Chủ Nhật, 14 tháng 8, 2022

Quán triệt các văn bản mới của Trung ương về công tác tổ chức xây dựng Đảng đến các cấp ủy, tổ chức đảng

 Quán triệt các văn bản mới của Trung ương về công tác tổ chức xây dựng Đảng đến các cấp ủy, tổ chức đảng

Hội nghị được tổ chức theo hình thức trực tuyến, kết nối đến 63 điểm cầu các tỉnh, thành ủy trực thuộc Trung ương.

Toàn cảnh Hội nghị

Toàn cảnh Hội nghị.

Tham dự Hội nghị tại điểm cầu Ban Tổ chức Trung ương còn có các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng Ban Tổ chức Trung ương: Nguyễn Quang Dương, Hoàng Đăng Quang, cùng các đại diện lãnh đạo, vụ trưởng vụ tổ chức cán bộ các ban, bộ, ngành Trung ương.

Tại Hội nghị, Lãnh đạo Ban Tổ chức Trung ương quán triệt nội dung 5 văn bản quan trọng liên quan đến công tác tổ chức xây dựng Đảng do Ban Tổ chức Trung ương chủ trì, tham mưu Bộ Chính trị ban hành.

Mô hình trưởng ban dân vận đồng thời là chủ tịch ủy ban mặt trận Tổ quốc được triển khai trên bình diện khá rộng

Đồng chí Nguyễn Quang Dương, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng Ban Tổ chức Trung ương đã khái quát nội dung trọng tâm 4 văn bản mới của Bộ Chính trị bao gồm: Thông báo Kết luận số 16-TB/TW ngày 7-7-2022 về thực hiện một số mô hình thí điểm theo Nghị quyết số 18-NQ/TW của BCH Trung ương Đảng khóa XII; Kết luận số 40-KL/TW ngày 18-7-2022 về nâng cao hiệu quả công tác quản lý biên chế của hệ thống chính trị giai đoạn 2022-2026; Quy định số 70-QĐ/TW ngày 18-7-2022 về quản lý biên chế của hệ thống chính trị; Quyết định số 71-QĐ/TW ngày 18-7-2022 về tổng biên chế của hệ thống chính trị giai đoạn 2022-2026.

Đồng chí Nguyễn Quang Dương quán triệt một số văn bản của Bộ Chính trị liên quan đến quản lý biên chế

Đồng chí Nguyễn Quang Dương quán triệt một số văn bản của Bộ Chính trị liên quan đến quản lý biên chế.

Riêng về Thông báo Kết luận số 16-TB/TW, đồng chí Nguyễn Quang Dương cho biết, qua sơ kết các mô hình thí điểm tạo được một số kết quả bước đầu.

Cả nước có 26/63 tỉnh, thành phố thí điểm mô hình trưởng ban dân vận đồng thời là chủ tịch ủy ban mặt trận Tổ quốc cấp tỉnh; 540 đơn vị cấp huyện thí điểm mô hình này (76%). Trong đó, 27 tỉnh, thành phố thực hiện 100% mô hình trưởng ban dân vận đồng thời là chủ tịch ủy ban mặt trận Tổ quốc cấp huyện. Đồng chí Nguyễn Quang Dương đánh giá, đây là một trong số các mô hình khá chủ động và tích cực, được tổ chức triển khai trên bình diện khá rộng. 

Ngoài ra, 49 tỉnh, thành phố đã tổ chức lại mô hình đảng bộ khối doanh nghiệp cấp tỉnh. 38 tỉnh, thành phố đã hoàn thành việc hợp nhất, triển khai sắp xếp đảng bộ khối doanh nghiệp.

Chỉ có 81 đơn vị cấp huyện (11,5%) tại 22 tỉnh, thành phố thí điểm mô hình chủ nhiệm ủy ban kiểm tra đồng thời là chánh thanh tra; mô hình hợp nhất cơ quan ủy ban kiểm tra với cơ quan thanh tra có 57 đơn vị cấp huyện (8,1%) thực hiện tại 12 tỉnh, thành phố.

Thậm chí có một số mô hình được triển khai ở phạm vi hẹp hơn như: mô hình chánh văn phòng cấp ủy đồng thời là chánh văn phòng HĐND, UBND chỉ có 3 đơn vị cấp huyện thực hiện; mô hình trưởng ban tổ chức cấp ủy đồng thời là trưởng phòng nội vụ có 83 đơn vị cấp huyện (11,8%) của 25 tỉnh, thành phố thực hiện; thí điểm mô hình hợp nhất ban tổ chức cấp ủy với phòng nội vụ cấp huyện có 58 đơn vị cấp huyện (8,2%) thực hiện tại 14 tỉnh, thành phố. Chỉ có 81 đơn vị cấp huyện (11,5%) tại 22 tỉnh, thành phố thí điểm mô hình chủ nhiệm ủy ban kiểm tra đồng thời là chánh thanh tra; mô hình hợp nhất cơ quan ủy ban kiểm tra với cơ quan thanh tra có 57 đơn vị cấp huyện (8,1%) thực hiện tại 12 tỉnh, thành phố.

 Đồng chí Nguyễn Quang Dương nhấn mạnh, Bộ Chính trị yêu cầu tạm dừng thực hiện thí điểm 4 mô hình hợp nhất tổ chức, theo đó, các địa phương đã triển khai thực hiện thí điểm các mô hình trên thì ban thường vụ tỉnh, thành ủy chỉ đạo sắp xếp lại theo mô hình chung của hệ thống chính trị. Đồng chí Nguyễn Quang Dương cho biết, việc tạm dừng theo Thông báo Kết luận số 16-TB/TW là để các nơi thí điểm 4 mô hình này có sự sắp xếp lại theo mô hình chung của hệ thống chính trị; khác với việc tạm dừng của Kết luận số 74-KL/TW trước đó của Bộ Chính trị là dừng không thí điểm mới để sơ kết, tổng kết.

Toàn hệ thống chính trị quyết tâm tinh giản biên chế

Tại Hội nghị, đồng chí Nguyễn Quang Dương cho biết, Bộ Chính trị đã ban hành 10 văn bản liên quan đến quản lý biên chế của hệ thống chính trị, trong đó có Kết luận số 40-KL/TW; Quy định số 70-QĐ/TW và Quyết định số 71-QĐ/TW.

Phó Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Nguyễn Quang Dương nhấn mạnh, có được những văn bản này thì Bộ Chính trị đã lãnh đạo, chỉ đạo và Ban Tổ chức Trung ương đã phối hợp với các cấp ủy, tổ chức đảng tiến hành tổng kết việc thực hiện quản lý biên chế giai đoạn 2016-2021 rất bài bản, kỹ lưỡng.

“Nội dung liên quan đến quản lý biên chế rất khó, nhưng đây là lần đầu tiên Bộ Chính trị quyết được tổng biên chế của toàn hệ thống chính trị trong 5 năm (giai đoạn 2022-2026). Theo đó, cả hệ thống chính trị cùng phải quyết tâm thực hiện tinh giản biên chế", đồng chí Nguyễn Quang Dương khẳng định.

Điểm mới trong chủ trương lần này là biên chế được giao giai đoạn 2022-2026 không bao gồm lao động hợp đồng. Các cơ quan, tổ chức, đơn vị tự quyết định việc sử dụng hợp đồng lao động và trả lương, phụ cấp cho lao động hợp đồng theo quy định từ ngân sách chi thường xuyên của cơ quan, đơn vị.

Ngoài ra, điểm mới nữa là việc Bộ Chính trị quyết định có nguồn biên chế dự phòng (khoảng 0,5% tổng biên chế) và ủy quyền cho Ban Chỉ đạo thực hiện quản lý biên chế thống nhất của hệ thống chính trị sử dụng nguồn này trong trường hợp cần thiết. "Sẽ chỉ trong 2 trường hợp được sử dụng nguồn biên chế dự phòng là thành lập tổ chức mới hoặc cơ quan, tổ chức được cấp có thẩm quyền giao thêm nhiệm vụ mới", đồng chí Nguyễn Quang Dương cho biết.

Đồng chí Nguyễn Quang Dương cũng nhấn mạnh, các cấp uỷ, tổ chức đảng trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện nghiêm túc, hiệu quả chủ trương này, để việc quản lý, sử dụng biên chế ở các địa phương, cơ quan, đơn vị từng bước đi vào nền nếp, đúng nguyên tắc, đúng quy định của Trung ương. Ngoài ra, trong nhiệm kỳ này, Ban Tổ chức Trung ương sẽ phải hoàn thành danh mục vị trí việc làm trong hệ thống chính trị.

Phó Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Nguyễn Quang Dương cũng đặc biệt nhấn mạnh đến 4 nguyên tắc quản lý biên chế, trong đó Bộ Chính trị lãnh đạo, chỉ đạo quản lý biên chế của hệ thống chính trị. Các cấp uỷ, tổ chức đảng, cơ quan, tổ chức thực hiện trách nhiệm quản lý biên chế theo quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Đặc biệt, việc giao chỉ tiêu biên chế do cấp có thẩm quyền quyết định. “Điều này đảm bảo cho việc giao biên chế gắn với đổi mới, sắp xếp bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tinh giản biên chế gắn với cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, cải cách hành chính và chính sách tiền lương”, đồng chí Nguyễn Quang Dương nhấn mạnh.

Cử cán bộ đi học tập tại nước ngoài phải bảo đảm đúng đối tượng, tiêu chuẩn, điều kiện 

Tại Hội nghị, đồng chí Hoàng Đăng Quang, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng Ban Tổ chức Trung ương trình bày khát quát các nội dung tại Kết luận số 39-KL/TW ngày 18-7-2022 của Bộ Chính trị về chủ trương bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước với 4 điểm bao gồm: đánh giá kết quả thực hiện Đề án “Đào tạo bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước (Đề án 165); chủ trương đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước; các nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu; tổ chức thực hiện.

Đồng chí Hoàng Đăng Quang thông tin khái quát nội dung Kết luận số 39-KL/TW của Bộ Chính trị

Đồng chí Hoàng Đăng Quang thông tin khái quát nội dung Kết luận số 39-KL/TW của Bộ Chính trị.

Theo đó, đồng chí Hoàng Đăng Quang nhấn mạnh, đề án này chỉ tập trung bồi dưỡng cán bộ, lãnh đạo quản lý theo 3 hình thức: bồi dưỡng ngắn hạn, trung hạn và bồi dưỡng nâng cao trình độ ngoại ngữ. Nhiệm vụ đào tạo thạc sỹ, tiến sỹ sẽ do các đề án khác đảm nhiệm. 

Các chương trình đào tạo, bồi dưỡng sẽ do Thường trực của Ban Chỉ đạo thực hiện, các địa phương đơn vị cử cán bộ tham gia phải đúng đối tượng, đủ tiêu chuẩn. Nội dung bồi dưỡng sẽ tập trung hơn, tránh dàn trải, tập trung theo 4 nhóm: Tổ chức bộ máy nhà nước, quốc phòng, an ninh và đối ngoại; Chính sách phát triển bền vững, kinh tế, khoa học - công nghệ và Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư; Xây dựng pháp luật và hoạt động tư pháp; Kỹ năng quản lý, lãnh đạo.

“Đặc biệt, đề án này sẽ khắc phục việc cử cán bộ, lãnh đạo, quản lý tham dự các khóa học không đúng đối tượng, không đủ tiêu chuẩn. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ học tập tại nước ngoài phải đi vào thực chất, đảm bảo đúng yêu cầu, thực hiện đúng quy định của Đảng”, đồng chí Hoàng Đăng Quang nhấn mạnh.

Chấm dứt việc giao biên chế không đúng thẩm quyền

Phát biểu kết luận tại Hội nghị, đồng chí Trương Thị Mai cũng nhấn mạnh thêm một số điểm trọng tâm của các văn bản về công tác tổ chức xây dựng Đảng mới được Bộ Chính trị ban hành để đảm bảo sự thống nhất trong tổ chức triển khai thực hiện nhiệm vụ tại các địa phương, đơn vị.

Trưởng Ban Tổ chức Trung ương nhấn mạnh, trước khi có Nghị quyết 18-NQ/TW, Đảng cũng đã có chủ trương thí điểm một số mô hình như bí thư cấp ủy là chủ tịch HĐND; bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch UBND cấp huyện tại những nơi có điều kiện; trưởng ban dân vận đồng thời là chủ tịch mặt trận Tổ quốc cấp tỉnh, cấp huyện. Riêng việc bố trí bí thư cấp ủy là chủ tịch HĐND đã trở thành chủ trương nhất quán của Đảng. Hiện nay đã bố trí cơ bản bí thư cấp ủy là chủ tịch HĐND. Đây là một trong những mô hình thành công, đã được phổ biến đại trà trong việc phân công, bố trí cán bộ.

Đồng chí Trương Thị Mai cho biết, Nghị quyết 18-NQ/TW cũng nêu rõ phải thực hiện một số mô hình mới về tổ chức bộ máy, kiêm nhiệm chức danh để tinh gọn đầu mối, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động, góp phần làm rõ những vấn đề về lý luận và thực tiễn. Sau gần 4 năm thực hiện Kết luận số 34-KL/TW ngày 7-8-2018 của Bộ Chính trị, chúng ta đã có đánh giá và Bộ Chính trị đã có chủ trương về việc thực hiện các mô hình mới về tổ chức bộ máy.

Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Trương Thị Mai nhấn mạnh một số trọng tâm của các văn bản về công tác tổ chức xây dựng Đảng mới được Bộ Chính trị ban hành

Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Trương Thị Mai nhấn mạnh một số trọng tâm của các văn bản về công tác tổ chức xây dựng Đảng mới được Bộ Chính trị ban hành. 

Đồng chí Trương Thị Mai khẳng định, những mô hình đã được chứng minh trong thực tiễn thì có thể tiếp tục tổ chức triển khai, không cần phải thí điểm. Thông báo Kết luận 16-KL/TW đã nêu rõ, giao thẩm quyền cho ban thường vụ cấp ủy cấp tỉnh tiếp tục có những đánh giá và đưa ra lựa chọn việc tổ chức các mô hình để phù hợp với điều kiện thực tiễn của địa phương.

“Thực hiện chủ trương về quản lý biên chế, Bộ Chính trị ban hành 10 văn bản liên quan. Để có được khối lượng văn bản lớn này đã phải mất tới 2 năm và trước Đại hội XIII, vấn đề xây dựng vị trí việc làm đã được tiến hành. Hiện nay, Bộ Chính trị đã quyết định phải đẩy mạnh tinh giản biên chế theo đúng tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Và tinh thần này phải được triển khai thực hiện tại tất cả các cấp ủy, tổ chức đảng”, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Trương Thị Mai nhấn mạnh.

Đồng chí Trương Thị Mai yêu cầu các cấp ủy, tổ chức đảng phải nhận thức đầy đủ về việc tinh giản biên chế, không phải chỉ giảm số lượng mà quá trình này phải gắn với mục tiêu cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, nâng cao chất lượng, hiệu quả. Giống như việc sắp xếp tổ chức bộ máy tinh gọn là bước đi đầu tiên, còn nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hệ thống chính trị mới là mục tiêu. "Phải tập trung đánh giá để sắp xếp biên chế phù hợp, có trọng tâm, trọng điểm không cào bằng, không máy móc. Thẩm quyền này thuộc ban thường vụ các cấp ủy, tổ chức đảng phải quan tâm triển khai thực hiện", Trưởng Ban Tổ chức Trung ương khẳng định.

“Giảm nhưng chất lượng, hiệu quả không cao là không đạt yêu cầu. Yêu cầu các cấp ủy, tổ chức đảng chấm dứt việc giao biên chế không đúng thẩm quyền, tự giao biên chế vượt quá số lượng cho phép và sẽ phải xử lý nghiêm sai phạm xảy ra”, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương đặc biệt nhấn mạnh.

Đồng chí Trương Thị Mai khẳng định, cần phải tiếp tục hoàn thiện danh mục vị trí việc làm, bởi đây là cơ sở rất quan trọng để quyết định số lượng biên chế. Tuy nhiên, đến nay chưa có đơn vị nào trong hệ thống chính trị có chuẩn danh mục về vị trí việc làm. Từng vị trí việc làm cần phải xây dựng thêm khung năng lực làm việc. Đây là việc khó thực hiện nhưng không thể không làm.

Trưởng Ban Tổ chức Trung ương cũng nhấn mạnh thêm việc cần quan tâm tiếp tục triển khai thực hiện cải cách chính sách tiền lương để tạo động lực cống hiến, làm việc cho cán bộ, công chức, viên chức. Đồng thời, đồng chí Trương Thị Mai cho biết, Ban Tổ chức Trung ương đang tiếp tục phối hợp với các cơ quan có thẩm quyền để hoàn thiện, sửa đổi các quy định, quy chế liên quan đến quản lý biên chế nhằm tạo sự đồng bộ, thống nhất trong hệ thống chính trị.

“Khi nhận được quyết định về số lượng biên chế, đề nghị ban thường vụ cấp ủy xây dựng kế hoạch, triển khai thực hiện ngay lập tức”, đồng chí Trương Thị Mai yêu cầu.

Liên quan đến việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý tại nước ngoài, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương nhấn mạnh, Ban Tổ chức Trung ương sẽ tổ chức các đoàn đi đào tạo, bồi dưỡng tại nước ngoài theo nhóm đối tượng; lựa chọn nội dung, cơ sở đào tạo gắn với nhóm đối tượng; hài hòa việc đào tạo, bồi dưỡng trong nước và ngoài nước; đảm bảo quá trình đào tạo thiết thực, đáp ứng công việc cán bộ đang đảm nhiệm.

Ngoài ra, khuyến khích các địa phương, đơn vị chủ động việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tại nước ngoài khi có điều kiện. Ban Tổ chức Trung ương sẽ hỗ trợ công tác liên hệ với các cơ sở đào tạo. “Điều quan trọng nhất là đồng tiền ngân sách nhà nước phải được sử dụng hợp lý, hiệu quả”, đồng chí Trương Thị Mai đặc biệt nhấn mạnh.


 KHẮC PHỤC "BỆNH GIẤU KHUYẾT ĐIỂM" THEO QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH

 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc (năm 1947): “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng”... Bài học về sự sụp đổ của Đảng Cộng sản Liên Xô và Nhà nước Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết do nguyên nhân sâu xa là mất dân chủ, “bệnh thành tích”, lãnh đạo chỉ thích khen nịnh dẫn đến xa rời thực tiễn, những yếu kém không được khắc phục, gây khủng hoảng, mất đoàn kết và cán bộ, đảng viên, quần chúng bức xúc; cùng bài học thành công của sự nghiệp đổi mới theo tinh thần Nghị quyết Đại hội VI của Đảng với phương châm nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá đúng sự thật, từ đó mới sáng rõ những việc cần làm ngay, được nhân dân đồng lòng ủng hộ... vẫn còn nguyên giá trị.

Vậy phải làm gì để chữa trị “bệnh giấu khuyết điểm”?

Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Bác Hồ đã chỉ rõ: Phải thật thà phê bình và tự phê bình, kiên quyết thực hành kỷ luật; “Nơi nào sai lầm, ai sai lầm thì lập tức sửa chữa. Kiên quyết chống thói nể nang và che giấu”; “Kiểm soát khéo bao nhiêu, khuyết điểm lòi ra hết, hơn nữa, kiểm tra khéo về sau khuyết điểm nhất định bớt đi”...

Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) và nhiều nghị quyết, kết luận, chỉ thị, quy định của Đảng cũng đã yêu cầu toàn Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên phải thực hiện nghiêm túc, đồng bộ các nhóm giải pháp. Tuy nhiên, có thể khẳng định, chính vì nhiều cơ quan, đơn vị, địa phương chưa thực sự làm nghiêm, chưa vào cuộc một cách quyết liệt, chưa có biện pháp hữu hiệu nên “bệnh giấu khuyết điểm” vẫn kéo dài dai dẳng.

Cần nhìn thẳng vào sự thật: “Bệnh giấu khuyết điểm” và thích khen nịnh là bản tính của con người, là yếu tố tâm lý khách quan từ ngàn xưa, ở khắp nơi (thậm chí cổ nhân còn khuyên dạy: “Đẹp đẽ phô ra, xấu xa đậy lại”). Do đó, muốn chữa “bệnh giấu khuyết điểm” thì phải điều trị từ nguyên nhân gốc, trước hết, người mắc bệnh này phải muốn chữa và quyết tâm chữa (ở đây là người đứng đầu tổ chức Đảng và cơ quan, đơn vị các cấp trong hệ thống chính trị, từng cán bộ, đảng viên).

Nhưng thực tiễn đang tồn tại nghịch lý là rất nhiều cán bộ, đảng viên không muốn chữa “bệnh giấu khuyết điểm”. Lý do thật đơn giản: Tự nhận vi phạm, khuyết điểm thì sẽ thiệt nhiều thứ, như mất thành tích, bị trừ điểm thi đua, ảnh hưởng tới các quyền lợi của tập thể, cá nhân.

Thậm chí, việc tự nhận khuyết điểm còn bị nhiều người chê là dại dột, “chưa khảo đã xưng”, “tự bôi mỡ vào người cho kiến đốt”! Không ít trường hợp còn bị cán bộ cấp trên lấy làm ví dụ đi “bêu dương” khắp nơi, nhắc đi nhắc lại mãi. Vì thế, nhiều người, nhiều tập thể đã rút ra “bài học”: Chẳng dại gì “lạy ông tôi ở bụi này”!

Bởi vậy, thay đổi cách nhìn nhận, đánh giá của cấp ủy, người đứng đầu: Thực sự quý trọng đức tính thẳng thắn, trung thực, tự giác nhận khuyết điểm là yếu tố tiên quyết để tuyên chiến với “bệnh giấu khuyết điểm”.

Cùng với đó, phải có điểm thưởng cho những tập thể, cá nhân trung thực, tự giác nhận khuyết điểm nhằm khắc phục nghịch lý “không muốn chữa bệnh giấu khuyết điểm” nêu trên, mà việc nên làm ngay là chỉnh sửa quy chế thi đua - khen thưởng theo hướng quy định rõ điểm thưởng, điểm phạt, bảo đảm không ai chịu thiệt khi thành thật, tự giác nhận khuyết điểm và quyết tâm sửa chữa. Đây chính là liều thuốc đặc hiệu để chữa từ nguyên nhân gốc, trị dứt điểm “bệnh giấu khuyết điểm” nguy hại.

Đảng ta đang khuyến khích và đã có cơ chế bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung. Đặc biệt, Quy định số 22-QĐ/TW ngày 28-7-2021 của Ban chấp hành Trung ương khóa XIII về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng đã xác định rõ nguyên tắc: Công tác kiểm tra, giám sát phải kịp thời phát hiện nhân tố mới, tích cực để phát huy, phải bảo vệ cái đúng, bảo vệ người tốt, cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đột phá vì lợi ích chung; phải chủ động phát hiện sớm để phòng ngừa, ngăn chặn, khắc phục khuyết điểm, vi phạm của tổ chức Đảng và đảng viên ngay từ khi còn mới manh nha, không để vi phạm nhỏ tích tụ thành sai phạm lớn, kéo dài và lan rộng...

Thực hiện chủ trương trên, những bất cập, nghịch lý là căn nguyên dẫn đến “bệnh giấu khuyết điểm” cần sớm được các cơ quan có thẩm quyền xem xét, kiên quyết chỉ đạo khắc phục triệt để.

 

 

 NHẬN THỨC VỀ CÔNG TÁC BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG, ĐẤU TRANH PHẢN BÁC CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH

 

Sự phát triển của mạng xã hội đã và đang góp phần quan trọng thúc đẩy sự phát triển về mọi mặt của một xã hội thông tin. Tuy nhiên, thực tế đã chứng minh sự tác động của mạng xã hội đến đời sống của con người có tính hai mặt. Bên cạnh những tác động tích cực, mạng xã hội cũng gây ra không ít những tác động tiêu cực, nhất là trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa, đặc biệt trong bối cảnh các thế lực thù địch, phản động đang lợi dụng sự phát triển của mạng xã hội để tiến hành chống phá cách mạng Việt Nam. 

Có thể thấy rằng, sau nhiều thập kỷ thực hiện chính sách thù địch, chống phá không đạt hiệu quả, các thế lực phản động ở trong nước và nước ngoài đang thay đổi phương thức hoạt động nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, vô hiệu hóa quân đội, tiến tới xóa bỏ chế độ XHCN ở Việt Nam. Chúng tấn công, phủ định, xuyên tạc học thuyết Mác - Lênin, đưa ra các luận điệu cổ vũ cho bạo lực, chiến tranh; phủ định tư tưởng Hồ Chí Minh; phủ nhận vai trò và thành tựu lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngoài ra, chúng còn bôi xấu lãnh đạo Đảng, Nhà nước với nhiều thủ đoạn tinh vi; chống phá chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Phương thức chống phá của chúng chủ yếu là sử dụng phương tiện truyền thông đại chúng, sử dụng internet và truyền thông xã hội để chống phá; lợi dụng những hạn chế trong quản lý nhà nước để kích động biểu tình trái phép và xuyên tạc đường lối. Chúng lợi dụng, khoét sâu những thiếu sót trong công tác lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, cũng như những suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên để gây dao động về tư tưởng, gây mất lòng tin, thiếu đồng thuận trong Nhân dân, kích động, chia rẽ nội bộ để chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ ta. Điều đáng lưu ý là gần đây đã xuất hiện thêm một số tài liệu chống đối trắng trợn hơn, xuyên tạc lịch sử cùng với những luận điệu hết sức phản động. Lợi dụng thời điểm Đại hội Đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIII của Đảng, trong bối cảnh chống dịch Covid-19, chúng không ngừng chống phá Đảng, Nhà nước; lôi kéo tập hợp lực lượng và kích động tư tưởng chống đối; chia rẽ nội bộ Đảng với Nhân dân và Quân đội nhân dân.

Hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội hiện nay là họ tìm mọi cách tập hợp những người có trình độ cao nhưng thiếu bản lĩnh chính trị, suy thoái tư tưởng, đạo đức, lối sống để tấn công trực tiếp vào nền tảng tư tưởng của Đảng, tìm mọi cách để chứng minh chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là sai lầm; họ ra sức tuyên truyền và cổ súy cho hệ tư tưởng và nền dân chủ tư sản; xuyên tạc, bôi nhọ lãnh tụ và lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước; xuyên tạc quan hệ giữa nước ta với các nước khác trên thế giới; lợi dụng, lôi kéo những người nhẹ dạ, cả tin để kích động; tìm mọi cách để lập luận, chứng minh Đảng và Nhà nước ta không thực sự vì dân, chỉ có họ mới thực sự vì dân, vì nước, đứng ra đấu tranh để bảo vệ nhân dân; bảo vệ chủ quyền lãnh thổ... lên án cán bộ, đảng viên của Đảng và Nhà nước tham nhũng, thiếu dũng khí, quyết tâm trong bảo vệ chủ quyền biển đảo... Khi Đảng ta đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, đưa những vụ án lớn ra xét xử thì họ lại xuyên tạc đó là cuộc đấu đá giữa các phe phái trong Đảng, Nhà nước...

Với những sản phẩm truyền thông được đầu tư kỹ lưỡng và được lan tỏa, không chỉ khiến những người dân trình độ thấp, ít thông tin bị mê hoặc mà ngay cả một bộ phận người dân có trình độ cao hơn cũng hoang mang, hoài nghi và tin theo, từ đó hình thành dư luận xã hội tiêu cực một cách sâu rộng. Thủ đoạn tinh vi, phức tạp này còn được kết hợp với thủ đoạn dựng lên và tung ra những tin đồn thất thiệt, những thông tin sai sự thật hoàn toàn hoặc một phần để xuyên tạc và chia rẽ nội bộ ta.   

Có thể khẳng định, các thế lực phản động, thù địch, cơ hội đang ráo riết tìm mọi cách để người dân giảm sút, tiến đến không còn tin vào Đảng, Nhà nước và chế độ, từ đó tin vào những luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch của chúng. Khi đã thuyết phục được một bộ phận người dân, họ tiến hành tập hợp lực lượng, liên kết các bộ phận này để tiến hành các hoạt động biểu tình, chống phá.

Chính vì vậy có thể khẳng định trong bối cảnh hiện nay, với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, mạng xã hội, việc lợi dụng công nghệ thông tin, mạng xã hội để chống phá cách mạng Việt Nam càng trở nên tinh vi, phức tạp với mức độ nguy hiểm khó lường. Vì vậy, việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh chống lại những quan điểm sai trái, thù địch trên mạng xã hội là nhiệm vụ vô cùng cấp bách hiện nay.

 

 MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC QUẢN LÝ, BẢO VỆ ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN TRONG BỐI CẢNH

 HỘI NHẬP QUỐC TẾ

Bước sang thập niên thứ ba của thế kỷ XXI, hợp tác và hội nhập quốc tế vẫn luôn là xu thế lớn, lâu dài của các quốc gia, khu vực trên thế giới. Bên cạnh những mặt tích cực, tình hình thế giới tiếp tục có những biến động phức tạp và đa chiều, tác động sâu sắc đến môi trường hòa bình, an ninh và phát triển của đất nước ta. Một mặt, các thế lực thù địch vẫn tiếp tục gia tăng các hoạt động chống phá cách mạng với mức độ ngày càng tinh vi hơn, nguy hiểm hơn; trong đó, đội ngũ cán bộ, đảng viên là mục tiêu quan trọng đầu tiên mà chúng nhắm tới; mặt khác, hiện nay vẫn còn tồn tại những vấn đề trực tiếp hoặc gián tiếp tạo ra nguy cơ đe dọa vai trò lãnh đạo của Đảng, sự tồn vong của chế độ. Để nâng cao hiệu quả công tác quản lý, bảo vệ cán bộ, đảng viên trong bối cảnh tăng cường hội nhập quốc tế, công tác bảo vệ chính trị nội bộ cần tập trung thực hiện một số nội dung trọng tâm sau đây:

Thứ nhất, cấp ủy, chính quyền, đoàn thể các cấp, nhất là người đứng đầu cần nhận thức sâu sắc về ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác bảo vệ chính trị nội bộ gắn với công tác quản lý cán bộ trong tình hình mới. Xác định rõ trách nhiệm, nâng cao ý thức cảnh giác, đấu tranh làm thất bại những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động và nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

Thứ hai, tiếp tục nghiên cứu, rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các cơ chế, quy định về công tác bảo vệ chính trị nội bộ, quản lý cán bộ để kịp thời phát hiện, khắc phục những vướng mắc, hạn chế nảy sinh trong thực tiễn; trong đó, cần tập trung vào việc nắm vững và giải quyết những vấn đề chính trị hiện nay của cán bộ, đảng viên, nhất là đối với những trường hợp làm nhiệm vụ dịch thuật, cử đi học ở nước ngoài, đi công tác nước ngoài đột xuất hoặc thường xuyên, theo nhiệm kỳ hoặc có mối quan hệ tiếp xúc, làm việc lâu dài với các tổ chức, cá nhân nước ngoài, cho phù hợp với những yêu cầu, diễn biến của tình hình mới.

Thứ ba, tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh trên cơ sở quán triệt sâu sắc, nghiêm túc thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI, XII), Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25-10-2021 của Hội nghị Trung ương 4 (khóa XIII) Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị; tăng cường giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên, trong đó cần nâng cao nhận thức, trách nhiệm bảo vệ chính trị nội bộ và ý thức cảnh giác, tinh thần kiên quyết đấu tranh với các âm mưu, thủ đoạn phá hoại tinh vi của các thế lực thù địch. Tăng cường kiểm tra, giám sát, chấn chỉnh những cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.


Thứ tư, chủ động ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch. Tăng cường đấu tranh, sớm phát hiện, đập tan các hoạt động phá hoại tư tưởng chính trị; phản bác, bóc gỡ, vạch trần các thông tin xấu, độc, luận điệu xuyên tạc, thù địch, kích động; đổi mới phương thức lãnh đạo, quản lý, khắc phục những hạn chế trong quản lý báo chí, mạng xã hội và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm. Tăng cường các thông tin chính thống chính xác, kịp thời, có trọng tâm, trọng điểm, coi trọng nắm bắt và định hướng dư luận trong thời gian diễn ra các sự kiện lớn, trọng đại của đất nước.

Thứ năm, rà soát, thẩm tra, thẩm định chặt chẽ, kỹ lưỡng và kết luận rõ tiêu chuẩn chính trị của cán bộ, đảng viên, không để lọt những người không đủ tiêu chuẩn chính trị vào cấp ủy các cấp. Chuyển trọng tâm từ nắm vững và giải quyết vấn đề lịch sử chính trị sang vấn đề chính trị hiện nay. Các mặt công tác quản lý cán bộ cần bám sát tình hình thực tế của đội ngũ cán bộ để có biện pháp phòng ngừa, răn đe kịp thời, hữu hiệu.

Thứ sáu, hoàn thiện cơ chế phối hợp và đẩy mạnh, nâng cao chất lượng công tác phối hợp giữa cơ quan bảo vệ chính trị nội bộ với các cơ quan chức năng liên quan trong việc nắm vững tình hình và giải quyết các vấn đề chính trị nội bộ. Tùy tình hình cụ thể, chủ động tham mưu, đề xuất các chủ trương, biện pháp hiệu quả trong công tác cán bộ và quản lý cán bộ. Phát huy vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trong việc tập hợp, vận động nhân dân tham gia xây dựng, bảo vệ Đảng, đặc biệt là trong giám sát đội ngũ cán bộ, đảng viên; cảnh giác và tham gia đấu tranh với các hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, tổ chức phản động.

Thứ bảy, đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của Đảng về công tác bảo vệ chính trị nội bộ tại các địa phương, cơ quan, đơn vị. Qua đó, nâng cao tinh thần trách nhiệm, chấn chỉnh những thiếu sót, hướng dẫn đồng bộ và nhất quán việc thực hiện các nhiệm vụ bảo vệ chính trị nội bộ cho các cơ quan, đơn vị, đội ngũ chuyên trách bảo vệ chính trị nội bộ đáp ứng các yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới./.

 

 

Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trong giám sát công tác tổ chức và cán bộ

 

Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trong giám sát công tác tổ chức và cán bộ

TS. LÊ TIẾN CHÂU
Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch - Tổng Thư ký Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
21:10, ngày 23-07-2022

TCCS - Giám sát công tác tổ chức, cán bộ là một hoạt động rất quan trọng, được Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội tích cực thực hiện, nhằm góp phần xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Thời gian tới, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội tiếp tục thực hiện và nỗ lực nâng cao hiệu quả hoạt động quan trọng này, để xứng đáng với vị trí, vai trò trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc.

Đồng chí Trương Thị Mai, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương trao đổi với đồng chí Đỗ Văn Chiến, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đại biểu tại buổi làm việc với Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam_Nguồn: vietnamnet.vn

Nội dung giám sát công tác tổ chức, cán bộ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (MTTQ) là một bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị, có nhiệm vụ tập hợp, xây dựng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; giám sát và phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; góp phần tạo đồng thuận xã hội và gắn kết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.

Thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Cán bộ là cái gốc của mọi công việc, Đảng ta đã ban hành nhiều văn bản lãnh đạo, chỉ đạo, liên quan đến công tác cán bộ; trong đó, có nhiều văn bản giao cho MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội tham gia giám sát công tác cán bộ. Điểm đáng chú ý là trong các văn bản này, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã xác định vai trò quan trọng của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trong giám sát công tác tổ chức cán bộ.

Để cụ thể hóa các nhiệm vụ được Đảng tin tưởng giao phó, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam (Ban Thường trực) đã phối hợp với các tổ chức chính trị - xã hội ban hành Chương trình phối hợp số 30/CTPH-MTTW-TCTV, ngày 30-10-2018, “Về phối hợp giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân theo Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa XII”. 

Chương trình phối hợp đã xác định rõ những vấn đề mà MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội tập trung giám sát, như giám sát việc triển khai, thực hiện các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về công tác cán bộ; giám sát việc đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác cán bộ; giám sát việc triển khai xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, đáp ứng yêu cầu trong thời kỳ mới; việc thực hiện công khai, minh bạch các tiêu chuẩn, quy trình, thủ tục và hồ sơ nhân sự; cung cấp, trao đổi thông tin và giải trình khi có yêu cầu; giám sát, xác minh, kiến nghị xử lý kịp thời thông tin phản ánh từ các tổ chức, cá nhân và phương tiện thông tin đại chúng đối với các nội dung liên quan đến đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ; giám sát các biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống của đội ngũ cán bộ được xác định trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; giám sát việc thực hiện các chuẩn mực đạo đức công vụ và đạo đức nghề nghiệp của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt, của đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Để việc giám sát được thực hiện thống nhất trong hệ thống mặt trận, Ban Thường trực đã ban hành Thông tri số 10/TT-MTTW-BTT, ngày 22-9-2020, về “Hướng dẫn giám sát cán bộ, đảng viên và công tác cán bộ”, trong đó tập trung vào giám sát ba nội dung chủ yếu, cụ thể như sau: 

Thứ nhất, giám sát việc thực hiện các quy định về công tác cán bộ; trong đó, đặt trọng tâm vào việc giám sát công tác lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện các quy định về xây dựng đội ngũ cán bộ. Giám sát việc công khai và thực hiện quy trình các khâu trong quản lý cán bộ, như tuyển chọn, bố trí, phân công, điều động, luân chuyển cán bộ và phân cấp quản lý cán bộ; đánh giá cán bộ; quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử; miễn nhiệm cán bộ; khen thưởng, kỷ luật cán bộ; thực hiện chế độ, chính sách cán bộ; kiểm tra, giám sát công tác cán bộ; giải quyết khiếu nại, tố cáo về công tác cán bộ và cán bộ. Giám sát việc thực hiện công khai, minh bạch tiêu chuẩn, quy trình, thủ tục và hồ sơ nhân sự lãnh đạo của từng cấp theo quy định; việc cung cấp, trao đổi thông tin và giải trình khi có yêu cầu; trách nhiệm của tập thể, cá nhân, nhất là người đứng đầu trong công tác cán bộ.

Căn cứ tình hình và yêu cầu thực tế, ủy ban MTTQ Việt Nam các cấp sẽ chủ động lựa chọn nội dung giám sát cho phù hợp với từng thời điểm cụ thể; thường xuyên, đột xuất, định kỳ tổng hợp, phản ánh ý kiến của nhân dân, người uy tín tiêu biểu về công tác cán bộ đến cấp ủy, chính quyền, nhất là việc xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp (người đứng đầu và cấp phó của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền).

Thứ hai, giám sát việc thực hiện các quy định về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền theo Quy định số 205-QĐ/TW, ngày 23-9-2019, của Bộ Chính trị. Theo đó, Thông tri số 10/TT-MTTW-BTT đã nêu rõ phương hướng để Ủy ban MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội các cấp chủ động theo dõi, nắm bắt tình hình thực hiện quy định nói trên. Hoạt động chủ yếu là, lắng nghe ý kiến nhân dân; phản ánh, cung cấp thông tin với cấp ủy, chính quyền những trường hợp cán bộ thiếu tiêu chuẩn, điều kiện, không trung thực; có biểu hiện lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vi phạm nguyên tắc, quy định trong công tác cán bộ; có các biểu hiện tiêu cực, hành vi chạy chức, chạy quyền, bao che, tiếp tay cho chạy chức, chạy quyền. Giám sát việc thực hiện kết luận thanh tra, kiểm tra, giám sát của cấp có thẩm quyền đối với cán bộ, đảng viên và công tác cán bộ; giám sát việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn được giao đối với cán bộ, đảng viên trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ.

Thứ ba, giám sát việc thực hiện trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền trong lãnh đạo, tạo điều kiện để MTTQ Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân thực hiện góp ý, giám sát cán bộ, đảng viên và công tác cán bộ. Thông tri số 10/TT-MTTW-BTT tập trung vào giám sát công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện một số quy định của Bộ Chính trị, Ban Bí thư(1) và các quy định có liên quan đến việc thực hiện góp ý, giám sát đội ngũ cán bộ, đảng viên và công tác cán bộ của MTTQ Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân tại địa phương.

Đồng chí Đỗ Văn Chiến, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trao đổi với các đại biểu tại Hội nghị Đoàn Chủ tịch lần thứ 11 (khóa IX)_Nguồn: mattran.org.vn

Những kết quả nổi bật và một số hạn chế khi thực hiện giám sát công tác tổ chức, cán bộ trong thời gian qua

Ngay sau khi Chương trình phối hợp số 30/CTPH-MTTW-TCTV, ngày 30-10-2018 được ký kết, Ban Thường trực đã cùng các tổ chức chính trị - xã hội triển khai thực hiện, trong đó tập trung vào thực hiện các quy định của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về giám sát và phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân tham gia xây dựng, giám sát đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ.

Năm 2019, Ban Thường trực đã chủ trì phối hợp với các tổ chức chính trị - xã hội chủ động xây dựng kế hoạch để triển khai và thực hiện giám sát tại một số địa phương, như thành phố Đà Nẵng và tỉnh Hà Giang... Qua giám sát, Ban Thường trực đã có những kiến nghị cụ thể tới các cơ quan hữu quan về những nội dung liên quan đến đội ngũ cán bộ, đảng viên và công tác cán bộ phát sinh trong thực tế.

Đến năm 2021, dù tình hình dịch bệnh COVID-19 diễn biến phức tạp, nhưng hoạt động giám sát của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội vẫn được thực hiện đồng bộ tới tất cả các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Trên cơ sở báo cáo việc thực hiện các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về công tác cán bộ của các tỉnh ủy, thành ủy và báo cáo của ban thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam của 58/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về kết quả giám sát đối với cấp ủy cấp huyện, cấp xã, có thể thấy công tác này đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. 

Thứ nhất, về giám sát việc triển khai, hướng dẫn, tổ chức thực hiện các quy định của Đảng về công tác cán bộ: Nhìn chung, cấp ủy các cấp đã kịp thời ban hành các văn bản chỉ đạo về công tác cán bộ để lãnh đạo, quán triệt tổ chức thực hiện nghiêm túc tại địa phương, cơ sở. Tính riêng trong năm 2020, cấp ủy các cấp đã ban hành 6.250 văn bản nhằm chỉ đạo, phối hợp thực hiện các quy định liên quan đến công tác cán bộ, đảng viên. Hệ thống văn bản hướng dẫn khá chặt chẽ, đồng bộ; có những cách làm mới, phù hợp thực tiễn gắn với quy trình cán bộ được thực hiện dân chủ, công khai, minh bạch. Cán bộ được đề bạt, bổ nhiệm đều hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, nhận được sự đồng thuận, ủng hộ của cán bộ, đảng viên, nhân dân. Cùng với việc triển khai thực hiện các quy định của Trung ương về công tác tổ chức, cán bộ, các địa phương đã xây dựng đề án về xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng đầy đủ các điều kiện, tiêu chuẩn, có phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ đến năm 2030 và những năm tiếp theo. Đối với việc triển khai các quy định của Trung ương về cán bộ, đảng viên và công tác cán bộ có liên quan đến vai trò của MTTQ Việt Nam, cấp ủy các cấp cũng đã ban hành các chỉ thị, quy định và kế hoạch hằng năm để chỉ đạo các đơn vị triển khai thực hiện đầy đủ, kịp thời(2)

Thứ hai, qua giám sát việc thực hiện các quy định về tuyển dụng công chức, viên chức, lao động hợp đồng theo Nghị định số 68/2000/NĐ-CP cho thấy, việc tuyển dụng cơ bản đúng quy trình theo quy định của Luật Cán bộ, công chức năm 2008, Luật Viên chức năm 2010; các nghị định của Chính phủ quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức, viên chức; về chính sách thu hút, tạo nguồn cán bộ từ sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ... Việc thực hiện quy trình tuyển dụng công chức, viên chức thông qua hình thức thi tuyển và xét tuyển, cơ bản đúng tiêu chuẩn, quy trình. Việc xét tuyển viên chức được thực hiện nghiêm túc, bảo đảm quy trình, tiêu chuẩn, có sự quan tâm đến các đối tượng ưu tiên, như gia đình chính sách, hộ nghèo, cán bộ nữ, cán bộ trẻ có thành tích học tập xuất sắc...; tuyển dụng theo đúng vị trí việc làm và phù hợp với bằng cấp chuyên môn được đào tạo cũng như yêu cầu công tác, hướng đến mục tiêu xây dựng đội ngũ công chức, viên chức trẻ, ngày càng có trình độ, năng lực, đáp ứng với yêu cầu trong tình hình mới. Một số địa phương căn cứ yêu cầu của vị trí việc làm cần tuyển để xem xét, tiếp nhận vào làm công chức đối với các trường hợp đáp ứng đủ điều kiện, tiêu chuẩn. Việc ký hợp đồng lao động cũng cơ bản bảo đảm đúng chỉ tiêu, trình độ, phù hợp với nhiệm vụ. Trong quá trình tuyển dụng công chức, viên chức và hợp đồng lao động không phát sinh đơn khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của người dự tuyển. Tuy nhiên, trong năm 2020, do tình hình dịch bệnh COVID-19 diễn biến phức tạp, nên một số địa phương không thực hiện công tác tuyển dụng cán bộ, công chức.

Thứ ba, về giám sát quy định về bổ nhiệm cán bộ: Kết quả giám sát năm 2020 cho thấy, các cơ quan cấp tỉnh bổ nhiệm các chức danh quản lý cho 4.581 người, trong đó bổ nhiệm là 3.086 người, bổ nhiệm lại là 1.495 người. Các cơ quan cấp huyện thực hiện bổ nhiệm và bổ nhiệm lại các chức danh quản lý là 13.381 người. Các cơ quan cấp xã bổ nhiệm 6.797 người. Công tác bổ nhiệm cán bộ của các địa phương cơ bản được thực hiện đúng quy trình, quy định, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch, chặt chẽ, thận trọng, hạn chế tối đa tình trạng chạy chức, chạy quyền, tạo môi trường cho cán bộ rèn luyện, cống hiến, trưởng thành. Quy trình bổ nhiệm cán bộ được áp dụng theo quy định của Bộ Chính trị về phân cấp quản lý cán bộ và bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ, bảo đảm đúng tiêu chuẩn, điều kiện của cán bộ về tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí đánh giá cán bộ; đội ngũ cán bộ được đề bạt, bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Điều quan trọng là, các quy trình bảo đảm yêu cầu phân cấp, phân quyền, được thực hiện nghiêm túc, rà soát kỹ từng trường hợp.

Trong quá trình giám sát, khi phát hiện những vấn đề thiếu sót, chưa rõ, bộ phận chuyên môn của cơ quan MTTQ Việt Nam các cấp đã kịp thời trao đổi với cấp ủy, chính quyền một số địa phương để nắm bắt thêm thông tin(3), đề nghị giải trình từng trường hợp và rút kinh nghiệm trong thời gian tới. Đối với trường hợp cán bộ có dấu hiệu vi phạm về điều kiện, tiêu chuẩn, quy trình bổ nhiệm, ban thường trực ủy ban MTTQ Việt Nam các cấp kịp thời ban hành công văn đề nghị cấp ủy địa phương rà soát để xử lý theo đúng quy định(4).

Thứ tư, về chuyển đổi vị trí công tác: Kết quả giám sát cho thấy, cấp tỉnh đã thực hiện chuyển đổi vị trí công tác đối với 4.942 trường hợp cán bộ, công chức, viên chức. Cấp huyện chuyển đổi 3.362/3.956 trường hợp trong diện chuyển đổi vị trí công tác (đạt 84,9%), còn 594 trường hợp chưa chuyển đổi (chiếm 15,1%). 

Nhìn chung, công tác chuyển đổi vị trí việc làm được cấp ủy các cấp quan tâm, chỉ đạo kịp thời, thường xuyên, bảo đảm đúng theo quy trình, thủ tục, góp phần thực hiện tốt Luật Phòng, chống tham nhũng. Mặt tích cực của chuyển đổi vị trí việc làm là giúp nhiều công chức, viên chức có điều kiện rèn luyện bản lĩnh, nâng cao tinh thần trách nhiệm, nâng cao năng lực, khả năng thích nghi, nắm bắt địa bàn, đối tượng quản lý; từ đó, tham mưu các giải pháp tổ chức triển khai thực hiện nhiệm vụ chuyên môn bảo đảm hiệu quả tốt. Nhiều công chức bày tỏ sẵn sàng nhận nhiệm vụ mới, phục tùng tuyệt đối sự phân công của tổ chức. Việc chuyển đổi vị trí việc làm góp phần hạn chế tình trạng khép kín, cục bộ, tiêu cực trong thực thi công vụ.

Thứ năm, kết quả giám sát về kê khai và công khai tài sản đối với cán bộ, công chức, viên chức của các cấp ủy, tổ chức cơ sở đảng và chính quyền, cơ quan hành chính nhà nước các cấp cho thấy, qua thống kê chưa đầy đủ của các địa phương trong năm 2020, ở cấp tỉnh, số người có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập lần đầu là 447.910 người, trong đó số người đã kê khai tài sản lần đầu là 447.579 người (đạt 99,9%). Ở cấp huyện, số người có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập lần đầu là 182.795 người, số người đã kê khai tài sản lần đầu là 181.478 người (đạt 99,3%). 

Việc thực hiện công khai bản kê khai tài sản bằng hình thức niêm yết tại nơi làm việc của cán bộ hoặc công khai bản kê khai tại cuộc họp được tiến hành theo đúng quy định. Hồ sơ lưu trữ được thiết lập theo quy định; danh sách người có nghĩa vụ phải kê khai tài sản, thu nhập lần đầu, các bản kê khai tài sản của người kê khai được lập đầy đủ; việc giao nhận bản kê khai được thực hiện nghiêm túc; biên bản niêm yết bản kê khai tài sản, thu nhập của từng cơ quan, đơn vị được thực hiện chặt chẽ. Kết quả triển khai thực hiện công tác kiểm soát tài sản, thu nhập được báo cáo cơ quan có thẩm quyền theo quy định.

Thứ sáu, trong cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân (HĐND) các cấp, một trong những tiêu chuẩn luôn được nhấn mạnh và thảo luận, xem xét kỹ lưỡng là: Người ứng cử phải gương mẫu chấp hành pháp luật, kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng và các vi phạm pháp luật. Quy trình hiệp thương lựa chọn, giới thiệu người ứng cử được ủy ban MTTQ Việt Nam các cấp tuân thủ triệt để. Tổ chức Mặt trận đã lựa chọn, giới thiệu những người ứng cử bảo đảm đúng cơ cấu, thành phần, số lượng, không đưa vào danh sách những ứng cử viên có dấu hiệu tham nhũng, không trung thực trong kê khai tài sản hoặc vi phạm pháp luật về bầu cử. Đối với những người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND sau khi MTTQ Việt Nam tổ chức lấy ý kiến cử tri nơi cư trú mà có số phiếu tín nhiệm thấp thì đều không được các cấp hiệp thương của tổ chức mặt trận đưa vào danh sách hiệp thương chính thức (loại khỏi danh sách ứng cử viên đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND)(5). Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã thực hiện nghiêm nhiệm vụ giám sát bầu cử, góp phần bảo đảm các cuộc bầu cử diễn ra dân chủ, lựa chọn được những ứng cử viên xứng đáng để giữ những chức vụ quan trọng trong các cơ quan nhà nước.

Thứ bảy, việc giám sát công tác tuyển chọn, bổ nhiệm thẩm phán, kiểm sát viên cũng được quan tâm thực hiện thường xuyên. Hằng năm, đại diện Ban Thường trực là thành viên Hội đồng tuyển chọn kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đều thực hiện việc đánh giá, thẩm định, cho ý kiến đối với các hồ sơ của người được đề nghị bổ nhiệm làm kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân tối cao(6); là thành viên Hội đồng thi tuyển kiểm sát viên cao cấp, trung cấp và sơ cấp, thực hiện việc cho ý kiến vào danh sách đề nghị thi tuyển kiểm sát viên và danh sách đề nghị được bổ nhiệm kiểm sát viên các cấp theo quy định. 

Sự tham gia của MTTQ Việt Nam trong công tác tuyển chọn thẩm phán, kiểm sát viên đã góp phần giúp cho các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước bổ nhiệm được đội ngũ thẩm phán, kiểm sát viên có đủ năng lực, phẩm chất, đáp ứng được yêu cầu, chất lượng đội ngũ cán bộ của các cơ quan tư pháp trong giai đoạn mới(7).

Hoạt động giám sát công tác tổ chức, cán bộ của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trong thời gian qua, nhất là từ khi có Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Bộ Chính trị, đã thu được những kết quả có ý nghĩa trên nhiều phương diện. Điều này góp phần tạo sự chuyển biến tích cực về nhận thức đối với vai trò giám sát của MTTQ Việt Nam. Các hoạt động giám sát công tác tổ chức, cán bộ được đông đảo các tầng lớp nhân dân quan tâm theo dõi và đồng tình ủng hộ, các cơ quan thông tin đại chúng cũng  hưởng ứng và tích cực tuyên truyền cho các hoạt động này. 

Bên cạnh những kết quả đạt được, qua giám sát cán bộ, đảng viên và công tác cán bộ, Ban Thường trực nhận thấy vẫn còn những hạn chế nhất định. Nhận thức của một số cấp ủy và tổ chức đảng về công tác giám sát cán bộ, đảng viên và công tác cán bộ có mặt chưa đầy đủ. Sau giám sát, xử lý vi phạm ở một số nơi còn thiếu kiểm tra việc khắc phục, sửa chữa những sai phạm, thiếu sót của cán bộ, đảng viên. Tâm lý ngại va chạm, nể nang, né tránh, thiếu bản lĩnh khi thực hiện nhiệm vụ giám sát công tác tổ chức, cán bộ cũng ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả của hoạt động giám sát.

Vai trò chủ động của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội các cấp trong tham mưu, đề xuất với cấp ủy, phối hợp các cơ quan chức năng thực hiện nhiệm vụ giám sát công tác tổ chức, cán bộ có nơi còn hạn chế hoặc khi có dư luận thì mới tiến hành giám sát; hoạt động giám sát thiếu tính thường xuyên.

Khi tiến hành quy trình giám sát liên quan đến công tác cán bộ còn nhiều lúng túng, khó khăn nhất định. Hạn chế này mang nhiều yếu tố chủ quan; bởi lẽ yêu cầu đặt ra đối với cán bộ làm công tác giám sát là phải nắm chắc các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về công tác cán bộ, trong khi hầu hết cán bộ làm công tác giám sát của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội lại chưa được đào tạo chuyên sâu về nghiệp vụ, chủ yếu mới chỉ được tập huấn ngắn hạn do MTTQ Việt Nam triển khai trong hệ thống

Trong khi đó, sự phối hợp giữa MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên trong thực hiện giám sát công tác cán bộ còn chưa nhịp nhàng; việc xác định nội dung, phương pháp, hình thức giám sát còn nhiều lúng túng; chất lượng giám sát có lúc chưa cao; việc giải quyết kiến nghị của một số ngành, chính quyền địa phương còn chậm.

Giải pháp phát huy vai trò giám sát công tác tổ chức, cán bộ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trong thời gian tới

Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy để phát huy vai trò giám sát của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội. Trong đó, MTTQ Việt Nam sớm hoàn thiện Đề án trình Ban Bí thư ban hành Chỉ thị về tăng cường công tác lãnh đạo của Đảng đối với công tác giám sát, phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trong thời gian tới. Đây là văn bản quan trọng để lãnh đạo, chỉ đạo cấp ủy các cấp tăng cường hoạt động giám sát nói chung và giám sát công tác tổ chức, cán bộ nói riêng của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội thực sự hiệu quả.

Cần thu hút và sử dụng được những người thực sự có đức, có tài, có bản lĩnh, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm trong hoạt động giám sát (Trong ảnh: Các đại biểu tham dự Đại hội đại biểu toàn quốc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ IX)_Ảnh: TTXVN

Thứ hai, MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội cần chủ động nghiên cứu kỹ các văn bản của Đảng, quy định của Nhà nước để từ đó đề xuất, kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoàn thiện cơ chế giám sát của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trong tình hình mới. Giám sát công tác tổ chức, cán bộ là việc khó; vì vậy, đòi hỏi hệ thống pháp luật phải quy định toàn diện, đầy đủ, cụ thể và rõ ràng các vấn đề liên quan. Yêu cầu này tạo cơ sở pháp lý không chỉ cho hoạt động giám sát của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, mà còn là cơ sở để các cơ quan, tổ chức, nhất là những đối tượng chịu sự giám sát phải thực hiện nghiêm.

Thứ ba, tăng cường sự phối hợp giữa MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên, các cơ quan, tổ chức khác trong thực hiện giám sát công tác tổ chức, cán bộ. Hoạt động giám sát của MTTQ Việt Nam chỉ có thể phát huy hiệu quả tốt khi có sự phối hợp và thực hiện một cách đồng bộ với các hoạt động giám sát, thanh tra, kiểm tra, kiểm sát của các cơ quan, tổ chức khác trong hệ thống chính trị. Vì vậy, cần tăng cường kết hợp giữa hoạt động giám sát của MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên với hoạt động thanh tra của các cơ quan nhà nước, hoạt động kiểm tra của Đảng và hoạt động giám sát của Quốc hội, HĐND các cấp... Như vậy, sẽ góp phần làm cho hoạt động giám sát của MTTQ Việt Nam ngày càng hiệu quả, huy động được các cơ quan, tổ chức và nhân dân tham gia, sẽ tạo sức mạnh trong giám sát.

Thứ tư, việc giám sát công tác tổ chức, cán bộ và giám sát đối với cán bộ, đảng viên phải được thực hiện thường xuyên; cần sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm việc triển khai các hoạt động giám sát công tác tổ chức cán bộ trong thời gian qua để lựa chọn những nội dung giám sát sao cho sát - đúng, có trọng tâm, trọng điểm phù hợp với điều kiện thực tế của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội.

Thứ năm, để thực hiện tốt việc giám sát công tác cán bộ, MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội cần thu hút và sử dụng được những người thực sự có đức, có tài, có bản lĩnh, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm trong hoạt động giám sát. Tăng cường các biện pháp nâng cao trình độ đội ngũ lãnh đạo mặt trận các cấp, có chính sách quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và thu hút cán bộ có năng lực, trình độ, phẩm chất, đạo đức để thực hiện giám sát. Tập hợp, phát huy tối đa tiềm năng to lớn của các tổ chức thành viên và các cá nhân tiêu biểu, các nhân sĩ, trí thức, các nhà khoa học, các hội đồng tư vấn để họ cùng tham gia các hoạt động giám sát, giúp nâng cao chất lượng giám sát nói chung và giám sát công tác tổ chức cán bộ nói riêng của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội. Đối với các địa phương, cần quan tâm đẩy mạnh công tác tập huấn, trao đổi kinh nghiệm về phương pháp, cách làm hiệu quả, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, quán triệt các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về giám sát của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội; các cán bộ làm công tác mặt trận ở cơ sở cần được trang bị tốt kiến thức về chính sách, pháp luật để thực hiện giám sát có hiệu quả./.

-----------------

(1) Như: Quy chế Giám sát và phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội (Ban hành kèm theo Quyết định số 217-QĐ/TW, ngày 12-12-2013 của Bộ Chính trị) và Quy định về việc MTTQ Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền (Ban hành kèm theo Quyết định số 218-QĐ/TW, ngày 12-12-2013 của Bộ Chính trị); giám sát việc thực hiện Quyết định số 99-QĐ/TW, ngày 3-10-2017, của Ban Bí thư Trung ương Đảng, về “Ban hành Hướng dẫn khung để các cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc Trung ương tiếp tục phát huy vai trò của nhân dân trong đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”; giám sát việc thực hiện Quy định số 124-QĐ/TW, ngày 2-2-2018, của Ban Bí thư Trung ương Đảng, về “Giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt và cán bộ, đảng viên”.

(2) Quyết định số 99-QĐ/TW, ngày 3-10-2017, của Ban Bí thư Trung ương Đảng, về “Ban hành Hướng dẫn khung để các cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc Trung ương tiếp tục phát huy vai trò của nhân dân trong đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”; Quy định số 101-QĐ/TW, ngày 7-6-2012, của Ban Bí thư Trung ương Đảng, “Về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp”; Quy định số 124-QĐ/TW, ngày 2-2-2018, của Ban Bí thư Trung ương Đảng, “Về giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt và cán bộ, đảng viên”; Quy định số 205-QĐ/TW, ngày 23-9-2019, của Bộ Chính trị, “Về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền”; Quy định số 213-QĐ/TW, ngày 2-1-2020, của Bộ Chính trị, “Về trách nhiệm của đảng viên đang công tác thường xuyên giữ mối liên hệ với tổ chức đảng và nhân dân nơi cư trú”.

(3) Đề nghị Thường trực Tỉnh ủy các tỉnh: Yên Bái, Lạng Sơn, Nghệ An, Quảng Trị, Quảng Ngãi, Bình Thuận, Bắc Kạn bổ sung thông tin về bằng cấp chuyên môn, trình độ lý luận chính trị, danh sách tuyển dụng công chức, danh sách bổ nhiệm...

(4) Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam ban hành văn bản số 3237/MTTW-BTT, đề nghị báo cáo về thực hiện quy trình bổ nhiệm cán bộ, đề nghị Tỉnh ủy Lào Cai báo cáo cụ thể về thực hiện quy trình, điều kiện bổ nhiệm cán bộ đối với đồng chí Đàm Quang Vinh và kết quả kiểm tra, xác minh, xử lý thông tin Báo Lao động nêu. Ngày 7-12-2021, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam nhận được Báo cáo số 195-BC/TU, ngày 2-12-2021, của Tỉnh ủy Lào Cai, “Về việc thực hiện quy trình, điều kiện bổ nhiệm đồng chí Đàm Quang Vinh giữ chức vụ Chánh Thanh tra tỉnh Lào Cai và xác minh thông tin”, đề nghị Ban Bí thư Trung ương Đảng thi hành kỷ luật đối với đồng chí Đàm Quang Vinh; ngày 25-11-2021, Ủy ban nhân dân tỉnh Lào Cai đã ban hành Quyết định số 4135/QĐ-UBND, kỷ luật công chức với hình thức buộc thôi việc đối với đồng chí Đàm Quang Vinh, Chánh Thanh tra tỉnh Lào Cai.

(5) Trong cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016 - 2021, so với danh sách trình ra Hội nghị hiệp thương lần thứ nhất, qua các lần hiệp thương, ủy ban MTTQ Việt Nam các cấp đã loại khỏi danh sách hiệp thương chính thức 150 ứng cử viên đại biểu Quốc hội và 63.607 ứng cử viên đại biểu hội đồng nhân dân các cấp do đã phát hiện vi phạm chính sách, pháp luật, tham nhũng, tiêu cực, vi phạm đạo đức, lối sống và không được cử tri nơi công tác, nơi cư trú tín nhiệm (Báo cáo số 259/BC-MTTW, ngày 8-7-2016, của Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam về tổng kết công tác Mặt trận tham gia bầu cử).

Trong cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam thành lập 9 đoàn kiểm tra, giám sát công tác bầu cử, trong đó, tổ chức kiểm tra, giám sát trực tiếp tại 22 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; ủy ban MTTQ Việt Nam cấp tỉnh đã chủ trì tổ chức 480 đoàn kiểm tra, giám sát về công tác bầu cử, phối hợp, tham gia thực hiện kiểm tra, giám sát 845 đoàn; ủy ban MTTQ Việt Nam cấp huyện đã chủ trì tổ chức 2.764 đoàn kiểm tra, giám sát về công tác bầu cử, phối hợp, tham gia thực hiện kiểm tra, giám sát 4.269 đoàn; ủy ban MTTQ Việt Nam cấp xã đã chủ trì tổ chức 18.490 đoàn kiểm tra, giám sát về công tác bầu cử, phối hợp, tham gia thực hiện kiểm tra, giám sát 23.696 đoàn công tác bầu cử.

(6) Năm 2020, đại diện Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam là thành viên Hội đồng tuyển chọn kiểm sát viên, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đã cho ý kiến về 8 hồ sơ bổ nhiệm kiểm sát viên, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; cho ý kiến đối với 1.561 hồ sơ dự thi kiểm sát viên, viện kiểm sát nhân dân các cấp.

(7) Năm 2020, đại diện Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam là thành viên Hội đồng tuyển chọn, giám sát thẩm phán quốc gia đã phối hợp cho ý kiến đối với 729 hồ sơ bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm, bãi nhiệm thẩm phán tòa án nhân dân các cấp.