Thực tiễn lịch sử dân tộc
đã chứng minh, triều đại nào biết trọng dụng nhân tài thì đất nước thái bình,
vương triều thịnh trị; ngược lại, tất sẽ thất bại, suy vong. Từ bài học lịch
sử, là Người sáng lập và rèn luyện Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh bằng nhiều cách
thức khác nhau, với tư duy sáng tạo, tầm nhìn đặc biệt đã từng bước xây dựng
nên một lớp nhân tài thời đại Hồ Chí Minh, đóng góp to lớn vào thành công của
sự nghiệp cách mạng. Những cách thức của Người là cơ sở quan trọng để chúng ta
vận dụng trong bối cảnh hiện nay.
Sinh
thời, Người đặc biệt quan tâm đến công tác cán bộ, đến đào tạo nhân tài. Người
khẳng định: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc; muôn việc thành công
hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Như vậy, mọi việc đều bắt đầu từ
con người và sự nghiệp cách mạng như thế nào đều do con người quyết định. Với
tư tưởng ấy, ngay từ khi tìm ra con đường cứu nước, một trong những việc làm
đầu tiên của Người đó là “tìm ra những hạt giống đỏ” để huấn luyện trở thành
những người chiến sĩ cách mạng. Năm 1925, Người lập Hội Việt Nam cách mạng
Thanh niên nhằm mục đích này. Nhưng “những hạt giống đỏ ấy” không chỉ kinh qua
lý luận, mà cần rèn luyện bản lĩnh, ý chí sắt đá trong thực tiễn, do vậy Hội đã
thực hiện “vô sản hóa” nhằm rèn luyện bản lĩnh cách mạng, hình thành lớp nhân
tài đầu tiên của Đảng. Tháng 10/1938, Nguyễn Ái Quốc rời Liên Xô, sang căn cứ
địa Diên An, Trung Quốc hoạt động.Tại đây, Người liên lạc với tổ chức Đảng, tập
hợp xây dựng đội ngũ cán bộ, Người như một cánh chim kết đoàn thành một đàn
chim với những nhân tài thời loạn của Việt Nam lúc bấy giờ. Mùa xuân năm 1941,
Nguyễn Ái Quốc về nước, tiếp tục xây dựng đội ngũ nhân tài, chuẩn bị mọi điều
kiện để tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Khi Cách mạng tháng Tám
thành công, trong điều kiện đất nước đứng trước muôn vàn khó khăn, Người đã ra
chiếu cầu hiền để kêu gọi “nhân tài” góp sức kiến thiết đất nước. Khi đất nước
bước vào thực hiện cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, trải qua các kỳ Đại
hội II, III với những nhiệm vụ khó khăn, nặng nề Người vẫn thường xuyên “thực
hiện chiêu hiền, đãi sĩ”, xây dựng những lớp nhân tài kế cận khác nhau cho
Đảng, cho đất nước, góp phần quan trọng giải quyết những yêu cầu nhiệm vụ cách
mạng đặt ra. Một trong những yếu tố quan trọng tạo nên sự thành công của người
đứng đầu hay tổ chức chính trị trong việc trọng dụng nhân tài là phải biết nhìn
người, nhìn tướng, nhìn được khả năng và nhân phẩm của họ. Đồng thời phải có tư
duy, tầm nhìn chiến lược thấy được sự phát triển của cách mạng, cái cần của sự
nghiệp cách mạng và đặt người đó vào vị trí ấy sẽ tỏa sáng, tạo ra sự phát
triển cho sự nghiệp cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm rất tốt điều này. Năm
1940, Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Thủ tướng Phạm Văn Đồng, lúc bấy giờ là những
thanh niên yêu nước, nghe nói nhiều đến Nguyễn Ái Quốc, có sức hút rất lớn, đã
vượt biên sang Trung Quốc và may mắn được gặp Bác tại Thúy Hồ, Côn Minh Trung
Quốc. Cuộc gặp lịch sử giữa những vĩ nhân ấy đã tạo ra bước ngoặt cho sự nghiệp
cách mạng của riêng cá nhân và đất nước. Trong cuộc gặp Bác đã định hướng rằng,
“chú Văn nên học thêm về quân sự, chú Tô nên học thêm về hành chính”, có lẽ từ
cuộc gặp ấy Bác đã thấy được một tư chất, năng khiếu riêng của hai con người
ấy, để sau này một người là Đại tướng lừng lẫy và một người là Thủ tướng. Năm
1948, đồng chí Võ Nguyên Giáp được phong Đại tướng, báo chí nước ngoài đã hỏi
rằng ông Giáp chưa học qua một trường lớp nào về quân sự tại sao lại phong Đại
tướng, Bác đã trả lời rằng đánh thắng trung tướng phong trung tướng, thắng đại
tướng phong đại tướng. Hay như Bác sĩ Trần Duy Hưng, vị Chủ tịch đầu tiên của
Thủ đô Hà Nội, Chủ tịch trong thời kỳ kháng chiến đầy khó khăn, chưa kinh qua
trường lớp về hành chính nhưng được Bác trực tiếp đến phong tại nhà riêng, Bác
nói rằng “chú là chủ tịch thành phố, Bác là chủ tịch nước nhưng chúng
ta đều là đầy tớ của dân”. Từ câu nói ấy, Bác sĩ Trần Duy Hưng đã lấy đó
làm tôn chỉ, vừa làm vừa học, vừa tự chỉnh đốn hoàn thiện bản thân, tạo nên một
chủ tịch thành phố in đậm trong lòng người dân Tràng An – Hà Nội dù trong điều
kiện chiến tranh rất khó khăn. Điều ấy để nói rằng trong đánh giá “nhân tài”
không phải chỉ trọng bằng cấp mà phải biết nhìn người, coi trọng sự tự học, tự
rèn luyện và hiệu quả thực tiễn. Đồng thời trong sử dụng “nhân tài” phải linh
hoạt vừa nhẹ nhàng, nhưng phải cương quyết, bởi họ cũng là con người, có lúc
này lúc khác. Trong buổi lễ phong tướng năm 1948, tướng Nguyễn Sơn, một vị
tướng rất giỏi, được mệnh danh là “lưỡng quốc tướng quân”, được phong thiếu
tướng, ông đã tỏ thái độ không vừa lòng, buột miệng nói rằng “thừa tướng ta còn
không làm huống chi thiếu tướng”, sau đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm một bài
thơ rất ý nghĩa để nhắc nhở tướng Nguyễn Sơn, có những câu như “tâm dục tế, đảm
dục đại, trí dục viên, hành dục phương”. Nhưng nếu những người đó mà mất đạo
đức thì Người cũng xử lý rất cương quyết như trường hợp của Đại tá, Cục trưởng
cục quân nhu Trần Dụ Châu. Trong điều kiện chiến tranh khó khăn nhưng Trần Dụ
Châu đã tha hóa, sa vào lợi ích cá nhân, vui chơi hưởng lạc, Người đã cương
quyết diệt một cái cây để cứu lấy cả khu rừng. Trong chuyến thăm Pháp năm 1946,
Người đã thuyết phục được nhiều nhân tài về phục vụ cho đất nước, tiêu biểu như
Phạm Quang Lễ, sau này là Giáo sư viện sĩ Trần Đại Nghĩa, sẵn sàng từ bỏ mức
lương rất cao, đến mấy chục lạng vàng lúc bấy giờ để theo Bác về hoạt động
trong kháng chiến. Bác cũng cảm hóa được người từng có ý định giết mình như Tạ
Đình Đề để đi theo cống hiến cho cách mạng. Bác như là viên nam châm có sức hút
lớn, tạo ra niềm tin, động lực cho các “nhân tài” cống hiến hết mình. Vậy, cái
gì có sức hút mãnh liệt như vậy? Có lẽ đó là xuất phát từ cái tâm chính trị
trong sáng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngày 21/1/1946, khi trả lời báo chí nước
ngoài, Người nói rằng: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm
sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào
ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Riêng phần tôi thì làm một cái
nhà nho nhỏ, nơi có non xanh nước biếc để câu cá, trồng hoa, sớm chiều làm bạn
với các cụ già hái củi, em trẻ chăn trâu, không dính líu gì với vòng danh lợi”.
Với ham muốn cao cả vì dân, vì nước ấy, Người đã cống hiến trọn đời cho sự
nghiệp cách mạng. Trong đánh giá, sử dụng cán bộ cũng vậy. Người luôn đặt lợi
ích dân tộc lên trên hết, mà không màng đến những điều gì khác, hi sinh cá nhân
vì sự nghiệp cao cả. Trong bối cảnh đất nước mới giành được độc lập, Người đã
không chọn người trong Đảng để giao quyền khi sang thăm Pháp hơn 4 tháng mà
giao cho cụ Huỳnh Thúc Kháng, một nhân sĩ yêu nước. Trong bối cảnh đất nước bị
chia làm hai miền, Người đã không cử những người thân cận như các đồng chí Phạm
Văn Đồng, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp và đặt niềm tin vào đồng chí Lê Duẩn,
một người hiểu cách mạng miền Nam, hiểu nhân dân miền Nam cần gì và điều cuối
cùng đó là “đất nước trọn niềm vui”.
Ngày
nay, đất nước sau hơn 35 năm Đổi mới “đã có cơ đồ, tiềm lực, vị thế” lớn hơn
bao giờ hết, đó là cống hiến tài năng, trí tuệ và đạo đức của biết bao lớp thế
hệ nhân tài kết tinh thành sức mạnh dưới lá cờ vẻ vang của Đảng. Trong vận hội
mới, điều kiện mới, một bài học quan trọng là Đảng cần phải tiếp tục tăng cường
tập hợp, xây dựng trong Đảng những “nhân tài” của thời đại mới. Muốn làm được
điều đó, các cấp ủy Đảng cần phải đẩy mạnh học tập phong cách Hồ Chí Minh, học
Bác những cách làm hay trong sử dụng, đánh giá cán bộ, học Bác “để lòng ta
trong sáng hơn”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét