Thứ Tư, 5 tháng 4, 2023

PHÒNG CHỐNG PHAI NHẠT LÝ TƯỞNG CÁCH MẠNG TRONG MỘT BỘ PHẬN CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN


Trong giờ phút thiêng liêng được kết nạp vào Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên đều thề trước cờ Đảng và hình ảnh lãnh tụ, suốt đời đấu tranh phấn đấu theo lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, tuyệt đối trung thành và nghiêm chỉnh thực hiện Cương lĩnh, đường lối của Đảng, giữ gìn kỷ luật Đảng và phẩm chất, đạo đức của người cách mạng. Đó là lời thề danh dự định hướng rèn luyện, hành động của mỗi đảng viên, cán bộ.
Suốt các thời kỳ đấu tranh cách mạng, tuyệt đại đa số đảng viên, cán bộ đã thực hiện trọn vẹn lời thề đó, điều này có ý nghĩa quyết định sức chiến đấu, danh dự và uy tín của Đảng và niềm tin của nhân dân đối với Đảng.
Sự phấn đấu, hy sinh của các đồng chí lãnh đạo Đảng, của hàng nghìn, hàng vạn cán bộ, đảng viên đã cổ vũ, đoàn kết toàn dân tộc: giành thắng lợi trong cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của lịch sử dân tộc; đi tới toàn thắng trong các cuộc kháng chiến oanh liệt chống thực dân, đế quốc vì hòa bình, độc lập hoàn toàn và thống nhất Tổ quốc; thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới theo con đường xã hội chủ nghĩa với những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đại hội XIII khẳng định: "Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay".
"Đó là kết quả sự nỗ lực phấn đấu không ngừng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong đó có sự hy sinh quên mình và đóng góp quan trọng của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Chúng ta có quyền tự hào về bản chất tốt đẹp, truyền thống anh hùng và lịch sử vẻ vang của Đảng ta - Đảng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, đại biểu của dân tộc Việt Nam anh hùng".
Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng có những thành công căn bản và quan trọng, bảo đảm không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Song công tác xây dựng Đảng còn không ít hạn chế, khuyết điểm cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ, nhất là một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.
"Trong khi đó, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc".
Đảng đã thẳng thắn chỉ rõ 27 biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" tại Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII (10/2016). Biểu hiện hàng đầu của sự suy thoái đó là: "Phai nhạt lý tưởng cách mạng; dao động, giảm sút niềm tin vào mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hoài nghi, thiếu tin tưởng vào chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh".
Không chỉ phai nhạt lý tưởng cách mạng, giảm sút niềm tin, mà một bộ phận cán bộ, đảng viên còn có biểu hiện "Xa rời tôn chỉ, mục đích của Đảng; không kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; phụ họa theo những nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái" và những biểu hiện sai trái khác. Đại hội XIII của Đảng nêu rõ: "Một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa".
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhiều lần nhấn mạnh, cuộc đấu tranh chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị là căn bản và có ý nghĩa quyết định bảo đảm bản chất cách mạng, sức chiến đấu và vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Suy thoái về tư tưởng chính trị, phai nhạt lý tưởng, xa rời tôn chỉ, mục đích của Đảng là điều nguy hiểm nhất với sự tồn vong của Đảng và chế độ.
Vì vậy, phải đấu tranh chống các thế lực thù địch, phản động, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Cuộc đấu tranh đó càng đòi hỏi sự trong sạch trong nội bộ Đảng, phải ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái của một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhất là sự phai nhạt lý tưởng cách mạng, xa rời con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân Việt Nam đã lựa chọn.
Cách mạng và dân tộc Việt Nam từ năm 1930 đến nay do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo đã và đang phát triển trên con đường đúng đắn với những thắng lợi và thành tựu to lớn. Vì sao với hiện thực rõ ràng như vậy vẫn có một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng cách mạng, dao động, giảm sút niềm tin vào lý tưởng, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội? Cần thiết phải làm rõ nguyên nhân.
Có những người bị chi phối bởi quan điểm sai trái của các thế lực thù địch cho rằng sự lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa là sai lầm dẫn tới sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Sự thật là, đó là sự tan vỡ của một mô hình với những hạn chế và khuyết điểm hoàn toàn có thể điều chỉnh, sửa chữa được.
Chính sự phản bội và nhân danh tư duy chính trị mới đã phủ nhận thành quả vĩ đại của chủ nghĩa xã hội, đưa các nước đó rời bỏ con đường xã hội chủ nghĩa. Việt Nam đã sửa chữa những khuyết điểm của mô hình cũ bằng đường lối đổi mới. Kiên định mục tiêu chủ nghĩa xã hội và đổi mới thành công đã làm cho nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng sáng tỏ hơn.
Các Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng đã tổng kết điều đó. Đặc biệt, tác phẩm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam công bố năm 2021 là sự phát triển quan trọng nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Cần phải quán triệt và nhận thức sâu sắc những tổng kết có giá trị khoa học và hiện thực của Đảng trong từng tổ chức đảng và mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý. Đó là điều có vai trò quan trọng để ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị và phai nhạt lý tưởng cách mạng.
Nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Lý luận, tư tưởng đó quyết định bản chất cách mạng, khoa học, bản lĩnh chính trị, sức chiến đấu của Đảng và cũng quyết định ý chí, lý tưởng cách mạng và phẩm chất chính trị của mỗi cán bộ, đảng viên. Đảng nhiều lần nhấn mạnh, học tập, nghiên cứu nền tảng tư tưởng của Đảng không phải là thuộc lòng câu chữ mà phải nắm vững giá trị mang tính quy luật, phương pháp luận khoa học để vận dụng sáng tạo và không ngừng phát triển.
Bộ Chính trị khóa XII chủ trương tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phê phán, bác bỏ những luận điệu sai trái, phản động của các thế lực thù địch. Qua cuộc đấu tranh đó để toàn Đảng và nhân dân cảnh giác và góp phần nâng cao nhận thức về tư tưởng, lý luận, tăng sức đề kháng trong Đảng và toàn xã hội. Những người phai nhạt lý tưởng, dao động, giảm sút niềm tin, hoặc bị ảnh hưởng từ những luận điệu sai trái, thù địch, cố tình phụ họa, tiếp tay cho kẻ địch, hoặc do trình độ nhận thức hạn chế, bản lĩnh chính trị không vững vàng, ít chịu học tập, rèn luyện, tu dưỡng và cả sự chủ quan, kiêu ngạo, cố tình quay lưng lại với sự thật.
Vì vậy phải chú trọng công tác giáo dục, học tập, nghiên cứu lý luận chính trị một cách căn bản, sâu sắc, có hệ thống. Giáo dục sâu sắc, thiết thực lý luận chính trị có ý nghĩa rất quan trọng củng cố sức mạnh của Đảng về tư tưởng, chính trị, ngăn chặn, đẩy lùi sự phai nhạt lý tưởng cách mạng.
Phòng ngừa sự phai nhạt lý tưởng cách mạng, giảm sút niềm tin đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên dù ở cương vị nào cũng cần phải tu dưỡng, rèn luyện tính tiên phong, đức hy sinh và phẩm chất đạo đức cách mạng. Hiểu biết sâu sắc đất nước, dân tộc mình, tự hào, tự tôn dân tộc, tự hào về truyền thống vẻ vang của Đảng và dân tộc và không ngừng học tập. Học tập để nâng cao trình độ trí tuệ, hiểu biết lý luận, nhận thức đúng đắn quy luật khách quan và thực tiễn đất nước để hành động tự giác, có hiệu quả.
Lý tưởng, mục tiêu của Đảng rất rõ ràng là độc lập dân tộc và xây dựng Việt Nam trở thành nước xã hội chủ nghĩa hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc. Là cán bộ, đảng viên của Đảng phải tuyệt đối trung thành và phấn đấu vì lý tưởng cao cả đó. Làm sao để trong Đảng không có những đảng viên phai nhạt lý tưởng, càng không thể có đảng viên xa rời tôn chỉ mục đích của Đảng. Hãy luôn luôn ghi nhớ lời thề khi gia nhập Đảng./.
Theo Báo Nhân dân
Có thể là hình ảnh về 2 người

 HỘI ĐỒNG NHÂN QUYỀN LIÊN HỢP QUỐC (LHQ) THÔNG QUA NGHỊ QUYẾT DO VIỆT NAM ĐỀ XUẤT

Việc Hội đồng Nhân quyền thông qua nghị quyết do Việt Nam soạn thảo cho thấy dấu ấn nổi bật của Việt Nam ngay trong khóa họp đầu tiên đảm nhận cương vị thành viên hội đồng này nhiệm kỳ 2023-2025.

Ngày 3/4 tại trụ sở Văn phòng Liên hợp quốc tại Geneva (Thụy Sĩ), Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc đã đồng thuận thông qua Nghị quyết kỷ niệm 75 năm Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền (UDHR) và 30 năm Tuyên bố và Chương trình hành động Vienna (VDPA) do Việt Nam đề xuất và soạn thảo.

Đây là dấu ấn nổi bật của Việt Nam ngay trong khóa họp đầu tiên đảm nhận cương vị thành viên Hội đồng Nhân quyền nhiệm kỳ 2023-2025.

Tại phiên họp cấp cao mở đầu Khóa họp 52 của Hội đồng Nhân quyền tại Geneva ngày 27/2 vừa qua, Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Lưu Quang đã đưa ra sáng kiến về việc kỷ niệm 75 năm Tuyên ngôn và 30 năm Tuyên bố nêu trên bằng một văn kiện của Hội đồng Nhân quyền nhằm khẳng định lại và tăng cường các nỗ lực cũng như hành động hướng tới đạt được những mục tiêu và giá trị lớn, bao trùm của hai văn kiện quan trọng nêu trên, cũng như các cam kết chung của cộng đồng quốc tế về quyền con người cho tất cả mọi người.

Nội dung Nghị quyết tập trung vào tầm quan trọng và nhiều nội dung tích cực của Tuyên ngôn và Tuyên bố nêu trên như nhắc lại các nguyên tắc chính về quyền con người của hai văn kiện; phản ánh quan tâm rộng rãi của các nước trong việc kỷ niệm hai văn kiện; nâng cao vị thế, vai trò, hiệu quả hoạt động của Hội đồng Nhân quyền và các cơ chế nhân quyền Liên hợp quốc; nhấn mạnh vai trò hàng đầu của các quốc gia trong bảo đảm quyền con người; ghi nhận sự tham gia của phụ nữ, vai trò của hợp tác và đoàn kết quốc tế, tôn trọng sự đa dạng, bao trùm... trong thúc đẩy và bảo vệ quyền con người nói chung và trong tham gia công việc của Hội đồng Nhân quyền nói riêng.

Nghị quyết cũng đề nghị Cao ủy Nhân quyền Liên hợp quốc triển khai chương trình hoạt động kỷ niệm Tuyên ngôn và Tuyên bố nêu trên, trong đó có sự kiện cấp cao của Liên hợp quốc về quyền con người vào tháng 12/2023 và có báo cáo về các hoạt động kỷ niệm lên Khóa họp 56 Hội đồng Nhân quyền vào đầu năm tới.

Nghị quyết này là một dấu ấn nổi bật của Việt Nam tại Khóa họp đầu tiên trên cương vị thành viên Hội đồng Nhân quyền nhiệm kỳ 2023-2025, thể hiện đóng góp thực chất, trách nhiệm của Việt Nam vào công việc của Hội đồng Nhân quyền.

Phái đoàn đại diện thường trực Việt Nam tại Geneva đã trực tiếp triển khai soạn thảo, tham vấn, thương lượng dự thảo Nghị quyết, sau khi Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Lưu Quang nêu sáng kiến tại Khóa họp.

Ngày 3/4, Hội đồng Nhân quyền đã thông qua Nghị quyết bằng đồng thuận, với sự tham gia đồng bảo trợ Nghị quyết của 98 nước (tính đến cuối giờ chiều ngày 3/4 giờ Geneva), bao gồm 14 nước đồng tác giả (Việt Nam, Áo, Bangladesh, Bỉ, Bolivia, Brazil, Chile, Costa Rica, Fiji, Ấn Độ, Panama, Romania, Nam Phi và Tây Ban Nha), đồng thời có 34 nước thành viên Hội đồng Nhân quyền, cả các nước phương Tây và nhiều nước đang phát triển từ cả 5 nhóm khu vực, trong đó có hầu hết các nước ASEAN.

Với nội dung như nêu trên, việc Nghị quyết được thông qua bằng đồng thuận, có sự đồng bảo trợ của 98 nước cho thấy Nghị quyết thể hiện sự quan tâm và ưu tiên chung của các nước và cộng đồng quốc tế, thu hút được sự hưởng ứng, tham gia ủng hộ của đông đảo các nước, được sự đánh giá cao của các bên.

Việc Việt Nam đề xuất Nghị quyết này tại Hội đồng Nhân quyền rất kịp thời, đáp ứng sự quan tâm của cộng đồng quốc tế về kỷ niệm và đề cao UDHR và VDPA, hai văn kiện quan trọng về quyền con người là nền tảng của khung khổ các công ước quốc tế, các cơ chế, đối thoại và hợp tác ở các cấp độ quốc tế, khu vực và quốc gia về quyền con người.

Nghị quyết này sẽ giúp tăng cường hơn nữa nỗ lực và hành động của các quốc gia và cộng đồng quốc tế trong hiện thực hóa các mục tiêu, tôn chỉ, cam kết hành động đề ra tại hai văn kiện trên, góp phần nâng cao vai trò của Hội đồng Nhân quyền, Cao ủy Nhân quyền Liên hợp quốc về thúc đẩy và bảo vệ quyền con người cho mọi người, thông qua đối thoại và hợp tác, tôn trọng và hiểu biết lẫn nhau.

Đây cũng là kết quả của những nỗ lực chủ động, sáng tạo và triển khai bài bản của Bộ Ngoại giao, Phái đoàn Việt Nam tại Geneva trong việc đưa ra sáng kiến Nghị quyết, soạn thảo nội dung, cũng như nỗ lực của đoàn Việt Nam trực tiếp tham vấn, vận động, thương lượng với các đoàn của các nước tại Geneva để đi đến nhất trí về nội dung dự thảo Nghị quyết bao gồm những nội dung tích cực, cân bằng sự quan tâm của các nước, trong bối cảnh các nước và các nhóm nước còn có quan điểm khác nhau trên các vấn đề cụ thể về quyền con người.

Bên cạnh đó, sự phối hợp tích cực của các Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài đã góp phần trong việc vận động các nước ủng hộ Nghị quyết.

Việc Việt Nam đề xuất, soạn thảo và thương lượng Nghị quyết này vừa là cụ thể hóa trách nhiệm, nỗ lực và ưu tiên của Việt Nam trên cương vị thành viên Hội đồng Nhân quyền nhiệm kỳ 2023-2025, đồng thời cũng là hiện thực hóa chính sách đối ngoại chủ động, tích cực, có trách nhiệm tham gia giải quyết các vấn đề quan tâm chung của cộng đồng quốc tế.

Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền (UDHR) được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 10/12/1948 với nội dung chính gồm: khẳng định mọi người sinh ra tự do, bình đẳng, không phân biệt, khẳng định các quyền của con người như quyền sống, quyền được xét xử công bằng, không bị tra tấn, không phải làm nô lệ và các quyền khác trong các lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa.

Tuy không phải là văn kiện pháp lý quốc tế nhưng UDHR là nền tảng để xây dựng luật quốc tế về nhân quyền, trong đó có Công ước về các quyền dân sự, chính trị và Công ước về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa; cũng như được đưa vào các văn kiện về quyền con người của các cơ chế khu vực và vào pháp luật của các quốc gia.

Ngày 10/12 sau này trở thành Ngày Nhân quyền quốc tế. Đây là một trong những văn kiện quan trọng nhất của thế kỷ 20, được tất cả các nước thông qua và đã trở thành nền tảng để các quốc gia, trong đó có Việt Nam sử dụng trong quá trình xây dựng các văn kiện liên quan đến việc bảo vệ quyền con người.

Tuyên bố và Chương trình hành động Vienna (VDPA) được các nước thành viên Liên hợp quốc thông qua năm 1993, tại hội nghị quốc tế về Nhân quyền được tổ chức tại Vienna.

VDPA khẳng định lại các giá trị của UDHR, đồng thời làm rõ việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người phải là ưu tiên cao nhất của mỗi quốc gia và cộng đồng quốc tế; nhấn mạnh trong khi cần tính tới các đặc thù của mỗi quốc gia, xã hội, các quyền con người cần được nhìn nhận là giá trị phổ quát, cần được đánh giá trong mỗi quan hệ cân bằng, phụ thuộc lẫn nhau.

VDPA cũng khẳng định vai trò của Liên hợp quốc trong thúc đẩy quyền con người trên thế giới và khởi động cho việc thành lập Cao ủy Nhân quyền Liên hợp quốc.


 ĐẠI TÁ, ANH HÙNG LLVT PHẠM NGỌC THẢO - NGƯỜI ĐIỆP VIÊN HUYỀN THOẠI 

Lịch sử tình báo thế giới đã lưu danh rất nhiều điệp viên huyền thoại, nhưng nhiệm vụ mà nhà tình báo cách mạng Phạm Ngọc Thảo đã làm, đến nay vẫn được coi là “có một không hai”. Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã từng nhận định: “Anh Phạm Ngọc Thảo đã nhận một nhiệm vụ đặc biệt, chưa từng có tiền lệ trong công tác cách mạng của chúng ta”.

Trong cuốn sách “Điệp viên hoàn hảo”, nhà sử học người Mỹ Larry Berman đã dẫn lời điệp viên Phạm Xuân Ẩn: “Nhiệm vụ được giao cho Phạm Ngọc Thảo khác với nhiệm vụ của tôi. Ông ấy có nhiệm vụ làm mất ổn định của chế độ Diệm và vạch âm mưu đảo chính, còn tôi là một nhà tình báo chiến lược. Nhiệm vụ của ông Phạm Ngọc Thảo nguy hiểm hơn nhiệm vụ của tôi rất nhiều”.

Đại tá, Anh hùng LLVT nhân dân Phạm Ngọc Thảo là tấm gương thầm lặng hy sinh, trung thành với lý tưởng cách mạng đến phút giây cuối cùng. Đối với kẻ thù, khi tra tấn Phạm Ngọc Thảo đến chết, chúng vẫn không hay biết ông là điệp viên cộng sản. Ông được đồng bào, chiến sĩ cả nước biết đến nhiều hơn sau khi nhà văn Nguyễn Trương Thiên Lý viết tác phẩm “Ván bài lật ngửa” mà Phạm Ngọc Thảo là nguyên mẫu nhân vật chính.


 "TÔI LÀ MỘT VỊ TƯỚNG VÀ LÀ MỘT NHÀ BÁO"

Trong lịch sử báo chí Cách mạng Việt Nam gần một thế kỷ qua, từ Chủ tịch Hồ Chí Minh cho đến các nhà lãnh đạo cao nhất của Đảng, Nhà nước, Chính phủ và Quân đội như Tổng Bí thư Trường Chinh, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp,... đều là những người thông tuệ nghề báo. Trong một lần tiếp các nhà báo, Đại tướng Võ Nguyên Giáp tâm sự: “Tôi là một vị tướng và là một nhà báo!”.

Nhà báo - Đại tướng Tổng Tư lệnh

“Làm một số báo cũng giống như tổ chức một trận đánh hiệp đồng. Công việc phải khẩn trương, nắm được ý nguyện của nhân dân, phát hiện được ý đồ, âm mưu lớn nhỏ của kẻ thù. Tất cả nhằm đến phương án tốt nhất trong việc phục vụ công chúng báo chí”. Trong một bài viết tổng kết 15 năm làm báo trước Cách mạng Tháng Tám 1945, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã viết về nghề làm báo như vậy.

Suốt chặng đường cách mạng, đôi vai nặng gánh việc nước, việc quân, hàng chục năm tham gia Bộ Chính trị, đảm nhiệm cương vị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng-Tổng Tư lệnh Quân đội, nhưng Đại tướng Võ Nguyên Giáp vẫn luôn quan tâm, sử dụng báo chí để đem lại hiệu quả lớn lao trong mọi thời kỳ, ở mọi tình huống.

Trả lời câu hỏi của các đồng nghiệp thế hệ sau thời gian làm báo ở tại mặt trận Điện Biên Phủ (1954) về bút danh Chính Nghĩa-tác giả của nhiều bài bình luận mang nội dung nhận định đúng đắn tình hình địch-ta, dự đoán các tình huống chính trị-quân sự phát triển trên các chiến trường mà trực tiếp là Điện Biên Phủ rất chính xác… nhà báo Trần Kư cho biết đó là ông Hoàng Xuân Tùy.

Những bài bình luận có sức hút đối với cán bộ, chiến sĩ tại mặt trận hào hứng đọc và củng cố thêm niềm tin vào chiến thắng, đồng thời mở rộng nhãn quan chiến lược trong chiến đấu. Ông Hoàng Xuân Tùy, nguyên Tổng biên tập Báo Quân đội nhân dân (1953-1956) thẳng thắn bày tỏ: “Các bài đó do tôi chấp bút, nhưng tư tưởng, cái hồn của bài viết là của Đại tướng-Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp”.

Theo Đại tướng Võ Nguyên Giáp: “Thời điểm ra báo là quan trọng. Khó hơn là làm nghệ thuật. Nghĩa là làm báo phải đúng lúc, chính xác, chặt chẽ, đem lại hiệu quả cho bạn đọc. Những bài chính, phụ, ngắn, dài, nặng, nhẹ phải kết hợp hài hòa như những màu sắc của tác phẩm hội họa. Những chữ lớn, nhỏ, đứng, nghiêng... đều toát lên vai trò và hiệu quả riêng”.

Riêng với các tờ báo của Quân đội, từ khi còn ở chiến khu Việt Bắc thời điểm cách mạng còn trứng nước, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã làm chủ bút và chỉ đạo biên tập 5 số đầu tiên (từ ngày 20 tháng 6 đến ngày 5 tháng 8 năm 1945) của báo Nước Nam mới thuộc Khu Giải phóng. Ông viết bài chỉ đạo cho báo Việt Nam Độc lập của Mặt trận Việt Minh khu căn cứ địa. Ông cho ra đời tờ Quân Giải phóng của Việt Nam Giải phóng quân… Khi viết bài cho các tờ báo này, ông thường ký tên là Trí Dũng. Sau hòa bình lập lại (1954) đến mãi sau này, cả lúc tuổi đã cao, sức yếu, Nhà báo - Đại tướng Võ Nguyên Giáp vẫn đều đặn viết nhiều bài báo...

Báo chí có thể chuyển biến con người 

Đại tướng Võ Nguyên Giáp là người làm báo rất sớm. Nhà nghiên cứu Nguyễn Thành (1928-2007) khi xuất bản cuốn sách về sự nghiệp báo chí của Đại tướng Võ Nguyên Giáp cho biết, từ năm 16 tuổi, cậu học trò Trường Quốc học Huế là Võ Nguyên Giáp đã viết bài báo đầu tiên với tựa đề “Đả đảo tên bạo chúa trường Quốc học” đăng trên báo L’Annau ở Sài Gòn vào tháng 6 năm 1927. Ngay khi đọc bài báo này, luật sư Phan Văn Trường - chủ bút báo khi đó phải thốt lên “Một cây bút mới xuất hiện lần đầu ở bản xứ này, mà có giọng văn sắc sảo như giọng văn Nguyễn Ái Quốc bên Paris”.

Hai năm sau, vì tham gia bãi khóa, phản đối nhà trường đuổi học Nguyễn Chí Diểu nên Võ Nguyên Giáp cũng bị đuổi khỏi Trường Quốc học Huế. Ông xin làm việc tại tòa báo Tiếng Dân của cụ Huỳnh Thúc Kháng (tháng 4 năm 1927) và hoạt động báo chí chuyên nghiệp từ đó.

Bài viết khởi đầu trên báo Tiếng Dân ra ngày 28-9-1929, với bút danh Vân Đình, tiêu đề “Vũ trụ và tiến hóa”. Võ Nguyên Giáp phân tích thời cuộc một cách tỉnh táo và nghiêm túc. Ông trở thành một cây bút chính phụ trách chuyên mục “Thế giới thời đàm” trên tờ báo này với 27 bài đăng trên 36 số ký bút danh Vân Đình.

Từ Huế, ra Hà Nội, vừa học vừa đi dạy học tư để học lên, vừa viết báo để tuyên truyền cho cách mạng. Ông nhận thấy trở ngại lớn nhất của báo chí tiếng Việt lúc đó là khó xin cấp phép ra báo. Khi ra được báo rồi lại bị kiểm duyệt ngặt nghèo hoặc nhanh chóng bị đóng cửa. Chính quyền thực dân lúc đó để ngỏ cho báo chí tiếng Pháp được tự do, Võ Nguyên Giáp đã cùng các đồng nghiệp Nguyễn Thế Rục, Phan Tư Nghĩa, Vũ Đình Huỳnh… ra tờ báo bằng tiếng Pháp mang tên Le Travail (Lao Động); tiếp đến là tờ Le Travail ra đời.

Vừa dạy học tư ở trường tư thục Thăng Long, Võ Nguyên Giáp vừa nhận làm mọi công đoạn của tờ báo. Ông viết nhiều thể loại từ xã luận, bình luận, phóng sự đến điều tra. Ông đã đạp xe từ Hà Nội ra khu mỏ Cẩm Phả tỉnh Quảng Yên (nay là tỉnh Quảng Ninh) để viết bài về phong trào đấu tranh của công nhân mỏ. Ông trực tiếp duyệt bài, lên marquette, đọc cả morasse của tờ báo và làm cả phát hành báo mà không hề nhận tiền nhuận bút, tiền phụ cấp. Tại Hội nghị Báo giới Bắc Kỳ, Võ Nguyên Giáp được bầu làm Chủ tịch Hội.

Đều đặn viết báo khi còn công tác cho cả đến khi nghỉ hưu, trước những vấn đề thời sự của đất nước và Quân đội ông vẫn kịp thời có bài viết để thể hiện quan điểm cá nhân của mình. Trong một lần tiếp các nhà báo, Đại tướng Võ Nguyên Giáp tâm sự:

“Tôi với tư cách là một vị tướng của Quân đội nhân dân Việt Nam, và là một nhà báo, tôi rất vui mừng và cảm động được các nhà báo đến thăm, chúc mừng và nhắc lại một thời làm báo của tôi. Báo chí là một lực lượng mạnh, có thể tạo nên sự chuyển biến con người. Báo chí phải tích cực tham gia vào công tác tư tưởng, xây dựng Đảng, đào tạo cán bộ, phổ biến kiến thức mới trong nhân dân, trên cơ sở đó xây dựng một nước Việt Nam anh hùng nhưng giàu có”.

Trong một dịp khác, Đại tướng Võ Nguyên Giáp chia sẻ: “Nghề báo là phải lao tâm, tổn trí, gian khổ. Nhưng được đền bù là người đọc”.

 DÂNG HOA TƯỞNG NHỚ 116 NĂM NGÀY SINH TỔNG BÍ THƯ LÊ DUẨN

Nhân kỷ niệm 116 năm Ngày sinh Tổng Bí thư Lê Duẩn (7/4/1907 - 7/4/2023), sáng 5/4, tỉnh Quảng Trị đã tổ chức Lễ dâng hoa tại Tượng đài Lê Duẩn thuộc Công viên Lê Duẩn, thành phố Đông Hà.

Tại buổi lễ, trong không khí trang nghiêm, đại diện lãnh đạo tỉnh Quảng Trị cùng đông đảo cán bộ, công nhân, viên chức, người dân trên địa bàn đã dâng hoa và dành một phút mặc niệm tưởng nhớ những cống hiến to lớn, thể hiện sự biết ơn sâu sắc đối với Tổng Bí thư Lê Duẩn - người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà lãnh đạo kiệt xuất của cách mạng Việt Nam, người con ưu tú của quê hương Quảng Trị anh hùng.

Đồng chí Lê Duẩn, tên thật là Lê Văn Nhuận, sinh ngày 7/4/1907 ở làng Bích La, xã Triệu Đông, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Xuất thân từ một gia đình lao động, có truyền thống yêu nước, đồng chí sớm giác ngộ cách mạng, hưởng ứng lời kêu gọi của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đi theo con đường cách mạng vô sản. Đồng chí Lê Duẩn đã tham gia phong trào yêu nước từ năm 1926, tham gia và hoạt động trong Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên từ năm 1928 và đến năm 1930 trở thành một trong những đảng viên lớp đầu tiên của Đảng Cộng sản Đông Dương.

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, trên các cương vị quan trọng của Đảng từ sau khi Đảng ra đời, với 26 năm liên tục ở cương vị Bí thư thứ nhất, Tổng Bí thư của Đảng (1960 - 1986), Tổng Bí thư Lê Duẩn cùng với Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương xác định những đường lối, chính sách của các cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động khác, cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh của nhân dân thế giới chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân giành độc lập, tự do…

Đối với Quảng Trị, Tổng Bí thư Lê Duẩn luôn dành cho quê hương một tình yêu sâu nặng, ân tình; đồng thời luôn động viên, nhắn nhủ đến Đảng bộ và nhân dân phát huy hơn nữa đức tính cần cù, dũng cảm, sức mạnh làm chủ tập thể, nỗ lực góp phần đưa kinh tế - xã hội ngày càng phát triển mạnh hơn…/.

SUY NGẪM: QUAN ĐIỂM ĐA NGUYÊN, ĐA ĐẢNG, BẢN CHẤT VÀ THỦ ĐOẠN PHẢN ĐỘNG!

     Lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng. Song, các thế lực thù địch luôn tìm cách tấn công, nhằm lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Mục đích của các thế lực thù địch là thông qua hoạt động phá hoại tư tưởng để tác động, nhằm thay đổi nhận thức, niềm tin của các tầng lớp nhân dân, kể cả cán bộ, đảng viên vào vai trò lãnh đạo của Đảng, vào tính tất yếu về sự ra đời, vào lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, tiến tới thiết lập cơ chế đa nguyên, đa đảng.
     Có thể thấy rằng, đây là một luận điệu hết sức nguy hiểm, bởi nó cố tình đánh đồng giữa vấn đề đa nguyên, đa đảng với dân chủ và phát triển. Việc nhận diện đầy đủ và đấu tranh phản bác, thuyết phục, vạch rõ những điểm giả dối, phản cách mạng, phản khoa học trong luận điệu “đa nguyên, đa đảng đồng nghĩa với dân chủ, phát triển” là vô cùng quan trọng trong cuộc đấu tranh tư tưởng lý luận, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ta hiện nay./.


Yêu nước ST.

VIETTEL ĐÃ HOÀN THÀNH CHIẾN LƯỢC VIỆT NAM HÓA MẠNG LÕI VIỄN THÔNG, BẢO ĐẢM YÊU CẦU VỀ AN NINH AN TOÀN THÔNG TIN!

         Tổng Công ty Công nghiệp công nghệ cao Viettel (Viettel High Tech) và Tổng Công ty mạng lưới Viettel (Viettel Network) đã chính thức triển khai thành công hệ thống tổng đài thoại cho mạng 4G/5G (hệ thống IMS) do VHT nghiên cứu, sản xuất. 
     Đây là sản phẩm cuối cùng trong toàn bộ hệ sinh thái các sản phẩm mạng lõi mà Viettel nghiên cứu sản xuất, được triển khai thực tế trên mạng lưới của nhà mạng Việt Nam. 
     Sự kiện này đánh dấu việc Viettel đã hoàn thành chiến lược Việt Nam hóa mạng lõi viễn thông, bảo đảm yêu cầu về an ninh an toàn thông tin.  
     Từ nhiều năm trước, Viettel đã có chiến lược dần thay thế các thiết bị ngoại nhập và tiến tới sử dụng toàn bộ hệ thống mạng lõi viễn thông bằng các thiết bị do chính Viettel tự sản xuất./.
Yêu nước ST.

CHA ÔNG TA GIỮ NƯỚC: BẢN THÔNG CÁO ĐẶC BIỆT NGÀY CHIẾN THẮNG 30-4-1975!

         Theo cuốn Lịch sử Quân đoàn 2 (1974-2014) do NXB Quân đội nhân dân ấn hành vào sáng ngày 30-4-1975, hai chiếc xe tăng số hiệu 390 và 843 của Quân đoàn 2 đã húc đổ cổng Dinh Độc Lập, tiến vào bắt sống toàn bộ nội các chính quyền Sài Gòn. Nhằm ổn định trật tự ở thành phố vừa mới được giải phóng, Bộ tư lệnh Quân đoàn 2 được ủy nhiệm của Bộ chỉ huy chiến dịch đã chủ động ra “Thông cáo số 1”. Sau khi chắp bút xong Thiếu tướng Nguyễn Công Trang (nguyên Phó chính ủy quân đoàn 2) đã trình đồng chí Nguyễn Hữu An, Tư lệnh và đồng chí Hoàng Đan là Phó tư lệnh quân đoàn 2 để xin ý kiến chỉ đạo. Sau đó bản thông cáo được đọc trên đài phát thanh và cứ 15 phút cho phát lại một lần cho đến tối. Nội dung cơ bản của bản thông cáo số 1 gồm:
1. Quy định sĩ quan, binh lính, cảnh sát, tình báo, mật vụ lực lượng vũ trang thuộc ngụy quyền Sài Gòn phải ra trình diện và nộp vũ khí tại Ủy ban Quân quản.
2. Công chức các cấp không được phá hoại công sở, sẵn sàng nhận lệnh. Các ngành điện nước, bưu điện, truyền thanh, vệ sinh công cộng phải điều hành công việc thường xuyên.
3. Công nhân phải giữ vững các máy móc và các xí nghiệp.
4. Nghiêm cấm mọi hành động phá rối trật tự trị an, mọi luận điệu chiến tranh tâm lý, xâm phạm tính mạng, tài sản của nhân dân, tài sản chính quyền cách mạng. Cấm các luận điệu chiến tranh tâm lý hoang mang, chia rẽ, không được gây tiếng nổ, bắn súng bừa bãi.
5. Ai ở đâu, ở đó. Từ 18 giờ ngày 30-4 đến 6 giờ ngày 1-5 không ai được đi lại trong thành phố. Mọi nhà phải treo cờ Mặt trận Dân tộc giải phóng…

Như vậy cùng với bản tuyên bố tiếp nhận đầu hàng của tổng thống ngụy quyền Sài Gòn Dương Văn Minh và bản chấp nhận tuyên bố đầu hàng của Quân Giải phóng, bản “Thông cáo số 1” là văn bản thứ hai được phát đi sau khi Sài Gòn được giải phóng./.
Yêu nước ST.

"TỚI CÔNG CHUYỆN" LÀ SẼ LỘ MẶT HẾT BÈ LŨ CHUỘT BỌ!

         Mới đây, cô ca sĩ Vi Oanh đã cầu cứu tới Đại sứ quán Mỹ để mong nhận được sự can thiệp của Đại sứ quán Mỹ cho cô ta được sang Mỹ vì cô ta có quốc tịch Hoa Kỳ, sau khi cô ta bị cơ quan cảnh sát điều tra Công an TP.HCM triệu tập, đồng thời cấm xuất cảnh do có liên quan tới vụ án của bà Nguyễn Phương Hằng. 
Như vậy, bộ mặt giả dối, khốn nạn, đê tiện, phản quốc của một bộ phận bè lũ showbiz phía Nam đang dần lộ diện rõ nét. Có thể khẳng định, lũ vô ơn này, lúc đất nước thanh bình thì chúng đục khoét, kiếm tiền bằng mọi cách, bằng mọi thứ đạo đức giả khua môi múa mép, nhưng nếu đất nước mà có biến thì chắc chắn 100% chúng sẽ xéo hết. Khi chúng ra khỏi Việt Nam, cũng chắc chắn 100% rằng chúng sẽ quay mõm lại chửi rủa Tổ quốc.
Vậy nhưng mấy con báo vẫn ra sức thương vay khóc mướn cho lũ trời đ.ánh thánh vật này. Dân gian vẫn có câu "Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã" là như thế./.




Yêu nước ST.

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả đối thoại và đấu tranh trên lĩnh vực quyền con người trong tình hình mới ở Việt Nam hiện nay

 Thứ nhất, kiên định quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về quyền con người

Trong những năm qua, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước là cốt lõi, là căn cứ quan trọng trong ĐT&ĐT các luận điệu sai sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch về vấn đề QCN. Do đó, để nâng cao hiệu quả trong công tác này thì trước hết, cần nắm vững những quan điểm cơ bản của Đảng ta về quyền con người”[2, tr.12]. Đồng thời, cả hệ thống chính trị; các cấp, các ngành, địa phương, đơn vị cần tích cực và chủ động thực hiện Chỉ thị 44-CT/TW ngày 20/7/2010 về công tác nhân quyền trong tình hình mới. Chỉ thị nhấn mạnh: Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục cán bộ, đảng viên và nhân dân để mọi người nhận thức sâu sắc hơn về quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về QCN, quyền và nghĩa vụ của công dân, nhận rõ bản chất tốt đẹp của chế độ ta là vì con người[2, tr.104].

Trong bối cảnh mới hiện nay, các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề nhân quyền dưới nhiều thủ đoạn phức tạp, biến đổi nhanh chóng. Vì vậy, ĐT&ĐT trên lĩnh vực QCN càng phải tích cực, chủ động, có cách thức ĐT&ĐT mềm dẻo, linh hoạt, vừa đối thoại để đấu tranh, vừa đấu tranh nhưng thông qua kết quả đó cũng phục vụ cho đối thoại. Thông qua đó tích cực chuyển từ tham dự sang chủ động tham gia đóng góp hoặc tham gia kiến tạo thể chế hợp tác quốc tế trên lĩnh vực QCN, tạo điều kiện và nâng tầm vị thế cho Việt Nam trong việc kiên quyết bảo vệ quan điểm, lập trường, lợi ích quốc gia-dân tộc và đấu tranh ngăn chặn hiệu quả với các hoạt động lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền để can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta.

Thứ hai, tiếp tục tăng cường bảo đảm, bảo vệ quyền con người trong thực tế

Trước hết, cần tăng cường nghiên cứu, tổng kết thực tiễn triển khai chính sách, pháp luật về bảo đảm QCN “phát hiện và khắc phục kịp thời những thiếu sót, khuyết điểm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện các quyền con người được pháp luật quy định”[2, tr.105], từ đó ngày càng hoàn thiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Song song với việc quán triệt quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về QCN, cần tăng cường công tác nghiên cứu khoa học về QCN để có cơ sở lý luận cho công tác ĐT&ĐT về nhân quyền. Đồng thời, tiếp tục tôn trọng và thúc đẩy các QCN, coi con người là mục tiêu và động lực của mọi chính sách phát triển kinh tế-xã hội như Chỉ thị 44-CT/TW về công tác nhân quyền trong tình hình mới đã khẳng định: “Đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, không ngừng cải thiện đời sống nhân dân, đảm bảo an sinh xã hội và các quyền của công dân”[2, tr.105].

Thứ ba, nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác đối thoại và đấu tranh trên lĩnh vực quyền con người

Trước hết, cần rèn luyện kỹ năng tuyên truyền về quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về QCN cho đội ngũ cán bộ làm công tác này. Thường xuyên tổ chức hội nghị tập huấn bồi dưỡng các kỹ năng, trao đổi kinh nghiệm đối thoại, đấu tranh, tuyên truyền nhằm kịp thời cung cấp thông tin và trang bị kỹ năng, nghiệp vụ. Đồng thời, tiếp tục lựa chọn và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác ĐT&ĐT có năng lực chuyên môn về QCN, có lập trường tư tưởng chính trị vững vàng, có ý chí chiến đấu bảo vệ chủ trương, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Chú trọng xây dựng lực lượng ĐT&ĐT trên không gian mạng gồm các nhà báo, giảng viên, nghiên cứu viên, các cán bộ, đảng viên, hưu trí, lão thành cách mạng. Đồng thời, cần phải có cơ chế, chính sách đãi ngộ cho đội ngũ viết bài, cộng tác viên tuyên truyền song song với các chính sách thu hút, tuyển chọn, đào tạo nguồn nhân lực có năng lực và kinh nghiệm trong ĐT&ĐT trên lĩnh vực QCN.

Tài liệu tham khảo:

[1] Nguyễn Thế Anh (2021), Đối thoại và đấu tranh trên lĩnh vực quyền con người tại các diễn đàn của Liên hợp quốc, http://qcn.ciks.vn

[2] Ban Chỉ đạo Nhân quyền của Chính phủ, Văn phòng Thường trực (2012), Tài liệu tổng kết Chỉ thị số 12 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về "Vấn đề quyền con người và quan điểm, chủ trương của Đảng ta", Nxb. Chính trị - Hành chính, Hà Nội.


Thực tiễn công tác đối thoại và đấu tranh trên lĩnh vực quyền con người ở Việt Nam hiện nay

 Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, công tác ĐT&ĐT trên lĩnh vực QCN ở Việt Nam thời gian vừa qua đã thể hiện sự chủ động, tích cực và được triển khai, thực hiện trên nhiều phương diện. Năm 2005, Việt Nam lần đầu tiên công bố Sách trắng về "Thành tựu bảo vệ và phát triển quyền con người ở Việt Nam". Đến năm 2018, Sách trắng được gắn với chủ đề “Bảo vệ và thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam” đã khẳng định: Trong thời gian qua, Việt Nam không ngừng nỗ lực hoàn thiện hệ thống pháp luật và bảo đảm thực thi pháp luật về QCN trên mọi khía cạnh; bảo đảm các quyền và tự do của người dân theo đúng các chuẩn mực quốc tế...

Đối với các nghĩa vụ quốc gia, Việt Nam thường xuyên chủ động xây dựng các báo cáo, trả lời đúng hạn các kháng thư của cơ chế Liên hợp quốc như Báo cáo định kỳ phổ quát (UPR), các báo cáo giữa kỳ tự nguyện... Một số báo, đài, tạp chí chủ lực ở Trung ương, địa phương đã xây dựng, duy trì chuyên trang, chuyên mục đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa nói chung và QCN nói riêng; viết, đăng tải hàng nghìn tin, bài, tập trung đấu tranh phản bác các thông tin bịa đặt, xuyên tạc về bảo đảm QCN ở Việt Nam.

Trong những năm qua, Việt Nam đã tích cực tham gia các cuộc đối thoại song phương, đa phương, các hội nghị, diễn đàn và cơ chế quốc tế cũng như khu vực về nhân quyền, để vừa cung cấp thông tin chính sách, pháp luật và thành tựu nhân quyền của Việt Nam, vừa vận động, bày tỏ thiện chí đối thoại, hợp tác, đồng thời kiên quyết đấu tranh nhằm vào từng đối tượng cụ thể để tranh thủ sự ủng hộ quốc tế và phân hóa lực lượng. Với việc trúng cử vào các vị trí quan trọng trong Liên hợp quốc như Hội đồng Nhân quyền (nhiệm kỳ 2014-2016), Hội đồng Kinh tế-Xã hội (nhiệm kỳ 2016-2018), Hội đồng Bảo an (nhiệm kỳ 2020-2021) Việt Nam đã tiến hành nhiều cuộc đối thoại trực tiếp với các thành viên khác tại các khóa họp, hội nghị cấp cao; phối hợp với một số nước và tổ chức quốc tế tổ chức sự kiện bên lề khóa họp hay hội nghị cấp cao nhằm thông tin, đối thoại về QCN (chẳng hạn, tại Khóa 31 Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc (tháng 3/2016), Việt Nam phối hợp với Australia tổ chức sự kiện bên lề Hội nghị cấp cao khóa 31 về bảo đảm quyền lao động của người khuyết tật. Tại khóa 32 (tháng 6/2016), phối hợp với Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) tổ chức sự kiện bên lề về đảm bảo môi trường làm việc an toàn cho người lao động trên biển; cùng với Bangladesh và Phillipines đồng tác giả Nghị quyết về tác động của Biến đổi khí hậu với quyền trẻ em (được thông qua bằng đồng thuận với hơn 110 nước đồng bảo trợ). Tại khóa 33 (tháng 9/2016), phối hợp với Mỹ, Australia, Phillipines, Trung Quốc và Tổ chức Di cư quốc tế (IOM) tổ chức sự kiện bên lề về nâng cao giáo dục trong phòng chống buôn bán phụ nữ và trẻ em gái[1]. Đặc biệt, việc lần thứ hai trúng cử thành viên Hội đồng Nhân quyền (nhiệm kỳ 2023-2025) đã mở rộng các kênh ĐT&ĐT, nâng vị thế và uy tín của Việt Nam trong lĩnh vực nhân quyền...

Tuy nhiên, bối cảnh toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế và sự bùng nổ của công nghệ thông tin đang đặt ra một số vấn đề mới cho công tác ĐT&ĐT trên lĩnh vực QCN ở Việt Nam hiện nay:

Thứ nhất, vấn đề đối thoại và đấu tranh trên lĩnh vực quyền con người trên không gian mạng

Do có tính mở, đa dạng, nhiều khi ranh giới giữa thực và ảo bị xoá mờ, không gian mạng đã và đang trở thành công cụ hàng đầu để các thế lực thù địch lợi dụng chống phá Đảng và Nhà nước. Chúng thường xuyên phát tán các thông tin xấu, độc trên nền tảng công nghệ thông tin, đăng nhiều bài viết xuyên tạc, bôi nhọ quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về QCN trên các trang mạng xã hộiĐiều này càng khiến ĐT&ĐT về QCN trên không gian mạng trở thành mặt trận quan trọng.

Thứ hai, năng lực của một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức trong đối thoại và đấu tranh trên lĩnh vực quyền con người chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế

Nhận thức, hiểu biết về quan điểm, chủ trương của Đảng, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước, cũng như pháp luật quốc tế về QCN của một bộ phận cán bộ làm công tác này còn yếu, chưa sâu, chưa toàn diện. Phương pháp, cách thức, nội dung ĐT&ĐT đặc biệt là các kỹ năng đối thoại; kỹ năng khai thác, nắm bắt, phân tích thông tin để lập luận phản bác luận điệu xuyên tạc của thế lực thù địch còn thiếu tính khoa học, chưa được tập huấn, rèn luyện nhiều... Những hạn chế này đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng ĐT&ĐT trên lĩnh vực QCN tại Việt Nam hiện nay.

Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đối thoại và đấu tranh trên lĩnh vực quyền con người

 Nhận thức được tầm quan trọng của đối thoại trên lĩnh vực QCN, ngày 12/7/1992 Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa VII đã ban hành Chỉ thị số 12-CT/TW về vấn đề quyền con người và quan điểm, chủ trương của Đảng. Chỉ thị nêu rõ: “Đối với những tổ chức và cá nhân, vì mục đích hoạt động thuần túy nhân đạo, từ thiện hoặc những người lâu nay có thiện chí với ta, nhưng vì thiếu thông tin chính xác hoặc ít nhiều bị sức ép của các thế lực phản động hoặc của nền chính trị nội bộ nước họ thì ta cần có thái độ chân thành, cởi mở, kiên trì giải thích, thuyết phục để tranh thủ họ đồng tình với ta...”

Như vậy, đối thoại trên lĩnh vực QCN được sử dụng với nhân dân, các tổ chức, cá nhân chưa hiểu đúng quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam về vấn đề này. Mục tiêu của đối thoại, trước tiên và chủ yếu là nhằm thực hiện, phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa trong toàn thể nhân dân, cảm hoá, gây dựng niềm tin trong nhân dân từ đó cô lập, làm thất bại hoàn toàn các âm mưu, thủ đoạn, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động. Cùng với đó, "thông qua đối thoại làm cho các nước hiểu đúng về quan điểm, thành tựu QCN ở Việt Nam, tăng cường sự đồng thuận, khắc phục và thu hẹp những vấn đề chưa đồng thuận, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các nước, các tổ chức quốc tế, nhân dân thế giới, và cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài,...”. Đối thoại trên lĩnh vực QCN phải được thực hiện trên cơ sở: Khoa học, dân chủ, xây dựng, thuyết phục lẫn nhau.

Đối với đấu tranh trên lĩnh vực QCN, Đảng xác định đối tượng là các phần tử phản động, “các lực lượng thù địch dùng vấn đề QCN với âm mưu chống phá ta”. Vì vậy, khác với đối thoại, mục tiêu của đấu tranh trên lĩnh vực QCN là làm thất bại các âm mưu, thủ đoạn sử dụng QCN như một công cụ để phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, xoá bỏ chế độ chính trị - xã hội ở Việt Nam của những đối tượng cố tình xuyên tạc, bôi nhọ chủ trương, chính sách về QCN của Đảng, Nhà nước. Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra yêu cầu khi đấu tranh: “cần phải phê phán vạch trần luận điệu và thủ đoạn xấu” của các thế lực thù địch, “tỉnh táo theo dõi, phân tích và có dự báo về những âm mưu, thủ đoạn mới của địch để chủ động kịp thời đấu tranh; hết sức tránh những sai lầm, sơ hở có thể bị địch lợi dụng xuyên tạc, thổi phồng để tập hợp lực lượng chống ta”; “thường xuyên nắm chắc tình hình, dự báo kịp thời âm mưu, phương thức, thủ đoạn hoạt động của các thế lực thù địch sử dụng vấn đề dân chủ, dân quyền để can thiệp, gây sức ép, chống phá ta, từ đó chủ động có chủ trương, đối sách đấu tranh vô hiệu hoá các hoạt động của chúng...”.

Khi tiến hành ĐT&ĐT trên lĩnh vực QCN, Chỉ thị 12 khẳng định: Phải có sự phân tích, đánh giá từng loại đối tượng, phân biệt đối tượng nào thì đối thoại, đối tượng nào kiên quyết phải đấu tranh, từ đó lựa chọn được phương thức đúng đắn, hiệu quả. Đối với công tác ĐT&ĐT trên lĩnh vực này, Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã đặt ra yêu cầu: "các cấp ủy đảng và chính quyền phải thường xuyên đối thoại, lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải quyết các khó khăn, vướng mắc, yêu cầu chính đáng của nhân dân; tin dân, tôn trọng, lắng nghe những ý kiến khác; có hình thức, cơ chế, biện pháp cụ thể, thích hợp để nhân dân bày tỏ chính kiến, nguyện vọng và thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể nhân dân”. Đồng thời, phải "kiên quyết đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu, hành động can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn định chính trị của đất nước”. Theo đó có thể thấy, giữa ĐT&ĐT có mối quan hệ khăng khít: Kết quả của đối thoại góp phần "tạo thế chủ động trong đấu tranh về quyền con người”. Nhận thức rõ điều này, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: "Sẵn sàng đối thoại với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực có liên quan về vấn đề nhân quyền. Kiên quyết làm thất bại các âm mưu, hành động xuyên tạc và lợi dụng các vấn đề "dân chủ", "nhân quyền", "dân tộc", tôn giáo hòng can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh và ổn định chính trị của Việt Nam”.