Thứ Hai, 19 tháng 8, 2024

Bảo đảm "Dân giám sát, dân thụ hưởng" của Đảng đi vào thực tiễn cuộc sống.

  Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đó là một Nhà nước do nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Do đó, nhân dân “giám sát và thụ hưởng” chính là hiện thực hóa quyền làm chủ của người dân cũng như đưa phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”(1) của Đảng đi vào thực tiễn cuộc sống.

Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ khẳng định: “NƯỚC TA LÀ NƯỚC DÂN CHỦ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân(2), mà còn nhấn mạnh: “Ý DÂN LÀ Ý TRỜI”(3), nên “làm đúng ý nguyện của dân thì ắt thành. Làm trái ý nguyện của dân thì ắt bại. Đó là lời nói chí lý của thánh hiền đời xưa”(4). Đồng thời, “ở nước ta chính quyền là của nhân dân, do nhân dân làm chủ... Nhân dân là ông chủ nắm chính quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành chính quyền ấy”(5), nên “chính sách của Ðảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói, Ðảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Ðảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Ðảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Ðảng và Chính phủ có lỗi”(6). Vì thế, nhân dân không chỉ có quyền “giám sát”, mà còn có quyền “thụ hưởng” những thành quả của sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Ở Việt Nam, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân thực tế đã được hiến định tại các bản Hiến pháp; trong đó, Điều 1 Hiến pháp năm 1946 ghi rõ: Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa, tất cả quyền binh trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam. Không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”; tại Điều 6: Tất cả các cơ quan nhà nước đều phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân. Tất cả các nhân viên cơ quan nhà nước đều phải trung thành với chế độ dân chủ nhân dân, tuân theo Hiến pháp và pháp luật, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân.

Điều 2 Hiến pháp năm 2013 cũng khẳng định: Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Tiếp đó, Điều 8 Hiến pháp năm 2013 quy định: Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền. Những nội dung được hiến định này không chỉ khẳng định địa vị là chủ, làm chủ của nhân dân trong văn bản có giá trị pháp lý cao nhất của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), mà còn tạo cơ sở pháp lý để quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân được triển khai sâu rộng trong thực tiễn.

Hiến pháp năm 2013 không chỉ công nhận quyền giám sát của nhân dân, mà còn quy định trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm quyền này cho nhân dân. Đó là, các cơ quan nhà nước tạo phải điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước, xã hội (theo dõi, kiểm tra việc hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân có đúng với quy định không; có hạn chế hay vi phạm gì không; để kiến nghị, yêu cầu xem xét, xử lý, khắc phục vi phạm, hạn chế, góp phần đưa các hoạt động này theo đúng quy định của pháp luật, bảo đảm chất lượng, hiệu quả…) theo đúng tinh thần “bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân”(7), cũng như tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân một cách công khai, minh bạch. Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng nhân dân, phục vụ nhân dân với tinh thần liêm chính, chí công vô tư; phải liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến, chịu sự giám sát của nhân dân; phải dựa vào nhân dân để xây dựng các cấp chính quyền liêm khiết và phụng sự.

Điểm mới quan trọng trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đó là việc bổ sung nội dung “dân giám sát”, “dân thụ hưởng”. Theo đó, “dân giám sát” nghĩa là nhân dân theo dõi, đánh giá quá trình và kết quả thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật, chiến lược, quy hoạch, dự án của Nhà nước mà các cơ quan, tổ chức, cá nhân triển khai thực hiện. Nội dung “dân thụ hưởng” là nhân dân được thụ hưởng kết quả quá trình phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục, an sinh xã hội… dưới sự lãnh đạo của Đảng. Thực tế cho thấy, khi “giám sát của nhân dân chính là do nhân dân thực hiện với tư cách là cá nhân, công dân hay cộng đồng thông qua các hình thức phù hợp (trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức của nhân dân)”(8), thì công việc “dân giám sát” chính là nhằm “tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phải xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, được nhân dân tham gia ý kiến. Thể chế hóa và thực hiện tốt phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”(9) như Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã khẳng định. Đồng thời, khi người dân được “thụ hưởng” ngày càng đầy đủ hơn quyền con người, quyền công dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng; được thụ hưởng đầy đủ những giá trị đích thực của độc lập, tự do, hạnh phúc, của một hệ thống chính sách an sinh xã hội hài hòa, với một cuộc sống ngày càng được nâng cao về vật chất và tinh thần… cũng có nghĩa là “mọi hoạt động của hệ thống chính trị, của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức phải phục vụ lợi ích của nhân dân. Giải quyết hài hòa các quan hệ lợi ích trong xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”(10).

Việc bổ sung nội dung “dân giám sát” và “dân thụ hưởng” với ý nghĩa là nhân dân vừa giám sát, vừa được thụ hưởng đời sống vật chất và tinh thần mà chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước mang lại sau quá trình tổ chức, thực hiện đã không chỉ góp phần làm trọn vẹn hơn, nhân văn hơn, sâu sắc hơn tổng thể phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, mà còn làm cho sự khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Tất cả đường lối, phương châm, chính sách... của Đảng đều chỉ nhằm nâng cao đời sống của nhân dân nói chung(11) trở thành hiện thực sinh động. Việc thực hiện “Dân giám sát, dân thụ hưởng” đồng thời cho thấy “quyền làm chủ của nhân dân được coi trọng, ngày càng đi vào thực chất, nhất là dân chủ trực tiếp, dân chủ cơ sở, tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình. Vai trò của nhân dân trong tham gia, quyết định chính sách liên quan đến cuộc sống, những vấn đề lớn và hệ trọng của đất nước được phát huy; quyền con người, quyền công dân được đề cao” như khẳng định tại Nghị quyết số 43-NQ/TW, ngày 24-11-2023, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, về “Tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”.

Việt Nam kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong đó “xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”(12) chính là nhằm cân bằng, hài hòa lợi ích giữa các giai cấp, giữa các tầng lớp, giữa các nhóm xã hội; để mọi người dân đều có quyền, đều có cơ hội được tiếp cận và thụ hưởng thành quả của sự phát triển.

Vì thế, muốn “dân giám sát, dân thụ hưởng” không chỉ dừng lại ở khẩu hiệu, bảo đảm sự thiết thực trong đời sống của người dân, thì mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều phải xuất phát từ thực tiễn, từ chính nhu cầu chính đáng, hợp pháp của nhân dân. “Dân giám sát, dân thụ hưởng” thể hiện quan điểm rất thực tiễn của Đảng ta - đó chính là sự phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục, an sinh xã hội… phải mang lại lợi ích cho toàn dân, vì một cuộc sống tốt đẹp nhất cho mọi người.

Việc thực hiện “dân giám sát, dân thụ hưởng” nghiêm túc, hiệu quả vừa tạo sự đồng thuận, góp phần củng cố và nhân nguồn sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, vừa là động lực thúc đẩy việc bổ sung, phát triển, hoàn thiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong tiến trình lãnh đạo cách mạng; đồng thời, góp phần hoàn thiện hơn việc thực hiện quyền lực của nhân dân, hiện thực hóa thêm một bước việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân, vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được trong quá trình thực hiện phương châm “dân biết, dân làm, dân bàn, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” nói chung và “dân giám sát, dân thụ hưởng” nói riêng, việc thực hiện nội dung “dân giám sát, dân thụ hưởng” vẫn còn một số hạn chế. Có những thời điểm “chúng ta giải quyết còn chưa thật thấu đáo một số vấn đề, làm ảnh hưởng đến việc xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đến khả năng tập hợp rộng rãi mọi lực lượng dân tộc phù hợp với cơ cấu xã hội, cơ cấu giai cấp, tương quan lực lượng và đặc điểm của nước ta qua các thời kỳ”(13). Đó chính là quyền làm chủ của nhân dân ở một số địa bàn cơ sở chưa thực sự được tôn trọng; đời sống của người dân chưa được bảo đảm, trong khi đó, việc huy động sự đóng góp của nhân dân còn nặng mệnh lệnh hành chính, mà coi nhẹ sự chia sẻ, lắng nghe để bồi dưỡng sức dân. Một số văn bản pháp luật liên quan đến dân chủ ở cơ sở và việc thực thi “dân giám sát, dân thụ hưởng” chưa gắn kết chặt chẽ với “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” để tổng thể phương châm được triển khai đồng bộ, hiệu quả.

Cùng với đó, nội dung giám sát và thụ hưởng còn chưa được chú trọng trong công tác sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm để điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với thực tế. Bên cạnh đó, có nơi, có lúc vẫn còn tình trạng buông lỏng vai trò lãnh đạo của cấp ủy; thiếu kiểm tra, đôn đốc, giám sát trong quá trình thực hiện. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể ở một số nơi chưa thực hiện tốt vai trò giám sát, phản biện xã hội cũng như chưa sâu sát lắng nghe, thấu hiểu để sẻ chia và kịp thời phản ánh tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân với Đảng, Nhà nước. Trong khi đó, vẫn còn một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa thực sự gương mẫu, chưa làm tròn chức trách, nhiệm vụ được giao… Vì thế, để “dân giám sát, dân thụ hưởng” thực sự đi vào thực tiễn cuộc sống, cần tập trung thực hiện một số giải pháp sau: 

Một là, cần tiếp tục quán triệt sâu sắc, đầy đủ, toàn diện hơn nữa các quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước về việc lấy “dân làm gốc”; dân là chủ, dân làm chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kết hợp đại đoàn kết toàn dân tộc với phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện quyền làm chủ thực sự của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; thực hiện Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở năm 2022 và Nghị định số 59/2023/NĐ-CP, ngày 14-8-2023, của Chính phủ, “Quy định chi tiết một số điều của Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở” bảo đảm thực chất, hiệu quả. Đồng thời, phát huy vai trò, trách nhiệm, tính tiên phong, gương mẫu của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, địa phương, các cơ quan, đơn vị và của đội ngũ cán bộ, đảng viên từ Trung ương đến địa phương trong việc giữ nghiêm kỷ cương, kỷ luật; trong việc phòng, chống thói quan liêu, cửa quyền, tham nhũng, lãng phí và các hành vi xâm hại đến quyền làm chủ của nhân dân, góp phần bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.

Hai là, phát huy vai trò của các cơ quan báo chí, truyền thông trong quá trình thông tin, tuyên truyền về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là những thông tin liên quan trực tiếp đến quyền con người, quyền công dân, quyền làm chủ của nhân dân. Quá trình tuyên truyền về phương châm “dân giám sát, dân thụ hưởng” cần minh chứng sinh động, “mắt thấy, tai nghe” bằng những kết quả thật cụ thể trong thực tiễn việc không ngừng chăm lo đời sống của nhân dân ngày càng đầy đủ hơn về vật chất và tinh thần, được bảo đảm về trật tự, an toàn xã hội, an ninh con người…, từ đó góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Ba là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, vừa “tiếp tục xây dựng nền hành chính dân chủ, chuyên nghiệp, hiện đại, tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, có năng lực kiến tạo phát triển, liêm chính, phục vụ nhân dân” theo Nghị quyết số 76/NQ-CP, ngày 15-7-2021, của Chính phủ, về “Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021 - 2030”, trên cơ sở ứng dụng những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư để người dân thực hiện các thủ tục hành chính một cách thuận lợi. Đồng thời, tiếp tục xây dựng, bổ sung, điều chỉnh, hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật và cơ chế, chính sách nhằm phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân đi liền với việc chú trọng nâng cao đạo đức công vụ, chất lượng phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước trên tinh thần “cần, kiệm, liêm, chính”, “chí công vô tư”, hết lòng phục vụ nhân dân.

Bốn là, thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội cũng như công tác kiểm tra và giám sát những vấn đề có liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của nhân dân gắn với tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội, thực thi tinh thần thượng tôn pháp luật. Đồng thời, thực hiện nghiêm quy chế đánh giá, khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ, công chức để nâng cao chất lượng hoạt động công vụ theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, vì lợi ích của nhân dân phục vụ gắn với tăng cường tuyên truyền, nêu gương các điển hình, mô hình tốt trong quá trình thực hiện “dân giám sát, dân thụ hưởng” ở từng địa bàn cơ sở. Qua đó vừa cổ vũ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đưa nội dung “dân giám sát, dân thụ hưởng” trở thành hiện thực sinh động, vừa góp phần ngăn chặn từ sớm, từ xa những biểu hiện suy thoái, những tiêu cực của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị theo đúng tinh thần Quyết định số 217-QĐ/TW, ngày 12-12-2013, của Bộ Chính trị, “Ban hành Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội” và Quyết định 218-QĐ/TW, ngày 12-12-2013, của Bộ Chính trị, “Ban hành quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền”, góp phần tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân./.

---------------------

* Bài viết là sản phẩm của Đề tài khoa học cấp Bộ năm 2024 - 2025 của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: “Bảo đảm “dân giám sát, dân thụ hưởng” bằng pháp luật theo quan điểm Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam ở vùng Đông Nam bộ hiện nay”

(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 27
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 6, tr. 232
(3), (4) Hồ Chí Minh: Toàn tậpSđd, t. 10, tr. 63
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tậpSđd, t. 8, tr. 263
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tậpSđd, t. 9, tr. 518
(7) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 38
(8) Hoàng Minh Hội: Cơ chế pháp lý về giám sát của nhân dân thông qua Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội đối với các cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2019, tr. 10
(9) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIISđd, tr. 169 - 170
(10) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIIISđd,  t. I, tr. 165 - 166
(11) Hồ Chí Minh: Toàn tậpSđd, t. 13, tr. 164
(12) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 70
(13) Nguyễn Phú Trọng: “Giương cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy truyền thống yêu nước, vai trò nòng cốt chính trị của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, quyết tâm xây dựng đất nước ta ngày càng giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc”In trong cuốn: “Phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng đất nước ta ngày càng giàu mạnh, văn minh, hạnh phúc” (sách chuyên khảo), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2023, tr. 25

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét