Thứ Tư, 5 tháng 4, 2023
PHÒNG CHỐNG PHAI NHẠT LÝ TƯỞNG CÁCH MẠNG TRONG MỘT BỘ PHẬN CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN
HỘI ĐỒNG NHÂN QUYỀN LIÊN HỢP QUỐC (LHQ) THÔNG QUA NGHỊ QUYẾT DO VIỆT NAM ĐỀ XUẤT
Việc Hội đồng Nhân quyền thông qua nghị quyết do Việt Nam soạn thảo cho thấy dấu ấn nổi bật của Việt Nam ngay trong khóa họp đầu tiên đảm nhận cương vị thành viên hội đồng này nhiệm kỳ 2023-2025.
Ngày 3/4 tại trụ sở Văn phòng Liên hợp quốc tại Geneva (Thụy Sĩ), Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc đã đồng thuận thông qua Nghị quyết kỷ niệm 75 năm Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền (UDHR) và 30 năm Tuyên bố và Chương trình hành động Vienna (VDPA) do Việt Nam đề xuất và soạn thảo.
Đây là dấu ấn nổi bật của Việt Nam ngay trong khóa họp đầu tiên đảm nhận cương vị thành viên Hội đồng Nhân quyền nhiệm kỳ 2023-2025.
Tại phiên họp cấp cao mở đầu Khóa họp 52 của Hội đồng Nhân quyền tại Geneva ngày 27/2 vừa qua, Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Lưu Quang đã đưa ra sáng kiến về việc kỷ niệm 75 năm Tuyên ngôn và 30 năm Tuyên bố nêu trên bằng một văn kiện của Hội đồng Nhân quyền nhằm khẳng định lại và tăng cường các nỗ lực cũng như hành động hướng tới đạt được những mục tiêu và giá trị lớn, bao trùm của hai văn kiện quan trọng nêu trên, cũng như các cam kết chung của cộng đồng quốc tế về quyền con người cho tất cả mọi người.
Nội dung Nghị quyết tập trung vào tầm quan trọng và nhiều nội dung tích cực của Tuyên ngôn và Tuyên bố nêu trên như nhắc lại các nguyên tắc chính về quyền con người của hai văn kiện; phản ánh quan tâm rộng rãi của các nước trong việc kỷ niệm hai văn kiện; nâng cao vị thế, vai trò, hiệu quả hoạt động của Hội đồng Nhân quyền và các cơ chế nhân quyền Liên hợp quốc; nhấn mạnh vai trò hàng đầu của các quốc gia trong bảo đảm quyền con người; ghi nhận sự tham gia của phụ nữ, vai trò của hợp tác và đoàn kết quốc tế, tôn trọng sự đa dạng, bao trùm... trong thúc đẩy và bảo vệ quyền con người nói chung và trong tham gia công việc của Hội đồng Nhân quyền nói riêng.
Nghị quyết cũng đề nghị Cao ủy Nhân quyền Liên hợp quốc triển khai chương trình hoạt động kỷ niệm Tuyên ngôn và Tuyên bố nêu trên, trong đó có sự kiện cấp cao của Liên hợp quốc về quyền con người vào tháng 12/2023 và có báo cáo về các hoạt động kỷ niệm lên Khóa họp 56 Hội đồng Nhân quyền vào đầu năm tới.
Nghị quyết này là một dấu ấn nổi bật của Việt Nam tại Khóa họp đầu tiên trên cương vị thành viên Hội đồng Nhân quyền nhiệm kỳ 2023-2025, thể hiện đóng góp thực chất, trách nhiệm của Việt Nam vào công việc của Hội đồng Nhân quyền.
Phái đoàn đại diện thường trực Việt Nam tại Geneva đã trực tiếp triển khai soạn thảo, tham vấn, thương lượng dự thảo Nghị quyết, sau khi Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Lưu Quang nêu sáng kiến tại Khóa họp.
Ngày 3/4, Hội đồng Nhân quyền đã thông qua Nghị quyết bằng đồng thuận, với sự tham gia đồng bảo trợ Nghị quyết của 98 nước (tính đến cuối giờ chiều ngày 3/4 giờ Geneva), bao gồm 14 nước đồng tác giả (Việt Nam, Áo, Bangladesh, Bỉ, Bolivia, Brazil, Chile, Costa Rica, Fiji, Ấn Độ, Panama, Romania, Nam Phi và Tây Ban Nha), đồng thời có 34 nước thành viên Hội đồng Nhân quyền, cả các nước phương Tây và nhiều nước đang phát triển từ cả 5 nhóm khu vực, trong đó có hầu hết các nước ASEAN.
Với nội dung như nêu trên, việc Nghị quyết được thông qua bằng đồng thuận, có sự đồng bảo trợ của 98 nước cho thấy Nghị quyết thể hiện sự quan tâm và ưu tiên chung của các nước và cộng đồng quốc tế, thu hút được sự hưởng ứng, tham gia ủng hộ của đông đảo các nước, được sự đánh giá cao của các bên.
Việc Việt Nam đề xuất Nghị quyết này tại Hội đồng Nhân quyền rất kịp thời, đáp ứng sự quan tâm của cộng đồng quốc tế về kỷ niệm và đề cao UDHR và VDPA, hai văn kiện quan trọng về quyền con người là nền tảng của khung khổ các công ước quốc tế, các cơ chế, đối thoại và hợp tác ở các cấp độ quốc tế, khu vực và quốc gia về quyền con người.
Nghị quyết này sẽ giúp tăng cường hơn nữa nỗ lực và hành động của các quốc gia và cộng đồng quốc tế trong hiện thực hóa các mục tiêu, tôn chỉ, cam kết hành động đề ra tại hai văn kiện trên, góp phần nâng cao vai trò của Hội đồng Nhân quyền, Cao ủy Nhân quyền Liên hợp quốc về thúc đẩy và bảo vệ quyền con người cho mọi người, thông qua đối thoại và hợp tác, tôn trọng và hiểu biết lẫn nhau.
Đây cũng là kết quả của những nỗ lực chủ động, sáng tạo và triển khai bài bản của Bộ Ngoại giao, Phái đoàn Việt Nam tại Geneva trong việc đưa ra sáng kiến Nghị quyết, soạn thảo nội dung, cũng như nỗ lực của đoàn Việt Nam trực tiếp tham vấn, vận động, thương lượng với các đoàn của các nước tại Geneva để đi đến nhất trí về nội dung dự thảo Nghị quyết bao gồm những nội dung tích cực, cân bằng sự quan tâm của các nước, trong bối cảnh các nước và các nhóm nước còn có quan điểm khác nhau trên các vấn đề cụ thể về quyền con người.
Bên cạnh đó, sự phối hợp tích cực của các Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài đã góp phần trong việc vận động các nước ủng hộ Nghị quyết.
Việc Việt Nam đề xuất, soạn thảo và thương lượng Nghị quyết này vừa là cụ thể hóa trách nhiệm, nỗ lực và ưu tiên của Việt Nam trên cương vị thành viên Hội đồng Nhân quyền nhiệm kỳ 2023-2025, đồng thời cũng là hiện thực hóa chính sách đối ngoại chủ động, tích cực, có trách nhiệm tham gia giải quyết các vấn đề quan tâm chung của cộng đồng quốc tế.
Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền (UDHR) được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 10/12/1948 với nội dung chính gồm: khẳng định mọi người sinh ra tự do, bình đẳng, không phân biệt, khẳng định các quyền của con người như quyền sống, quyền được xét xử công bằng, không bị tra tấn, không phải làm nô lệ và các quyền khác trong các lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa.
Tuy không phải là văn kiện pháp lý quốc tế nhưng UDHR là nền tảng để xây dựng luật quốc tế về nhân quyền, trong đó có Công ước về các quyền dân sự, chính trị và Công ước về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa; cũng như được đưa vào các văn kiện về quyền con người của các cơ chế khu vực và vào pháp luật của các quốc gia.
Ngày 10/12 sau này trở thành Ngày Nhân quyền quốc tế. Đây là một trong những văn kiện quan trọng nhất của thế kỷ 20, được tất cả các nước thông qua và đã trở thành nền tảng để các quốc gia, trong đó có Việt Nam sử dụng trong quá trình xây dựng các văn kiện liên quan đến việc bảo vệ quyền con người.
Tuyên bố và Chương trình hành động Vienna (VDPA) được các nước thành viên Liên hợp quốc thông qua năm 1993, tại hội nghị quốc tế về Nhân quyền được tổ chức tại Vienna.
VDPA khẳng định lại các giá trị của UDHR, đồng thời làm rõ việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người phải là ưu tiên cao nhất của mỗi quốc gia và cộng đồng quốc tế; nhấn mạnh trong khi cần tính tới các đặc thù của mỗi quốc gia, xã hội, các quyền con người cần được nhìn nhận là giá trị phổ quát, cần được đánh giá trong mỗi quan hệ cân bằng, phụ thuộc lẫn nhau.
VDPA cũng khẳng định vai trò của Liên hợp quốc trong thúc đẩy quyền con người trên thế giới và khởi động cho việc thành lập Cao ủy Nhân quyền Liên hợp quốc.
ĐẠI TÁ, ANH HÙNG LLVT PHẠM NGỌC THẢO - NGƯỜI ĐIỆP VIÊN HUYỀN THOẠI
Lịch sử tình báo thế giới đã lưu danh rất nhiều điệp viên huyền thoại, nhưng nhiệm vụ mà nhà tình báo cách mạng Phạm Ngọc Thảo đã làm, đến nay vẫn được coi là “có một không hai”. Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã từng nhận định: “Anh Phạm Ngọc Thảo đã nhận một nhiệm vụ đặc biệt, chưa từng có tiền lệ trong công tác cách mạng của chúng ta”.
Trong cuốn sách “Điệp viên hoàn hảo”, nhà sử học người Mỹ Larry Berman đã dẫn lời điệp viên Phạm Xuân Ẩn: “Nhiệm vụ được giao cho Phạm Ngọc Thảo khác với nhiệm vụ của tôi. Ông ấy có nhiệm vụ làm mất ổn định của chế độ Diệm và vạch âm mưu đảo chính, còn tôi là một nhà tình báo chiến lược. Nhiệm vụ của ông Phạm Ngọc Thảo nguy hiểm hơn nhiệm vụ của tôi rất nhiều”.
Đại tá, Anh hùng LLVT nhân dân Phạm Ngọc Thảo là tấm gương thầm lặng hy sinh, trung thành với lý tưởng cách mạng đến phút giây cuối cùng. Đối với kẻ thù, khi tra tấn Phạm Ngọc Thảo đến chết, chúng vẫn không hay biết ông là điệp viên cộng sản. Ông được đồng bào, chiến sĩ cả nước biết đến nhiều hơn sau khi nhà văn Nguyễn Trương Thiên Lý viết tác phẩm “Ván bài lật ngửa” mà Phạm Ngọc Thảo là nguyên mẫu nhân vật chính.
"TÔI LÀ MỘT VỊ TƯỚNG VÀ LÀ MỘT NHÀ BÁO"
Trong lịch sử báo chí Cách mạng Việt Nam gần một thế kỷ qua, từ Chủ tịch Hồ Chí Minh cho đến các nhà lãnh đạo cao nhất của Đảng, Nhà nước, Chính phủ và Quân đội như Tổng Bí thư Trường Chinh, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp,... đều là những người thông tuệ nghề báo. Trong một lần tiếp các nhà báo, Đại tướng Võ Nguyên Giáp tâm sự: “Tôi là một vị tướng và là một nhà báo!”.
Nhà báo - Đại tướng Tổng Tư lệnh
“Làm một số báo cũng giống như tổ chức một trận đánh hiệp đồng. Công việc phải khẩn trương, nắm được ý nguyện của nhân dân, phát hiện được ý đồ, âm mưu lớn nhỏ của kẻ thù. Tất cả nhằm đến phương án tốt nhất trong việc phục vụ công chúng báo chí”. Trong một bài viết tổng kết 15 năm làm báo trước Cách mạng Tháng Tám 1945, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã viết về nghề làm báo như vậy.
Suốt chặng đường cách mạng, đôi vai nặng gánh việc nước, việc quân, hàng chục năm tham gia Bộ Chính trị, đảm nhiệm cương vị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng-Tổng Tư lệnh Quân đội, nhưng Đại tướng Võ Nguyên Giáp vẫn luôn quan tâm, sử dụng báo chí để đem lại hiệu quả lớn lao trong mọi thời kỳ, ở mọi tình huống.
Trả lời câu hỏi của các đồng nghiệp thế hệ sau thời gian làm báo ở tại mặt trận Điện Biên Phủ (1954) về bút danh Chính Nghĩa-tác giả của nhiều bài bình luận mang nội dung nhận định đúng đắn tình hình địch-ta, dự đoán các tình huống chính trị-quân sự phát triển trên các chiến trường mà trực tiếp là Điện Biên Phủ rất chính xác… nhà báo Trần Kư cho biết đó là ông Hoàng Xuân Tùy.
Những bài bình luận có sức hút đối với cán bộ, chiến sĩ tại mặt trận hào hứng đọc và củng cố thêm niềm tin vào chiến thắng, đồng thời mở rộng nhãn quan chiến lược trong chiến đấu. Ông Hoàng Xuân Tùy, nguyên Tổng biên tập Báo Quân đội nhân dân (1953-1956) thẳng thắn bày tỏ: “Các bài đó do tôi chấp bút, nhưng tư tưởng, cái hồn của bài viết là của Đại tướng-Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp”.
Theo Đại tướng Võ Nguyên Giáp: “Thời điểm ra báo là quan trọng. Khó hơn là làm nghệ thuật. Nghĩa là làm báo phải đúng lúc, chính xác, chặt chẽ, đem lại hiệu quả cho bạn đọc. Những bài chính, phụ, ngắn, dài, nặng, nhẹ phải kết hợp hài hòa như những màu sắc của tác phẩm hội họa. Những chữ lớn, nhỏ, đứng, nghiêng... đều toát lên vai trò và hiệu quả riêng”.
Riêng với các tờ báo của Quân đội, từ khi còn ở chiến khu Việt Bắc thời điểm cách mạng còn trứng nước, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã làm chủ bút và chỉ đạo biên tập 5 số đầu tiên (từ ngày 20 tháng 6 đến ngày 5 tháng 8 năm 1945) của báo Nước Nam mới thuộc Khu Giải phóng. Ông viết bài chỉ đạo cho báo Việt Nam Độc lập của Mặt trận Việt Minh khu căn cứ địa. Ông cho ra đời tờ Quân Giải phóng của Việt Nam Giải phóng quân… Khi viết bài cho các tờ báo này, ông thường ký tên là Trí Dũng. Sau hòa bình lập lại (1954) đến mãi sau này, cả lúc tuổi đã cao, sức yếu, Nhà báo - Đại tướng Võ Nguyên Giáp vẫn đều đặn viết nhiều bài báo...
Báo chí có thể chuyển biến con người
Đại tướng Võ Nguyên Giáp là người làm báo rất sớm. Nhà nghiên cứu Nguyễn Thành (1928-2007) khi xuất bản cuốn sách về sự nghiệp báo chí của Đại tướng Võ Nguyên Giáp cho biết, từ năm 16 tuổi, cậu học trò Trường Quốc học Huế là Võ Nguyên Giáp đã viết bài báo đầu tiên với tựa đề “Đả đảo tên bạo chúa trường Quốc học” đăng trên báo L’Annau ở Sài Gòn vào tháng 6 năm 1927. Ngay khi đọc bài báo này, luật sư Phan Văn Trường - chủ bút báo khi đó phải thốt lên “Một cây bút mới xuất hiện lần đầu ở bản xứ này, mà có giọng văn sắc sảo như giọng văn Nguyễn Ái Quốc bên Paris”.
Hai năm sau, vì tham gia bãi khóa, phản đối nhà trường đuổi học Nguyễn Chí Diểu nên Võ Nguyên Giáp cũng bị đuổi khỏi Trường Quốc học Huế. Ông xin làm việc tại tòa báo Tiếng Dân của cụ Huỳnh Thúc Kháng (tháng 4 năm 1927) và hoạt động báo chí chuyên nghiệp từ đó.
Bài viết khởi đầu trên báo Tiếng Dân ra ngày 28-9-1929, với bút danh Vân Đình, tiêu đề “Vũ trụ và tiến hóa”. Võ Nguyên Giáp phân tích thời cuộc một cách tỉnh táo và nghiêm túc. Ông trở thành một cây bút chính phụ trách chuyên mục “Thế giới thời đàm” trên tờ báo này với 27 bài đăng trên 36 số ký bút danh Vân Đình.
Từ Huế, ra Hà Nội, vừa học vừa đi dạy học tư để học lên, vừa viết báo để tuyên truyền cho cách mạng. Ông nhận thấy trở ngại lớn nhất của báo chí tiếng Việt lúc đó là khó xin cấp phép ra báo. Khi ra được báo rồi lại bị kiểm duyệt ngặt nghèo hoặc nhanh chóng bị đóng cửa. Chính quyền thực dân lúc đó để ngỏ cho báo chí tiếng Pháp được tự do, Võ Nguyên Giáp đã cùng các đồng nghiệp Nguyễn Thế Rục, Phan Tư Nghĩa, Vũ Đình Huỳnh… ra tờ báo bằng tiếng Pháp mang tên Le Travail (Lao Động); tiếp đến là tờ Le Travail ra đời.
Vừa dạy học tư ở trường tư thục Thăng Long, Võ Nguyên Giáp vừa nhận làm mọi công đoạn của tờ báo. Ông viết nhiều thể loại từ xã luận, bình luận, phóng sự đến điều tra. Ông đã đạp xe từ Hà Nội ra khu mỏ Cẩm Phả tỉnh Quảng Yên (nay là tỉnh Quảng Ninh) để viết bài về phong trào đấu tranh của công nhân mỏ. Ông trực tiếp duyệt bài, lên marquette, đọc cả morasse của tờ báo và làm cả phát hành báo mà không hề nhận tiền nhuận bút, tiền phụ cấp. Tại Hội nghị Báo giới Bắc Kỳ, Võ Nguyên Giáp được bầu làm Chủ tịch Hội.
Đều đặn viết báo khi còn công tác cho cả đến khi nghỉ hưu, trước những vấn đề thời sự của đất nước và Quân đội ông vẫn kịp thời có bài viết để thể hiện quan điểm cá nhân của mình. Trong một lần tiếp các nhà báo, Đại tướng Võ Nguyên Giáp tâm sự:
“Tôi với tư cách là một vị tướng của Quân đội nhân dân Việt Nam, và là một nhà báo, tôi rất vui mừng và cảm động được các nhà báo đến thăm, chúc mừng và nhắc lại một thời làm báo của tôi. Báo chí là một lực lượng mạnh, có thể tạo nên sự chuyển biến con người. Báo chí phải tích cực tham gia vào công tác tư tưởng, xây dựng Đảng, đào tạo cán bộ, phổ biến kiến thức mới trong nhân dân, trên cơ sở đó xây dựng một nước Việt Nam anh hùng nhưng giàu có”.
Trong một dịp khác, Đại tướng Võ Nguyên Giáp chia sẻ: “Nghề báo là phải lao tâm, tổn trí, gian khổ. Nhưng được đền bù là người đọc”.
DÂNG HOA TƯỞNG NHỚ 116 NĂM NGÀY SINH TỔNG BÍ THƯ LÊ DUẨN
Nhân kỷ niệm 116 năm Ngày sinh Tổng Bí thư Lê Duẩn (7/4/1907 - 7/4/2023), sáng 5/4, tỉnh Quảng Trị đã tổ chức Lễ dâng hoa tại Tượng đài Lê Duẩn thuộc Công viên Lê Duẩn, thành phố Đông Hà.
Tại buổi lễ, trong không khí trang nghiêm, đại diện lãnh đạo tỉnh Quảng Trị cùng đông đảo cán bộ, công nhân, viên chức, người dân trên địa bàn đã dâng hoa và dành một phút mặc niệm tưởng nhớ những cống hiến to lớn, thể hiện sự biết ơn sâu sắc đối với Tổng Bí thư Lê Duẩn - người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà lãnh đạo kiệt xuất của cách mạng Việt Nam, người con ưu tú của quê hương Quảng Trị anh hùng.
Đồng chí Lê Duẩn, tên thật là Lê Văn Nhuận, sinh ngày 7/4/1907 ở làng Bích La, xã Triệu Đông, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Xuất thân từ một gia đình lao động, có truyền thống yêu nước, đồng chí sớm giác ngộ cách mạng, hưởng ứng lời kêu gọi của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đi theo con đường cách mạng vô sản. Đồng chí Lê Duẩn đã tham gia phong trào yêu nước từ năm 1926, tham gia và hoạt động trong Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên từ năm 1928 và đến năm 1930 trở thành một trong những đảng viên lớp đầu tiên của Đảng Cộng sản Đông Dương.
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, trên các cương vị quan trọng của Đảng từ sau khi Đảng ra đời, với 26 năm liên tục ở cương vị Bí thư thứ nhất, Tổng Bí thư của Đảng (1960 - 1986), Tổng Bí thư Lê Duẩn cùng với Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương xác định những đường lối, chính sách của các cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động khác, cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh của nhân dân thế giới chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân giành độc lập, tự do…
Đối với Quảng Trị, Tổng Bí thư Lê Duẩn luôn dành cho quê hương một tình yêu sâu nặng, ân tình; đồng thời luôn động viên, nhắn nhủ đến Đảng bộ và nhân dân phát huy hơn nữa đức tính cần cù, dũng cảm, sức mạnh làm chủ tập thể, nỗ lực góp phần đưa kinh tế - xã hội ngày càng phát triển mạnh hơn…/.
SUY NGẪM: QUAN ĐIỂM ĐA NGUYÊN, ĐA ĐẢNG, BẢN CHẤT VÀ THỦ ĐOẠN PHẢN ĐỘNG!
VIETTEL ĐÃ HOÀN THÀNH CHIẾN LƯỢC VIỆT NAM HÓA MẠNG LÕI VIỄN THÔNG, BẢO ĐẢM YÊU CẦU VỀ AN NINH AN TOÀN THÔNG TIN!
CHA ÔNG TA GIỮ NƯỚC: BẢN THÔNG CÁO ĐẶC BIỆT NGÀY CHIẾN THẮNG 30-4-1975!
"TỚI CÔNG CHUYỆN" LÀ SẼ LỘ MẶT HẾT BÈ LŨ CHUỘT BỌ!
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả đối thoại và đấu tranh trên lĩnh vực quyền con người trong tình hình mới ở Việt Nam hiện nay
Thứ nhất, kiên định quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về quyền con người
Trong những năm qua, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước là cốt lõi, là căn cứ quan trọng trong ĐT&ĐT các luận điệu sai sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch về vấn đề QCN. Do đó, để nâng cao hiệu quả trong công tác này thì “trước hết, cần nắm vững những quan điểm cơ bản của Đảng ta về quyền con người”[2, tr.12]. Đồng thời, cả hệ thống chính trị; các cấp, các ngành, địa phương, đơn vị cần tích cực và chủ động thực hiện Chỉ thị 44-CT/TW ngày 20/7/2010 về công tác nhân quyền trong tình hình mới. Chỉ thị nhấn mạnh: Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục cán bộ, đảng viên và nhân dân để mọi người nhận thức sâu sắc hơn về quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về QCN, quyền và nghĩa vụ của công dân, nhận rõ bản chất tốt đẹp của chế độ ta là vì con người[2, tr.104].
Trong bối cảnh mới hiện nay, các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề nhân quyền dưới nhiều thủ đoạn phức tạp, biến đổi nhanh chóng. Vì vậy, ĐT&ĐT trên lĩnh vực QCN càng phải tích cực, chủ động, có cách thức ĐT&ĐT mềm dẻo, linh hoạt, vừa đối thoại để đấu tranh, vừa đấu tranh nhưng thông qua kết quả đó cũng phục vụ cho đối thoại. Thông qua đó tích cực chuyển từ tham dự sang chủ động tham gia đóng góp hoặc tham gia kiến tạo thể chế hợp tác quốc tế trên lĩnh vực QCN, tạo điều kiện và nâng tầm vị thế cho Việt Nam trong việc kiên quyết bảo vệ quan điểm, lập trường, lợi ích quốc gia-dân tộc và đấu tranh ngăn chặn hiệu quả với các hoạt động lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền để can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta.
Thứ hai, tiếp tục tăng cường bảo đảm, bảo vệ quyền con người trong thực tế
Trước hết, cần tăng cường nghiên cứu, tổng kết thực tiễn triển khai chính sách, pháp luật về bảo đảm QCN “phát hiện và khắc phục kịp thời những thiếu sót, khuyết điểm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện các quyền con người được pháp luật quy định”[2, tr.105], từ đó ngày càng hoàn thiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Song song với việc quán triệt quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về QCN, cần tăng cường công tác nghiên cứu khoa học về QCN để có cơ sở lý luận cho công tác ĐT&ĐT về nhân quyền. Đồng thời, tiếp tục tôn trọng và thúc đẩy các QCN, coi con người là mục tiêu và động lực của mọi chính sách phát triển kinh tế-xã hội như Chỉ thị 44-CT/TW về công tác nhân quyền trong tình hình mới đã khẳng định: “Đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, không ngừng cải thiện đời sống nhân dân, đảm bảo an sinh xã hội và các quyền của công dân”[2, tr.105].
Thứ ba, nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác đối thoại và đấu tranh trên lĩnh vực quyền con người
Trước hết, cần rèn luyện kỹ năng tuyên truyền về quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về QCN cho đội ngũ cán bộ làm công tác này. Thường xuyên tổ chức hội nghị tập huấn bồi dưỡng các kỹ năng, trao đổi kinh nghiệm đối thoại, đấu tranh, tuyên truyền nhằm kịp thời cung cấp thông tin và trang bị kỹ năng, nghiệp vụ. Đồng thời, tiếp tục lựa chọn và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác ĐT&ĐT có năng lực chuyên môn về QCN, có lập trường tư tưởng chính trị vững vàng, có ý chí chiến đấu bảo vệ chủ trương, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Chú trọng xây dựng lực lượng ĐT&ĐT trên không gian mạng gồm các nhà báo, giảng viên, nghiên cứu viên, các cán bộ, đảng viên, hưu trí, lão thành cách mạng. Đồng thời, cần phải có cơ chế, chính sách đãi ngộ cho đội ngũ viết bài, cộng tác viên tuyên truyền song song với các chính sách thu hút, tuyển chọn, đào tạo nguồn nhân lực có năng lực và kinh nghiệm trong ĐT&ĐT trên lĩnh vực QCN.
Tài liệu tham khảo:
[1] Nguyễn Thế Anh (2021), Đối thoại và đấu tranh trên lĩnh vực quyền con người tại các diễn đàn của Liên hợp quốc, http://qcn.ciks.vn
[2] Ban Chỉ đạo Nhân quyền của Chính phủ, Văn phòng Thường trực (2012), Tài liệu tổng kết Chỉ thị số 12 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về "Vấn đề quyền con người và quan điểm, chủ trương của Đảng ta", Nxb. Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
Thực tiễn công tác đối thoại và đấu tranh trên lĩnh vực quyền con người ở Việt Nam hiện nay
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, công tác ĐT&ĐT trên lĩnh vực QCN ở Việt Nam thời gian vừa qua đã thể hiện sự chủ động, tích cực và được triển khai, thực hiện trên nhiều phương diện. Năm 2005, Việt Nam lần đầu tiên công bố Sách trắng về "Thành tựu bảo vệ và phát triển quyền con người ở Việt Nam". Đến năm 2018, Sách trắng được gắn với chủ đề “Bảo vệ và thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam” đã khẳng định: Trong thời gian qua, Việt Nam không ngừng nỗ lực hoàn thiện hệ thống pháp luật và bảo đảm thực thi pháp luật về QCN trên mọi khía cạnh; bảo đảm các quyền và tự do của người dân theo đúng các chuẩn mực quốc tế...
Đối với các nghĩa vụ quốc gia, Việt Nam thường xuyên chủ động xây dựng các báo cáo, trả lời đúng hạn các kháng thư của cơ chế Liên hợp quốc như Báo cáo định kỳ phổ quát (UPR), các báo cáo giữa kỳ tự nguyện... Một số báo, đài, tạp chí chủ lực ở Trung ương, địa phương đã xây dựng, duy trì chuyên trang, chuyên mục đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa nói chung và QCN nói riêng; viết, đăng tải hàng nghìn tin, bài, tập trung đấu tranh phản bác các thông tin bịa đặt, xuyên tạc về bảo đảm QCN ở Việt Nam.
Trong những năm qua, Việt Nam đã tích cực tham gia các cuộc đối thoại song phương, đa phương, các hội nghị, diễn đàn và cơ chế quốc tế cũng như khu vực về nhân quyền, để vừa cung cấp thông tin chính sách, pháp luật và thành tựu nhân quyền của Việt Nam, vừa vận động, bày tỏ thiện chí đối thoại, hợp tác, đồng thời kiên quyết đấu tranh nhằm vào từng đối tượng cụ thể để tranh thủ sự ủng hộ quốc tế và phân hóa lực lượng. Với việc trúng cử vào các vị trí quan trọng trong Liên hợp quốc như Hội đồng Nhân quyền (nhiệm kỳ 2014-2016), Hội đồng Kinh tế-Xã hội (nhiệm kỳ 2016-2018), Hội đồng Bảo an (nhiệm kỳ 2020-2021) Việt Nam đã tiến hành nhiều cuộc đối thoại trực tiếp với các thành viên khác tại các khóa họp, hội nghị cấp cao; phối hợp với một số nước và tổ chức quốc tế tổ chức sự kiện bên lề khóa họp hay hội nghị cấp cao nhằm thông tin, đối thoại về QCN (chẳng hạn, tại Khóa 31 Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc (tháng 3/2016), Việt Nam phối hợp với Australia tổ chức sự kiện bên lề Hội nghị cấp cao khóa 31 về bảo đảm quyền lao động của người khuyết tật. Tại khóa 32 (tháng 6/2016), phối hợp với Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) tổ chức sự kiện bên lề về đảm bảo môi trường làm việc an toàn cho người lao động trên biển; cùng với Bangladesh và Phillipines đồng tác giả Nghị quyết về tác động của Biến đổi khí hậu với quyền trẻ em (được thông qua bằng đồng thuận với hơn 110 nước đồng bảo trợ). Tại khóa 33 (tháng 9/2016), phối hợp với Mỹ, Australia, Phillipines, Trung Quốc và Tổ chức Di cư quốc tế (IOM) tổ chức sự kiện bên lề về nâng cao giáo dục trong phòng chống buôn bán phụ nữ và trẻ em gái[1]. Đặc biệt, việc lần thứ hai trúng cử thành viên Hội đồng Nhân quyền (nhiệm kỳ 2023-2025) đã mở rộng các kênh ĐT&ĐT, nâng vị thế và uy tín của Việt Nam trong lĩnh vực nhân quyền...
Tuy nhiên, bối cảnh toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế và sự bùng nổ của công nghệ thông tin đang đặt ra một số vấn đề mới cho công tác ĐT&ĐT trên lĩnh vực QCN ở Việt Nam hiện nay:
Thứ nhất, vấn đề đối thoại và đấu tranh trên lĩnh vực quyền con người trên không gian mạng
Do có tính mở, đa dạng, nhiều khi ranh giới giữa thực và ảo bị xoá mờ, không gian mạng đã và đang trở thành công cụ hàng đầu để các thế lực thù địch lợi dụng chống phá Đảng và Nhà nước. Chúng thường xuyên phát tán các thông tin xấu, độc trên nền tảng công nghệ thông tin, đăng nhiều bài viết xuyên tạc, bôi nhọ quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về QCN trên các trang mạng xã hội. Điều này càng khiến ĐT&ĐT về QCN trên không gian mạng trở thành mặt trận quan trọng.
Thứ hai, năng lực của một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức trong đối thoại và đấu tranh trên lĩnh vực quyền con người chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế
Nhận thức, hiểu biết về quan điểm, chủ trương của Đảng, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước, cũng như pháp luật quốc tế về QCN của một bộ phận cán bộ làm công tác này còn yếu, chưa sâu, chưa toàn diện. Phương pháp, cách thức, nội dung ĐT&ĐT đặc biệt là các kỹ năng đối thoại; kỹ năng khai thác, nắm bắt, phân tích thông tin để lập luận phản bác luận điệu xuyên tạc của thế lực thù địch còn thiếu tính khoa học, chưa được tập huấn, rèn luyện nhiều... Những hạn chế này đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng ĐT&ĐT trên lĩnh vực QCN tại Việt Nam hiện nay.
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đối thoại và đấu tranh trên lĩnh vực quyền con người
Nhận thức được tầm quan trọng của đối thoại trên lĩnh vực QCN, ngày 12/7/1992 Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa VII đã ban hành Chỉ thị số 12-CT/TW về vấn đề quyền con người và quan điểm, chủ trương của Đảng. Chỉ thị nêu rõ: “Đối với những tổ chức và cá nhân, vì mục đích hoạt động thuần túy nhân đạo, từ thiện hoặc những người lâu nay có thiện chí với ta, nhưng vì thiếu thông tin chính xác hoặc ít nhiều bị sức ép của các thế lực phản động hoặc của nền chính trị nội bộ nước họ thì ta cần có thái độ chân thành, cởi mở, kiên trì giải thích, thuyết phục để tranh thủ họ đồng tình với ta...”
Như vậy, đối thoại trên lĩnh vực QCN được sử dụng với nhân dân, các tổ chức, cá nhân chưa hiểu đúng quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam về vấn đề này. Mục tiêu của đối thoại, trước tiên và chủ yếu là nhằm thực hiện, phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa trong toàn thể nhân dân, cảm hoá, gây dựng niềm tin trong nhân dân từ đó cô lập, làm thất bại hoàn toàn các âm mưu, thủ đoạn, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động. Cùng với đó, "thông qua đối thoại làm cho các nước hiểu đúng về quan điểm, thành tựu QCN ở Việt Nam, tăng cường sự đồng thuận, khắc phục và thu hẹp những vấn đề chưa đồng thuận, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các nước, các tổ chức quốc tế, nhân dân thế giới, và cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài,...”. Đối thoại trên lĩnh vực QCN phải được thực hiện trên cơ sở: Khoa học, dân chủ, xây dựng, thuyết phục lẫn nhau.
Đối với đấu tranh trên lĩnh vực QCN, Đảng xác định đối tượng là các phần tử phản động, “các lực lượng thù địch dùng vấn đề QCN với âm mưu chống phá ta”. Vì vậy, khác với đối thoại, mục tiêu của đấu tranh trên lĩnh vực QCN là làm thất bại các âm mưu, thủ đoạn sử dụng QCN như một công cụ để phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, xoá bỏ chế độ chính trị - xã hội ở Việt Nam của những đối tượng cố tình xuyên tạc, bôi nhọ chủ trương, chính sách về QCN của Đảng, Nhà nước. Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra yêu cầu khi đấu tranh: “cần phải phê phán vạch trần luận điệu và thủ đoạn xấu” của các thế lực thù địch, “tỉnh táo theo dõi, phân tích và có dự báo về những âm mưu, thủ đoạn mới của địch để chủ động kịp thời đấu tranh; hết sức tránh những sai lầm, sơ hở có thể bị địch lợi dụng xuyên tạc, thổi phồng để tập hợp lực lượng chống ta”; “thường xuyên nắm chắc tình hình, dự báo kịp thời âm mưu, phương thức, thủ đoạn hoạt động của các thế lực thù địch sử dụng vấn đề dân chủ, dân quyền để can thiệp, gây sức ép, chống phá ta, từ đó chủ động có chủ trương, đối sách đấu tranh vô hiệu hoá các hoạt động của chúng...”.
Khi tiến hành ĐT&ĐT trên lĩnh vực QCN, Chỉ thị 12 khẳng định: Phải có sự phân tích, đánh giá từng loại đối tượng, phân biệt đối tượng nào thì đối thoại, đối tượng nào kiên quyết phải đấu tranh, từ đó lựa chọn được phương thức đúng đắn, hiệu quả. Đối với công tác ĐT&ĐT trên lĩnh vực này, Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã đặt ra yêu cầu: "các cấp ủy đảng và chính quyền phải thường xuyên đối thoại, lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải quyết các khó khăn, vướng mắc, yêu cầu chính đáng của nhân dân; tin dân, tôn trọng, lắng nghe những ý kiến khác; có hình thức, cơ chế, biện pháp cụ thể, thích hợp để nhân dân bày tỏ chính kiến, nguyện vọng và thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể nhân dân”. Đồng thời, phải "kiên quyết đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu, hành động can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn định chính trị của đất nước”. Theo đó có thể thấy, giữa ĐT&ĐT có mối quan hệ khăng khít: Kết quả của đối thoại góp phần "tạo thế chủ động trong đấu tranh về quyền con người”. Nhận thức rõ điều này, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: "Sẵn sàng đối thoại với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực có liên quan về vấn đề nhân quyền. Kiên quyết làm thất bại các âm mưu, hành động xuyên tạc và lợi dụng các vấn đề "dân chủ", "nhân quyền", "dân tộc", tôn giáo hòng can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh và ổn định chính trị của Việt Nam”.










