Thứ Bảy, 2 tháng 11, 2024
VIỆT TÂN XUYÊN TẠC VIỆC ĐỔI MỚI QUY CHẾ BẦU CỬ TRONG ĐẢNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM!
Bóc trần luận điệu xuyên tạc của RFA về Nghị định 126/NĐ-CP .
Ngày 8/10/2024, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 126/2024/NĐ-CP “Quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội”. Nghị định 126 ra đời không những đáp ứng nguyện vọng chính đáng của các tầng lớp nhân dân mong muốn được thành lập hội, mà còn tạo ra môi trường lành mạnh cho các hội phát triển, phù hợp với tình hình thực tiễn của Việt Nam. Ấy vậy nhưng, các đài truyền thông “rận chủ”, trong đó có Đài Á Châu Tự Do (RFA) - một gương mặt không còn xa lạ gì trong giới “rận chủ” - theo thói thường lại ra sức “góp ý”, “phản biện” về Nghị định này. Chúng cho rằng: Nghị định 126 của Chính phủ là sự gia tăng sự kiểm soát của Nhà nước, hạn chế sự phát triển của các tổ chức xã hội độc lập và quyền tự do lập hội, phản đối các quy định: Phải chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước, không được vi phạm “thuần phong mỹ tục”, “truyền thống văn hóa dân tộc”… Điểm qua vài “góp ý”, “phản biện” này của Rfa thì thấy rõ bản chất và năng lực “thượng thừa” của chúng trong việc xuyên tạc, vu khống, đánh tráo khái niệm.
Có thể khẳng định, Nghị định 126/2024/NĐ-CP là văn bản quan trọng nhằm tạo ra khung pháp lý cho việc tổ chức, hoạt động và quản lý các hội tại Việt Nam. Đây là bước tiến cần thiết để cải thiện tính minh bạch, trách nhiệm và hiệu quả trong hoạt động của các hội. Nghị định 126 cung cấp các quy định rõ ràng hơn về quyền hạn, trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước và ban lãnh đạo các hội. Điều này giúp giảm thiểu các hành vi tiêu cực, lạm dụng quyền lực và đảm bảo hoạt động hội diễn ra đúng với tôn chỉ, mục đích ban đầu. Với các quy định mới về việc công khai tài chính và nguồn tài trợ, nghị định giúp các hội duy trì sự minh bạch và tạo niềm tin với các bên liên quan. Qua đó giúp ngăn ngừa các hành vi tham nhũng, lợi dụng nguồn lực cộng đồng, đồng thời cũng mở ra cơ hội cho các hội tiếp cận với các nguồn lực từ nhà nước và quốc tế. Nghị định 126 tạo điều kiện thuận lợi cho các cá nhân, tổ chức tham gia vào các hoạt động hội, từ đó đóng góp cho sự phát triển cộng đồng, đặc biệt trong các lĩnh vực văn hóa, xã hội và môi trường. Nghị định cũng là công cụ để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của hội viên và giúp các hội phát triển bền vững. Có thể thấy rõ rằng, việc có khung pháp lý rõ ràng sẽ tạo niềm tin cho cộng đồng và nâng cao uy tín của các hội trong xã hội.
Thế nên, ý kiến cho rằng Nghị định 126 “hạn chế quyền tự do lập hội” là điều xuyên tạc, bịa đặt trắng trợn. Trên thực tế, nghị định này không cấm hoặc hạn chế quyền lập hội của công dân mà chỉ yêu cầu các tổ chức, cá nhân thực hiện quyền này một cách hợp pháp. Tới đây, thì lại có ý kiến phản đối quy định các hội phải chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước - một ý kiến thể hiện sự thiếu hiểu biết và sự “thiên vị” đến cùng cực của Rfa. Thử hỏi trên quả đất này, có tổ chức hay cá nhân nào sống và làm việc ở 1 đất nước lại không phải tuân thủ theo luật lệ của nước đó? Hay Rfa thích sống “hoang dã”, ngoài vòng pháp luật chăng? Việc chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước - bao gồm cả việc đảm bảo không vi phạm các chuẩn mực văn hóa, thuần phong mỹ tục của Việt Nam - là điều hiển nhiên đối với mỗi tổ chức, cá nhân hoạt động trong lãnh thổ Việt Nam. Việc đề ra những quy định về quản lý nhằm bảo đảm các hội hoạt động minh bạch, không vi phạm pháp luật và phù hợp với lợi ích chung của xã hội. Điều này vừa bảo vệ quyền lợi của công dân tham gia hội, vừa đảm bảo trật tự và an ninh quốc gia.
Thực tế, thời gian qua, các thế lực thù địch, các hội, nhóm phản động, chống đối triệt để lợi dụng mạng xã hội để đẩy mạnh các hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước. Chúng tạo lập các hội, nhóm trên danh nghĩa phản biện xã hội, đấu tranh vì dân chủ nhân quyền, chống tham nhũng như “Hội ACE Chống Tham Nhũng & Bất Công”, “Nhóm ACE yêu chuộng Tự - Do Dân - Chủ”, “Trại Cháu Bác Hồ”… với cách đặt tên các hội, nhóm… ly kỳ, giật gân để để thu hút người theo dõi, tham gia, nhất là đối tượng thanh thiếu niên, thực chất bên trong các hội, nhóm đó lại là những bài viết phản động, chống đối, hình ảnh, video có nội dung độc hại nhằm tuyên truyền, phá hoại tư tưởng, thúc đẩy tự diễn biến, tự chuyển hóa, gây chia rẽ đoàn kết nội bộ, tập hợp lực lượng, hình thành tổ chức chính trị đối lập, thúc đẩy âm mưu diễn biến hòa bình… chống phá Đảng, Nhà nước… Do vậy, Nghị định 126 đặt ra yêu cầu quản lý chặt chẽ, nhằm tránh tình trạng lợi dụng hội để hoạt động phi pháp, gây thiệt hại về kinh tế và an ninh cho xã hội. Đây là biện pháp cần thiết để bảo vệ quyền lợi của người dân và đảm bảo các hội nhóm hoạt động lành mạnh, công khai, đồng thời là một công cụ pháp lý giúp Nhà nước có căn cứ để xử lý các tổ chức, cá nhân có hành vi lợi dụng hội nhóm để hoạt động trái phép, chống phá chính quyền. Nghị định 126 được thiết kế không chỉ để quản lý, mà còn hỗ trợ các hội nhóm hoạt động hiệu quả. Các quy định giúp cho các hội hoạt động có tổ chức, chuyên nghiệp hơn, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên trong hội. Khi hội hoạt động đúng theo quy định, quyền lợi của các thành viên cũng được đảm bảo, tạo sự tin tưởng và khuyến khích người dân tham gia, đóng góp vào sự phát triển của xã hội.
Có thể khẳng định, Nghị định 126/2024/NĐ-CP là bước tiến quan trọng để củng cố hệ thống quản lý xã hội tại Việt Nam, là văn bản quy phạm pháp luật cần thiết để góp phần giữ vững ổn định xã hội và đảm bảo cho các hội tại Việt Nam hoạt động theo khuôn khổ pháp luật, tuân thủ các giá trị văn hóa và truyền thống dân tộc. Những luận điệu của đám “rận chủ”, trong đó có Rfa, mãi là những tiếng kêu lạc lõng, chỉ để phô bày sự ngu dốt, thói lươn lẹo, phản động của chúng mà thôi./.
Bóc trần luận điệu xuyên tạc của RFA về Nghị định 126/NĐ-CP .
Ngày 8/10/2024, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 126/2024/NĐ-CP “Quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội”. Nghị định 126 ra đời không những đáp ứng nguyện vọng chính đáng của các tầng lớp nhân dân mong muốn được thành lập hội, mà còn tạo ra môi trường lành mạnh cho các hội phát triển, phù hợp với tình hình thực tiễn của Việt Nam. Ấy vậy nhưng, các đài truyền thông “rận chủ”, trong đó có Đài Á Châu Tự Do (RFA) - một gương mặt không còn xa lạ gì trong giới “rận chủ” - theo thói thường lại ra sức “góp ý”, “phản biện” về Nghị định này. Chúng cho rằng: Nghị định 126 của Chính phủ là sự gia tăng sự kiểm soát của Nhà nước, hạn chế sự phát triển của các tổ chức xã hội độc lập và quyền tự do lập hội, phản đối các quy định: Phải chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước, không được vi phạm “thuần phong mỹ tục”, “truyền thống văn hóa dân tộc”… Điểm qua vài “góp ý”, “phản biện” này của Rfa thì thấy rõ bản chất và năng lực “thượng thừa” của chúng trong việc xuyên tạc, vu khống, đánh tráo khái niệm.
Có thể khẳng định, Nghị định 126/2024/NĐ-CP là văn bản quan trọng nhằm tạo ra khung pháp lý cho việc tổ chức, hoạt động và quản lý các hội tại Việt Nam. Đây là bước tiến cần thiết để cải thiện tính minh bạch, trách nhiệm và hiệu quả trong hoạt động của các hội. Nghị định 126 cung cấp các quy định rõ ràng hơn về quyền hạn, trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước và ban lãnh đạo các hội. Điều này giúp giảm thiểu các hành vi tiêu cực, lạm dụng quyền lực và đảm bảo hoạt động hội diễn ra đúng với tôn chỉ, mục đích ban đầu. Với các quy định mới về việc công khai tài chính và nguồn tài trợ, nghị định giúp các hội duy trì sự minh bạch và tạo niềm tin với các bên liên quan. Qua đó giúp ngăn ngừa các hành vi tham nhũng, lợi dụng nguồn lực cộng đồng, đồng thời cũng mở ra cơ hội cho các hội tiếp cận với các nguồn lực từ nhà nước và quốc tế. Nghị định 126 tạo điều kiện thuận lợi cho các cá nhân, tổ chức tham gia vào các hoạt động hội, từ đó đóng góp cho sự phát triển cộng đồng, đặc biệt trong các lĩnh vực văn hóa, xã hội và môi trường. Nghị định cũng là công cụ để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của hội viên và giúp các hội phát triển bền vững. Có thể thấy rõ rằng, việc có khung pháp lý rõ ràng sẽ tạo niềm tin cho cộng đồng và nâng cao uy tín của các hội trong xã hội.
Thế nên, ý kiến cho rằng Nghị định 126 “hạn chế quyền tự do lập hội” là điều xuyên tạc, bịa đặt trắng trợn. Trên thực tế, nghị định này không cấm hoặc hạn chế quyền lập hội của công dân mà chỉ yêu cầu các tổ chức, cá nhân thực hiện quyền này một cách hợp pháp. Tới đây, thì lại có ý kiến phản đối quy định các hội phải chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước - một ý kiến thể hiện sự thiếu hiểu biết và sự “thiên vị” đến cùng cực của Rfa. Thử hỏi trên quả đất này, có tổ chức hay cá nhân nào sống và làm việc ở 1 đất nước lại không phải tuân thủ theo luật lệ của nước đó? Hay Rfa thích sống “hoang dã”, ngoài vòng pháp luật chăng? Việc chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước - bao gồm cả việc đảm bảo không vi phạm các chuẩn mực văn hóa, thuần phong mỹ tục của Việt Nam - là điều hiển nhiên đối với mỗi tổ chức, cá nhân hoạt động trong lãnh thổ Việt Nam. Việc đề ra những quy định về quản lý nhằm bảo đảm các hội hoạt động minh bạch, không vi phạm pháp luật và phù hợp với lợi ích chung của xã hội. Điều này vừa bảo vệ quyền lợi của công dân tham gia hội, vừa đảm bảo trật tự và an ninh quốc gia.
Thực tế, thời gian qua, các thế lực thù địch, các hội, nhóm phản động, chống đối triệt để lợi dụng mạng xã hội để đẩy mạnh các hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước. Chúng tạo lập các hội, nhóm trên danh nghĩa phản biện xã hội, đấu tranh vì dân chủ nhân quyền, chống tham nhũng như “Hội ACE Chống Tham Nhũng & Bất Công”, “Nhóm ACE yêu chuộng Tự - Do Dân - Chủ”, “Trại Cháu Bác Hồ”… với cách đặt tên các hội, nhóm… ly kỳ, giật gân để để thu hút người theo dõi, tham gia, nhất là đối tượng thanh thiếu niên, thực chất bên trong các hội, nhóm đó lại là những bài viết phản động, chống đối, hình ảnh, video có nội dung độc hại nhằm tuyên truyền, phá hoại tư tưởng, thúc đẩy tự diễn biến, tự chuyển hóa, gây chia rẽ đoàn kết nội bộ, tập hợp lực lượng, hình thành tổ chức chính trị đối lập, thúc đẩy âm mưu diễn biến hòa bình… chống phá Đảng, Nhà nước… Do vậy, Nghị định 126 đặt ra yêu cầu quản lý chặt chẽ, nhằm tránh tình trạng lợi dụng hội để hoạt động phi pháp, gây thiệt hại về kinh tế và an ninh cho xã hội. Đây là biện pháp cần thiết để bảo vệ quyền lợi của người dân và đảm bảo các hội nhóm hoạt động lành mạnh, công khai, đồng thời là một công cụ pháp lý giúp Nhà nước có căn cứ để xử lý các tổ chức, cá nhân có hành vi lợi dụng hội nhóm để hoạt động trái phép, chống phá chính quyền. Nghị định 126 được thiết kế không chỉ để quản lý, mà còn hỗ trợ các hội nhóm hoạt động hiệu quả. Các quy định giúp cho các hội hoạt động có tổ chức, chuyên nghiệp hơn, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên trong hội. Khi hội hoạt động đúng theo quy định, quyền lợi của các thành viên cũng được đảm bảo, tạo sự tin tưởng và khuyến khích người dân tham gia, đóng góp vào sự phát triển của xã hội.
Có thể khẳng định, Nghị định 126/2024/NĐ-CP là bước tiến quan trọng để củng cố hệ thống quản lý xã hội tại Việt Nam, là văn bản quy phạm pháp luật cần thiết để góp phần giữ vững ổn định xã hội và đảm bảo cho các hội tại Việt Nam hoạt động theo khuôn khổ pháp luật, tuân thủ các giá trị văn hóa và truyền thống dân tộc. Những luận điệu của đám “rận chủ”, trong đó có Rfa, mãi là những tiếng kêu lạc lõng, chỉ để phô bày sự ngu dốt, thói lươn lẹo, phản động của chúng mà thôi./.
PHẢN BÁC LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC QUAN HỆ ĐỐI TÁC CHIẾN LƯỢC TOÀN DIỆN CỦA VIỆT NAM
Gần đây, trang Daploisongnui.org đăng tải bài viết: “Sự khác nhau giữa đối tác kiếm ăn và đồng minh ý thức hệ cộng sản”, xuyên tạc rằng: “Việt Nam có quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với 8 quốc gia, thì có 6 quốc gia dân chủ tư bản phát triển; Việt Nam vẫn là một quốc gia tụt hậu, hay không muốn nói là nghèo khổ so với các lân bang, chứ chưa cần với quốc gia phát triển; Việt Nam ký kết hợp tác chiến lược toàn diện, nó không giúp ích gì cho sự phát triển của quốc gia; mô hình chính trị của Việt Nam hoàn toàn khác biệt so với các quốc gia dân chủ; chế độ của chúng ta thiếu tôn trọng nhân quyền, không dặt con người là trung tâm của sự phát triển”...
1. Thực chất đây là những quan điểm sai trái, thù địch của một số người tự xưng là “người yêu nước”, “nhà dân chủ”, “học giả” thù địch; thường xuyên tung hỏa mù, “chọc gậy bánh xe”, vừa cố tình vu cáo, miệt thị lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta, vừa phá hoại đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước Việt Nam, hạ thấp uy tín, vai trò của Việt Nam với tư cách là thành viên của Liên hợp quốc. Lợi dụng các bài viết dưới mác “phân tích cơ sở khoa học” nhằm phủ định nền tảng tư tưởng, vai trò lãnh đạo, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; cố tình suy diễn, xuyên tạc, chống phá đường lối đối ngoại, quốc phòng, an ninh, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, tác động vào niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa. Chúng còn cho rằng, Việt Nam đang có sự điều chỉnh trong quan hệ đối ngoại nhằm tìm kiếm đối tác chiến lược toàn diện, thiết lập liên minh mới để đối phó với những quốc gia đang gây áp lực với mình... Lại có kẻ còn trắng trợn nói rằng, Việt Nam đang ngấm ngầm “theo chân” nước này để chống nước kia...bằng nhiều chiêu trò, chúng mưu toan đẩy mạnh tuyên truyền, phát tán những thông tin sai lệch, bịa đặt, nhằm mục đích tiếp tục chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam, đi ngược lại lợi ích quốc gia-dân tộc, chia rẽ mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước đối tác, nhất là các nước lớn, các nước láng giềng, phá hoại môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước của nhân dân Việt Nam. Dù có giở chiêu trò gì đi chăng nữa, các thế lực thù địch, phản động cũng không thể phủ nhận được những thành tựu trong công tác đối ngoại của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong những năm qua, đó là: Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, quan trọng trong công tác đối ngoại. Quan hệ của Việt Nam với các nước trong khu vực và trên toàn thế giới ngày càng được mở rộng, đi vào chiều sâu, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao.
2. Chuyến công tác, làm việc của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm tại Hoa Kỳ càng có ý nghĩa quan trọng khi diễn ra vào thời điểm tròn một năm Việt Nam và Hoa Kỳ nâng cấp quan hệ lên Đối tác Chiến lược toàn diện vì hòa bình, hợp tác và phát triển bền vững, cũng như trước thềm kỷ niệm 30 năm quan hệ ngoại giao. Đây là dịp để hai bên cùng nhìn lại chặng đường đã qua, đúc rút, chia sẻ và lan toả những bài học, kinh nghiệm hay về quan hệ giữa các quốc gia, đồng thời tôn vinh và tri ân những thế hệ bạn bè đã và đang tích cực đóng góp cho quan hệ hai nước. Bên cạnh mở rộng, tăng cường hợp tác quốc tế theo tinh thần Việt Nam là đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, Đảng, Nhà nước ta luôn phát huy cao độ tinh thần đại đoàn kết toàn dân, chủ động tự lực, tự cường nhằm thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Như vậy, thực tế sự phát triển mối quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ hay giữa Việt Nam với quốc gia nào trên thế giới đều là tất yếu khách quan, phù hợp xu thế chung của thời đại.
Điều đó chứng minh đường lối, chính sách đối ngoại đúng đắn của Đảng ta, thể hiện nét đặc sắc “ngoại giao cây tre” vì lợi ích của mỗi quốc gia - dân tộc, đóng góp vào hòa bình, hợp tác, phát triển trong khu vực và trên thế giới, hoàn toàn không có chuyện “theo bên này, chống bên kia” như luận điệu những kẻ xấu, cố tình xuyên tạc, bịa đặt. Nếu ai đó nói rằng Việt Nam dựa vào nước này để chống nước kia thì đó là hành động cố tình xuyên tạc, bịa đặt nhằm mưu đồ xấu, can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của Việt Nam, hòng làm cho tình hình thêm phức tạp, gây hoài nghi, mất ổn định, ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Việt Nam cũng đã tích cực tham gia hầu hết các tổ chức quốc tế lớn và nghiêm chỉnh tuân thủ các cam kết quốc tế, đóng góp tích cực vào sự ổn định, phát triển của khu vực và thế giới; xây dựng mối quan hệ tôn trọng, tin tưởng lẫn nhau.
3. Quan điểm, chủ trương, chính sách đối ngoại của Việt Nam là rất rõ ràng, Việt Nam luôn kiên trì phương châm là bạn với tất cả các nước, đa phương hóa, đa dạng hóa trên cơ sở độc lập tự chủ và nguyên tắc của luật pháp quốc tế.
Mục đích của Việt Nam là tạo được lợi ích chung với các nước - đó là duy trì hòa bình, ổn định. Việt Nam đã nhiều lần khẳng định đường lối đối ngoại độc lập tự chủ. Việt Nam không bao giờ liên minh, liên kết với một nước khác để chống lại nước thứ ba, không đi với nước này để chống nước kia. Trong giải quyết những vấn đề nhạy cảm, phức tạp, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã nhiều lần khẳng định là phải trên cơ sở quán triệt và thực hiện tốt đường lối đối ngoại hòa bình hữu nghị, độc lập, tự chủ, bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế... Chủ trương và cách giải quyết đó của Đảng, Nhà nước ta đã tạo được sự đồng thuận cao trong nhân dân cũng như toàn xã hội, được dư luận quốc tế đồng tình ủng hộ. Trong đối ngoại của Việt Nam, Đảng ta luôn xác định, đối tác chiến lược toàn diện là một dạng thức quan hệ có tầm quan trọng lớn và có tính chiến lược, dài hạn giữa các quốc gia với nhau hoặc giữa quốc gia với tổ chức quốc tế và là một hình thức của quan hệ đối tác chiến lược bên cạnh các hình thức khác như đối tác chiến lược, đối tác chiến lược lựa chọn theo từng lĩnh vực, đối thoại chiến lược. Hiện nay đối tác chiến lược toàn diện là cấp cao nhất trong hệ thống thứ bậc đối tác ngoại giao ở Việt Nam. Với quan hệ đối tác chiến lược toàn diện, các bên xác định gắn bó lợi ích lâu dài, hỗ trợ lẫn nhau và thúc đẩy sự hợp tác sâu rộng và toàn diện trên mọi lĩnh vực mà các bên cùng có lợi và hướng tới lòng tin chiến lược. Việt Nam hiện đã có 8 quốc gia là đối tác chiến lược toàn diện gồm Trung Quốc, Liên bang Nga, Ấn Độ, Hàn Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Australia và Pháp; đồng thời ký kết và thực hiện nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, trong đó có Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA), Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP)... Tính đến tháng 9/2024, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao chính thức với 194 quốc gia. Đảng Cộng sản Việt Nam đã thiết lập quan hệ với 247 chính đảng ở 111 quốc gia. Quốc hội Việt Nam có quan hệ với quốc hội, nghị viện của hơn 140 nước. Các tổ chức hữu nghị nhân dân có quan hệ với 1.200 tổ chức nhân dân và phi chính phủ nước ngoài. Việt Nam cũng là thành viên tích cực và có trách nhiệm của hơn 70 tổ chức, diễn đàn quốc tế quan trọng.
Đó là những vấn đề thực tế không thể chối cãi được, nó chứng minh đường lối, chính sách đối ngoại đúng đắn của Đảng ta, thể hiện nét đặc sắc “ngoại giao cây tre” vì lợi ích của mỗi quốc gia - dân tộc, đóng góp vào hòa bình, hợp tác, phát triển trong khu vực và trên thế giới, hoàn toàn không có chuyện “theo bên này, chống bên kia” như luận điệu những kẻ xấu, cố tình xuyên tạc, bịa đặt. Đó là minh chứng khách quan, sinh động, phản bác những luận điệu bôi nhọ, chống phá, những hành động trơ trẽn và lạc lõng của các thế lực thù địch./.
PHẢI CHĂNG “NHÂN QUYỀN” CAO HƠN “CHỦ QUYỀN”? ĐÂU LÀ SỰ THẬT?
Gần đây, một số thế lực thù địch phản động lại tiếp tục chiêu trò kích động “nhân quyền” cao hơn “chủ quyền” hòng bôi xấu, bịa đặt quan điểm chủ trương của Đảng và Nhà nước ta. Chúng cho rằng ở Việt Nam không có “dân chủ”, người dân mất hết “nhân quyền” và cần phải can thiệp để nhân dân Việt Nam được “tự do” hơn. Vậy phải chăng ngày nay, “nhân quyền cao hơn chủ quyền” và “quyền con người” cao hơn chủ quyền thiêng liêng của quốc gia? Đây là những vấn đề mới về mặt lý luận cũng như thực tiễn cần được làm sáng tỏ.
Thực ra luận thuyết trên chỉ là một hình thức biến tướng của chủ nghĩa thực dân mới. Bởi vì trước đây, để mở rộng thuộc địa, các nước đế quốc thường sử dụng phương thức cổ điển là đánh thành và chiếm đất. Còn ngày nay, họ trắng trợn can thiệp vào nội bộ các nước có chủ quyền bằng nhiều âm mưu, thủ đoạn và hình thức khác nhau, không hẳn vì mục đích xâm chiếm lãnh thổ mà vì muốn áp đặt quan niệm “nhân quyền” của mình đối với quốc gia, dân tộc khác. Cần phải nói ngay rằng, những người đưa ra và cổ súy cho luận thuyết “nhân quyền cao hơn chủ quyền”, hay “nhân quyền toàn cầu”, “nhân quyền không biên giới”, ngay từ đầu họ đã cố tình hoặc lảng tránh một lẽ đơn giản là, trên thế giới không thể có một con người nào sống ngoài cộng đồng quốc gia, dân tộc; càng không có cái thế giới tồn tại mà không cần rạch ròi biên giới giữa các quốc gia. Họ cũng bỏ qua một sự thật hiển nhiên là, thời đại mà chúng ta đang sống có hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ, hàng nghìn dân tộc khác nhau, theo những tôn giáo khác nhau và có truyền thống văn hóa khác nhau. Trong các quốc gia và vùng lãnh thổ đó, con người thuộc các chế độ chính trị - xã hội khác nhau, cùng một lúc chịu sự tác động của hai mối quan hệ: quan hệ về nhân quyền và quan hệ về chủ quyền quốc gia. Quan hệ nhân quyền là quan hệ về cá nhân, còn quan hệ chủ quyền quốc gia là quan hệ cộng đồng các cá nhân trong quốc gia đó. Hai mối quan hệ cơ bản của con người là nhân quyền và chủ quyền quốc gia không cùng một bậc, không cùng một tuyến tiếp cận, và do đó, không thể đem so sánh cái này cao hoặc thấp hơn cái kia. Việc quy chủ quyền quốc gia về cùng một bậc với nhân quyền, rồi coi “nhân quyền” cao hơn “chủ quyền” là một việc làm khiên cưỡng, không lôgíc, phản khoa học và thiếu tính thuyết phục. Đó là một sai lầm về mặt phương pháp luận, một sự sai lầm từ gốc, nếu không nói đó là một sự đánh tráo khái niệm rất thô thiển, trắng trợn, có dụng ý xấu về chính trị.
Trong Khoản 2, Điều 4 và Khoản 2, Điều 7 của Hiến chương Liên Hợp quốc đã khẳng định những nguyên tắc cơ bản về tôn trọng và đảm bảo sự bình đẳng về chủ quyền quốc gia. Tuyên bố của Hội nghị thế giới về Nhân quyền tại Viên (Áo) ngày 25-6-1993 ghi rõ: “Tất cả các dân tộc đều có quyền tự quyết. Với quyền đó, các dân tộc tự do quyết định thể chế chính trị của mình và tự do theo đuổi con đường phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa của mình”. Thế nhưng, như mọi người đều biết, suốt mấy thập kỷ qua, có những thế lực hiếu chiến dựa vào sức mạnh đồng đô la, máy bay, tên lửa, đại bác và cả “con ngoáo ộp” hạt nhân, đã liên tục gieo rắc tai họa và chết chóc cho nhiều quốc gia, dân tộc để quyết giành quyền “bá chủ thế giới”. Họ dùng mọi thủ đoạn để đàn áp phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân các nước Á, Phi, Mỹ La-tinh; sẵn sàng sử dụng vũ lực để dập tắt mọi khát vọng của các dân tộc quyết đấu tranh giành độc lập và tự do nhưng không theo cái gậy chỉ huy của họ. Xin dẫn vài số liệu: chỉ trong 10 năm cuối thế kỷ XX, quốc gia tự coi là “hiệp sĩ nhân quyền” đã gây ra 40 cuộc chiến tranh để trừng phạt những nước không theo quan niệm “giá trị” do họ đưa ra. Khi thực hiện các cuộc xâm lược, các thế lực hiếu chiến quốc tế đã không ngần ngại sử dụng cả những loại vũ khí và phương tiện chiến tranh bị Liên Hợp quốc ngăn cấm. Nhân danh bảo vệ “quyền con người”, họ tạo cớ để phán xét, chụp mũ nước này, nước nọ là “vi phạm nhân quyền”, là “gây thảm họa nhân đạo”, rồi phớt lờ cả Liên Hợp quốc, họ đem quân đội và cảnh sát nhảy vào quốc gia độc lập có chủ quyền để bắt cả tổng thống, tàn sát nhiều người dân thường vô tội. Sự thực từ năm 2001, có nước đã bị khai trừ khỏi Ủy ban Nhân quyền của Liên Hợp quốc nhưng lại nhân danh “bảo vệ quyền con người”, lấy nhân quyền làm công cụ để thực hiện mưu đồ chính trị cường quyền của mình. Phải chăng đó là thứ “nhân quyền” của kẻ mạnh đối với những quốc gia, dân tộc nhỏ yếu? Phải chăng đó là hiện thực hóa luận thuyết “nhân quyền cao hơn chủ quyền”, “nhân quyền không biên giới” do họ chủ xướng?
Thật trớ trêu, trong khi rao giảng về nhân quyền cho các nước khác, những thế lực hiếu chiến chỉ nhấn mạnh đến nhân quyền cá nhân và quyền chính trị công dân, tuyệt đối hóa tự do cá nhân, phủ định quyền độc lập, quyền sinh tồn và quyền phát triển thuộc phạm trù nhân quyền của cả một quốc gia, dân tộc. Thử hỏi, nếu một quốc gia bị tước mất quyền cơ bản nhất là độc lập, chủ quyền thì thực hiện nhân quyền của người dân nước đó sẽ ra sao? Lịch sử và hiện thực đã chứng minh, chủ quyền là nhân quyền tập thể của nhân dân một quốc gia, dân tộc, cho nên phải được tôn trọng và bảo vệ về mặt pháp lý quốc tế. Xâm phạm đến chủ quyền quốc gia, dân tộc là chà đạp lên nhân quyền của toàn thể nhân dân nước đó. Vì lẽ như vậy, không thể có và không bao giờ có cái gọi là “nhân quyền cao hơn chủ quyền”.
Đối với người Việt Nam, nhân quyền trước hết là quyền dân tộc tự quyết, dân tộc độc lập. Truyền thống cộng đồng, truyền thống dựng nước và giữ nước hàng ngàn năm, cũng như kinh nghiệm cách mạng Việt Nam trong những thập kỷ gần đây đều cho thấy, khi “vong quốc nô” thì không thể có nhân quyền. Mất nước sẽ mất tất cả. Thực tế ở Việt Nam, bảo vệ và phát triển nhân quyền trước hết lại bắt đầu bằng quá trình giải phóng dân tộc; nhân quyền chỉ có trong độc lập, tự do. Người Việt Nam đã phải hy sinh xương máu của biết bao thế hệ mới giành được chủ quyền quốc gia, bởi “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Gần 20 năm qua, với đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, chúng ta đang từng bước thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Đấy là biểu hiện cao nhất và cụ thể nhất của nhân quyền Việt Nam, của sự bảo vệ chủ quyền quốc gia, dân tộc Việt Nam.
Trong nhiều năm qua, các thế lực thù địch luôn tăng cường các hoạt động phá hoại về chính trị, tư tưởng, vu cáo, công kích chế độ và sự lãnh đạo của Đảng ta. Chúng khuyến khích, tập hợp, hỗ trợ cho bọn phản động, bọn cơ hội, bất mãn phát triển lực lượng, hình thành lực lượng đối lập và các tổ chức phản động hòng gây mất ổn định chính trị, kinh tế của nước ta. Việc cơ quan lập pháp của một quốc gia hằng năm tự cho mình quyền được phán xét, đánh giá, nhận định về tình hình nhân quyền của các nước khác trên thế giới, thậm chí ra “Đạo luật nhân quyền” đối với Việt Nam là một hành vi bất hợp pháp trong sinh hoạt quốc tế hiện đại, trong đó có các nguyên tắc không can thiệp công việc nội bộ của nước khác, nguyên tắc quyền dân tộc tự quyết và bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia, đã được ghi tại Điều 1 và Điều 2 của Hiến chương Liên Hợp quốc./.
ĐOÀN KẾT BƯỚC VÀO KỶ NGUYÊN VƯƠN MÌNH CỦA DÂN TỘC
Ông cha ta đã từng đúc kết: "Một cây làm chẳng nên non. Ba cây chụm lại nên hòn núi cao"; "Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết"; "Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng"; "Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn"...
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: “Đoàn kết đã đưa Đảng ta và nhân dân ta từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Cho nên chúng ta quý trọng và ra sức bảo vệ sự đoàn kết nhất trí - trong Đảng và trong nhân dân ta cũng như giữa các đảng và giữa các nước anh em - như giữ gìn con ngươi của mình”.
Hơn 94 năm qua, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta luôn đặc biệt chú trọng xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh vĩ đại của khối đại đoàn kết dân tộc, kết hợp với sức mạnh của thời đại để đưa con thuyền cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Những năm gần đây, trong bối cảnh phức tạp của tình hình thế giới, các thế lực thù địch đã gia tăng các hoạt động chống phá, hòng làm ảnh hưởng đến khối đại đoàn kết của dân tộc. Trong từng thời điểm cụ thể, lợi dụng những khó khăn, vướng mắc cần phải giải quyết, những vấn đề phức tạp nảy sinh từ thực tiễn của đời sống xã hội, các thế lực thù địch, phản động trong và ngoài nước câu kết, móc nối, gia tăng các hoạt động chống phá bằng các phương thức, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt
Bằng cách sử dụng các phương tiện truyền thông, mạng xã hội,… các thế lực thù địch tìm mọi cách để xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để phát tán những tư tưởng chống đối, nhằm gây rối loạn và chia rẽ trong xã hội.
Một mặt, các thế lực thù địch tăng cường tuyên truyền, cổ suý các tư tưởng văn hoá đi ngược lại với văn hoá truyền thống, thuần phong mỹ tục của dân tộc; một mặt xuyên tạc, phủ nhận sự nghiệp đổi mới, thành tựu hội nhập, phát triển đất nước ta. Bên cạnh đó, những đối tượng này còn lợi dụng các sự kiện chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội lớn, các chủ trương, chính sách mới của Đảng, Nhà nước để xuyên tạc, bóp méo sự thật nhằm gây nhiễu loạn thông tin, làm phức tạp về an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, hòng làm giảm niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ ta.
Trước tình hình đó, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, ban hành một số nghị quyết, chỉ thị để lãnh đạo, chỉ đạo công tác này. Đặc biệt, ngày 22/10/2018, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 35-NQ/TW về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới. Bên cạnh đó, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng cũng chỉ rõ: “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết và thường xuyên đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị; đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ”. Đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch chính là để bảo vệ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Và việc khơi dậy mạnh mẽ lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết chính là phương thức hữu hiệu để đập tan mọi luận điệu xuyên tạc.
Có thể thấy, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc là chủ trương xuyên suốt, thống nhất của Đảng ta, được thể hiện trực tiếp trong nội dung nhiều văn kiện, nghị quyết, quyết định, chỉ thị qua các thời kỳ cách mạng. Đến nay, khối đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng được củng cố vững chắc, tạo nên sức mạnh tổng hợp của đất nước, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển mạnh mẽ, giữ vững ổn định chính trị - xã hội. Trong giai đoạn mới, Đảng ta xác định: “Động lực và nguồn lực phát triển quan trọng của đất nước là khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”.
Trong những năm qua, Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc trong việc nâng cao vị thế của mình trên trường quốc tế. Nói như cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: "Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Từ một nền kinh tế lạc hậu, Việt Nam đã vươn lên lọt vào Top 40 nền kinh tế hàng đầu, có quy mô thương mại trong Top 20 quốc gia trên thế giới, mắt xích quan trọng trong 16 Hiệp định thương mại tự do (FTA) gắn kết với 60 nền kinh tế chủ chốt ở khu vực và toàn cầu.
Từ một đất nước bị bao vây cô lập, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 193 quốc gia trên thế giới, có quan hệ Đối tác chiến lược và Đối tác toàn diện với 30 nước, trong đó có tất cả các thành viên thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc, các nước lớn, và là thành viên tích cực của trên 70 tổ chức khu vực và quốc tế.
Việt Nam đã xây dựng trường phái đối ngoại và ngoại giao rất đặc sắc và độc đáo của thời đại Hồ Chí Minh, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”, “gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển”, thấm đượm tâm hồn, cốt cách và khí phách của dân tộc Việt Nam”. Sự đa dạng, linh hoạt trong chính sách đối ngoại đã góp phần tăng cường quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và các quốc gia trên thế giới. Sự tham gia của Việt Nam vào các tổ chức quốc tế như ASEAN, WTO hay APEC không chỉ giúp tăng cường hợp tác kinh tế mà còn tạo điều kiện để Việt Nam thể hiện vai trò của mình trên các diễn đàn quốc tế.
Việt Nam được tín nhiệm bầu vào nhiều vị trí, trọng trách quốc tế quan trọng, nhất là trong ASEAN và Liên hợp quốc như: Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an, Phó Chủ tịch Đại hội đồng Liên hợp quốc khóa 77, thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023-2025, Ủy ban Di sản thế giới, Ủy ban Luật pháp quốc tế…
Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đã chủ động tham gia vào các vấn đề toàn cầu như biến đổi khí hậu, phát triển bền vững và an ninh lương thực. Các hội nghị quốc tế mà Việt Nam đăng cai tổ chức như Hội nghị COP26 về biến đổi khí hậu đã thể hiện quyết tâm của Việt Nam trong việc góp phần giải quyết các vấn đề lớn của thế giới. Điều này không chỉ nâng cao hình ảnh của Việt Nam mà còn khẳng định cam kết của quốc gia trong việc tham gia vào các nỗ lực toàn cầu.
Trong 10 năm qua, Việt Nam là thành viên tích cực tham gia vào các Phái bộ của Liên hợp quốc, thực hiện sứ mệnh gìn giữ hòa bình, hỗ trợ nhân đạo cho các quốc gia chịu thiên tai, xung đột... Lực lượng “mũ nồi xanh” Việt Nam luôn được Liên hợp quốc ghi nhận và đánh giá cao. Sự tham gia, đóng góp của Việt Nam cho sứ mệnh hòa bình trên thế giới góp phần khẳng định Việt Nam là thành viên có trách nhiệm đối với cộng đồng quốc tế; nâng cao vị thế, uy tín và vai trò của Việt Nam trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế; tạo điều kiện thuận lợi để thúc đẩy hợp tác quốc tế trên cả bình diện song phương và đa phương; tăng cường lòng tin chiến lược, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước.
Những dấu ấn của Việt Nam trên trường quốc tế là những bằng chứng sinh động về một đất nước yêu chuộng hoà bình, luôn mạnh mẽ vươn lên, khẳng định bản lĩnh và sự kiên cường, bất chấp những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch.
Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
Phát biểu tại lễ kỷ niệm 79 năm Ngày Quốc khánh nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2/9/1945 - 2/9/2024), Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đã khẳng định: Đất nước có được những thành tựu vĩ đại sau 79 năm giành độc lập, là do tinh thần yêu nước, đại đoàn kết toàn dân tộc, ý chí tự lực, tự cường, khát vọng mãnh liệt về độc lập, tự do, hạnh phúc của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam; đồng thời, dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam - một Đảng luôn lấy việc phục vụ nhân dân làm lẽ sống và mục tiêu phấn đấu, luôn trung thành tuyệt đối và vô hạn với lợi ích của dân tộc, của nhân dân, như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh “ngoài lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, Đảng ta không có lợi ích gì khác”, đã chèo lái con thuyền cách mạng, đưa đất nước Việt Nam vượt qua mọi thác ghềnh, lập nên nhiều kỳ tích.
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước chỉ rõ: Đảng, Nhà nước và Nhân dân Việt Nam đang ra sức phấn đấu bứt tốc, sớm về đích thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, hướng đến kỷ niệm 80 năm giành độc lập, 50 năm thống nhất đất nước, quyết tâm hiện thực hóa các mục tiêu phát triển đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng; năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nay là nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam; đưa Việt Nam trở thành nước phát triển, có thu nhập cao; Nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, được sống trong môi trường an ninh, an toàn, an tâm, không ai bị bỏ lại phía sau. Qua đó thực hiện đúng ước nguyện trong di chúc của Bác Hồ, đó là: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.
Trong bối cảnh tình hình thế giới có những cơ hội, song cũng xuất hiện nhiều khó khăn, thách thức, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước tin tưởng rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, phát huy tinh thần “tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc”, lấy đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết quốc tế trong sáng làm động lực, huy động mạnh mẽ sức dân, gắn kết chặt chẽ ý Đảng với lòng dân làm nền tảng, nhất định Việt Nam sẽ tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, không ngừng phấn đấu, đóng góp nhiều hơn nữa duy trì hòa bình, ổn định, phát triển ở khu vực và trên thế giới.
Trao đổi một số nội dung về kỷ nguyên mới của dân tộc trong buổi trò chuyện chiều 31/10 với các học viên Lớp bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, kỹ năng đối với cán bộ quy hoạch Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIV (Lớp 3), Tổng Bí thư Tô Lâm chỉ rõ: Kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, đó là kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu. Mọi người dân đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, được hỗ trợ phát triển, làm giàu; đóng góp ngày càng nhiều cho hòa bình, ổn định, phát triển của thế giới, hạnh phúc của nhân loại và văn minh toàn cầu.
Đích đến của kỷ nguyên vươn mình là dân giàu, nước mạnh, xã hội xã hội chủ nghĩa, sánh vai với các cường quốc năm châu. Ưu tiên hàng đầu trong kỷ nguyên mới là thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao; khơi dậy mạnh mẽ hào khí dân tộc, tinh thần tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, khát vọng phát triển đất nước; kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Theo người đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam, thời điểm bắt đầu kỷ nguyên mới là Đại hội XIV của Đảng. Từ đây, mọi người dân Việt Nam, hàng trăm triệu người như một, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đồng tâm hiệp lực, chung sức đồng lòng, tranh thủ tối đa thời cơ, thuận lợi, đẩy lùi nguy cơ, thách thức, đưa đất nước phát triển toàn diện, mạnh mẽ, bứt phá và cất cánh.
Thực tiễn lịch sử cho thấy, khối đại đoàn kết toàn dân tộc làm nên sức mạnh to lớn và là cội nguồn mọi thành công của cách mạng Việt Nam. Càng trong khó khăn, thách thức, đứng trước yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng càng lớn lao, càng cần phải đoàn kết một cách chặt chẽ, rộng rãi, vững chắc.
Với hành trang là tinh thần yêu nước, truyền thống đoàn kết, chung sức, chung lòng, Việt Nam vững tâm thế bước vào kỷ nguyên mới - “kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”, cùng xây dựng một nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng và Nhân dân ngày càng ấm no, hạnh phúc./.
TÌM HIỂU GIÚP BẠN: ĐẾN VỚI NHỮNG BÀI THƠ HAY!
Đảng có mạnh đất nước mới phát triển
Trong thời kỳ Đổi mới, trên phương diện xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đoàn kết trong Đảng luôn được quán triệt sâu sắc, đặc biệt là ở những giai đoạn có ý quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của Đảng, của sự nghiệp cách mạng của dân tộc, khi phải đứng trước những thời cơ và cả những khó khăn, thách thức lớn. Đó là một bằng chứng mạnh mẽ khẳng định giá trị thực tiễn Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Đại hội VI của Đảng (tháng 12-1986) là sự tự phê bình, phê bình nghiêm túc, một cuộc chỉnh đốn lớn để đi đến hoạch định đường lối đổi mới. Hội nghị Trung ương 3, khóa VII (tháng 6-1992) về đổi mới, chỉnh đốn Đảng đã góp phần quan trọng cho công cuộc đổi mới phát triển mạnh mẽ vượt qua thách thức của sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên Xô.
Hội nghị Trung ương 4, khóa XI đã ban hành Nghị quyết Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay; Hội nghị Trung ương 4, khóa XII tiếp tục ban hành Nghị quyết về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, thể hiện rõ quyết tâm chính trị, nhằm lập lại kỷ cương trong Đảng, xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh. Và đến Hội Nghị Trung ương 4 khóa XIII, Trung ương Đảng đã ban hành Kết luận về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ; và Quy định mới Về những điều đảng viên không được làm.
Qua đó, Đảng ta tiếp tục khẳng định trình độ bản lĩnh, trí tuệ lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta thực hiện thành công công cuộc đổi mới, đưa Việt Nam từ nước kém phát triển trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình, người dân có cuộc sống ngày càng ấm no, hạnh phúc, uy tín, vị thế trên trường quốc tế ngày càng nâng cao.
Bên cạnh những kết quả, thành tích đã đạt được, công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng vẫn còn những hạn chế: Một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm, thiếu gương mẫu, giảm sút ý chí chiến đấu, đặc biệt là sa vào chủ nghĩa cá nhân, vi phạm kỷ luật Đảng, vi phạm pháp luật của Nhà nước… Trong khi đó, các thế lực thù địch, phản động chưa bao giờ từ bỏ âm mưu lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; ráo riết tiến hành chiến lược “diễn biến hòa bình” với nhiều phương thức, thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt, thâm độc; triệt để lợi dụng hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng để thâm nhập nội bộ, thúc đẩy các yếu tố “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” hòng làm tan rã Đảng ta, chế độ ta từ bên trong.
Đứng trước tình hình thế giới và trong nước đang tạo ra cả thuận lợi và thách thức đan xen, toàn Đảng ta tiếp tục kiên định lập trường, đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa". Đồng thời, tăng cường đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch; chủ động ngăn chặn, phản bác các thông tin, quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù địch; tăng cường rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng nhằm nâng cao tinh thần, trách nhiệm, lãnh đạo đất nước thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
“Đặc biệt coi trọng và không ngừng tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng, đại đoàn kết toàn dân tộc, mối liên hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân. Từ Trung ương đến chi bộ, mỗi cán bộ, đảng viên phải ra sức “giữ gìn sự đoàn kết nhất trí trong Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình” theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.
Đừng để có quyền hành rồi sa ngã
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ, trong điều kiện Đảng cầm quyền, khi có quyền hành, cán bộ, đảng viên nếu không chú trọng rèn luyện đạo đức hàng ngày và suốt đời thì rất dễ sa ngã, hư hỏng.
Mặt khác, nói thì dễ, làm thì khó. Vì vậy, Người rất quan tâm đến việc rèn luyện “thật sự”. Trong một đoạn văn ngắn trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh dùng đến bốn lần cụm từ “thật sự” và “thật” để nói lên tầm quan trọng của hành động thật. “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Không thật sự là giả dối, mà giả dối là bản chất của giai cấp bóc lột. Cán bộ, đảng viên của một Đảng mà ngoài lợi ích của Tổ quốc và nhân dân, không có lợi ích nào khác thì không thể giả dối, nói không đi đôi với làm, nói nhiều làm ít, nói một đằng làm một nẻo.
Bác chỉ rõ: Đoàn kết không tự nhiên mà có mà lại rất dễ bị suy yếu, bị mất đi. Ý thức sâu sắc thực tế này, trong toàn bộ cuộc đời hoạt động cách mạng, đặc biệt là trên phương diện người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh ngoài việc luôn đặc biệt quan tâm đến vấn đề đoàn kết trong Đảng. Người chỉ rõ tầm quan trọng của đoàn kết đối với sự tồn tại và phát triển của Đảng, thì Người cũng thường xuyên cảnh báo những nguy cơ có thể dẫn đến sự mất đoàn kết, chia rẽ trong Đảng.
Người thẳng thắn phê phán những cấp ủy Đảng và đảng viên để xảy ra tình trạng mất đoàn kết trong Đảng. Người phân tích sâu sắc những nguyên nhân và chỉ ra những giải pháp cụ thể để gìn giữ, củng cố, tăng cường sự đoàn kết trong Đảng. Người yêu cầu tất cả mọi đảng viên, từ Trung ương đến các chi bộ phải hiểu rõ, trân quý và bảo vệ sự đoàn kết trong Đảng như một phần máu thịt quý báu nhất của cơ thể mình.
Chỉnh đốn được Đảng, dù công việc to lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định thắng lợi
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ tại sao Đảng có thể tổ chức và lãnh đạo thành công: Đó là “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc”.
Như vậy, hai yếu tố quan trọng giúp cho Đảng có khả năng tổ chức, lãnh đạo, tập hợp được đông đảo quần chúng nhân dân, phát huy được sức mạnh của cả dân tộc trong sự nghiệp cách mạng là sự đoàn kết chặt chẽ trong Đảng và Đảng một lòng, một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc. Hai yếu tố này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Đoàn kết thống nhất trong Đảng chính là cơ sở của đoàn kết toàn dân và đoàn kết quốc tế, là sức mạnh của Đảng và là nguồn gốc của mọi thắng lợi. Do đó, trong công tác xây dựng Đảng, vấn đề đoàn kết đã được Bác đặt lên hàng đầu.
Thật vậy, đoàn kết là một nội dung quan trọng trong hệ giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam được hình thành, củng cố và phát triển lâu dài trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Là người sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam, hơn ai hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh hiểu rõ đoàn kết có sức mạnh to lớn như thế nào. Chính vì vậy, sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng chỉ rõ mối quan hệ giữa thực hiện dân chủ và đoàn kết trong Đảng. Không thực hiện dân chủ thì không đoàn kết được, nhất là dân chủ trong Đảng. Vì Đảng ta cầm quyền, không dân chủ trong Đảng thì làm sao dân chủ trong dân được. Nhờ có dân chủ mà Đảng ta đã khơi dậy, phát huy cao nhất trí tuệ, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của mình. Nhờ có dân chủ trong Đảng nên đã khắc phục được tình trạng bè cánh, cục bộ, địa phương chủ nghĩa, quan liêu, hách dịch, cửa quyền, xa rời quần chúng. Vì vậy, “thực hành dân chủ rộng rãi” là điều vô cùng cần thiết trong Đảng.
Bên cạnh đó, phê bình và tự phê bình cũng là một nguyên tắc trong sinh hoạt Đảng, là quy luật phát triển và là vũ khí sắc bén của Đảng. Phê bình và tự phê bình không những để sửa chữa khuyết điểm trong Đảng, làm cho đảng viên tiến bộ và mạnh lên mà còn khẳng định Đảng thật sự chân chính. Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng ta là một đảng cầm quyền” tức chính quyền do Đảng Cộng sản tổ chức và lãnh đạo, là chính quyền của dân, do dân và vì dân. Do đó, người yêu cầu: “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”. Đạo đức cách mạng là “nền tảng”, là “cái gốc” của người cán bộ.
Nói về đạo đức của người cán bộ, đảng viên, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh bổn phận người đảng viên “phải đặt lợi ích của cách mạng, của Đảng, của nhân dân lên trên hết, trước hết… Phải đi sâu đi sát thực tế, gần gũi quần chúng, thật sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân. Phải cố gắng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ hiểu biết để làm tốt mọi nhiệm vụ”.
Còn khi là cán bộ thì phải thường xuyên rèn luyện. Rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn toàn diện, sâu sắc, liên quan đến nhiều lĩnh vực. Trong đó mỗi cán bộ, đảng viên phải tự soi sét lại mình, tự phê bình, theo tư tưởng và tấm gương Hồ Chí Minh, luôn nêu cao ý thức trách nhiệm, hết lòng, hết sức phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc.
Lời căn dặn đầu tiên
Trong suốt 55 năm (1969-2024) thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, những lời căn dặn của Bác đã trở thành kim chỉ nam, sức mạnh, nguồn năng lượng to lớn cho Đảng, dân tộc và nhân dân vượt qua mọi cam go, khó khăn để giải phóng đất nước, thống nhất non sông; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, thắng lợi của cách mạng do Đảng lãnh đạo là đem lại độc lập, tự do, người dân được thực sự là chủ và làm chủ. Còn vinh dự và hạnh phúc lớn nhất của người cán bộ là đem lại hạnh phúc cho nhân dân. Là cán bộ, đảng viên của một đảng chân chính cách mạng, mỗi người phải luôn nêu cao ý thức trách nhiệm, hết lòng, hết sức phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc.
Ngay lời căn dặn đầu tiên trong Di chúc, Người đã dự liệu, trù tính sâu xa việc hệ trọng nhất: Vấn đề xây dựng Đảng.
Vấn đề xây dựng Đảng là một trong những nội dung quan trọng được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập đầu tiên trong bản Di chúc. Dù Người đã nhiều lần sửa một số câu từ, thêm, bớt các việc, nhưng trong Di chúc vấn đề xây dựng và chỉnh đốn Đảng luôn được Người đặt lên vị trí hàng đầu.
Trong lần sửa Di chúc vào tháng 5-1968, khi đề cập đến công việc phải làm ngay sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân thắng lợi, Người viết: “Theo ý tôi, việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Làm được như vậy, thì dù công việc to lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định thắng lợi”.
Trong bản Di chúc được công bố năm 1969, Người cũng dành phần đầu tiên để “nói về Đảng”. Đầu tiên Người khẳng định vị trí, vai trò của Đảng: Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”. Đây là sự tổng kết mang tính lý luận và thực tiễn sâu sắc về vị trí, vai trò của Đảng.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, yếu tố cốt lõi mang đến sự thành công trong việc tổ chức, lãnh đạo của Đảng đó là “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc”. Đây chính là yếu tố quan trọng giúp cho Đảng có khả năng tổ chức, lãnh đạo, tập hợp được đông đảo quần chúng nhân dân, phát huy được sức mạnh của cả dân tộc trong sự nghiệp cách mạng. Do đó, Người nhấn mạnh: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình” .
Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng
Qua 55 năm thực hiện Di chúc, với truyền thống tốt đẹp của dân tộc, trong nhiều thập kỷ qua, Đảng và Nhà nước Việt Nam hết sức coi trọng việc chăm lo đời sống vật chất, tinh thần đối với nhân dân, các đối tượng có công, thương binh, bệnh binh, thân nhân liệt sĩ và gia đình người có công với nước. Đến nay, cơ bản mọi gia đình người có công đã có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của nhân dân địa phương nơi cư trú. Thực hiện tốt chính sách chăm sóc, đãi ngộ người có công với cách mạng không chỉ là đền ơn đáp nghĩa, phát huy truyền thống yêu nước, đạo lý nhân văn của dân tộc, mà còn có ý nghĩa, là “đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta” như Bác Hồ đã viết trong Di chúc.
Để tạo ra tiềm lực lớn hơn, đền ơn đáp nghĩa, Đảng, Nhà nước luôn không ngừng nỗ lực đề ra các kế hoạch phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân, thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ, những phong tục tập quán không tốt dần dần được xóa bỏ... Tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội”.
Thực hiện tốt lời dạy của Bác đã viết trong Di chúc, mong muốn Đảng phải có kế hoạch thật tốt để phát triển văn hóa và kinh tế. Nghĩa là mọi chính sách của Ðảng và Nhà nước đều phải hướng tới mục tiêu từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn xác định trách nhiệm của Ðảng và Nhà nước đối với nhiệm vụ chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Người nhấn mạnh: “Cán bộ Ðảng và chính quyền từ trên xuống dưới, đều phải hết sức quan tâm đến đời sống của nhân dân. Phải lãnh đạo tổ chức, giáo dục nhân dân tăng gia sản xuất và tiết kiệm. Dân đủ ăn đủ mặc thì những chính sách của Ðảng và Chính phủ đưa ra sẽ dễ dàng thực hiện. Nếu dân đói, rét, dốt, bệnh thì chính sách của ta dù có hay mấy cũng không thực hiện được”.
Thực hiện di nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta kiến tạo đường lối đổi mới, đưa nước ta thoát khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội, từng bước ổn định kinh tế, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân lao động không ngừng được nâng cao. Từ một nước có tốc độ phát triển rất thấp sau những năm chiến tranh, nước ta trở thành một trong những nước có tốc độ phát triển cao và ổn định ở khu vực và thế giới. Sau gần 40 năm Đổi mới, "Đất nước ta chưa bao giờ có được tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay".
Các chủ trương, chính sách về phát triển kinh tế-xã hội của Đảng và Nhà nước luôn hướng tới mục tiêu không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Đến nay, Việt Nam đã trở thành một quốc gia hòa bình, thống nhất, nhân dân được sống trong độc lập, tự do, hội nhập ngày càng sâu rộng với thế giới. Quy mô GDP không ngừng được mở rộng, năm 2023 đạt 430 tỷ USD, trở thành nền kinh tế lớn thứ năm trong ASEAN. GDP bình quân đầu người năm 2023 đạt khoảng 4.300 USD, tăng 54 lần so với năm 1975 (80 USD); Việt Nam đã ra khỏi nhóm nước có thu nhập thấp từ năm 2008. Từ một nước bị thiếu lương thực, đến nay Việt Nam không những đã bảo đảm an ninh lương thực mà còn trở thành một nước xuất khẩu gạo và nhiều nông sản khác đứng hàng đầu thế giới.
Đi đôi với tăng trưởng kinh tế, Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng phát triển văn hóa, xã hội, nhờ đó đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện, mức sống và chất lượng sống ngày càng được nâng cao. Tỷ lệ hộ nghèo trung bình mỗi năm giảm đều khoảng 1,5% - từ 58% (theo chuẩn cũ) năm 1993 xuống chỉ còn 2,93% (theo chuẩn nghèo đa chiều) năm 2023.
Hệ thống giáo dục quốc dân ngày càng được hoàn thiện theo hướng mở, liên thông giữa các cấp học, trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo; quy mô giáo dục và mạng lưới cơ sở giáo dục phát triển, đáp ứng tốt hơn nhu cầu học tập suốt đời của người dân. Mạng lưới y tế, đặc biệt là y tế cơ sở ngày càng được củng cố và phát triển; nhiều dịch bệnh nguy hiểm được khống chế và đẩy lùi; nhiều công nghệ mới được nghiên cứu và ứng dụng có hiệu quả.
Tính đến hết tháng 6-2024, cả nước có 6.274/8.162 xã đạt chuẩn nông thôn mới (đạt tỷ lệ 76,86%); trong đó, có 2.115 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao. Hầu hết các xã nông thôn đều có đường ô tô đến trung tâm, có điện lưới quốc gia, trường tiểu học và trung học cơ sở, trạm y tế và đặc biệt là phủ sóng 4G đến cả những xã vùng sâu, vùng xa.
Công tác bảo đảm an sinh xã hội, chăm lo cho đời sống người lao động, nhất là các nhóm yếu thế, đối tượng chính sách tiếp tục được đẩy mạnh. Công tác bình đẳng giới ngày càng thực chất hơn, vai trò và địa vị của phụ nữ được cải thiện, nâng lên. Tuổi thọ trung bình của người dân tăng từ 62 tuổi năm 1990 lên 73,7 tuổi năm 2023. Năm 2023, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đạt mức 0,726, thuộc nhóm các nước có trình độ phát triển con người ở mức cao của thế giới. Liên hợp quốc đã công nhận Việt Nam là một trong những nước đi đầu trong việc hiện thực hóa Mục tiêu Thiên niên kỷ.
Nhìn lại 55 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta tự hào và thêm quyết tâm thực hiện tốt hơn nữa lời căn dặn của Bác trong Di chúc, nguyện chăm lo tốt nhất cho nhân dân, thực hiện thành công công cuộc đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trên hết, luôn là tình thương yêu con người
Từng là một giáo viên dạy Văn học, Ngôn ngữ, lại có nhiều năm công tác tại các xã, huyện khó khăn ở vùng Tây Bắc, sau đó công tác tại các cơ quan báo chí, văn nghệ, rồi chuyên tâm nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh, PGS, TS Nguyễn Thanh Tú đặc biệt yêu thích tư tưởng nhân văn và ngôn ngữ biểu cảm trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
PGS, TS Nguyễn Thanh Tú cho rằng, Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh tích hợp cái thâm trầm, sâu lắng, ý tại ngôn ngoại của văn hóa phương Đông; cái chi tiết, cụ thể nhưng đầy hình tượng của lối tư duy phương Tây; bao trùm lên tất cả là tinh thần cách mạng, khoa học, chiều sâu nhân văn của lý luận Mác - Lênin. Phong cách tư duy, chất trí tuệ, ngôn ngữ giản dị, gần gũi với đời thường nhưng có sức lay động tâm can của nhà hiền triết Hồ Chí Minh.
Ấy thế nhưng, bình sinh Bác là người lạc quan, hài hước. Phong cách ngôn ngữ của Bác cũng là một phong cách giàu chất lạc quan. Ngay đến khi phải viết những lời cuối cùng để vĩnh biệt, Người vẫn luôn lạc quan, chan chứa tình cảm với dân với nước, tha thiết tình người, lòng cao thượng, trong sáng và đẹp đẽ.
Yếu tố ngôn ngữ trong Di chúc của Người từng chữ, từng lời đều chân thật, gần gũi, giản dị như chính con người của Người, vì thế mỗi câu, mỗi đoạn và cả bản Di chúc đã lay động, thấm đến triệu triệu trái tim nhân dân Việt Nam. “Cuối cùng tôi để lại muôn vàn tình thương yêu…”, một cách nói sao mà thân thuộc. Chỉ riêng hai tiếng “muôn vàn” thôi cũng đủ để toàn dân hiểu rằng, tình cảm của Bác với toàn thể nhân dân, cán bộ, chiến sĩ mọi miền Tổ quốc là không thể đo đếm.
Theo PGS, TS Nguyễn Thanh Tú, từ cách sử dụng ngôn ngữ như vậy làm toát lên trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bao trùm lên tất cả chính là chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh, luôn hướng về con người, giải phóng con người. Trong bản Di chúc, có thể thấy tình yêu thương con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện ở sự quan tâm tinh thần chủ nghĩa nhân văn cao cả cùng những việc làm thiết thực cho từng đối tượng, vì từng đối tượng.
Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình, Bác căn dặn: … “Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần “tự lực cánh sinh”. Đối với liệt sĩ, mỗi địa phương (thành phố, làng, xã) cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm... Đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sĩ) mà thiếu sức lao động và túng thiếu, thì chính quyền địa phương (nếu ở nông thôn thì chính quyền xã cùng hợp tác xã nông nghiệp) phải giúp đỡ họ có công ăn việc làm thích hợp...”.
Trong chiến lược về xây dựng con người, Hồ Chí Minh đặc biệt coi trong việc đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ. Người rất quan tâm tới những chiến sĩ trẻ tuổi trong các lực lượng vũ trang nhân dân và thanh niên xung phong đã được rèn luyện trong chiến đấu và căn dặn: “Đảng và Chính phủ cần chọn một số ưu tú nhất, cho các cháu ấy đi học thêm các ngành, các nghề, để đào tạo thành những cán bộ và công nhân có kỹ thuật giỏi, tư tưởng tốt, lập trường cách mạng vững chắc. Đó là đội quân chủ lực trong công cuộc xây dựng thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở nước ta”. Đây là tư tưởng thể hiện rất rõ sự thống nhất giữa tính nhân văn cộng sản và tầm nhìn chiến lược về lựa chọn, bồi dưỡng phát huy nhân tố con người của Bác.
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn dành sự quan tâm sâu sắc đến việc bồi dưỡng, cất nhắc, giúp đỡ phụ nữ, để họ tiến bộ, bình đẳng và thật sự được giải phóng. Người căn dặn: “Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo. Bản thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên. Đó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ". Đối với nông dân là những người luôn luôn trung thành với Đảng và Chính phủ, ra sức góp của góp người trong kháng chiến, Bác đề nghị: "Miễn thuế nông nghiệp 1 năm cho các hợp tác xã nông nghiệp để cho đồng bào hỉ hả, mát dạ, mát lòng, thêm niềm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất...".
Ngay cả đối với những người Việt Nam lầm lỡ, trước đây làm việc cho chế độ cũ hoặc không lương thiện trong chế độ xã hội cũ, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ gọi họ là "nạn nhân của chế độ xã hội cũ" và nhắc nhở: "Nhà nước phải dùng vừa giáo dục, vừa dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp họ trở nên những người lao động lương thiện".
Có thể thấy rõ, tính nhân văn trong Di chúc của Người không chỉ là lòng thương yêu con người sâu sắc. Mà đó còn là sự quan tâm, biết ơn, trân trọng, tin tưởng vào sức mạnh của con người, quyết tâm hành động để mang lại hạnh phúc, ấm no cho con người, giải phóng con người.
Làm cách mạng là mang lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân
Tiếp tục mạch chuyện, PGS, TS Nguyễn Thanh Tú nhấn mạnh, trong Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Đảng ta phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”. Một câu ngắn gọn thôi, nhưng đã khái quát rõ mục đích cao nhất của sự nghiệp cách mạng là mang lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
Lấy dân làm gốc
Qua các nghiên cứu của mình, PGS, TS Nguyễn Thanh Tú cho biết, mong ước cháy bỏng của Bác là sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta hoàn toàn thắng lợi, Bác Hồ có kế hoạch xây dựng đất nước đẹp đẽ, đoàng hoàng hơn trước chiến tranh. Chính vì vậy, Bác đã viết trong Di chúc: “Đây là một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng để tạo ra những cái mới mẻ tốt tươi. Để giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của nhân dân”. Những dòng để lại ấy của Chủ tịch Hồ Chí Minh thấm đượm tư tưởng “lấy dân làm gốc”.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Nước lấy dân làm gốc, gốc có vững, cây mới bền, xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”; “Dễ mười lần không dân cũng chịu. Khó trăm lần dân liệu cũng xong”. Theo PGS, TS Nguyễn Thanh Tú, trong rất nhiều tài liệu, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần nhắc nhở cán bộ rằng: Cơm chúng ta ăn, áo chúng ta mặc, vật liệu chúng ta dùng đều là mồ hôi nước mắt của nhân dân mà ra... và “cách xa dân chúng, không liên hệ chặt chẽ với dân chúng, cũng như đứng lơ lửng giữa trời, nhất định thất bại”. Nên để củng cố và tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân, thì Đảng nhất định và phải luôn “xứng đáng là người lãnh đạo, là đày tớ thật trung thành của nhân dân”.
Hiểu tư tưởng này một cách đơn giản là: Khi nhân dân đồng lòng, việc gì cũng làm được. Nhân dân không ủng hộ, việc gì làm cũng không nên. Cho nên, suy cho cùng, khi dân tin vào Đảng và Chính phủ thì họ sẵn sàng ủng hộ mọi thứ từ vật chất, tiền bạc, lực lượng, trí tuệ đến cả việc không ngại hy sinh tính mạng của mình.
Điều này có ý nghĩa vô cùng lớn trong bối cảnh thực tế hiện nay. Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta như một nguyên lý sâu sắc đối với sự tồn tại và phát triển của đất nước. Một đất nước muốn có được sự đoàn kết thì đội ngũ lãnh đạo, cán bộ Đảng viên phải thực sự gương mẫu. Cuộc sống và hạnh phúc của người dân chính là thước đo tín nhiệm, hài lòng của người dân đối với cơ quan Đảng, Nhà nước; cán bộ, đảng viên. Điều này rất phù hợp và là tiêu chí chuẩn mực của xã hội hiện đại cũng như xu thế phát triển chung trên toàn thế giới.
Bản Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc nhở cán bộ của Đảng, Nhà nước phải lấy “dân làm gốc” bởi chính người dân sẽ góp phần quyết định sự tồn vong và phát triển của chế độ, của đất nước. Do đó, sự ấm no, hạnh phúc của nhân dân cần phải được Đảng, Nhà nước chăm lo, vun vén. “Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vĩnh biệt chúng ta, nhưng tư tưởng “lấy dân làm gốc”, dựa vào nhân dân, tin vào lực lượng, trí tuệ của nhân dân trong bản Di chúc của Người vẫn sống mãi”, PGS, TS Nguyễn Thanh Tú chia sẻ.





