Đối
với Việt Nam, một kỷ nguyên mới đã được mở ra năm 1945. “Thắng lợi của Cách
mạng Tháng Tám năm 1945, đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến, lập
nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đưa dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc lập,
tự do” như Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội vạch rõ. Từ một thuộc địa không có tên trên bản đồ thế giới, một chế độ
phong kiến lạc hậu ở phương Đông, Việt Nam tuyên ngôn với toàn thế giới vị thế
là quốc gia độc lập có chủ quyền, một chế độ của Nhân dân lao động. Lãnh tụ Hồ
Chí Minh đã khắc họa kỷ nguyên mới huy hoàng của dân tộc trong bản Tuyên ngôn
độc lập: “Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần một trăm năm nay để gây
dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế
kỷ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hòa”.
Để
giữ vững độc lập, tự do trong kỷ nguyên mới, quân và dân Việt Nam đã phải tiến
hành các cuộc kháng chiến trường kỳ, chiến đấu gian khổ, hy sinh to lớn và
thắng lợi vẻ vang trước các thế lực thực dân, đế quốc đầu sỏ và phản động quốc
tế; đồng thời, phải nỗ lực xây dựng CNXH ở miền Bắc. Đến mùa Xuân năm 1975, Chiến
dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất
nước, cả nước đi lên CNXH. Mục tiêu, nhiệm vụ chiến lược của kỷ nguyên độc lập,
tự do đã được hoàn thành trọn vẹn. Thắng lợi của Việt Nam không chỉ có ý nghĩa
vĩ đại đổi với quốc gia dân tộc, mà còn mang tầm vóc thời đại cao cả, thời đại
của hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Thành
tựu mang tầm vóc thời đại của kỷ nguyên độc lập, tự do và những thành tựu to
lớn, có ý nghĩa lịch sử của kỷ nguyên đổi mới và phát triển tạo ra tiền đề vững
chắc cho Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Đại
hội XIII của Đảng (năm 2021) đã vạch ra mục tiêu vươn mình đến năm 2045, Việt
Nam trở thành quốc gia phát triển, thu nhập cao. Việc vạch ra mục tiêu đến năm
2045 Việt Nam trở thành quốc gia phát triển, thu nhập cao là có đầy đủ căn cứ.
Đó là sức mạnh tổng hợp quốc gia được tạo ra từ các thời kỳ trước, nhất là
trong quá trình đổi mới. Đó là kinh nghiệm của các nước đi trước, chỉ trong
vòng 2-3 thập kỷ công nghiệp hóa thành công họ đều trở thành các quốc gia phát
triển. Đó là cơ hội mới do bước ngoặt vận động của thế giới đem lại cho các
nước đi sau có thể về đích sớm. Đó là động lực tinh thần to lớn của hơn 100
triệu người Việt Nam quyết tâm thực hiện khát vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Xây
dựng đất nước ngày càng “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”, “sánh vai với các cường
quốc năm châu”…
Những chiến lược cần thiết, cấp bách
Tầm
nhìn và mục tiêu vươn mình của dân tộc đã sáng tỏ, vấn đề đặt ra là phải kịp
thời có các chiến lược thực hiện kịp thời, khả thi.
Trước hết
là chiến
lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong bối cảnh đã xuất
hiện Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và quá trình toàn cầu hóa diễn ra
ngày càng mạnh mẽ. Công nghiệp hóa là nội dung cốt lõi của phát triển và hiện
đại hóa ngày nay, quyết định trình độ phát triển của mỗi quốc gia dân tộc; đồng
thời, tạo ra các tiền đề cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Các nhà
kinh điển đã từng khẳng định: CNXH chỉ có thể chiến thắng, suy cho cùng, bằng
năng suất lao động và trình độ xã hội hóa lực lượng sản xuất, đều do công
nghiệp hóa tạo ra.
Do
nhiều nguyên nhân, Việt Nam không có điều kiện tham gia ba cuộc cách mạng công
nghiệp trước kia; bởi vậy, các chính sách công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện
nay phải tích hợp đáp ứng các yêu cầu đa dạng của ba trình độ sản xuất công
nghiệp đã qua là cơ khí hóa, điện khí hóa và tin học hóa; đồng thời, phù hợp
với trình độ số hóa của nền sản xuất công nghiệp hiện đại. Mặt khác, thế giới
ngày nay về cơ bản là một thị trường tự do toàn cầu, được cấu tạo và vận hành
bởi chuỗi giá trị toàn cầu, không còn nhiều ranh giới, khác biệt giữa thị
trường quốc nội và thị trường quốc tế. Bởi vậy, các mô hình công nghiệp hóa
thay thế nhập khẩu, hướng xuất khẩu hoặc hỗn hợp vừa hướng xuất khẩu và thay
thế nhập khẩu đều không còn chỗ đứng. Việt Nam cần hoạch định chiến lược đúng
đắn, trong đó phải sáng rõ mô hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa phù hợp, xác
định trúng những mũi nhọn công nghiệp hóa của đất nước.
Thứ hai là chiến lược phát triển khoa học công
nghệ, đổi mới sáng tạo. Trước kia, Đảng đã xác định đường lối tiến hành
đồng thời ba cuộc cách mạng, trong đó cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt.
Ngày nay, phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo nhất thiết phải là
nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu. Không quốc gia nào trở thành quốc gia phát triển mà
không có khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo ở trình độ cao. Việt Nam phải có
một số mũi nhọn khoa học công nghệ, nhất là khoa học ứng dụng và năng lực đổi
mới sáng tạo. Tập trung vào một số mũi nhọn gì cụ thể? Đây là vấn đề cơ bản
nhất, cần nghiên cứu thận trọng nhưng phải xác định kịp thời.
Thứ ba là chiến lược phát triển nhanh và bền vững. Phát triển nhanh đòi hỏi tốc độ cao trong tăng trưởng kinh
tế, gia tăng sản xuất - kinh doanh, tạo điều kiện thu hẹp khoảng cách phát
triển với các nước trong khu vực và trên thế giới. Phát triển bền vững đòi hỏi
hiệu quả và năng suất lao động cao, không tăng đầu tư, nguyên nhiên vật liệu,
lao động… nhưng vẫn tăng nhanh sản lượng, chất lượng; không hy sinh công bằng,
tiến bộ xã hội, môi trường sinh thái lấy tăng trưởng kinh tế. Phát triển nhanh
cần hệ thống chủ trương, chính sách riêng biệt và phát triển bền vững cũng cần
hệ thống chủ trương, chính sách riêng biệt khác. Bởi vậy, cần có chiến lược phát
triển nhanh và bền vững để kết hợp hai hệ thống chủ trương, chính sách ấy trong
một chỉnh thể thống nhất, hài hòa.
Nhìn
lại lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam, gần nhất là lịch sử cách mạng
dưới sự lãnh đạo của Đảng từ năm 1930, toàn Đảng, toàn dân rất đỗi tự hào về
những thắng lợi vẻ vang, trong đó có không ít kỳ tích vươn mình, biến điều
tưởng như không thể trở thành có thể. Thế giới ngày nay vừa khâm phục Việt Nam
Anh hùng trong chiến tranh chống thực dân, đế quốc, giải phóng dân tộc, xây dựng
chế độ xã hội mới; vừa trân trọng Việt Nam đổi mới thành công, đem lại cho quốc
gia dân tộc nhiều bước tiến vượt bậc, trở thành dẫn chứng sinh động cho các
quốc gia đang phát triển vươn lên những tầm cao mới. Phía trước, có nhiều thuận
lợi, cơ hội cùng những khó khăn, thách thức đan xen, nhưng một kỷ nguyên mới đã
mở ra, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam tới tầm cao của quốc gia phát
triển, vững bước trên con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét