Thứ Sáu, 9 tháng 8, 2024

THƯƠNG BINH TÀN, NHƯNG KHÔNG PHẾ

Tháng 6 năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh Chỉ thị chọn một ngày trong năm làm ngày thương binh toàn quốc để nhân dân có dịp tỏ lòng biết ơn đến các thương binh, liệt sĩ. Thực hiện Chỉ thị của Người, một Hội nghị trù bị họp tại xã Phú Minh, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên và nhất trí lấy ngày 27/7 hàng năm làm ngày Thương binh toàn quốc. Ngày 27/7/1947 là ngày Thương binh toàn quốc đầu tiên, từ năm 1955 ngày 27/7 được đổi thành ngày Thương binh - Liệt sĩ. Từ đấy, hàng năm đến ngày 27 tháng 7, Bác Hồ đều gửi thư thăm hỏi, động viên tới thương binh, gia đình liệt sĩ, tới các đơn vị điều dưỡng, các cán bộ phụ trách để nhắc nhở mọi người phải biết ơn và hết lòng giúp đỡ các thương bệnh binh và gia đình liệt sĩ. Bên cạnh đó, Người dành thời gian nhiều lần đến thăm các anh em thương binh tại các trại điều dưỡng, hay bệnh viện và đón tiếp họ tại nơi Người ở và làm việc.

Trên báo Vệ quốc quân số 11, ra ngày 27/7/1947 đã đăng Thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Thường trực Ban Tổ chức” Ngày Thương binh toàn quốc”. Đầu thư Người viết: ”Ðang khi Tổ quốc lâm nguy, giang sơn, sự nghiệp, mồ mả, đền chùa, nhà thờ của tổ tiên ta bị uy hiếp. Cha mẹ, anh em, vợ con, ao vườn, làng mạc ta bị nguy ngập. Ai là người xung phong trước hết để chống cự quân thù? Ðó là những chiến sĩ mà nay một số đã thành ra thương binh” và Bác giải thích: ”... Thương binh là những người đã hy sinh gia đình, hy sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ đồng bào. Vì lợi ích của Tổ quốc, của đồng bào mà các đồng chí đó chịu ốm yếu, què quặt. Vì vậy, Tổ quốc và đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy ...”. Cuối thư, Người đã vận động bà con, đồng bào cả nước nhường cơm sẻ áo, giúp đỡ thương binh. Còn Bác đã xung phong góp chiếc áo lụa, một tháng lương và tiền ăn một bữa của mình và của tất cả các nhân viên của Phủ Chủ tịch, tổng cộng là một ngàn một trăm hai mươi bảy đồng (1.127 đồng) để tặng thương binh. Bác luôn đề cao sự hy sinh, cống hiến của các thương binh, liệt sĩ.

Trong những năm sống và làm việc tại Hà Nội, vào đêm Giao thừa Bác Hồ thường đi thăm và chúc Tết nhiều nơi, nhưng Giao thừa năm 1956, Bác chỉ đến thăm duy nhất Trường Thương binh hỏng mắt Hà Nội và tặng cho anh em một chiếc áo mà đồng bào miền Nam gửi tặng Người. Trường Thương binh hỏng mắt được thành lập trong những năm kháng chiến chống Pháp, ở Thanh Hoá. Hoà bình lập lại, trường chuyển địa điểm về phố Nguyễn Thái Học, thuộc quận Ba Ðình, Hà Nội. Tối 11-2-1956 (tức tối 30 Tết năm Bính Thân), sau bữa cơm tất niên, anh em thương binh quần tụ đông đảo ở hội trường để vui liên hoan đón Giao thừa. Giữa cuộc vui, mọi người được tin Bác Hồ đến thăm trường. Ai cũng nghĩ không có nguồn động viên nào lớn hơn thế. Bác hỏi thăm tình hình sức khoẻ, học tập và công tác chuẩn bị đón Tết của nhà trường. Bác vui mừng vì nhà trường đã chăm lo việc tổ chức sản xuất tăng gia, cải thiện nâng cao đời sống vật chất cho anh em. Trong buổi nói chuyện, Bác đã nói một câu mà đến nay đã trở thành phương châm sống của anh em thương bệnh binh: Có trường thương binh hỏng mắt này, các chú được học chữ, học nghề để tiếp tục phục vụ nhân dân, như vậy các chú “Tàn mà không phế”. Các chú tuỳ theo sức của mình mà học tập và công tác. Lời động viên của Bác đã trở thành khẩu hiệu hành động của các đồng chí thương binh. Từ đó, nhiều đồng chí đã nỗ lực học tập để nâng cao trình độ như anh Ðinh Công Cẩn, Vương Nguyên Khoa, Huỳnh Ðình Thảo đã tốt nghiệp Ðại học Tổng hợp văn, nhiều đồng chí tốt nghiệp cấp III, đặc biệt có nhiều anh đã quên đi ý định “quyên sinh” sau lần gặp Bác.

Tháng 7 năm 1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động phong trào “Ðón thương binh về làng”. Tùy theo sự cố gắng và khả năng chung của mỗi xã để giúp lâu dài chứ không phải giúp bằng cách góp gạo nuôi thương binh; cụ thể là mỗi xã trích một phần ruộng công, nếu không có ruộng công thì mượn ruộng của những đồng bào có hằng tâm, hằng sản; nếu không mượn được ruộng thì chính quyền đoàn thể, đồng bào trong xã chung sức phát vỡ một số đất mới, tổ chức việc cày cấy, chăm nom, gặt hái những ruộng đất ấy, hoa lợi để nuôi thương binh. Anh em thương binh sẽ tùy sức mà làm những công việc nhẹ như học may, đan lát, hớt tóc, hoặc giúp việc phòng giấy… Như thế thì đồng bào mỗi xã được thỏa mãn lòng ước ao báo đáp anh em thương binh, mà anh em thương binh thì được yên ổn về vật chất và vui vẻ về tinh thần và có dịp tham gia hoạt động ích lợi cho xã hội.

Cùng với việc kêu gọi trách nhiệm của toàn xã hội với anh em thương binh, gia đình liệt sĩ, trong thư gửi anh em thương binh, bệnh binh Trại An dưỡng Hà Nam tháng 6/1957, Bác cũng nhắc nhở trách nhiệm của anh em thương binh với xã hội: “Các chú là những chiến sĩ đã được quân đội nhân dân rèn luyện về đạo đức và kỷ luật cách mạng, là những người con đã hy sinh một phần xương máu để bảo vệ nước nhà. Vậy các chú cần phải giữ vững truyền thống tốt đẹp và vẻ vang của quân đội cách mạng là: giữ gìn kỷ luật đoàn kết chặt chẽ, thật sự đoàn kết yêu thương giữa anh em thương binh với nhau; giữa thương, bệnh binh với cán bộ và nhân viên giúp việc ở trại, giữa thương bệnh binh với đồng bào xung quanh, mỗi thương, bệnh binh cần tự giác, hòa mình với nhân dân, tôn trọng nhân dân, tránh phiền nhiễu nhân dân, tránh tâm lý công thần coi thường lao động, coi thường kỷ luật, chớ bi quan chán nản, phải luôn luôn cố gắng…”

Tình cảm của Bác Hồ với thương binh, liệt sĩ là vô bờ bến, nó vừa là trách nhiệm của người đứng đầu Nhà nước vừa là tình cảm của người chủ gia đình. Người ra đi khi Tổ quốc chưa thống nhất nhưng người vẫn khẳng định: Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất, đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà. Trước khi về với thế giới người hiền, Người chỉ tiếc là: “không được phục vụ cách mạng lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”, thì Người vẫn nghĩ đến các liệt sĩ, thương binh. Trong Di chúc thiêng liêng, Người căn dặn: Ðối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình (cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong…), Ðảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn, chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần “tự lực cánh sinh”; Ðối với các liệt sĩ, mỗi địa phương (thành phố, làng xã) cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta; Ðối với cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sĩ) mà thiếu sức lao động và túng thiếu, thì chính quyền địa phương phải giúp đỡ họ có công việc làm ăn thích hợp quyết không để họ bị đói rét.

Thực hiện lời dạy của Bác Hồ, Ðảng và Chính phủ đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách ưu đãi thích hợp với thương binh và gia đình liệt sĩ. Từ khi đất nước thống nhất, bước vào thời kỳ xây dựng và phát triển kinh tế, cả nước đã thu được nhiều thành tựu đáng kể về nhiều mặt. Các hoạt động tình nghĩa đã có những đổi mới về chất, đi vào chiều sâu. Công tác “đền ơn đáp nghĩa” đã trở thành phong trào quần chúng rộng lớn, được xã hội hóa và hướng vào các hoạt động thiết thực. Các chương trình như xây dựng, tu bổ nghĩa trang liệt sĩ; xây dựng nhà bia ghi công các liệt sĩ; chương trình củng cố các cơ sở sản xuất của thương binh và người tàn tật; chương trình xây dựng quỹ “Ðền ơn đáp nghĩa”… được triển khai sâu rộng đã thực sự mang lại những ý nghĩa to lớn cả về chính trị và xã hội


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét