Một trong những âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, phản động là xuyên tạc chính sách của Nhà nước ta về ngân sách hoạt động quốc phòng, phủ nhận thành tựu của nền công nghiệp quốc phòng, hạ thấp vị trí, vai trò và khả năng bảo vệ tổ quốc của Quân đội nhân dân Việt Nam, gây tâm lý hoang mang trong nhân dân. Mới đây trang Rfavietnam.org, Đài RFA đã tán phát bài “Việt Nam không đặt thêm đơn hàng lớn nào về vũ khí trong năm 2023”. Đây là luận điệu sai trái, xuyên tạc hết sức nguy hiểm cần phải lên án và bác bỏ, bởi vì:
1. Nâng cao năng lực quốc phòng để bảo
vệ Tổ quốc, bảo vệ hòa bình thực sự là đòi hỏi tất yếu khách quan của mỗi quốc
gia, dân tộc. Xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh vững mạnh
về mọi mặt được Đảng ta xác định là “nhiệm vụ cơ bản, vừa có ý nghĩa cấp bách
trước mắt, vừa là nhiệm vụ chiến lược lâu dài; là trách nhiệm của cả hệ thống
chính trị và toàn Đảng, toàn dân, toàn quân”. Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc luôn
là sự nghiệp sống còn của mỗi quốc gia. Việt Nam đã trải qua nhiều thập kỷ
chiến tranh tự vệ nên thấu hiểu sự tàn phá và hậu quả của chiến tranh. Vì vậy,
Việt Nam luôn chủ trương chi ngân sách nhà nước cho quốc phòng ở mức hợp lý,
xây dựng quân đội, xây dựng tiềm lực quốc phòng đủ mạnh để tăng cường khả năng
bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích
quốc gia, dân tộc. Hiện nay, Quân đội nhân dân Việt Nam tiếp tục phát huy vai
trò nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xung kích ứng phó với
nhiều thách thức an ninh phi truyền thống, đặc biệt là công tác cứu hộ, cứu
nạn, phòng chống thiên tai, ứng phó với đại dịch Covid-19; cử lực lượng tham
gia các hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc, bước đầu đạt nhiều thành tựu
nổi bật, được cộng đồng quốc tế tôn vinh, ghi nhận.
2. Tăng cường khả năng quốc phòng,
đương nhiên không thể thiếu hiện đại hóa vũ khí, trang thiết bị quân sự. Tuy
nhiên, Việt Nam luôn chủ trương chỉ tập trung hiện đại hóa vũ khí, trang bị
quân sự để phục vụ mục đích bảo vệ Tổ quốc. Nền quốc phòng của Việt Nam là nền
quốc phòng mang tính chất hòa bình và tự vệ. Tăng cường tiềm lực quốc phòng để
bảo vệ Tổ quốc, cho nên, Việt Nam chủ trương tăng cường khả năng quốc phòng
bằng nội lực trong điều kiện, khả năng của mình, không tham gia liên minh quân
sự, không liên kết với nước này để chống lại nước kia, không cho nước ngoài đặt
căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác, không sử
dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Theo đánh giá của
các tổ chức quốc tế, thì trong hơn 10 năm gần đây, sức mạnh của Quân đội Nhân
dân Việt Nam đã có sự thay đổi căn bản, đã hình thành khả năng triển khai quân
sự để bảo vệ Tổ quốc. Đến nay, công nghiệp quốc phòng Việt Nam cơ bản bảo đảm
tốt nhu cầu của lực lượng vũ trang, nhất là về vũ khí thông thường và một số
loại vũ khí công nghệ cao.
Trong bối cảnh Việt Nam hội nhập quốc
tế ngày càng sâu rộng, toàn diện như hiện nay, đặc biệt hội nhập quốc tế về
công nghiệp quốc phòng được xác định là một kênh không tách rời của quá trình
hội nhập quốc tế, thì xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng hiện đại là
tất yếu khách quan, phù hợp với xu hướng phát triển công nghiệp quốc phòng thế
giới. Để sẵn sàng đối phó thắng lợi với vũ khí công nghệ cao của địch nếu xảy
ra chiến tranh trong tương lai, bên cạnh yếu tố chính trị, tinh thần, con người
và các yếu tố khác cấu thành sức mạnh tổng hợp của quốc gia, việc làm chủ các
loại vũ khí, trang bị kỹ thuật mới, tiên tiến, hiện đại là yêu cầu cấp thiết,
khách quan. Chính vì vậy, ngay trong các nghị quyết chuyên đề của Bộ Chính trị
về xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng ở các giai đoạn trước đây cũng
đã xác định chủ trương và nhiệm vụ phát triển tiềm lực khoa học – công nghệ của
công nghiệp quốc phòng Việt Nam, phấn đấu thực hiện một số nhiệm vụ trọng điểm
mang tính đột phá, mũi nhọn để tiếp cận và làm chủ được các ngành công nghệ mới
liên quan tới chế tạo vũ khí. Tập trung đầu tư sản xuất thành công các chủng
loại vũ khí, trang bị, khí tài hiện đại và chiến lược, trong đó có những
chủng loại “Made in Việt Nam” đạt trình độ tiên tiến, hiện đại tương đương so
với thế giới và khu vực để đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa Quân đội. Chúng ta cần
ưu tiên ứng dụng hiệu quả các công nghệ nền tảng, các thành tựu của cuộc Cách
mạng công nghiệp lần thứ Tư, thực hiện “đi tắt, đón đầu” trong một số lĩnh vực
công nghệ quân sự đặc thù để tạo chuyển biến bước ngoặt về năng lực thiết kế –
chế tạo các sản phẩm có tính đột phá về tính năng chiến thuật – kỹ thuật. Ứng
dụng công nghệ mới, tiên tiến, lưỡng dụng, tiến tới làm chủ công nghệ nền, công
nghệ lõi trong nghiên cứu, thử nghiệm, sản xuất vũ khí, trang bị kỹ thuật có
hàm lượng công nghệ cao.
3. Phát triển công nghiệp quốc phòng theo hướng
lưỡng dụng, ngày càng hiện đại
Công nghiệp
quốc phòng là một bộ phận của công nghiệp quốc gia, vừa sản xuất phục vụ nhu
cầu tiêu dùng quân sự, vừa tham gia sản xuất phục vụ nhu cầu tiêu dùng dân
dụng. Đẩy mạnh ứng dụng các công nghệ mới vào nghiên cứu, thiết kế, chế tạo sản
phẩm quốc phòng, đồng thời sản xuất các sản phẩm dân sinh cũng như đẩy mạnh
phát triển, chuyển giao một số công nghệ cho công nghiệp dân sinh. Phát triển
công nghiệp quốc phòng theo hướng lưỡng dụng sẽ khai thác tốt tiềm năng, phát
huy tốt nội lực trong xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng để đáp ứng
đồng thời các yêu cầu của quốc phòng – an ninh và yêu cầu của công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Qua đó, giảm bớt sự phụ thuộc, đa dạng hóa việc tiếp cận
công nghệ, nguồn lực trong quá trình thực hiện các mục tiêu chiến lược đã đề
ra. Tăng cường chuyển giao công nghệ, liên doanh, liên kết, hợp tác cùng nghiên
cứu phát triển mẫu vũ khí mới, hợp tác về đào tạo nhân lực, phát triển thị
trường quốc tế và xây dựng thương hiệu, xuất khẩu sản phẩm quân sự, lưỡng dụng
và sản phẩm kinh tế. Tham gia các chuỗi giá trị toàn cầu trong phân công chuyên
môn hóa sản xuất, trước hết là các sản phẩm kinh tế và lưỡng dụng. Như thế, vừa
đáp ứng yêu cầu tăng cường khả năng quốc phòng để làm tròn nghĩa vụ bảo vệ Tổ
quốc, vừa góp phần phát triển kinh tế-xã hội, phục vụ đời sống nhân dân.
Như vậy,
chúng ta có thể thấy chính sách quốc phòng nói chung và định hướng chi tiêu cho
quốc phòng, hiện đại hóa trang bị của quân đội; thành tựu của nền công nghiệp
quốc phòng và khả năng bảo vệ Tổ quốc của Quân đội nhân dân Việt Nam là hết sức
rõ ràng và hiệu quả. Sự hiệu quả ấy là minh chứng xác đáng phản bác mọi luận
điệu xuyên tạc, vu cáo, phủ nhận thành tựu của nền công nghiệp quốc phòng và
khả năng bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của Quân đội nhân dân Việt Nam của các
thế lực thù địch./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét