Trong suốt quá trình công tác, đảm nhận nhiều cương vị, trọng trách lớn lao mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có nhiều cống hiến quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Đồng chí là tấm gương sáng ngời của người chiến sĩ cộng sản kiên trung, nhà lãnh đạo đặc biệt xuất sắc, trọn đời vì Đảng, vì nước, vì dân, là “hiện thân đầy đủ phẩm chất, tài năng, bản lĩnh, trí tuệ của thế hệ lãnh đạo Việt Nam thời kỳ đổi mới”(1). Những di sản mà Đồng chí để lại sẽ tiếp tục được toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta kế thừa và phát huy, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, đưa đất nước ta vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, một trí tuệ lớn, tài năng lớn, nhân cách lớn của cách mạng Việt Nam, nhà tư tưởng, nhà văn hóa, ngọn cờ lý luận của Đảng, người học trò xuất sắc không ngừng học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc ta, sống trọn cuộc đời vì nước, vì dân.
Gần 60 năm hoạt động cách mạng phong phú, bền bỉ, được tôi luyện trong thực tiễn cách mạng, với bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định, tầm nhìn chiến lược, tư duy lý luận sắc bén, trí tuệ uyên bác, phong cách làm việc miệt mài, bền bỉ, Đồng chí Nguyễn Phú Trọng đã cùng tập thể Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, từ đó bổ sung, hoàn thiện và lãnh đạo thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới, góp phần ngày càng làm sáng rõ lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, xây dựng đất nước ta “chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, uy tín và vị thế quốc tế như ngày nay”.
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, công tác lý luận của Đảng luôn được Đồng chí Nguyễn Phú Trọng đặc biệt quan tâm, bởi “không có lý luận cách mệnh thì không có cách mệnh vận động”(2). Đồng chí nhấn mạnh, “đường lối của Đảng mà không phản ánh được lợi ích của nhân dân, của đất nước, của dân tộc, không phù hợp với quy luật tiến hóa của lịch sử, là đường lối sai lầm”(3). Do đó, lý luận phải gánh vác được sứ mệnh “vươn lên dẫn đường và đồng hành với thực tiễn”(4). Với trách nhiệm là người lãnh đạo cao nhất của Đảng, người phụ trách công tác lý luận của Đảng trong nhiều năm, Đồng chí Nguyễn Phú Trọng có công lao to lớn trong lãnh đạo, chỉ đạo tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, phát triển nhận thức lý luận của Đảng ta về đường lối đổi mới, về mô hình chủ nghĩa xã hội riêng có của Việt Nam ngày càng sáng rõ, đầy đủ hơn.
Đồng chí nêu rõ nhận thức tổng quát về mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”(5).
Để đạt được mục tiêu tổng quát và các đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa, Đảng ta chủ trương thực hiện 8 phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội gắn với 8 lĩnh vực chủ yếu của đời sống chính trị, kinh tế - xã hội, có ý nghĩa như con đường, cách thức để đạt được đích đến, bao gồm: Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường; phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Trong quá trình thực hiện các phương hướng cơ bản đó, phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt 10 mối quan hệ lớn: Giữa ổn định, đổi mới và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa Nhà nước, thị trường và xã hội; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ; giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội...
Công cuộc đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là cuộc cải biến cách mạng vĩ đại, toàn diện, sâu sắc, là cuộc trường chinh đầy khó khăn, gian khổ, phức tạp, lâu dài, vừa tiến hành, vừa đúc rút kinh nghiệm. Do đó, cần hết sức coi trọng công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận. Những vấn đề lý luận về đường lối đổi mới ở Việt Nam ngày càng được bổ sung, hoàn thiện, trong đó có công lao to lớn của Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, có vai trò đặc biệt quan trọng định hướng và từng bước định hình chủ nghĩa xã hội mang bản sắc Việt Nam.
Những di sản lý luận của Đồng chí cũng góp phần củng cố niềm tin mãnh liệt về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”(6) và “chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập cho dân tộc, mới có thể đem lại cuộc sống tự do, ấm no và hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi người, cho các dân tộc”(7), đồng thời đóng góp quan trọng cho sự phát triển của phong trào cộng sản trên thế giới, bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay.
Trong toàn bộ quá trình hoạt động cách mạng của mình, Đồng chí Nguyễn Phú Trọng dành sự quan tâm đặc biệt đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đồng chí yêu cầu “coi đây là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa”(8), bởi vì “sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới và bảo đảm cho đất nước phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa”(9). Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được Đồng chí bao quát ở một phổ rộng, toàn diện những vấn đề liên quan, từ bản chất, mục tiêu, tính chất, các nguyên tắc hoạt động, phương thức lãnh đạo - cầm quyền của Đảng, đến các lĩnh vực cụ thể, như công tác tư tưởng, lý luận, tổ chức, cán bộ, kiểm tra, kỷ luật, xây dựng Đảng về đạo đức, văn hóa trong Đảng...
Đồng chí xác định mục tiêu quan trọng và có ý nghĩa chiến lược của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng là xây dựng Đảng ta trở thành “một đảng cách mạng chân chính có đường lối đúng, có tổ chức chặt chẽ, có đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, gương mẫu, tận tụy, gắn bó máu thịt với nhân dân, được nhân dân ủng hộ, thì đảng đó có sức mạnh vô địch, không thế lực nào ngăn cản nổi trên con đường dẫn dắt dân tộc đi lên”(10). Xuất phát từ quan điểm “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, Đồng chí Nguyễn Phú Trọng cho rằng: “công tác cán bộ phải là điểm đột phá, là “then chốt” của nhiệm vụ “then chốt”, có liên quan đến sự sống còn của Đảng, vận mệnh của chế độ; sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước”, do đó “phải hết sức chú trọng xây dựng và làm trong sạch đội ngũ cán bộ, nhất là xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; phát huy trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên; chức vụ càng cao càng phải gương mẫu”(11).
Đồng chí Nguyễn Phú Trọng đã cùng Ban Chấp hành Trung ương hoạch định và trực tiếp lãnh đạo thực hiện thắng lợi các chủ trương chiến lược về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; kiên quyết, kiên trì chống chủ nghĩa cá nhân, chống sự suy thoái, hư hỏng trong Đảng, chống tham nhũng, tiêu cực đi đôi với không ngừng rèn luyện đạo đức cách mạng, bản lĩnh, trình độ trí tuệ, tính tiên phong, phát huy truyền thống tốt đẹp, mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, hạt nhân là Đồng chí Nguyễn Phú Trọng, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được triển khai kiên quyết, kiên trì, với phương châm “không có vùng cấm, không có ngoại lệ, không bị tác động không trong sáng bởi bất kỳ tổ chức, cá nhân nào”; kết hợp chặt chẽ giữa tích cực phòng ngừa với chủ động phát hiện, xử lý nghiêm minh, kịp thời hành vi tham nhũng, tiêu cực; xử lý đồng bộ kỷ luật đảng, kỷ luật hành chính và xử lý bằng pháp luật hình sự. Do đó, có bước tiến mạnh mẽ, đạt được nhiều kết quả toàn diện, tích cực, rõ rệt, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, củng cố niềm tin chính trị của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, để lại những dấu ấn vô cùng sâu đậm. Những kết quả đã đạt được trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là minh chứng sinh động cho thấy Đảng ta đã thể hiện bản lĩnh, trí tuệ, lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta giành nhiều thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới đất nước, làm thất bại mọi âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, phản động, xây dựng xã hội và Đảng ta thực sự “là đạo đức, là văn minh”.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, trong đó có đóng góp quan trọng của Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, vừa với vai trò vừa là một nhà lý luận, vừa là người lãnh đạo tổ chức thực hiện thành công mô hình kinh tế tổng quát của nước ta thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đây là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Đó là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường; một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Đây không phải là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và cũng chưa phải là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đầy đủ (vì nước ta còn đang trong thời kỳ quá độ)(12). Tính chất định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối phải được bảo đảm, mà một đặc trưng, một thuộc tính căn bản là gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển. Nhấn mạnh và thực hiện hiệu quả thuộc tính này chính là một nguyên tắc, là cơ sở để phát triển bền vững đất nước, bảo đảm tính ưu việt của chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng.
Đồng chí Nguyễn Phú Trọng luôn trăn trở với vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Phân tích sự khác nhau giữa Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với Nhà nước pháp quyền tư bản chủ nghĩa, Đồng chí Nguyễn Phú Trọng tổng kết: “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa về bản chất khác với nhà nước pháp quyền tư sản là ở chỗ: pháp quyền dưới chế độ tư bản chủ nghĩa về thực chất là công cụ bảo vệ và phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản, còn pháp quyền dưới chế độ xã hội chủ nghĩa là công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân”(13). Từ tổng kết đó, Đồng chí Nguyễn Phú Trọng đặt ra yêu cầu trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân: “Chúng ta xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa - một nhà nước thực sự kiến tạo khuôn khổ thể chế, pháp luật cho sự phát triển của đất nước, của dân tộc... Nhưng phải luôn nhớ là Nhà nước pháp quyền mà chúng ta đang xây dựng là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng... Đây là vấn đề có tính nguyên tắc, rất hệ trọng”(14).
Dưới sự lãnh đạo của Đồng chí Nguyễn Phú Trọng, lần đầu tiên, Đảng ta ban hành Nghị quyết về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân trong giai đoạn mới, đặt mục tiêu “hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, do Ðảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; có hệ thống pháp luật hoàn thiện, được thực hiện nghiêm minh, nhất quán; thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ hiệu quả quyền con người, quyền công dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, được phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ, kiểm soát hiệu quả; nền hành chính, tư pháp chuyên nghiệp, pháp quyền, hiện đại; bộ máy nhà nước tinh gọn, trong sạch, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực, thực sự chuyên nghiệp, liêm chính; quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả; đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh, bền vững”(15).
Đề cao vai trò của văn hóa đối với sự phát triển của đất nước, thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, ý thức sâu sắc vị trí, vai trò quan trọng của văn hóa: “Văn hóa là hồn cốt của dân tộc”, “Văn hóa còn thì dân tộc còn”, “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”, nhà văn hóa lớn Nguyễn Phú Trọng, nhà lãnh đạo xuất sắc trên mặt trận văn hóa của Đảng đã dành nhiều tâm huyết xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, là sức mạnh nội sinh, động lực quan trọng để phát triển đất nước. Đồng chí Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Nhận thức của Đảng về văn hóa ngày càng toàn diện, đầy đủ và sâu sắc hơn. Đảng ta xác định: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là sức mạnh nội sinh, động lực quan trọng để phát triển đất nước; xác định phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, thể hiện tính ưu việt của chế độ ta”(16). Dưới sự lãnh đạo của Đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Đại hội XIII của Đảng đã đề cập, phân tích toàn diện, sâu sắc về vai trò của lĩnh vực văn hóa đối với phát triển kinh tế - xã hội; Hội nghị toàn quốc về văn hóa của Đảng sau hơn 70 năm là dấu mốc gắn kết tư tưởng và hành động của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phát huy mạnh mẽ vai trò của văn hóa trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời mở ra nhiệm vụ nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới; xây dựng Chương trình mục tiêu quốc gia về chấn hưng, phát triển văn hóa, xây dựng con người Việt Nam...
Trong quan hệ đối ngoại và hợp tác quốc tế, với tầm nhìn chiến lược về những vấn đề cốt yếu của thế giới đương đại, đồng thời dựa trên tinh thần yêu chuộng hòa bình và những nỗ lực không ngừng nghỉ của nhân dân Việt Nam trong góp phần duy trì, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định của khu vực cũng như toàn cầu, Đồng chí Nguyễn Phú Trọng trở thành người chiến sĩ tiên phong mở đường, xác lập những chương mới trong quan hệ giữa nước ta với nhiều đối tác quan trọng, tạo tiền đề thúc đẩy tình hữu nghị và hợp tác cùng phát triển giữa Việt Nam với các quốc gia trên thế giới; tăng cường sự đóng góp của Việt Nam thông qua nhiều cam kết, hành động thiết thực; kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, đưa đất nước ta tiến lên mạnh mẽ trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Trên cương vị Tổng Bí thư, Đồng chí Nguyễn Phú Trọng đã tham gia trực tiếp nhiều hoạt động đối ngoại quan trọng của Đảng, đất nước, có ý nghĩa xây dựng và củng cố cục diện đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế, có ý nghĩa chiến lược lâu dài cho đất nước.
Đồng chí Nguyễn Phú Trọng đã cùng Ban Chấp hành Trung ương phát triển, hoàn thiện tư duy về đường lối đối ngoại Việt Nam, tổng kết thực tiễn, xây dựng và phát triển nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”, “gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển”. Trường phái đối ngoại, ngoại giao “cây tre Việt Nam” thấm đượm tâm hồn, cốt cách và khí phách của dân tộc Việt Nam đó là: “mềm mại, khôn khéo, nhưng rất kiên cường, quyết liệt; linh hoạt, sáng tạo, nhưng rất bản lĩnh, kiên định, can trường trước mọi thử thách, khó khăn vì độc lập dân tộc, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân. Đoàn kết, nhân ái, nhưng kiên quyết, kiên trì bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc. Biết nhu, biết cương; biết thời, biết thế; biết mình, biết người; biết tiến, biết thoái, “tùy cơ ứng biến”, “lạt mềm buộc chặt!”(17). Đây cũng chính là nền tảng chủ đạo trong tư tưởng, tầm nhìn chiến lược trong bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, giữ nước từ khi nước chưa nguy; đồng thời, góp phần phát huy vai trò tiên phong của nền ngoại giao toàn diện, hình thành và lãnh đạo thực hiện hiệu quả nghệ thuật ngoại giao thời đại mới mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam” trên cơ sở cốt cách con người Việt Nam “Dĩ bất biến ứng vạn biến”, trọng sự “hòa hiếu”, “lấy chí nhân thay cường bạo”, hướng tới các giá trị tiến bộ, hòa bình bền vững.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, bản sắc nền “đối ngoại, ngoại giao cây tre Việt Nam” được phát huy mạnh mẽ, tạo ra những bước ngoặt có tính lịch sử, thay đổi về chất trong quan hệ giữa Việt Nam với các đối tác lớn. “Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng về công tác đối ngoại, ngoại giao, trong gần 40 năm qua, Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả rất quan trọng: phá thế bị bao vây, cấm vận, tạo dựng và củng cố ngày càng vững chắc cục diện đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa, thuận lợi cho công cuộc đổi mới; tạo dựng được môi trường quốc tế thuận lợi và huy động được các nguồn lực từ bên ngoài để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội. Đối ngoại, ngoại giao đóng vai trò tiên phong trong việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, góp phần quan trọng vào việc bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, quyền chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Vị thế và uy tín quốc tế của nước ta trong khu vực và trên thế giới ngày càng được nâng cao, đóng góp tích cực và trách nhiệm vào việc giữ vững hòa bình, hợp tác phát triển và tiến bộ trên thế giới”(18). Chưa bao giờ vị thế, uy tín và hình ảnh Việt Nam là đối tác tin cậy, thành viên tích cực và có trách nhiệm nổi bật trên trường quốc tế như hiện nay và cũng chưa bao giờ Việt Nam hội nhập sâu rộng như hiện nay vào nền chính trị quốc tế, nền kinh tế thế giới và nền văn minh nhân loại. Uy tín và vị thế của đất nước giúp đối ngoại và ngoại giao của Việt Nam “đạt được nhiều kết quả, thành tựu quan trọng, có ý nghĩa lịch sử, trở thành một điểm sáng đầy ấn tượng trong toàn bộ những kết quả, thành tựu chung của đất nước...”(19).
Từng giữ cương vị Chủ tịch nước, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh, Thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân, Bí thư Quân ủy Trung ương, Đồng chí Nguyễn Phú Trọng luôn dành sự quan tâm sâu sắc, chăm lo xây dựng lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam, Công an nhân dân Việt Nam vững mạnh, đoàn kết gắn bó. Đồng chí thường xuyên căn dặn lực lượng vũ trang phải thấm nhuần, học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, lấy “Danh dự là điều thiêng liêng cao quý nhất”, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, “dựa vào dân mà làm việc”, “phải thực sự trung thành, tôn kính, thương yêu dân”, gắn bó mật thiết với nhân dân, bảo vệ lợi ích của nhân dân, phải làm cho dân ngày càng tin hơn, giúp đỡ nhiều hơn. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang tinh, gọn, mạnh, thực sự trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới đạt nhiều kết quả quan trọng; lực lượng công an, lực lượng quân đội đoàn kết, phối hợp chặt chẽ, thực sự là “thanh kiếm” và “lá chắn”, “hai cánh” của một con chim, bảo vệ giữ gìn hòa bình, ổn định để phát triển đất nước.
Xuyên suốt tư tưởng và hành động của Đồng chí Nguyễn Phú Trọng đều hướng đến lợi ích của nhân dân, vì con người, là hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, xây dựng con người xã hội chủ nghĩa và không ngừng củng cố đại đoàn kết thống nhất, trước hết là đoàn kết thống nhất trong Đảng, đại đoàn kết toàn dân tộc và đoàn kết quốc tế trong sáng. Đồng chí luôn quyết tâm hoạch định và tổ chức thực hiện thắng lợi mọi chủ trương, chính sách hợp lòng dân; kiên định lập trường, quan điểm và thực hành “dân là gốc”, “Nhân dân là chủ thể, trung tâm của công cuộc đổi mới”. Nhà cộng sản chân chính, chí tình, chí nghĩa luôn tâm niệm và yêu cầu toàn Đảng, toàn hệ thống chính trị “phải có trách nhiệm cao nhất với dân, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân”(20), “liên hệ chặt chẽ với nhân dân là quy luật tồn tại, phát triển và hoạt động của Đảng, là nhân tố quyết định tạo ra sức mạnh của Đảng”(21).
Đồng chí Nguyễn Phú Trọng luôn đề cao thực hành thực chất và rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, bởi bản chất của chế độ chính trị do Đảng Cộng sản lãnh đạo chính là nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Trong đó, dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển, với nội hàm quan trọng nhất là tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; nhân dân là chủ thể và là người thực hiện quyền lực chung của xã hội. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là chế độ dân chủ cao nhất - dân chủ theo nghĩa đầy đủ nhất của phạm trù này. Do đó, cần “mở rộng thực hành dân chủ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, ở mọi cấp, nhất là dân chủ ở cơ sở và cộng đồng dân cư, dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện và nhân dân tự quản. Phát huy vai trò tự quản của cộng đồng dân cư, thôn, bản, tổ dân phố. Xây dựng, hoàn thiện cơ chế, hình thức phù hợp để nhân dân tham gia ý kiến đối với các vấn đề lớn, quan trọng của đất nước; bảo đảm nhân dân tham gia tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định trực tiếp liên quan đến lợi ích, cuộc sống của người dân”(22). Việc phát huy quyền làm chủ thực sự của nhân dân cũng chính là khơi dậy và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, để động viên, cổ vũ mọi tầng lớp nhân dân, huy động mọi nguồn lực, tranh thủ mọi thời cơ để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng nhấn mạnh: “Dân chủ đồng thời phải gắn liền với nguyên tắc, kỷ cương... Đối với những hành vi vi phạm, phi dân chủ, lợi dụng dân chủ để phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chống Đảng, Nhà nước, nhân dân và công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước thì kiên quyết xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật”(23).
Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là nhà lãnh đạo hết lòng chăm lo, vun đắp cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc và bản thân Đồng chí là tấm gương sáng về tinh thần đoàn kết, thực sự là hạt nhân quy tụ đoàn kết, thống nhất trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Đồng chí khẳng định, đoàn kết là truyền thống quý báu của dân tộc ta trong suốt chiều dài lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước và thời đại Hồ Chí Minh là thời đại huy hoàng bậc nhất về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Đoàn kết cũng là vấn đề chiến lược có ý nghĩa sống còn, bảo đảm cho mọi thắng lợi của đường lối cách mạng Việt Nam. Lịch sử dân tộc ta đã chứng minh, trước những bước ngoặt lớn của lịch sử, mục tiêu lớn lao của đất nước, nếu biết khơi dậy tinh thần yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, phát huy sức mạnh vĩ đại của khối đại đoàn kết toàn dân tộc muôn người như một, kết hợp với sức mạnh của thời đại, thì không một khó khăn nào có thể cản nổi thế đi lên và tiền đồ tươi sáng của đất nước. Đồng chí đặc biệt quan tâm xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên lập trường giai cấp công nhân, lấy liên minh công nhân - nông dân - trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; trên nền tảng của liên minh trên, Đảng ta không ngừng mở rộng sự đoàn kết đối với mọi giai cấp, tầng lớp xã hội. Tăng cường vai trò nòng cốt chính trị, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đồng thời, Đồng chí khẳng định: “Đoàn kết, thống nhất trong Đảng được giữ vững, tăng cường, làm nòng cốt lãnh đạo và là hạt nhân, cơ sở vững chắc để xây dựng đoàn kết của hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc”(24)...
Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng, về trí tuệ uyên bác và hết lòng vì nước, vì dân để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta học tập và noi theo. Di sản của Đồng chí sẽ tiếp tục được kế thừa và phát huy trong công cuộc đổi mới; thực hiện thành công mục tiêu xây dựng nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ, giàu mạnh, văn minh, hạnh phúc mà Đồng chí trọn đời ấp ủ, phấn đấu hy sinh(25). Cuộc đời, sự nghiệp, nhân cách và những cống hiến to lớn của Đồng chí mãi được khắc ghi trong lòng nhân dân và lưu danh trong lịch sử hào hùng của dân tộc Việt Nam nghìn năm văn hiến và anh hùng./.
St
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét