Sau thất bại nặng nề
trên chiến trường miền Nam, chiến lược “chiến tranh đặc biệt” bị phá sản, đế quốc
Mỹ thiết lập chiến lược “chiến tranh cục bộ” với mục đích nhằm tiêu diệt bộ đội
chủ lực quân Giải phóng, “bình định nông thôn”. Chúng đã mở liên tiếp hai cuộc
phản công chiến lược mùa khô: Đông - Xuân 1965 - 1966 và 1966 - 1967 bằng hàng
loạt cuộc hành quân “tìm diệt” và "bình định”.
Ở Quảng Trị, lúc bấy
giờ chiến tranh diễn ra vô cùng ác liệt. Lớn lên trên mảnh đất giàu truyền
thống cách mạng, căm thù giặc Mỹ dày xéo mảnh đất quê hương, gieo rắc tang tóc
đau thương cho bà con, theo tiếng gọi của Đảng, người thanh niên Phan Xuân Cảnh
đang học dở lớp 9/10, chưa đầy 18 tuổi đã viết đơn tình nguyện xung phong lên
đường chiến đấu trả thù cho đồng bào bị địch giết hại. Ngày khoác ba lô lên
đường, anh rạng rỡ niềm tin, hẹn trở về sum họp cùng gia đình. Sau khi nhập ngũ
vào cuối năm 1966, anh lính trẻ Phan Xuân Cảnh được huấn luyện cấp tốc rồi biên
chế vào Đại đội 3, Trung đoàn E229, Bộ Tư lệnh Công binh. Vào tháng 11-1967,
trong lúc cùng đồng đội băng rừng, mở đường cho quân ta tiến sâu vào sào huyệt
địch tại vùng Gio Linh, Quảng Trị, không ngờ bị pháo địch tập kích khiến nhiều
đồng đội bị thương vong, anh bị thương nặng, phải cưa một cánh tay và một bàn
chân, lúc này đôi mắt anh không còn nhận biết được ánh sáng nữa, chỉ nghe tiếng
nổ uỳnh uỳnh… oàng oàng… rồi im bặt. Dù được đưa về Bệnh viện mặt trận cấp cứu qua
cơn nguy kịch, nhưng do vết thương quá nặng nên anh được đơn vị cho chuyển ra
Bệnh viện Quân y 103 - Hà Nội để điều trị. Tại đây, các bác sĩ đã không quản
ngày đêm tận tình cứu chữa, rất may trả lại được đôi mắt cho anh và lắp cho anh
chiếc chân giả. Từ đó, hàng ngày anh đi lại đọc sách, báo, nghe tình hình thời
sự trên chiến trường.
Tết Mậu Thân năm
1968, khi hay tin chiến thắng của quân và dân ta trên khắp chiến trường anh
mừng lắm. Lúc này vết thương cũng tạm ổn. Sau khi rời Viện Quân y 103 - Hà Đông,
anh được chuyển về điều dưỡng tại Đoàn 70, Quân khu 4, đóng trên địa bàn huyện
Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Mặc dù sức khỏe chưa hồi phục, nhưng anh không muốn
viết thư về thăm gia đình và người thân, bởi đây là thời điểm đất nước rất khó
khăn, chiến tranh đang diễn ra ác liệt, nên anh tự an ủi mình an tâm điều trị,
chờ ngày thống nhất đất nước sẽ trở về thăm quê hương, gặp lại bà con, bạn
bè... Điều dưỡng ở Đoàn 70 một thời gian, anh được cấp trên chuyển ra phục vụ
Trạm thương binh Đoàn 200, đóng tại huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An. Trong quá
trình làm việc ở đây, anh đã tiếp xúc với nhiều thương binh nặng, thậm chí bị
mù cả hai mắt, mọi hoạt động đi lại rất khó khăn. Anh nhận thấy hầu hết mọi
người rất lạc quan, yêu đời và nhiều người trong số họ cũng đã lập gia đình, có
vợ con, cuộc sống hạnh phúc nên đã giúp anh không còn tự ti mà càng thêm tin
tưởng vào tương lai hơn.
Vết thương đã lành
theo năm tháng, rồi một ngày thu đẹp trời, anh được cấp trên thông báo cho đi
học Sư phạm tại thành phố Vinh. Niềm vui cứ thế dâng trào trong anh. Đó là ước
mơ khát khao cháy bỏng của anh được trở thành thầy giáo sau khi hòa bình thống
nhất, anh có dịp trở về quê hương dạy dỗ các em thơ. Nhớ lời Bác Hồ dặn:
“Thương binh tàn nhưng không phế”, qua 3 năm học tập, rèn luyện, mặc dù kiến
thức có phần rơi vãi, nhưng anh đã nỗ lực phấn đấu vươn lên. Được sự giúp đỡ
của các thầy, cô giáo và bạn bè trong lớp, anh đã đạt kết quả cao trong kỳ thi
tốt nghiệp. Với tấm bằng đạt loại Giỏi, lại có thành tích trong chống Mỹ, đầu
tháng 9-1969, anh được điều động về giảng dạy tại một huyện tuyến lửa miền
Trung. Anh vừa là chủ nhiệm khối lớp 7 vừa dạy môn Văn, nhưng có chút năng
khiếu chơi đàn Ghita từ thời học Sư phạm.
Ban ngày, do máy bay
Mỹ ném bom, chúng tôi ngồi học trong chiếc lán được đắp bằng đất sét, bốn bức
tường xung quanh có lối dẫn ra hầm chữa A để tránh bom và rốc-két của địch.
Chúng tôi rất thương hoàn cảnh thầy vì một cánh tay và một bàn chân của thầy đã
bỏ lại nơi chiến trường. Ngoài giờ học và những ngày nghỉ, Nguyễn Đức Quý - lớp
trưởng phân công một số bạn có điều kiện đến giúp đỡ thầy. Chẳng bao lâu, tình
cảm thầy trò chúng tôi càng trở nên thân thiết, gần gũi như anh em trong một
nhà. Thầy Cảnh thường tâm sự: Quê thầy, nằm bên bờ sông Bến Hải hiền hòa và thơ
mộng, nơi giới tuyến tạm thời chia cắt hai miền Nam - Bắc, bom đạn cũng ác liệt
như ngoài này. Trong trái tim thầy không bao giờ nguôi tắt nỗi nhớ da diết bố
mẹ và người thân. Trong một lần đang làm nhiệm vụ cảnh giới cho bộ đội vượt
sông sang bờ Nam, bất ngờ bị bọn địch phát hiện và bố thầy bị bắn chết tại chỗ.
Nhà thầy neo người chẳng có ai làm đám, dân làng đưa về chôn cất tại nghĩa
trang của thôn. Từ khi bố mất, mẹ thầy lầm lì ít nói, ốm yếu, chính quyền cách
mạng động viên mẹ và cho đứa em gái út đi tập kết ra miền Bắc, nghe đâu em nó
được một gia đình ở vùng biển Sầm Sơn, Thanh Hóa nhận về làm con nuôi.
Từ hoàn cảnh đó, thầy
rất tận tụy với công việc, đêm đêm, thầy ngồi trong hầm chữ A, với chiếc đèn
dầu gắn trong ống bơ chỉ vừa đủ ánh sáng lọt qua khe nhỏ, thầy chăm chú soạn
từng trang giáo án cho ngày mai. Có những hôm chúng tôi tổ chức học nhóm mời
thầy đến phụ đạo, thầy vui vẻ nhận lời không một chút đắn đo, suy nghĩ. Nhiều
lúc thầy thức đến một, hai giờ sáng, với tâm niệm: “Tất cả vì học sinh thân
yêu”. Hồi đó, hoàn cảnh chiến tranh ác liệt, đời sống cán bộ, giáo viên rất
thiếu thốn, nhưng thầy đã tự mình trích một phần tiền lương mua sách, vở, giấy
bút cho các bạn có hoàn cảnh khó khăn, mồ côi hoặc bố mẹ hy sinh vì bom đạn của
giặc Mỹ. Tuy dăm ba cuốn sách không đáng kể, nhưng ẩn chứa bao nhiêu tình cảm
sâu nặng đối với học trò. Trong lớp có bạn ốm đau mấy hôm không đi học, thầy đã
tự mình đến trạm xá của xã để xin thuốc đem đến nhà và hướng dẫn các em học lại
bài cũ. Với những nghĩa cử cao đẹp như vậy, thầy Phan Xuân Cảnh luôn được mọi
người quý mến. Biết rằng, cuộc đời của mình sẽ không bao giờ có cơ hội lành lặn
như bao người khác, nên bước đầu thầy cũng bi quan, chán nản, nhưng với tinh
thần người lính “Cụ Hồ”, thầy đã xác định lại tư tưởng sẵn sàng cho một cuộc sống
mới không vợ, không con, không gia đình để đợi đến ngày về với những người đồng
đội của mình đã mãi mãi nằm lại nơi chiến trường.
Thương thầy ở một
mình vất vả, mọi công việc nặng nhọc đều đến tay, bạn bè đồng nghiệp tìm cách
vun vén, làm mối cho thầy một cô giáo ở làng trên. Khi bạn bè dẫn thầy đến gặp,
cô giáo e thẹn đỏ mặt không nói năng gì, nhưng nhìn thấy cử chỉ của thầy thương
tật đầy người, cô giáo thương lắm. Bố của cô cũng thương tật như vậy, khiến tâm
trạng cô lúc đó vừa bồi hồi lo lắng vừa rạo rực khó tả… Mặc dù, cô cũng đã từng
nghe mọi người gièm pha “Què một chân, cụt một tay lấy nhau thì ôm nhau mà chết
đói”. Bố mẹ cô thì không hề phản đối, nhưng cũng lo lắng cho cô lắm. Tuy nhiên,
cô và thầy đã yêu thương nhau thì không có gì ngăn cản được. Thế rồi, trời xe
duyên cho thầy gặp được cô giáo trẻ Thu Hương, chủ nhiệm khối lớp 1. Tốt nghiệp
trường Sư phạm thị xã Hà Tĩnh giữa lúc chiến tranh đang diễn ra ác liệt, lẽ ra
cô được miễn đi nghĩa vụ quân sự vì bố đang nằm điều trị tại Trại điều dưỡng tỉnh
Nghệ An, nhưng Thu Hương đã cùng bạn bè viết đơn tham gia đội Thanh niên xung
phong, thuộc Tổng đội 559, trên con đường huyết mạch giao thông 15 A, Khe Giao
- Hương Sơn, Hà Tĩnh. Ngay từ những phút giây ban đầu, thầy rất có cảm tình với
người con gái Hương Sơn, nơi anh đã được chăm sóc, chữa bệnh tại Đoàn 70, Quân
khu 4, khi chuyển từ chiến trường Quảng Trị ra.
Đám cưới của thầy và
cô giáo trẻ Thu Hương được tổ chức giản dị, nhưng vô cùng đầm ấm tại Văn phòng
hội họp của nhà trường. Mọi người đến chúc mừng đông đủ. Từ mờ sáng, chúng tôi
rất háo hức, ngoài những món quà tặng phẩm cho đám cưới, đứa nào cũng thích
đăng ký hát tặng thầy cô trong ngày vui trọng đại này. Vui duyên mới không quên
nhiệm vụ, xong chuyện trăm năm thầy cô lại lao vào công việc “trồng người”. Một
nghề cao quý nhất trong các nghề cao quý. Ai cũng phải trầm trồ thán phục về
chuyện tình như mơ và hạnh phúc mái ấm của cặp vợ chồng thương binh bị cụt cánh
tay, người vợ là cô giáo Trần Thị Thu Hương, nơi vùng quê nghèo miền Trung. Tết
năm ấy, chúng tôi đến chúc mừng thầy cô, mỗi đứa chung nhau mấy quả cam và dăm
ba chiếc bánh chưng làm cho thầy cô vô cùng xúc động. Cô Thu Hương kể cho chúng
tôi nghe: Sau ngày cưới, vừa ở với nhau được 3 tháng thì vết thương cũ của thầy
lại tái phát. Nhiều đêm ngồi soạn bài, thầy kêu đau, cô động viên thầy trở lại
đơn vị an dưỡng, nhưng thầy bảo phải cố gắng vì khối lớp 7 sắp thi chuyển cấp
đòi hỏi thời gian. Lúc này, cô biết mình đang mang thai đứa con đầu lòng, tâm
trạng lo lắng bởi với người phụ nữ bình thường bụng mang dạ chửa đã vất vả,
trong lúc chồng mình bị khuyết tật như vậy nhưng không thể bỏ học sinh. Nghĩ
đến tương lai, cô khấp khởi mừng thầm, chờ đợi đứa con chào đời, cô động viên,
an ủi thầy yên tâm công tác. Mặc dù phải "vượt cạn" trong hoàn cảnh quá
sức tưởng tượng, nhưng nhờ được sự giúp đỡ của anh em cán bộ, giáo viên và học
sinh trong nhà trường, cô giáo Thu Hương đã sinh hạ đứa con gái đầu lòng trong
niềm vui vỡ òa, đặt tên là Phan Thu Huệ.
Sau Hiệp định Paris
được ký kết (27-1-1973), đế quốc Mỹ ngừng ném bom miền Bắc, nhưng ở miền Nam
từng ngày, từng giờ chiến tranh vẫn xảy ra. Trong hoàn cảnh đó, chúng tôi đứa
lên đường vào Nam chiến đấu, đứa ở lại hậu phương sản xuất lương thực chi viện
vào tiền tuyến, một số bạn thi đỗ đại học, cao đẳng tiếp tục vào giảng đường.
Tạm biệt quê hương, tạm biệt mái trường, chúng tôi đến chia tay thầy cô trong
cái nắng miền Trung, trời nóng như đổ lửa, gió Lào thổi bỏng da, bỏng thịt. Ấy
vậy, mà trong lòng tôi vẫn cảm thấy dịu mát hẳn lên bởi được hòa lẫn trong không
khí vui tươi hạnh phúc của cô giáo Thu Hương và thầy giáo thương binh Phan Xuân
Cảnh. Thấy đoàn chúng tôi đến, Cô Hương ôm chầm từng đứa và mừng rỡ khoe: Thầy
cô mới có thêm thằng con trai sau này nối nghiệp bố nó cho đi bộ đội, con bé
lớn theo mẹ làm giáo viên. Giữa trời trưa bóng tròn, chúng tôi nắm chặt bàn tay
thầy cô trong nỗi buồn luyến tiếc…
Giờ đây sống xa quê
hương, xa thầy cô, bạn bè, nhưng có giây phút nào tôi không nhớ về cội nguồn,
nơi sinh ra, lớn lên và trưởng thành, cũng như công ơn cha mẹ nuôi con khôn
lớn. Thầy cô dạy dỗ ta qua bao ngày, tháng để có chút kiến thức trong công tác
sau này. Với tôi, trong ký ức tuổi thơ, còn giữ mãi một kỷ niệm thấm đẫm tình
người về: “Anh thương binh vẫn đến trường làng/ Vẫn ôm đàn dạy các em thơ bài hát
quê hương/ Bài hát có đồng lúa mênh mang câu hò/ Bài hát có người lính đã hy
sinh âm thầm… Cho hôm nay…” ./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét