Tự phê bình và phê bình là nguyên tắc, là quy luật phát triển Đảng; là một trong những nội dung cơ bản của văn hóa đạo đức - văn hóa Đảng. Tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc này, Đảng mới thực sự trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là một Đảng cách mạng, chân chính. Vì vậy, trong Di chúc, Hồ Chí Minh căn dặn: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”[1]. Sinh thời, Hồ Chí Minh nhiều lần nhấn mạnh rằng, tự phê bình và phê bình là việc phải làm thường xuyên, liên tục của mỗi cán bộ, đảng viên, của mỗi tổ chức Đảng.
“PHẢI CÓ TINH THẦN TỰ CHỈ TRÍCH”
Người cách mạng theo Hồ Chí Minh
muốn toàn tâm, toàn ý hành động và phấn đấu cho độc lập, tự do của Tổ quốc và hạnh
phúc của nhân dân thì nhất định phải có đạo đức cách mạng; phải thấm nhuần 23
điều răn về “Tư cách một người cách mệnh” được chỉ rõ trong tác phẩm Đường Cách
mệnh, xuất bản năm 1927. Những yêu cầu về phẩm chất đạo đức cách mạng đó phải
được thường xuyên, liên tục rèn luyện; được quy về 3 mối quan hệ chủ yếu, đó
là: Đối với người, đối với việc và đối với mình.
Thấm nhuần lời dạy của Người,
trong tiến trình đấu tranh cách mạng, đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng đã
không chỉ luôn sẵn sàng tận tâm, tận lực phấn đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc,
hạnh phúc của nhân dân mà còn luôn quán triệt thực hiện tự phê bình và phê
bình: Đối với mình thì phải “cả quyết sửa lỗi”, đối với người thì “có lòng bày
vẽ” để trở thành những người luôn gương mẫu đi đầu, làm mực thước cho nhân dân
noi theo. Trong gian lao kháng chiến, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và cả trong cuộc
sống đời thường, vì Đảng, vì dân, trên cơ sở của tình đồng chí thương yêu lẫn
nhau, đã có biết bao tấm gương cán bộ, đảng viên bất chấp mọi hiểm nguy, nguyện
hy sinh lợi ích cá nhân, sẵn sàng đem tính mạng của mình bảo vệ, che chở cho đồng
đội, đồng bào. Những tấm gương sáng về sự nỗ lực phấn đấu, gương mẫu hoàn thành
mọi nhiệm vụ được giao, nêu gương trong khi tiến hành tự phê bình và phê bình
trên tinh thần đồng chí ở trong Đảng, thể hiện sinh động qua các thời kỳ cách mạng
là một trong những nhân tố quan trọng làm nên sức mạnh đoàn kết, thống nhất của
Đảng, giúp Đảng làm tròn nhiệm vụ mà giai cấp công nhân, nhân dân lao động và
dân tộc giao phó trong gần 90 năm xây dựng và trưởng thành.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn có những
người “tưởng vào Đảng thì dễ tìm công ăn việc làm. Có người vào Đảng mong làm
chức này, tước nọ. Có người vì anh em bạn hữu kéo vào, v.v..”[2], nên khi có chức,
có quyền đã sa vào chủ nghĩa cá nhân, độc đoán, chuyên quyền, tham ô, tham
nhũng, xu nịnh cán bộ cấp trên nhưng lại ức hiếp cán bộ cấp dưới và quần
chúng... Họ và những người thoái hóa, biến chất như họ đã mắc bệnh tham lam, lười
biếng, kiêu ngạo, hiếu danh, thiếu kỷ luật, óc hẹp hòi, óc địa phương, óc lãnh
tụ và nhiều bệnh khác như: hữu danh vô thực, kéo bè kéo cánh, cận thị, v.v..
khiến quần chúng không tin, không phục, không yêu. Do thiếu tu dưỡng, rèn luyện
đạo đức cách mạng, giảm sút ý chí chiến đấu, họ không nghiêm túc thực hiện tự
phê bình và phê bình, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống mà chạy
theo danh lợi, tiền tài, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc… Vì thế,
đã không quy tụ và lãnh đạo được quần chúng, dẫn đến rời xa quần chúng, phá vỡ
mối quan hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân.
Vì vậy, để mỗi cán bộ, đảng viên
vừa là người lãnh đạo sáng suốt, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân,
thì chữa chạy những sai lầm, khuyết điểm không chỉ là yêu cầu tất yếu, nội tại
mà còn phải được tiến hành thường xuyên, liên tục. Năm 1951, Hồ Chí Minh đã viết
bài “Tự phê bình” (đăng báo Nhân dân, 20/5/1951); trong đó nhấn mạnh: “Tự phê bình
là gì? Là thật thà nhận, công khai nhận trước mặt mọi người những khuyết điểm của
mình để tìm cách sửa chữa”, bởi “ai cũng cần tắm rửa cho mình mẩy sạch sẽ. Thì
ai cũng cần tự phê bình cho tư tưởng và hành động đúng đắn”. Chỉ ra rằng, tự
phê bình và phê bình là “thang thuốc đặc trị” để phát huy ưu điểm và sửa chữa
sai lầm, khuyết điểm, song Hồ Chí Minh cẩn trọng nhắc nhở: dùng thuốc phải dùng
đúng, dùng sai hậu quả sẽ khôn lường. Theo Người, “mục đích của tự phê bình và
phê bình để giúp nhau tiến bộ, sửa chữa sai lầm”, chứ không phải là để “bới
lông tìm vết”, để trả thù, nên cách thức tiến hành phải có lý, có tình, có
nghĩa. Trong mọi mối quan hệ, khi công tác hay ứng xử đời thường, Hồ Chí Minh
cũng đều chú trọng chữ “tình”, vì theo Người “nhân dân ta từ lâu đã sống với
nhau có tình có nghĩa như thế”. Hồ Chí Minh hiểu rất rõ rằng, người đời không
phải thánh thần, mỗi con người đều có cá tính, sở trường, đời sống riêng, hơn nữa
trong lòng mỗi người đều có cả điều thiện và điều ác, cho nên, nếu biết làm cho
những điều thiện nảy mầm, điều ác thui chột dần đi, thì mỗi con người sẽ tốt
hơn lên, xã hội vì thế mà phát triển. Cán bộ, đảng viên cũng vậy, trong công
tác hay cuộc sống thường ngày cũng không tránh khỏi khuyết điểm cần phải khắc
phục, vì thế: “Muốn thành cán bộ tốt, phải có tinh thần tự chỉ trích”, nghĩa là
phải thường xuyên tự phê bình và phê bình, vì “không chịu tự phê bình, tự chỉ
trích thì không bao giờ tấn tới được”[3]. Học và làm theo chỉ dẫn của Hồ Chí
Minh về tự phê bình và phê bình ở hai điều chính cốt nhất: mục đích và phương
pháp, vì nếu cả hai điều này được tiến hành đúng và kịp thời thì hiệu quả của tự
phê bình và phê bình sẽ cao, góp phần hoàn thiện bản thân mỗi người, của tất cả
mọi người và đó cũng chính là một trong những phương thức cơ bản giải phóng mọi
tiềm năng của mỗi người, để con người đạt tới tự do. Tự phê bình và phê bình là
nguyên tắc quan trọng của Đảng, là việc làm cần thiết, vừa để chỉ ra ưu điểm và
khuyết điểm để rút kinh nghiệm vừa qua đó tìm được biện pháp, học được cách thức
để khắc phục hạn chế, chứ không phải là đấu tố, hạ bệ nhau. Hồ Chí Minh quan niệm,
“tự phê bình là nêu ưu điểm và vạch khuyết điểm của mình”, “phê bình là nêu ưu
điểm và vạch khuyết điểm của đồng chí mình” cho nên “tự phê bình và phê bình phải
đi đôi với nhau”. Theo đó, mục đích của tự phê bình và phê bình là “cho mọi người
học lẫn ưu điểm của nhau và giúp nhau sửa chữa khuyết điểm”, làm cho phần tốt
trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, cốt để
giúp nhau tiến bộ; cốt để sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn; cốt để
đoàn kết và thống nhất nội bộ. Do đó, phương pháp tự phê bình và phê bình là phải
được tiến hành thường xuyên như “rửa mặt hằng ngày” với tâm và động cơ trong
sáng; phải ráo riết, triệt để, thật thà, không nể nang, không thêm bớt; phải vạch
rõ cả ưu điểm và những khuyết điểm để cùng tiến bộ; lời nói phải hợp tình, hợp
lý, chớ dùng lời mỉa mai, chua cay, đâm thọc… Tuy nhiên, sai lầm và khuyết điểm
của mỗi con người khác nhau thì hình thức phê bình, xử lý cũng phải khác nhau,
mới đảm bảo được tính nghiêm túc, nếu không sẽ sinh ra thói “thậm thà thậm thụt”
mà “trong Đảng im tiếng, ngoài Đảng to mồm”. Vì vậy, để tự phê bình và phê bình
đúng và hiệu quả, nguyên tắc này phải được tiến hành trên cơ sở tình thương
yêu, khoan dung của mỗi người. Mỗi người đều có một trái tim, trái tim chân
thành, nhân hậu; trái tim đó khi tự phê bình mình cũng như phê bình người là
“phê bình việc làm chứ không phê bình người”[4]. Bởi, phê bình cũng như chữa bệnh
cứu người, để giúp họ vui lòng nhận ra lỗi lầm mà sửa chữa, để khỏe mạnh trở lại
trong cả suy nghĩ và hành động thì trước hết phải thương yêu, phải kịp thời,
đúng lúc và đúng chỗ, công khai và thẳng thắn. Nếu làm trái những điều đó, tính
giáo dục của thang thuốc tự phê bình và phê bình sẽ không còn tác dụng. Còn người
bị phê bình phải thật thà nhận, công khai nhận và “vui lòng nhận xét để sửa đổi,
không nên vì bị phê bình mà nản chí, hoặc oán ghét”. Tự phê bình và phê bình chỉ
thực sự phát huy tác dụng, góp phần củng cố và tăng cường khối đoàn kết thống
nhất trong mỗi tổ chức, cơ quan, địa phương, đơn vị khi “người có ưu điểm thì
phải cố gắng thêm, và người khác phải cố gắng bắt chước. Mọi người phải tích cực
sửa chữa khuyết điểm của mình và giúp anh em sửa chữa khuyết điểm của họ”[5];
“phải thực hành khẩu hiệu chí công vô tư; cần, kiệm, liêm, chính”. Đồng thời, tự
phê bình và phê bình phải được thực hiện nghiêm túc theo phương châm “trên trước,
dưới sau”, “từ trong ra, từ ngoài vào”, “từ trên xuống, từ dưới lên” để phê
bình và tự phê bình bảo đảm dân chủ, khách quan, trung thực, đầy đủ, có chất lượng
gắn với khen thưởng và kỷ luật nghiêm minh. Không phải ngẫu nhiên chỉ hơn một
tháng sau ngày đọc Tuyên ngôn độc lập, trong thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh,
huyện và làng (17/10/1945), Hồ Chí Minh đã nêu rõ sáu căn bệnh cần đề phòng của
một bộ phận “quan cách mạng”, đó là “trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư túng, chia
rẽ, kiêu ngạo”, để sau đó, Người ký Sắc lệnh ấn định hình phạt tội đưa và nhận
hối lộ (27/11/1945); Quốc lệnh khép tội tham ô, trộm cắp của công vào tội tử
hình (26/1/1946) và khẳng định: “Chính phủ đã hết sức làm gương và nếu làm
gương không xong thì sẽ dùng pháp luật mà trị những kẻ ăn hối lộ. Đã trị, đang
trị và sẽ trị cho kỳ hết”[6].
“PHẢI CÓ TÌNH ĐỒNG CHÍ THƯƠNG YÊU
LẪN NHAU”
Vì người đời không phải thánh thần,
không ai tránh khỏi sai lầm, khuyết điểm, cho nên chúng ta không sợ khuyết điểm,
chỉ sợ có lỗi mà không sửa, có lỗi mà giấu giếm, lừa cấp trên, chèn ép cấp dưới
dẫn đến tự phê bình và phê bình hình thức, chung chung, vì sợ “mất uy tín”, “mất
thể diện”. Tự phê bình và phê bình đúng sẽ “chẳng những không làm giảm thể diện
và uy tín của cán bộ, của Đảng. Trái lại, còn làm cho sự lãnh đạo mạnh mẽ hơn,
thiết thực hơn, do đó mà uy tín và thể diện càng tăng thêm”… Do đó, để thực hiện
lời căn dặn của Hồ Chí Minh về “thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê
bình” và phải được tiến hành trên tinh thần “có tình đồng chí thương yêu lẫn
nhau”, trong mọi hoàn cảnh, ở mọi cấp, mỗi tổ chức Đảng phải thường xuyên nhìn
thẳng vào sự thật, phải “có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những
cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó rồi
tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó”[7] và “mỗi cán bộ, mỗi đảng viên
hằng ngày phải tự kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt.
Được như thế thì trong Đảng sẽ không có bệnh mà Đảng sẽ mạnh khỏe vô cùng”[8].
Sức mạnh đoàn kết, thống nhất
trong Đảng được tạo nên bởi tổ chức mà tổ chức đó là sự kết nối chặt chẽ giữa
các đảng viên của Đảng, trong tình đồng chí thương yêu lẫn nhau, cho nên theo Hồ
Chí Minh, “hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin tức là phải sống với nhau đầy tình nghĩa
như vậy. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống với nhau không có tình có nghĩa thì
sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin được.”[9]. Tình đồng chí ở đây, ngoài việc
tuân thủ những nguyên tắc về tổ chức, Điều lệ và chế độ sinh hoạt Đảng còn cần
phải xuất phát từ tấm lòng nhân ái, bao dung của mỗi con người, của tình đồng
chí từng “nếm mật, nằm gai”, “chia ngọt, sẻ bùi”... Thực tế cho thấy, đã có
không ít cơ quan, đơn vị mất đoàn kết từ những việc tưởng chừng nhỏ nhặt nhưng
rất quan trọng trong đời thường mà xuất phát điểm chính là do suy nghĩ và hành
động thiếu “tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”. Tại một tổ chức, nếu đội ngũ
cán bộ chủ chốt mất đoàn kết, không thống nhất trong tư tưởng và hành động thì ở
nơi đó sẽ có tình trạng cấp trên và cấp dưới cách biệt nhau, là đồng chí với
nhau nhưng thường không nói trước mặt mà chỉ nói sau lưng, vì thế, cần phải
phát huy vai trò nêu gương, thống nhất giữa nói và làm trước hết từ cấp ủy và đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý. Bằng trái tim thương yêu rộng lớn đầy khoan dung,
nhân ái và sự gương mẫu tự phê bình và phê bình của chính mình, Hồ Chí Minh căn
dặn tự phê bình và phê bình trong Đảng phải được tiến hành thường xuyên, liên tục;
từ trên xuống và từ dưới lên; không chỉ thực hiện trong nội bộ Đảng mà cần phải
mở trong nhân dân; bảo đảm dân chủ, công khai và gắn với kế hoạch sửa chữa khuyết
điểm; có thưởng phạt gắn với biểu dương, nhân rộng gương điển hình. Trong đó,
dân chủ là một trong những yếu tố quan trọng để việc thực hiện nguyên tắc tự
phê bình và phê bình trong Đảng vừa nghiêm túc vừa đạt hiệu quả cao trên cơ sở
tình đồng chí thương yêu lẫn nhau. Vì dân chủ đã “khiến cho cán bộ cả gan nói,
cả gan đề ra ý kiến”, để nhân dân tham gia giám sát, góp ý cho cán bộ, đảng
viên và thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó
khăn… Cho nên, học và làm theo Hồ Chí Minh không chỉ ở mục đích, phương pháp của
tự phê bình và phê bình mà còn là xây dựng tình đồng chí thương yêu lẫn nhau để
kiến tạo một môi trường công tác dân chủ, đoàn kết và thống nhất, thiết thực
xây dựng cơ quan, địa phương, đơn vị trong sạch, vững mạnh. Đó cũng chính là học
tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, học từ Người cách ứng
xử tình và lý quyện chặt vào nhau, tràn đầy tình đồng chí thương yêu lẫn nhau.
Thời gian qua, việc triển khai nghiêm túc tự phê bình và phê bình theo tinh thần
Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn
chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu
hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” gắn với thực hiện Chỉ thị
05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh” trên cơ sở “có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”
đã mang lại những kết quả tích cực: "Quá trình tự phê bình và phê bình đã
góp phần đấu tranh với những suy nghĩ và hành vi sai trái nhằm cảnh tỉnh, cảnh
báo, răn đe, từng bước ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực. Nhiều vụ án
tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp đã được phát hiện và tập trung chỉ đạo điều
tra, truy tố, xét xử nghiêm minh, được nhân dân đồng tình, ủng hộ"... Tuy
nhiên, ở một số cấp ủy, vẫn còn hiện tượng đồng chí bí thư, thường trực cấp ủy
chưa coi trọng và thiếu kiên quyết trong chỉ đạo thực hiện tự phê bình và phê
bình; chưa gương mẫu nhìn nhận đúng mức khuyết điểm và trách nhiệm của mình trước
những hạn chế, khuyết điểm của tập thể. Bên cạnh đó, trong tự phê bình và phê
bình vẫn còn có những “vùng cấm”, “vùng tránh” hoặc lợi dụng đấu tranh phê bình
để “hạ bệ”, “thanh trừng” lẫn nhau gây chia rẽ, bè phái, mất đoàn kết nội bộ,
v.v.. Việc thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình “chưa đáp ứng yêu cầu,
vẫn là khâu yếu trong sinh hoạt đảng; chưa trở thành nhiệm vụ thường xuyên của
các cấp ủy, tổ chức đảng và đảng viên”. Nguyên tắc tự phê bình và phê bình ở một
số nơi bị buông lỏng, chưa được quy định cụ thể để làm cơ sở cho công tác kiểm tra,
giám sát. Vì vậy, để thực hiện lời căn dặn của Hồ Chí Minh về tự phê bình và
phê bình, trong thời gian tới, một số nhiệm vụ trọng tâm cần phải thực hiện là:
Một là, mỗi cấp ủy, mỗi cán bộ, đảng
viên đều phải quán triệt sâu sắc nguyên tắc tự phê bình và phê bình là vũ khí sắc
bén nhất để giúp mỗi người hằng ngày sửa chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm, để
ngày càng tiến bộ; để Đảng luôn đoàn kết, thống nhất chặt chẽ trong tư tưởng và
hành động, ngày càng thêm mạnh, ngày càng phát triển. Theo đó, tự phê bình và
phê bình được thể hiện qua sinh hoạt chi bộ định kỳ; hội nghị chi bộ, đảng bộ
thường kỳ; đại hội đảng các cấp; các đợt sinh hoạt chính trị tập trung; các báo
cáo định kỳ và đột xuất của các tổ chức đảng các cấp.
Hai là, “các cơ quan, các cán bộ,
các đảng viên, mỗi người, mỗi ngày phải thiết thực tự kiểm điểm và kiểm điểm đồng
chí mình. Hễ thấy khuyết điểm phải kiên quyết tự sửa chữa và giúp đồng chí mình
sửa chữa”[10]. Theo đó, khi đã “tìm thấy cái nguồn gốc của những sai lầm khuyết
điểm đó, và chắc chắn tìm được cách sửa chữa” thì “khéo dùng cách phê bình và tự
phê bình để giúp đồng chí khác sửa đổi những sai lầm và khuyết điểm, giúp họ tiến
bộ”. Thông qua việc phát hiện “nơi nào sai lầm, ai sai lầm, thì lập tức sửa chữa.
Kiên quyết chống thói nể nang và che giấu, chống thói “trước mặt thì nể, kể lể
sau lưng”. Phê bình thì phải rõ ràng, thiết thực, ngay thẳng, thành thật - mục
đích là cốt sửa chữa, chứ không phải để công kích, cốt giúp nhau tiến bộ, chứ
không phải làm cho đồng chí khó chịu, nản lòng”[11], để thiết thực xây dựng và
chỉnh đốn Đảng.
Ba là, đổi mới nội dung và hình
thức tự phê bình và phê bình gắn với thực hiện nhiệm vụ chính trị, với những vấn
đề cụ thể, những vấn đề cấp thiết nóng bỏng của cuộc sống đang đặt ra. Trong tự
phê bình và phê bình phải thấm nhuần quan điểm nhân văn, xuyên suốt của Hồ Chí
Minh, đó là phê bình việc làm chứ không phải phê bình người, để “ai nấy đều phải
thiết thực sửa đổi”. Trong đó, người phê bình “quyết không nên phùng mang trợn
mắt, quở trách, giễu cợt” người bị phê bình; còn người bị phê bình “không nên tự
tôn, tự đại” mà phải lắng nghe ý kiến của người phê bình nhằm khắc phục, phòng
và chống tình trạng khi quá “tả”, khi lại quá “hữu", gây mất đoàn kết nội
bộ.
Bốn là, phát huy vai trò gương mẫu
tự phê bình và phê bình của cán bộ, đảng viên nói chung, đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý, người đứng đầu nói riêng để khắc phục và phòng, chống tình trạng: “Nếu
cán bộ không nói năng, không đề ra ý kiến, không phê bình, thậm chí lại tâng bốc
mình, thế là một hiện tượng rất xấu. Vì không phải họ không có gì nói, nhưng vì
họ không dám nói, họ sợ. Thế là mất hết dân chủ trong Đảng. Thế là nội bộ của Đảng
âm u, cán bộ trở nên những cái máy, trong lòng uất ức, không dám nói ra, do uất
ức mà hoá ra oán ghét, chán nản”[12], dẫn đến nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” trong nội bộ.
Năm là, đảm bảo dân chủ, công
khai trong tự phê bình và phê bình; khắc phục tình trạng mất dân chủ hoặc áp đặt
trong tự phê bình và phê bình, phê bình mang tính hình thức gắn với kịp thời
khen thưởng, đồng thời xử lý nghiêm minh những cán bộ, đảng viên và tổ chức có
hành vi trù dập người thẳng thắn phê bình, đấu tranh với những sai lầm, khuyết
điểm của cấp trên. Thường xuyên tiến hành sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm và
đề ra biện pháp phù hợp để thực hiện tự phê bình và phê bình sát với thực tế, bảo
đảm chất lượng, đem lại hiệu quả thiết thực.
NHỮNG BIỂU HIỆN SUY THOÁI VỀ TƯ
TƯỞNG CHÍNH TRỊ, ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG, "TỰ DIỄN BIẾN", "TỰ CHUYỂN
HÓA"
- Trong tự phê bình còn giấu giếm,
không dám nhận khuyết điểm; khi có khuyết điểm thì thiếu thành khẩn, không tự
giác nhận kỷ luật. Trong phê bình thì nể nang, né tránh, ngại va chạm, thấy
đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh; lợi dụng phê bình để nịnh bợ, lấy
lòng nhau hoặc vu khống, bôi nhọ, chỉ trích, phê phán người khác với động cơ cá
nhân không trong sáng.
- Cá nhân chủ nghĩa, sống ích kỷ,
thực dụng, cơ hội, vụ lợi; chỉ lo thu vén cá nhân, không quan tâm đến lợi ích tập
thể; ganh ghét, đố kỵ, so bì, tị nạnh, không muốn người khác hơn mình.
- Vi phạm nguyên tắc tập trung
dân chủ, gây mất đoàn kết nội bộ; đoàn kết xuôi chiều, dân chủ hình thức; cục bộ,
bè phái, kèn cựa địa vị, tranh chức, tranh quyền; độc đoán, gia trưởng, thiếu
dân chủ trong chỉ đạo, điều hành.
- Mắc bệnh "thành
tích", háo danh, phô trương, che giấu khuyết điểm, thổi phồng thành tích,
"đánh bóng" tên tuổi; thích được đề cao, ca ngợi; "chạy thành
tích", "chạy khen thưởng", "chạy danh hiệu"...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét