Việt Nam là một quốc
gia thống nhất, đa dân tộc, đa tín ngưỡng, tôn giáo. Trải qua hàng nghìn năm
dựng nước và giữ nước, đồng bào các dân tộc, tôn giáo luôn luôn đoàn kết, chung
tay đấu tranh với “thiên tai, địch họa”, xây dựng Tổ quốc ngày càng giàu mạnh. Trong
quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn khẳng định vấn đề dân tộc, vấn đề tôn giáo và công tác
dân tộc, công tác tôn giáo là vấn đề chiến lược có tầm quan trọng
đặc biệt; thực hiện tốt chính sách dân tộc, tôn giáo, phát huy truyền thống và
sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc là một đảm bảo quan trọng cho thắng
lợi của sự nghiệp cách mạng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Ngay từ
khi mới ra đời, Đảng ta đã xây dựng nguyên tắc của chính sách dân tộc ở Việt Nam là: bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp đỡ lẫn
nhau giữa các dân tộc. Những nguyên tắc này được quán triệt và thực hiện
nhất quán, có hiệu quả trong mọi thời kỳ cách mạng.
Trong giai đoạn đấu
tranh giành chính quyền (1930 - 1945), đường lối, quan điểm giải quyết vấn đề dân tộc của Đảng là đảm
bảo quyền dân tộc tự quyết, quyền bình đẳng giữa các dân tộc. Lúc này, vấn đề
dân tộc thực chất là vấn đề nông dân và nhiệm vụ chính sách dân tộc là “ruộng
đất cho dân cày”. Đường lối, chính sách dân tộc đúng đắn đó của Đảng đã thu phục
được trái tim, khối óc của đông đảo đồng bào các dân tộc, góp phần làm nên
thắng lợi vĩ đại của Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Trong các cuộc kháng
chiến chống thực dân, đế quốc xâm lược, Đảng ta tiếp tục thực hiện chính sách
đoàn kết các dân tộc, trên nguyên tắc bình đẳng, tương trợ để kháng chiến và
kiến quốc, giúp nhau tiến bộ về mọi mặt. Đảng và Nhà nước ban hành nhiều quy
định nhằm thực hiện tốt chính sách dân tộc, động viên được sức mạnh của đồng
bào các dân tộc tham gia xây dựng chiến khu cách mạng, kháng chiến và kiến
quốc. Việc quán triệt và tổ chức thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng
trong thời kỳ này đã tạo được bước biến chuyển lớn trong đời sống vật chất,
tinh thần của đồng bào các dân tộc, góp phần tăng cường sức mạnh khối đại đoàn kết
toàn dân, đánh thắng các thế lực xâm lược.
Từ khi đất nước
thống nhất, quá độ đi lên CNXH, nhất là quá trình tiến hành công cuộc đổi mới,
đẩy mạnh CNH, HĐH, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, Đảng ta tiếp tục
thực hiện nhất quán quan điểm, nguyên tắc về chính sách dân tộc; đồng thời bổ
sung, phát triển những nội dung mới phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới. Các nghị quyết, kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội (KT - XH) của Đảng và Nhà nước qua các kỳ Đại hội Đảng, đều quan tâm sâu
sắc đến việc phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở miền núi, vùng đồng bào dân
tộc thiểu số. Tại Hội nghị Trung ương 7 (Khóa IX), Đảng đã ban hành Nghị quyết
số 24-NQ/TW về công tác dân tộc, trong đó nêu rõ những quan điểm cơ bản, mục tiêu,
nhiệm vụ cụ thể của công tác dân tộc trong thời kỳ mới. Đến Đại hội X, Đảng ta
tiếp tục khẳng định: “Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp
cách mạng nước ta. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết,
tôn trọng và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ…”. Quan điểm của Đảng là sự
tổng kết thực tiễn nhiều năm thực hiện đường lối, chính sách dân tộc và công
tác dân tộc của Đảng và Nhà nước ta; vừa có giá trị chỉ đạo lâu dài, vừa có ý
nghĩa thực tiễn, gắn chặt với thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc trong giai đoạn mới. Trong những nội dung quan trọng đó, Đảng ta đặc biệt
nhấn mạnh tính chiến lược, nguyên tắc và yêu cầu nhiệm vụ phát triển toàn diện
địa bàn vùng dân tộc và miền núi; sự ưu tiên đầu tư phát triển KT - XH và công
tác dân tộc là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị.
Trên cơ sở đó, Đảng
và Nhà nước đã đề ra và tổ chức thực hiện nhiều chương trình, đề án quan trọng,
có tác dụng to lớn đối với đồng bào dân tộc, như: Quyết định135/1998 về Chương
trình phát triển KT - XH các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng
xa; Quyết định 134/2004 về chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở, nước
sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số… các Nghị quyết về phát triển KT -
XH, đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên, Tây Bắc, Tây Nam Bộ... Nhờ
vậy, tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội ở vùng đồng bào các dân tộc
thiểu số đã ngày càng ổn định và có bước phát triển vững chắc. Đời sống nhân
dân từng bước được nâng lên; vấn đề chăm sóc sức khỏe, giáo dục - đào tạo đã có
những chuyển biến tích cực; kết cấu hạ tầng cơ sở được đầu tư phát triển hơn;
tỷ lệ hộ nghèo trong đồng bào dân tộc thiểu số giảm nhanh (bình quân khoảng
3-5%/năm), tốc độ phân hóa giàu nghèo giữa các vùng, các nhóm dân tộc được kiềm
chế; nhiều tỉnh đã cơ bản giải quyết được những bức xúc về nước sinh hoạt, nhà
ở, đất ở, đất sản xuất, việc làm…, đồng bào các dân tộc ngày càng tin tưởng hơn
vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước, tiếp tục nêu cao
truyền thống đoàn kết, tích cực lao động sản xuất, xây dựng đời sống văn hóa,
góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Tính đến tháng 8
- 2008, các địa phương trong cả nước đã tạo điều kiện giải quyết về nhà ở cho 340.000
hộ dân tộc thiểu số nghèo (đạt 98%), hỗ trợ đất ở cho 62.310 hộ (đạt 71%); cả
nước có 1814 xã vùng dân tộc, miền núi đặc biệt khó khăn có đường ô tô đến
trung tâm xã (chiếm 98,5%); 100% số huyện, 95% xã và 70% số hộ được dùng điện
lưới quốc gia; 100% xã có lớp mẫu giáo, trường tiểu học, trung học cơ sở; 100%
huyện miền núi có trường trung học phổ thông, trung tâm y tế, bệnh viện đa
khoa; hầu hết các xã có trạm y tế, đội ngũ y, bác sỹ được bổ sung và tăng
cường; 100% xã miền núi có nhà văn hóa, điểm bưu điện - văn hóa…
Cùng với việc thực
hiện tốt chính sách dân tộc, công tác dân tộc, Đảng và Nhà nước ta cũng thường
xuyên thực hiện có hiệu quả chính sách tôn giáo và công tác tôn giáo. Tư
tưởng nhất quán của Đảng ta là tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và
quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, hết sức chăm lo đoàn kết
tôn giáo, hòa hợp dân tộc. Ngay trong chỉ thị của Thường vụ Trung ương Đảng về
vấn đề thành lập Hội Phản đế Đồng minh (tháng 11-1930), Đảng ta đã nhấn
mạnh: “... phải lãnh đạo từng tập
thể sinh hoạt hay tập quán của nhân dân gia nhập một tổ chức cách mạng, để dần
dần cách mạng hóa quần chúng, mà lại đảm bảo tự do tín ngưỡng của quần chúng...”.
Sau khi đất nước giành được độc lập, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ (3
- 9 - 1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định “Tín ngưỡng tự do và Lương Giáo đoàn kết”. Theo đó, Đảng và
Nhà nước ta đã ban hành và tổ chức thực hiện có hiệu quả nhiều nghị quyết, chỉ
thị, sắc lệnh, nghị định về vấn đề tôn giáo, công tác tôn giáo; qua đó, góp
phần củng cố, phát huy được sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc và sự
đóng góp của đồng bào các tôn giáo vào thắng lợi của cách mạng.
Trong quá trình thực
hiện công cuộc đổi mới đất nước, nhận thức về tôn giáo và công tác tôn giáo của
Đảng có nhiều đổi mới và phát triển. Nghị quyết 24 của Bộ Chính trị (khoá VII)
về công tác tôn giáo khẳng định: tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của
một bộ phận nhân dân; Đảng và Nhà nước ta tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, thực hiện bình đẳng, đoàn kết
lương - giáo và giữa các tôn giáo; kiên quyết khắc phục thái độ hẹp hòi, thành
kiến, phân biệt đối xử với đồng bào có đạo, chống những hành vi lợi dụng tôn
giáo phá hoại độc lập dân tộc và đoàn kết dân tộc, chống phá CNXH, ngăn cản tín
đồ làm nghĩa vụ công dân. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (khóa IX) chỉ rõ: “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân,
đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta. Đồng
bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc”. Ngày
18-6-2004, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh về tín ngưỡng, tôn
giáo; Chính phủ đã ban hành các chỉ thị, nghị định… về tôn giáo và công tác tôn
giáo, từng bước hoàn thiện thể chế chính sách, pháp luật về tôn giáo, đảm bảo
hoạt động tôn giáo của tổ chức, cá nhân chức sắc, tín đồ các tôn giáo theo pháp
luật.
Là một bộ phận quan
trọng trong cộng đồng dân tộc, đồng bào các tôn giáo luôn gắn bó, đoàn kết,
đồng hành với đồng bào cả nước, phấn đấu vì lợi ích chung của dân tộc, của cách
mạng. Mong muốn của đại bộ phận tín đồ tôn giáo là xóa bỏ áp bức, bất công, xây
dựng một cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Điều mong muốn của đồng bào có đạo
cũng là mục tiêu, lý tưởng của sự nghiệp cách mạng do Đảng ta lãnh đạo. Bởi
vậy, dù theo bất cứ tôn giáo nào, đồng bào ta luôn quan tâm đến sự nghiệp chung
của dân tộc; tín đồ, chức sắc, chức việc các tôn giáo phấn khởi, tin tưởng vào
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Hoạt động
tôn giáo tự do, bình đẳng, đúng pháp luật; các tôn giáo đều có sự phát triển
mạnh về tín đồ, chức sắc, chức việc. Hệ thống các trường, lớp đào tạo chức sắc
của các tôn giáo được mở rộng. Tính đến 30/10/2008, Nhà nước đã công nhận tư
cách pháp nhân, đăng ký hoạt động tôn giáo đối với 30 tổ chức tôn giáo, trên 70
nghìn chức sắc, nhà tu hành và hàng vạn người hoạt động bán chuyên nghiệp; có
hàng trăm người theo đạo đang theo học các chương trình đào tạo thạc sĩ, tiến
sĩ ở các nước trên thế giới; hơn 22.000 cơ sở thờ tự đã được xây dựng, tu bổ và
được pháp luật bảo hộ… Với phương châm: “Đạo
pháp, dân tộc và CNXH”, “Nước
vinh, đạo sáng”, “Sống phúc âm,
phụng sự Thiên chúa, phục vụ Tổ quốc”, gắn bó với dân tộc, xây dựng cuộc
sống “tốt đời, đẹp đạo”, đồng bào có đạo tham gia tích cực, có hiệu quả các
phong trào thi đua yêu nước, các hoạt động xã hội, nhân đạo, từ thiện. Các tổ
chức tôn giáo đã vận động, quyên góp được hàng trăm tỷ đồng ủng hộ đồng bào bị
thiên tai, bão lũ; tổ chức hàng trăm lớp học tình thương cho trẻ em nghèo, các
trung tâm nuôi dạy trẻ mồ côi, người tàn tật, người bị bệnh hiểm nghèo; khám
chữa bệnh và cấp thuốc miễn phí cho nhân dân... Qua đó, góp phần cùng nhân dân
cả nước khắc phục khó khăn, phát triển KT - XH, củng cố quốc phòng - an ninh,
thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh. Những chuyển biến tích cực trong hoạt động của các tôn giáo khẳng
định: chính sách tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng
và Nhà nước ta đã đi vào đời sống xã hội, đáp ứng được nguyện vọng của đồng bào
các tôn giáo trong cả nước...
Rõ ràng, quan điểm,
chính sách của Đảng và Nhà nước ta về dân tộc, tôn giáo là đúng đắn, hoàn toàn
phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của đất nước, phù hợp với nguyện vọng của mọi
tầng lớp nhân dân. Thế nhưng, hiện nay các thế lực thù địch vẫn cố tình xuyên
tạc tình hình dân tộc, tôn giáo ở nước ta, nhằm phục vụ cho âm mưu thâm độc của
chúng. Họ dựng lên rằng, Đảng và Nhà nước ta thực hiện chính sách “độc tài cai
trị”, “đàn áp tôn giáo”, “đàn áp dân tộc”… Họ đưa ra chiêu bài đòi “tự do tôn
giáo”, đòi “quyền tự trị cho từng dân tộc”; kích động thành lập cái gọi là “Vương
quốc Mông tự trị” ở khu vực Tây Bắc; “nhà nước Đề Ga độc lập” ở Tây Nguyên, với
“Tin lành Đega” làm quốc đạo; thành lập “Nhà nước Khmer Campuchia Krom” ở vùng
đồng bào Khmer Nam Bộ… Thực chất, đây là thủ đoạn nham hiểm, lợi dụng vấn đề “dân
tộc, tôn giáo” để kích động, chia rẽ các dân tộc, tôn giáo, nhằm phá hoại khối
đại đoàn kết toàn dân tộc, gây mất ổn định chính trị, xã hội… Nhưng những luận
điệu đó không đánh lừa được ai, bởi thực tế hoàn toàn bác bỏ điều đó.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét