Với
cương vị là người đứng đầu Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong 24
năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là người khai sinh ra nhà nước
kiểu mới ở Việt Nam, mà còn là người thầy vĩ đại trong việc phát huy vai
trò của nhân dân - chủ thể cao nhất, bảo đảm cho quyền lực nhà nước được
thực thi theo đúng tính chất quyền lực nhà nước thực sự thuộc về nhân dân.
Đến nay, việc phát huy vai trò của nhân dân trong kiểm soát quyền lực nhà
nước đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Tuy nhiên, nhận thức của một số
cấp ủy, chính quyền, người dân về kiểm soát quyền lực nhà nước, cũng như
cơ chế phát huy vai trò của nhân dân trong kiểm soát quyền lực nhà nước có
lúc, có nơi vẫn còn bất cập. Do đó, việc nghiên cứu, vận dụng các quan
điểm, tư tưởng chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phát huy vai trò của
nhân dân trong kiểm soát quyền lực nhà nước là vấn đề cấp thiết, nhằm tiếp
tục đổi mới, hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện
nay.
Kiểm
soát quyền lực nhà nước được bàn đến với nhiều định nghĩa khác nhau, song theo
nghĩa chung nhất, đó là một hệ thống cơ chế, thể chế được thực hiện bởi
nhà nước và xã hội nhằm xem xét, giám sát, phát hiện, bảo đảm cho việc
thực thi quyền lực nhà nước đúng mục đích, có hiệu quả.
Theo
C. Mác và Ph. Ăng-ghen, trong xã hội có giai cấp đối kháng, quyền lực nhà
nước nằm trong tay giai cấp thống trị; nếu chế độ nhà nước đó bị đập tan
thì quyền lực nhà nước trở về tay nhân dân như chính cội nguồn ban đầu của
nó, nhân dân là gốc, là chủ thể của quyền lực. Kế thừa và phát triển quan
điểm của C. Mác và Ph. Ăng-ghen, V.I. Lê-nin khẳng định, kiểm soát quyền
lực nhà nước là một trong những chức năng lãnh đạo, quản lý của Đảng và
Nhà nước. Đồng thời, V.I. Lê-nin cho rằng, nhân dân là chủ thể kiểm soát
nên cần phải hết sức coi trọng và phát huy vai trò nhân dân trong kiểm
soát quyền lực nhà nước. Người yêu cầu tổ chức cho toàn dân tham gia kiểm
tra và kiểm soát hoạt động của nhà nước, “tổ chức việc kiểm tra và
kiểm soát từ dưới lên, một cách dân chủ, do chính nhân dân, các hội liên
hiệp của nhân viên, của công nhân và của những người tiêu dùng, v.v., thi hành”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin
vào điều kiện cách mạng Việt Nam, đưa sự nghiệp đấu tranh của nhân dân ta
đi từ thắng lợi này tới thắng lợi khác. Những quan điểm về kiểm soát
quyền lực nhà nước thông qua vai trò nhân dân được Người vận dụng, phát
triển, gồm một số nội dung chính sau:
Thứ
nhất, nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước bằng cách giám sát, phê bình,
giúp đỡ Chính phủ.
Đề
cao vai trò của nhân dân là quan điểm nhất quán, xuyên suốt sự nghiệp
cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bởi Người quan niệm, phải tổ chức
sự kiểm soát quyền lực của nhà nước, mà muốn kiểm soát tốt thì phải có
quần chúng giúp mới được. Người cho rằng, những người lãnh đạo chỉ trông
thấy một mặt của công việc, của sự thay đổi theo cách từ trên xuống, nên
bị hạn chế. Dân chúng trông thấy công việc, sự thay đổi của mọi người,
trông thấy vấn đề theo cách từ dưới lên và cũng có hạn chế. Cho nên, Người lưu
ý, muốn giải quyết vấn đề cho đúng, thì tất yếu phải hợp kinh nghiệm cả
hai bên lại. Tại kỳ họp Hội đồng Chính phủ cuối năm 1966, Người đã nêu lên
thực trạng tại một số nơi, ở cấp cơ sở, có những cán bộ phụ trách, do rơi
vào chủ nghĩa cá nhân, thiếu tinh thần phục vụ nhân dân, đã làm những
điều đi ngược lại lợi ích của nhân dân. Do vậy, Người luôn nhất quán khẳng
định, chúng ta phải tin ở sự phê bình, kiểm soát của nhân dân. Trong tác
phẩm Sửa đổi lối làm việc (năm 1947), Người viết: “Để cho dân
chúng phê bình cán bộ, dựa theo ý kiến họ mà cất nhắc cán bộ, nhất định
không xảy ra việc thiên tư, thiên vị, nhất định hợp lý và công bằng. Đồng
thời, do sự dùi mài của dân chúng, cán bộ và dân chúng đều tiến bộ, lại do
đó, cán bộ và dân chúng đoàn kết chặt chẽ thêm”. Người luôn mong muốn nhân
dân thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua việc việc kiểm tra, kiểm
soát nhà nước: “Chính phủ ta là Chính phủ của nhân dân, chỉ có một mục
đích là ra sức phụng sự lợi ích của nhân dân. Chính phủ rất mong đồng bào
giúp đỡ, đôn đốc, kiểm soát và phê bình để làm trọn nhiệm vụ của mình là:
người đày tớ trung thành tận tụy của nhân dân”.
Thứ
hai, nhân dân kiểm soát quyền lực bằng quyền bầu cử, bất tín nhiệm
và quyền khiếu tố với đại biểu do mình cử ra.
Chủ
tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Ở quần chúng, khai hội, phê bình và bày tỏ ý
kiến, bầu cử các ủy ban, các hội đồng, v.v.; đó là những cách quần chúng
kiểm soát những người lãnh đạo”. Vậy nên, sau khi nước nhà giành được độc lập,
Người đã chủ động đề xuất với Chính phủ tổ chức Tổng tuyển cử trong cả
nước. Theo Người, tổ chức Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân
tự do lựa chọn những người có đức, có tài, để gánh vác công việc nước
nhà... Cũng từ Tổng tuyển cử mà toàn dân bầu ra Quốc hội - cơ quan đại
biểu cao nhất của nhân dân. Khi Quốc hội ra đời, sẽ cử ra Chính phủ và
Chính phủ do nhân dân cử ra chính là Chính phủ của toàn dân.
Theo
Chủ tịch Hồ Chí Minh, bầu cử là quyền và nghĩa vụ cơ bản của nhân dân
trong chế độ mới. Điều này được Người khẳng định ở Đại hội nhân dân Thủ đô
chào mừng các vị ứng cử đại biểu Quốc hội tại Hà Nội, ra mắt cử tri ngày
24-4-1960. Trong lời phát biểu, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, việc lựa
chọn những đại biểu như vậy là quyền lợi và cũng là nghĩa vụ của cử tri.
Người đề cao giá trị mà lá phiếu cử tri mang lại, bởi nó là một dấu hiệu
để khẳng định một sự thật rằng nhân dân đã thật sự làm chủ nước nhà. Trong
tác phẩm Thường thức chính trị (năm 1953), Người nhấn mạnh:
“Trong các cuộc bầu cử, công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên, không phân
biệt gái trai, tôn giáo, mức tài sản, trình độ văn hóa, không phân biệt
nòi giống đều có quyền tham gia. Đó là một cách rất hợp lý, để nhân dân
lao động thực hành quyền thống trị của mình”.
Mặt
khác, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, với những đại biểu không xứng đáng,
nhân dân có quyền bất tín nhiệm. Trong bài nói chuyện với các đại biểu
thân sĩ trí thức, phú hào tỉnh Thanh Hóa vào đầu năm 1947, Người nêu lên
tinh thần xây dựng Chính phủ vì nhân dân phục vụ, rằng nếu Chính phủ đó
làm hại dân, thì nhân dân có quyền đuổi Chính phủ. Quan điểm của Người về
quyền bất tín nhiệm đã được cụ thể hóa tại Điều thứ 20, Hiến pháp năm
1946: “Nhân dân có quyền bãi miễn các đại biểu mình đã bầu ra”. Điều này
cũng được Người đề cập trong Báo cáo về Dự thảo Hiến pháp sửa đổi tại kỳ
họp thứ 11 Quốc hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: “Nhân dân có
quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những
đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân. Nguyên
tắc ấy bảo đảm quyền kiểm soát của nhân dân đối với đại biểu của mình”.
Ngoài
ra, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đề cập đến quyền khiếu tố của nhân dân, coi
đây cũng là cách thức để nhân dân tham gia trực tiếp vào việc kiểm
soát quyền lực nhà nước. Trong Thư gửi đồng bào Liên khu IV (năm 1950),
Người viết: “Nước ta là một nước dân chủ. Mọi công việc đều vì lợi ích của
dân mà làm. Khắp nơi có đoàn thể nhân dân, như Hội đồng nhân dân, Mặt
trận, Công đoàn, Hội Nông dân cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, v.v.. Những đoàn
thể ấy là tổ chức của dân, phấn đấu cho dân, bênh vực quyền của dân, liên lạc
mật thiết nhân dân với Chính phủ. Khi ai có điều gì oan ức, thì có thể do
các đoàn thể tố cáo lên cấp trên. Đó là quyền dân chủ của
tất cả công dân Việt Nam. Đồng bào cần hiểu rõ và khéo dùng quyền ấy”.
Thứ
ba, nhân dân kiểm soát quyền lực thông qua xây dựng thể chế dân chủ. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, chế độ của ta là chế độ dân chủ,
vì nhân dân là chủ, nhân dân làm chủ, còn Chính phủ là đày tớ của nhân
dân... Theo đó, mọi công việc của Chính phủ từ việc to, việc nhỏ đều
nhằm mục đích phục vụ lợi ích của nhân dân. Trong phiên họp đầu tiên
của Chính phủ lâm thời ngày 3-9-1945, Người đề xuất “xây dựng hiến pháp
dân chủ” để thể chế hóa quyền và nghĩa vụ của nhân dân. Lời nói đầu
Hiến pháp năm 1946 - bản Hiến pháp đầu tiên của dân tộc - được Quốc hội
khóa I thông qua ngày 9-11-1946, là thành quả kết tinh trí tuệ của Ban dự
thảo do Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Trưởng ban, đã nêu rõ, nhiệm vụ của
dân tộc ta trong giai đoạn này là bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn
toàn và xây dựng nước nhà trên nền tảng dân chủ. Điều thứ 1, Hiến pháp năm
1946 còn ghi nhận quyền lực nhà nước cao nhất thuộc về nhân dân: “Tất cả
quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt
nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”.
Đánh
giá về vai trò của Hiến pháp năm 1946 trong thể chế hóa chế độ dân chủ ở
Việt Nam, Người khẳng định: “Chế độ do Hiến pháp năm 1946 xác nhận đã đảm
bảo độc lập dân tộc và một nền dân chủ rộng rãi của nhân dân”. Chủ tịch Hồ
Chí Minh còn đề cập đến việc xây dựng thể chế dân chủ nhằm huy động vai
trò của nhân dân tham gia quản lý nhà nước. Trong Báo cáo về dự thảo Hiến
pháp sửa đổi tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa I, ngày 18-12-1959, Người
nêu rõ: “Nhà nước ta phải phát triển quyền dân chủ và sinh hoạt chính trị
của toàn dân, để phát huy tính tích cực và sức sáng tạo của nhân dân, làm
cho mọi người công dân Việt Nam thực sự tham gia quản lý công việc
Nhà nước, ra sức xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thực hiện thống
nhất nước nhà”.
HAIVAN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét