuyến khích khởi nghiệp; thay đổi toàn diện giáo dục và đào tạo để Việt nam có một nguồn nhân lực có thể ứng dụng nhanh nhất những thành tựu mà cuộc cách mạng số tạo ra nhằm tạo ra những đột biến cho nền kinh tế. Theo PGS.TS Nguyễn An Hà, trên cơ sở phân tích những thuận lợi và thách thức của Việt Nam trước ngưỡng cửa của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư như trên, tham khảo chiến lược, chính sách của các nước có thể rút ra một số khuyến nghị đối với Việt Nam như sau:

Một là, Chính phủ tạo hành lang pháp lý, sửa đổi các quy định của pháp luật và chính sách công nghiệp mới trước cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 tính đến các yếu tố như cải thiện điều kiện khung, thực thi các quy tắc cạnh tranh, mở cửa thương mại, kỹ năng chuyên môn. Hỗ trợ các liên kết, các hoạt động đổi mới dựa trên các hình thức khác nhau giữa các doanh nghiệp, trường đại học, cá nhân; tăng cường hỗ trợ kinh doanh trong các lĩnh vực công nghệ mới; thu hút các công ty đa quốc gia nước ngoài và tăng cường vai trò của các công ty trong nước trong các chuỗi giá trị toàn cầu. Bên cạnh đó, nâng cao hiệu quả quản lý an ninh mạng, hệ thống quản lý sở hữu trí tuệ khi các công nghệ mới sẽ làm mờ ranh giới giữa các quốc gia, châu lục, đẩy cao tối đa mức độ chia sẻ thông tin khắp mọi nơi. Tạo môi trường thông thoáng cho doanh nghiệp sáng tạo và coi doanh nghiệp là trung tâm của sự phát triển.

Hai là, tăng cường đầu tư và phân bố hợp lý nguồn vốn đầu tư cho phát triển khoa học công nghệ kết hợp thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực. Xây dựng chiến lược phát triển ngành tự động hóa và công nghệ cao, chú trọng hợp tác giữa khoa học công nghệ và sản xuất, kinh doanh, triển khai ứng dụng các công nghệ mới đặc biệt trong khu vực doanh nghiệp tư nhân. Tăng cường các nghiên cứu khoa học công nghệ cao, đầu tư nghiên cứu, tiếp cận nhanh với xu hướng khoa học công nghệ trong các lĩnh vực như vật liệu mới, năng lượng mới, kỹ thuật số, công nghệ thông tin, tự động hóa và trí tuệ nhận tạo, công nghệ sinh học. Chúng ta đã xác định khoa học công nghệ là động lực quan trọng nhất trong chiến lược phát triển của Đại hội lần thứ XII, tuy nhiên việc đầu tư cho động lực này còn rất hạn chế.

Ba là, phát triển khoa học công nghệ, động lực quan trọng nhất phải gắn kết với các động lực quan trọng khác trong nền kinh tế thị trường hiện đại là hội nhập quốc tế và doanh nghiệp tư nhân một cách hài hòa, hữu cơ, tạo ra một môi trường kinh doanh, hội nhập hướng tới số hóa, gia tăng hàm lượng khoa học công nghệ, giá trị gia tăng và năng lực cạnh tranh. Muốn vậy cần phải có một hệ thống giải pháp cụ thể, đồng bộ, phù hợp với “lực lượng sản xuất” mới, gắn kết thị trường khoa học công nghệ với thị trường hàng hóa, dịch vụ, gắn kết giáo dục đào tạo với nhu cầu của kinh tế thị trường, xây dựng hệ thống đổi mới quốc gia nhằm đưa các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng vai trò trung tâm trong phát triển kinh tế số, biến khoa học công nghệ và giáo dục đào tạo thực sự trở thành động lực và mục tiêu của phát triển.

Bốn là, thực hiện các giải pháp hỗ trợ như tuyên truyền, tăng cường nhận thức cho toàn xã hội, đặc biệt là cộng đồng doanh nghiệp về xu hướng tất yếu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Tăng cường hợp tác quốc tế trong nghiên cứu phát triển và chuyển giao công nghệ, đặc biệt các lĩnh vực và đầu tư, tài trợ cho các tổ chức, cá nhân có sáng kiến khoa học công nghệ xuất sắc.

Chính phủ Việt Nam đang đẩy mạnh vai trò kiến tạo, đẩy mạnh cải cách thể chế, tăng cường đầu tư tạo môi trường kinh doanh năng động để thúc đẩy lan tỏa công nghệ, cải thiện thị trường lao động, hệ thống giáo dục - đào tạo nâng cao kỹ năng và phát triển nguồn nhân lực thích ứng với biến đổi nhanh của công nghệ và sự phát triển của cách mạng công nghiệp 4.0, cần phải có những nghiên cứu sâu sắc để nhận thức đầy đủ, kịp thời điều chỉnh chiến lược và chính sách một cách hiệu quả nhất.

Kết luận

Chúng ta đang đứng ở giai đoạn tiếp cận cuộc cách mạng công nghệ 4.0 nên cần tập trung sức mạnh sẵn có và nắm bắt những cơ hội của cuộc cách mạng này. Để làm được điều này, cần có một cái nhìn toàn diện và thống nhất mang tính chất toàn cầu về cách thức công nghệ tác động đến cuộc sống cũng như định hình lại môi trường kinh tế, xã hội, văn hoá và con người Việt Nam.

 

Giáo dục là một trong những lĩnh vực chịu sự tác động của cuộc cách mạng công nghệ nhanh hơn cả bởi chính giáo dục cũng sẽ tạo ra những phiên bản mới của các cuộc cách mạng công nghiệp tiếp theo.Ngay từ trên giảng đường đại học, các thầy cô giáo cần phải giúp cho sinh viên tích lũy tri thức về công nghệ thông tin, cập nhật kịp thời và ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật mới nhất của thế giới vào cuộc sống, trang bị ngoại ngữ và các kỹ năng mềm thì các bạn sinh viên khi ra trường mới có cơ hội cạnh tranh việc làm, mở ra cánh cửa để bước vào sân chơi toàn cầu hóa./.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét