Thứ Ba, 7 tháng 7, 2020

“DÂN SỰ HÓA QUÂN ĐỘI” - MỐI NGUY HẠI KHÔN LƯỜNG


Gần đây, trên mạng xã hội, diễn đàn truyền thông và thậm chí ở một số nghị trường, cụm từ “dân sự hóa quân đội”, “dân sự hóa hoạt động quân sự” xuất hiện, gây ra không ít tranh luận đa chiều. Đáng lo ngại là việc nhận thức về nội hàm, bản chất của cụm từ này chưa đầy đủ, thậm chí còn sai lệch nghiêm trọng-được xem là dấu hiệu ban đầu nhưng khá rõ nét của biểu hiện “tự diễn biến” trong chính một bộ phận cán bộ, đảng viên về vai trò, vị trí, chức năng và đặc thù hoạt động của Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam.
1. Trước hết, đó là những “hiến kế” phiến diện về việc cân đối lại ngân sách quốc gia, theo hướng giảm tỷ lệ GDP đầu tư cho hoạt động quân sự và sự nghiệp xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Các ý kiến này cho rằng, nên “dân sự hóa quân đội” theo “lối” phát huy đơn thuần các nguồn lực xã hội để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh mà không nên tập trung đầu tư xây dựng “đội quân chủ lực”, gây ảnh hưởng đến nguồn lực đầu tư cho phát triển kinh tế.
Đây thực chất là cách nhìn thiển cận, phiến diện, chưa thấy hết ý nghĩa, tầm quan trọng của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc (BVTQ). Hơn nữa, đặt trong mối quan hệ giữa “xây dựng” và “bảo vệ” Tổ quốc, thì yếu tố bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định là điều kiện cơ bản, tiên quyết để đất nước ổn định, phát triển về kinh tế và các lĩnh vực khác. Như vậy, nếu không đầu tư chăm lo, xây dựng quân đội thì cũng đồng nghĩa với việc xem nhẹ, hạ thấp nhiệm vụ BVTQ.
Với chủ trương thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và BVTQ, việc sử dụng ngân sách nhà nước cho hai nhiệm vụ này được Đảng, Nhà nước nghiên cứu, tính toán rất kỹ lưỡng, làm sao để bảo đảm trong điều kiện cụ thể có thể hoàn thành tốt hai nhiệm vụ chiến lược. Trên thực tế, do những khó khăn khách quan của tài chính quốc gia, việc đầu tư xây dựng quân đội vẫn chưa thể đáp ứng yêu cầu tiến nhanh lên chính quy, hiện đại của quân đội. Trong khi đó, với chủ trương chủ động phát huy nội lực, khắc phục khó khăn, QĐND Việt Nam luôn sử dụng nguồn kinh phí hiệu quả nhất cho nhiệm vụ quân sự, quốc phòng. Từ năm 1998 đến nay, Nhà nước đã nhiều lần công bố “Sách trắng về quốc phòng Việt Nam”. Đây là căn cứ quan trọng để nâng cao hiểu biết về quốc phòng đất nước cho công dân Việt Nam, góp phần làm cho mọi tổ chức, cá nhân hiểu rõ hơn quyền lợi, trách nhiệm trong tham gia công cuộc củng cố quốc phòng, vì sự nghiệp xây dựng và BVTQ Việt Nam XHCN.
Một biểu hiện “tự diễn biến” nghiêm trọng nữa là không ít cán bộ, đảng viên, quần chúng nhận thức hời hợt, chưa đầy đủ về tính chất, yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ BVTQ trong tình hình mới; chưa thấy rõ diễn biến phức tạp, mau lẹ của tình hình thế giới, khu vực, tiềm ẩn nhiều nguy cơ, nguy hại cả tiềm tàng lẫn trực tiếp đến nhiệm vụ BVTQ. Với chức năng, nhiệm vụ được giao, QĐND Việt Nam-lực lượng nòng cốt BVTQ rất cần những đầu tư tương xứng, giúp có đủ tiềm lực, thực lực và sức mạnh bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ thiêng liêng mà Đảng, Nhà nước, nhân dân giao phó; nhất là bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc. Ở đây, cần hiểu rất đúng, đủ về chủ trương xây dựng nền quốc phòng toàn dân (QPTD) và đặt nhiệm vụ xây dựng quân đội-“công cụ bạo lực” bảo vệ Đảng, Nhà nước, bảo vệ chế độ và nhân dân trong mối quan hệ tổng thể xây dựng 3 thứ quân: Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ. Trong các LLVT, xét về chiến lược cũng phải từng bước được đầu tư để hiện đại hóa, chính quy hóa, nhưng trước tiên và trên hết phải đặc biệt ưu tiên xây dựng QĐND Việt Nam trong mối quan hệ với các bộ phận, lực lượng khác của nền QPTD.
Một đội quân với chức năng là công cụ bạo lực phải nhất thiết được xây dựng theo hướng tinh nhuệ, hiện đại; có đủ năng lực xử lý các tình huống phức tạp. Đó là lý do vì sao Trung ương, Quân ủy Trung ương luôn nhất quán xây dựng quân đội “cách mạng”, nhưng đồng thời chú trọng xây dựng tiến lên “chính quy, tinh nhuệ, hiện đại”. Nghị quyết Trung ương khóa XI, XII, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ IX, X đều xác định phải đẩy nhanh tiến độ, chất lượng từng bước tiến lên hiện đại, ưu tiên xây dựng một số lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Đó là mục tiêu khách quan, là đòi hỏi tất yếu của sự nghiệp BVTQ. Do đó, việc tập trung quan tâm, đầu tư nguồn lực cho xây dựng quân đội là nhiệm vụ chính trị của toàn Đảng, toàn dân và sự nghiệp cách mạng.
Như vậy, những nhận thức nêu trên là hoàn toàn sai lệch, gây nhiều nguy hại trong nhận thức và hành động. Đó là một cách đánh mất, hạ thấp chức năng, nhiệm vụ của quân đội, mà trước hết là chức năng đội quân chiến đấu. Không thể đánh đồng khái niệm “dân sự hóa quân đội” với chủ trương phát huy sức dân trong thực hiện nhiệm vụ BVTQ. Đây là "hướng tư duy" có nguyên nhân do sự thiếu hiểu biết của một số cán bộ, đảng viên, nhưng thường bị các thế lực thù địch tận dụng, khai thác triệt để; dùng nhiều ngón đòn và các chiêu thức khác nhau, với nhiều giọng điệu khác nhau-khi thì đứng hẳn về phía đối lập ra sức và trực diện chống phá, khi thì như “người trong cuộc” thể hiện “thiện chí”, “tâm huyết” đối với sự nghiệp xây dựng quân đội, cố gắng “khuyên nhủ” phải đẩy nhanh “dân sự hóa quân đội”.
2. Từ việc không nhận thức đầy đủ vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ của QĐND Việt Nam, một số ý kiến đưa ra lập luận, so sánh mức lương của sĩ quan quân đội và các đối tượng hoạt động trong lĩnh vực quân sự với thu nhập của cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị nói chung. Đáng buồn là từ những ý kiến chưa toàn diện ấy, một bộ phận quần chúng do thiếu thông tin nên đã “a dua”, “cổ xúy”, “thêu dệt”… thông qua các trang mạng xã hội và tin đồn xã hội, tạo nên những luồng thông tin khó phân biệt đúng sai, ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống tâm lý xã hội.
Nguyên nhân của hiện tượng này trước hết bắt đầu từ việc chưa hiểu đúng về tính chất, đặc thù hoạt động quân sự gắn với tình hình đất nước và yêu cầu BVTQ ngày càng cao. Phản ứng lại ý kiến này, ngay trên nghị trường Quốc hội, nhiều đại biểu đã phân tích rõ đặc thù hoạt động 24/24 giờ của cán bộ, chiến sĩ quân đội; với tính chất, cường độ ác liệt, khó khăn, thử thách con người trên nhiều phương diện; đòi hỏi sự đánh đổi không chỉ bằng mồ hôi mà còn bằng máu của cán bộ, chiến sĩ. Các ý kiến đều thống nhất cho rằng, lương của sĩ quan quân đội chỉ là nguồn thu nhập duy nhất và mức lương ấy cũng còn quá thấp so với lương sĩ quan quân đội các nước trên thế giới, chỉ bảo đảm mức sống trung bình so với đời sống xã hội Việt Nam hiện tại.
Như vậy, vấn đề ở đây là vì không thấy hết tính chất hoạt động quân sự mà sinh ra "phủ nhận” vai trò và đóng góp của cán bộ, chiến sĩ quân đội. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến tư tưởng, tình cảm, trách nhiệm của những người đang trực tiếp thực hiện nhiệm vụ BVTQ. Thực tế cho thấy, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, dù trong điều kiện thời bình nhưng vẫn có không ít cán bộ, chiến sĩ quân đội anh dũng hy sinh vì chủ quyền Tổ quốc và hạnh phúc của nhân dân, trở thành những tấm gương sáng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng giai đoạn mới, được xã hội và quần chúng tôn vinh, trân quý.
Trong dịp này, Đại hội Thi đua Quyết thắng toàn quân lần thứ X vừa diễn ra thành công tốt đẹp. Tại đây, lãnh đạo Đảng, Nhà nước, quân đội vinh danh hàng trăm điển hình tiên tiến-những tập thể, cá nhân ngày đêm cần mẫn hy sinh cho lợi ích quốc gia, dân tộc, BVTQ, phục vụ nhân dân. Đó là hình ảnh những con người hành quân vào vùng bão lũ cứu dân; đi ngược dòng người “tránh” đại dịch Covid-19, đến với biên cương chốt chặn, đẩy lùi dịch bệnh. Đó là những cán bộ, chiến sĩ chắc tay súng, ngày đêm bảo vệ vùng biển, vùng trời; những người phải chịu thương tật, thậm chí hy sinh khi đấu tranh với tội phạm, bảo vệ cuộc sống bình yên cho nhân dân và nền hòa bình cho đất nước, khu vực.
Như vậy, “đánh đồng” tính chất hoạt động quân sự với hoạt động nghiệp vụ chuyên môn của cán bộ, công chức trên lĩnh vực dân sự là một cách tư duy hoàn toàn không đúng với thực tế, cần phải được khắc phục triệt để. Thay vào đó, cần phải thống nhất nhận thức từ Trung ương đến địa phương, từ cán bộ đến quần chúng về đặc thù hoạt động quân sự; cần thấu hiểu, chia sẻ và sớm có thêm những chủ trương, giải pháp mới, đồng bộ, cùng với những hành động thiết thực của toàn xã hội nhằm giúp đỡ, hỗ trợ tốt hơn cho cán bộ, chiến sĩ đang thực hiện nhiệm vụ BVTQ; kịp thời động viên, quan tâm hơn nữa đến tư tưởng, tình cảm, đời sống vật chất của cán bộ, chiến sĩ.
3. Các biểu hiện tư tưởng, tư duy, nhận thức nêu trên, khi vừa nghe qua, có thể giản đơn nhận định đây chỉ là những biểu hiện đơn lẻ, vô hại, nhưng xét về thực chất, nhận diện một cách sâu sắc, có thể khẳng định: Đây là một khuynh hướng sai lệch nghiêm trọng trong nhận thức và tư duy, mang lại nhiều hệ lụy và hậu quả to lớn, ảnh hưởng đến quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của quân đội; tác động trực tiếp đến kết quả xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; chi phối nghiêm trọng đến công cuộc xây dựng nền QPTD và tiềm lực sức mạnh quân sự đủ mạnh đáp ứng yêu cầu BVTQ trong tình hình mới.
Để đẩy lùi các biểu hiện nêu trên, cấp ủy, chính quyền địa phương các cấp cần chú trọng giáo dục, tuyên truyền uốn nắn, chỉnh sửa kịp thời những nhận thức lệch lạc; quán triệt sâu sắc hơn nữa quan điểm của Đảng, Nhà nước về xây dựng quân đội; kiên quyết khắc phục các hiện tượng thụ động, hoặc chỉ hô hào chung chung mà trên thực tế không đấu tranh với những lập luận “dân sự hóa quân đội” như thời gian qua. Cần vạch rõ bản chất phản khoa học và tính chất nguy hiểm, cùng những tác hại của những quan điểm nêu trên. Cần tổ chức lực lượng đấu tranh, tranh luận, đối chất, chất vấn với những cán bộ, đảng viên, quần chúng có cách suy nghĩ thiển cận; nâng cao tính Đảng, tính chiến đấu, tính khoa học, sự nhạy bén và sắc sảo trong kết hợp đấu tranh phòng, chống các xu hướng “dân sự hóa quân đội” với các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong chính hàng ngũ cán bộ, đảng viên.
Cùng với đó, các cấp ủy, chính quyền, cơ quan chức năng, nhất là lực lượng ở các viện nghiên cứu, học viện, nhà trường quân đội chú trọng tổ chức nghiên cứu đồng bộ, toàn diện về vấn đề “dân sự hóa quân đội” một cách khách quan, toàn diện. Có thể phối hợp đẩy mạnh tuyên truyền trong đội ngũ, coi trọng chia sẻ tài liệu, tri thức trên các diễn đàn truyền thông, báo chí và thậm chí là ở diễn đàn nghị trường chính thức, kết hợp với phát huy tuyên truyền miệng và các hình thức tuyên truyền khác. Cần có chính sách rõ ràng, phù hợp, hợp lý cả về vật chất và tinh thần, có cơ chế xuất bản, phát hành rộng rãi những sản phẩm đấu tranh tư tưởng, lý luận, phòng, chống xu hướng này; sớm công khai, công bố rộng rãi, góp phần thống nhất nhận thức, tư duy chính thống.
Cùng với đó, cấp ủy, chính quyền các cấp tiếp tục đẩy mạnh giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao trình độ dân trí, tạo ra sự “miễn dịch” trong cộng đồng, tăng sức “đề kháng” để ngăn chặn, loại trừ sự thẩm thấu và xâm nhập của các luồng tư tưởng, tư duy sai lệch về tính chất đặc thù hoạt động quân sự; về vai trò, vị trí, chức năng của QĐND Việt Nam; tin tưởng sâu sắc vào truyền thống, bản chất của QĐND Việt Nam anh hùng và phẩm chất tốt đẹp Bộ đội Cụ Hồ trong thời kỳ mới. Làm được như vậy thì dù các thế lực thù địch có chống phá quyết liệt; âm mưu, thủ đoạn “phi chính trị hóa” quân đội có thâm độc và tinh vi như thế nào chăng nữa, dù những nguy cơ và biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có phức tạp, chi phối tiêu cực thì cũng sẽ bị vô hiệu hóa.

Những kẻ “dân chủ cuội” tiếp tục tuyên truyền chống phá Đại hội XIII của Đảng


Trước thềm Đại hội XIII của Đảng, các thế lực thù địch càng gia tăng các hoạt động tuyên truyền chống phá với nhiều thủ đoạn tinh vi. Hoạt động của chúng không còn thực hiện đơn lẻ mà được tiến hành ồ ạt, với việc huy động cùng lúc nhiều lực lượng, phương tiện, tuyên truyền tập trung về một chủ đề thống nhất trong một khoảng thời gian nhất định. Vì vậy, cần nhận diện, vạch mặt bonj chúng để chủ động đề ra các biện pháp đấu tranh, ngăn chặn.
Có thể thấy, các hoạt động tuyên truyền chống phá của chúng có những dấu hiệu đặc trưng như sau:
Một là, chủ thể khởi xướng các hoạt động chống phá chủ yếu là các trung tâm, tổ chức thù địch Việt Nam ở nước ngoài như: Các tổ chức khủng bố, phản động lưu vong (“Việt Tân”, “Đảng Dân chủ nhân dân”, “Đảng Vì dân”; các trung tâm truyền thông nước ngoài (Đài BBC tiếng Việt, VOA tiếng Việt, RFA tiếng Việt…); các tổ chức quốc tế, NGO nước ngoài (“Theo dõi Nhân quyền thế giới - HRW”, “Phóng viên không biên giới - RSF”…). Ngoài ra còn có, các hoạt động chống phá Đại hội XIII của Đảng còn được tiến hành mạnh mẽ, quyết liệt với sự phối kết hợp của nhiều lực lượng thù địch cả trong và ngoài nước, nhất là số dân biểu cực hữu trong chính giới các nước Mỹ, phương Tây; số đối tượng chống đối chính trị trong nước.
Hai là, nội dung tuyên truyền được hướng theo một chủ đề thống nhất, như: Tuyên truyền chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng; tuyên truyền chống phá vai trò lãnh đạo của Đảng, đòi xóa bỏ Điều 4 Hiến pháp 2013; tuyên truyền chống phá cương lĩnh, dự thảo các văn kiện Đại hội; tuyên truyền xuyên tạc nguyên tắc tổ chức, vấn đề nhân sự Đại hội XIII... Đồng thời, kêu gọi sửa đổi “toàn diện” văn kiện, đường lối chính trị theo hướng đa nguyên, đa đảng, xóa bỏ vai trò “độc tôn” của Đảng; thay đổi hệ thống tổ chức bộ máy Nhà nước; xây dựng nền kinh tế đa sở hữu bắt đầu từ năm 2021. Có thể thấy rõ ý đồ này qua các bài viết: “Vài suy nghĩ trước thềm Đại hội XIII”, “Việt Nam: Liệu Đại hội Đảng XIII sẽ có khác biệt?”, “Các nhóm thân hữu và tắc nghẽn thể chế đang gây hại cho Việt Nam”, “Góp ý chuẩn bị Đại hội XIII Đảng Cộng sản Việt Nam”, “Về Đảng cầm quyền”, “Bản kiến nghị về Đại hội XIII”…vv.
Ba là, các hoạt động chống phá được tiến hành trong một khoảng thời gian nhất định, với nhiều lực lượng, phương tiện tham gia. Chống phá Đại hội Đảng XIII chủ yếu được tiến hành vào thời điểm trước và trong khi diễn ra Đại hội XIII của Đảng. Đặc biệt, ngay trước thời điểm diễn ra Đại hội, các hoạt động chống phá này sẽ được gia tăng về cấp độ, tính chất và quy mô, sau đó sẽ giảm dần và kết thúc khi Đại hội Đảng XIII của Đảng kết thúc.
Bốn là, các chiến dịch tuyên truyền chống phá Đại hội XIII của Đảng thường trải qua 3 giai đoạn là “giai đoạn chuẩn bị”, “giai đoạn tiến hành” và “giai đoạn kết thúc” dạng như các “chiến dịch” với các quy mô và cấp độ khác nhau.
Năm là, mục đích trực tiếp của cáchoạt động này để chống phá Đại hội XIII của Đảng là nhằm phá hoại công tác chuẩn bị Đại hội, phá hoại công tác nhân sự; phá hoại các dự thảo văn kiện; gây mâu thuẫn, chia rẽ, nghi kỵ, mất đoàn kết nội bộ Đảng; làm suy giảm niềm tin của các tầng lớp nhân dân, cán bộ, đảng viên với Đảng, Nhà nước và chế độ; làm cho Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII không diễn ra theo kế hoạch hoặc không đạt được các mục đích, yêu cầu đề ra.
Bên cạnh đó, chúng còn hướng tới những mục tiêu khác như: Xuyên tạc, phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng, chủ trương, đường lối của Đảng; hạ thấp uy tín và thành quả cách mạng; gây nhiễu loạn thông tin; gây mâu thuẫn, chia rẽ, mất đoàn kết nội bộ; kích động các hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước.
Từ nay đến khi diễn ra Đại hội XIII của Đảng, các thế lực thù địch, đối tượng phản động, cơ hội chính trị, bất mãn sẽ càng đẩy mạnh thực hiện các hoạt động tuyên truyền chống phá. Đặc biệt, chúng sẽ triệt để khai thác các ứng dụng, dịch vụ, tiện ích trên không gian mạng để tán phát “đơn thư”, “kiến nghị”, “thư ngỏ”, “đơn tố cáo”, qua đó gây áp lực hoặc hạ uy tín, tạo luồng dư luận xấu về lãnh đạo Đảng, Nhà nước. Bởi vậy, hơn lúc nào hết, chúng ta cần nâng cao cảnh giác, kịp thời phát hiện và chủ động đấu tranh, ngăn chặn các “chiến dịch tuyên truyền” này.

Thứ Hai, 6 tháng 7, 2020

ĐẤU TRANH PHÒNG CHỐNG “TỰ DIỄN BIÊN”, “TỰ CHUYỂN HÓA” TRONG CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN TRƯỚC THỀM ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ XIII CỦA ĐẢNG


Hiện nay, "tự diễn biến", tự chuyển hóa trong cán bộ, đảng viên đang diễn biến hết sức phức tạp, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những cán bộ, đảng viên giữ vị trí lãnh đạo quản lý suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng, tham nhũng... cùng với một số cán bộ, đảng viên do bất đồng ý kiến, do ảnh hưởng của những quan điểm, khuynh hướng của nước ngoài đã “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” hoặc bị các thế lực thù địch mua chuộc, lôi kéo dẫn đến xa rời mục tiêu, lý tưởng của Đảng, có hành động chống lại nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng Đảng xác định: “Những biểu hiện xa rời mục tiêu chủ nghĩa xã hội, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có diễn biến phức tạp”; Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành Trung ư­ơng (Khóa XI) về Chiến l­ược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới tiếp tục khẳng định: “Những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" có xu hướng công khai nghiêm trọng hơn”.
Nhận thức rõ tính chất nguy hiểm của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, Nghị quyết Đại hội XI của Đảng khẳng định: “Chủ động phòng ngừa, đấu tranh, phê phán những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta; khắc phục sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống trọng một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên”; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI) tiếp tục khẳng định tư tưởng chỉ đạo của Đảng: “Chủ động phòng ngừa, đấu tranh, phê phán những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng”.
Đấu tranh làm thất bại âm mưu “diễn biến hòa bình”, hoạt động phá hoại, gây rối, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch trước thềm Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, bước đầu đối phó có hiệu quả với mối đe dọa an ninh phi truyền thống, kiềm chế được tốc độ gia tăng tội phạm. Tuy nhiên, các thế lực thù địch luôn tìm cách đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình”, đẩy mạnh “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, tăng cường sử dụng các biện pháp “tấn công mềm”, tập trung làm chuyển biến về chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống, thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; kích động, chia rẽ, đòi “phi chính trị hóa Quân đội”; hạ thấp, phủ nhận vai trò, uy tín lãnh đạo của Đảng nhằm xóa bỏ mục tiêu con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong thời điểm hiện nay, chúng ta đang tổ chức đại hội đảng các cấp, hướng tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, các thế lực thù địch tập trung chống phá quyết liệt hơn, với nhiều hình thức mới, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt. Những diễn biến của thế giới, khu vực và trong nước đã và đang đem lại cả thuận lợi và thời cơ, khó khăn và thách thức đan xen, đặt ra những yêu cầu mới đối với sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đất nước ta có thêm những thuận lợi, thời cơ trong giữ vững hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh. Đây chính là thời điểm tốt cho chúng ta phát huy lợi thế, tính ưu việt của chế độ, sự thông minh, tính năng động, sáng tạo, khát vọng vươn lên của con người, dân tộc Việt Nam để đi tắt, đón đầu, huy động cao độ nguồn lực, phát huy sức mạnh tổng hợp vào sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.


Trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, một trong những thủ đoạn hết sức thâm hiểm của chúng là thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ ta, nhằm tha hóa nhận thức của cán bộ, từ đó dẫn đến những thay đổi về đường lối, chính sách - những biểu hiện của chuyển hóa chế độ (xã hội chủ nghĩa) XHCN ở nước ta sang một quỹ đạo khác. Đặc biệt là, trong thời điểm hiện nay, khi tổ chức đảng các cấp đang tiến hành đại hội để tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII thì việc chống phá càng ráo riết. Các thế lực thù địch, cơ hội, bất mãn sử dụng đủ mọi chiêu trò, kể cả những việc có tính xảo trá như: Dựng chuyện, làm giả công văn giấy tờ, gửi đơn nặc danh tới các cơ quan công quyền để khiếu nại, tố cáo... Tất cả những hành động ấy là nhằm mục đích gây chia rẽ nội bộ, làm cho cán bộ, đảng viên nghi kỵ lẫn nhau, đảng viên phai nhạt niềm tin, quần chúng thiếu tin tưởng vào cấp ủy, chính quyền
Vì vậy, để làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, đòi hỏi chúng ta phải kịp thời phát hiện và triệt tiêu các mầm mống, khả năng gây ra “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trên lĩnh vực tư tưởng chính trị: Đó là sự suy thoái về tư tưởng chính trị trên các khía cạnh như: phủ nhận nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng ta là chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đòi Đảng phải từ bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ và thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập; phê phán lịch sử cách mạng Việt Nam một cách thiếu khách quan; đòi xét lại con đường đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở nước ta, kêu gọi thay bằng chế độ tư bản chủ nghĩa (TBCN); xuyên tạc, bôi nhọ hình ảnh lãnh tụ Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước, Quân đội nhân dân và Công an nhân dân.
Trên lĩnh vực kinh tế: Biểu hiện đó là sự phủ nhận đối với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay; hạ thấp, đi đến làm mất vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước XHCN; đòi tư nhân hóa nền kinh tế, xóa bỏ chế độ công hữu tư liệu sản xuất chủ yếu để thay thế bằng chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN...
Trên lĩnh vực văn hóa, xã hội, đạo đức, lối sống: Biểu hiện của quá trình này ở việc sùng bái, chạy theo văn hóa, lối sống tư sản; từ bỏ các giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc; thương mại hóa các hoạt động văn hóa một cách thái quá, đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc; đề cao chủ nghĩa cá nhân, sống xa hoa, xa rời quần chúng...
Trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh: Chúng đưa ra mọi luận điệu nào là “Lực lượng vũ trang chỉ trung thành với quốc gia, dân tộc, với nhân dân, chứ không phải trung thành với một đảng chính trị nào”; “Lực lượng vũ trang chỉ để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia và phục vụ nhân dân”. Chúng còn đưa ra những yêu cầu, kiến nghị có vẻ khách quan, khoa học, cho rằng: “Lực lượng vũ trang phải duy trì tính trung lập về chính trị”, “… phải đứng ngoài chính trị”; đòi bỏ quy định “lực lượng vũ trang phải trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam” được ghi trong Hiến pháp năm 2013 của nước ta…
Nhận rõ tính chất nguy hại của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, Nghị quyết Đại hội XI của Đảng nêu rõ: “Kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Chủ động phòng ngừa, đấu tranh, phê phán những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta; khắc phục sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên” .Vì vậy, chúng ta cần làm tốt việc phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, trước hết chú trọng vào một số biện pháp chủ yếu sau:
Thứ nhất, phải luôn giữ vững bên trong đi đôi với chủ động phòng ngừa, đấu tranh, phê phán những biểu hiện "tự diễn biến", “tự chuyển hóa”. Giữ vững bên trong là giữ vững ổn định chính trị, xã hội; kiên định mục tiêu, lý tưởng XHCN; phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc; giữ vững truyền thống và bản sắc văn hóa dân tộc... Đồng thời, chủ động đấu tranh vạch rõ âm mưu, thủ đoạn hiểm độc của các thế lực thù địch tìm cách thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ ta ở mọi nơi, mọi lúc.
Thứ hai, kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”, lấy "xây" làm cơ sở quyết định để “chống”. Trước hết, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta phải tập trung xây dựng, củng cố hệ thống chính trị luôn trong sạch, vững mạnh để  bảo đảm sự “miễn dịch” trước những tác động tiêu cực từ bên ngoài. Phát hiện kịp thời các nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ khi còn ở dạng mầm mống, khả năng để làm cơ sở đấu tranh, phê phán, ngăn chặn hữu hiệu. Đồng thời, đấu tranh kiên quyết và triệt để với tệ nạn tham nhũng, lãng phí, quan liêu, coi đó như một thứ giặc "nội xâm”, không khác gì cuộc đấu tranh làm thất bại chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.
Thứ ba, phải coi trọng công tác tổ chức, cán bộ kết hợp với tăng cường giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên vừa “hồng” vừa “chuyên”. Cần làm tốt công tác tuyển chọn, bồi dưỡng, sắp xếp cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt, chủ trì các cấp trong hệ thống chính trị, không để các thế lực thù địch lợi dụng để thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ ta. Vì thế, phải coi trọng gắn kết chặt chẽ công tác tổ chức, cán bộ với tăng cường giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên về bản lĩnh chính trị, nâng cao trình độ lý luận cách mạng, năng lực công tác, trau dồi phẩm chất đạo đức, lối sống, để mỗi người không dao động tư tưởng trước những tình huống khó khăn, phức tạp.
Trong tình hình hiện nay, các thế lực thù địch vẫn ráo riết thực hiện nhiều âm mưu, thủ đoạn nham hiểm để hòng thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ ta. Song, mọi mưu đồ của chúng có thực hiện được hay không, hoàn toàn phụ thuộc vào chính chúng ta. Vì vậy, cần khẳng định, khi mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi người dân Việt Nam luôn nhận rõ mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch trong chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá sự nghiệp cách mạng nước ta hiện nay; đồng thời, trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào cũng luôn vững niềm tin sắt son vào sự lãnh đạo của Đảng, vào sự quản lý của Nhà nước, vào thắng lợi của công cuộc đổi mới đất nước, thì sẽ góp phần phòng ngừa, đẩy lùi được nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
TMT.07.7

NHẬN DIỆN PHƯƠNG THỨC XUYÊN TẠC VỀ VẤN ĐỀ DÂN CHỦ Ở VIỆT NAM CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH


Dân chủ, nhân quyền là giá trị thiêng liêng mà toàn nhân loại hướng tới. Thế nhưng, đây cũng là chủ đề nhạy cảm mà các thế lực thù địch được sự hậu thuẫn của phương Tây luôn tìm cách lợi dụng nhằm thực hiện những động cơ, mưu đồ đen tối đối với Việt Nam
Những phương thức cụ thể mà các thế lực thù địch, phản động vẫn thường sử dụng là: lợi dụng danh nghĩa dân chủ, nhân quyền để rồi tiến hành thực hiện các “đòn” chiến tranh tâm lý, xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; lợi dụng vấn đề chống tham nhũng, những hạn chế, yếu kém trong quản lý xã hội và những vấn đề bức xúc trong đời sống nhân dân để lôi kéo, kích động gây bất ổn ở cơ sở; tác động vào nhận thức, tư tưởng, tình cảm của một bộ phận nhân dân thông qua những chiêu trò như “hỗ trợ kinh phí để thực hiện việc khiếu kiện”; thực hiện hỗ trợ nhân đạo kèm theo những điều kiện bắt buộc như tham gia hội, nhóm, diễn đàn, hội thảo,…; kích động những người bất mãn với chế độ; xuyên tạc lịch sử; lợi dụng một số sai phạm của cá nhân cán bộ, đảng viên để “đánh đồng”, “quy thành bản chất”, bôi nhọ , nói xấu cấp ủy, chính quyền các cấp...
Bên cạnh đó, chúng còn thường xuyên đăng tải và phát tán trên mạng Internet những  thông tin sai trái, dựng chuyện hoặc “có ít xít ra nhiều” một số vấn đề xã hội; “tận dụng triệt để” những bức xúc trong đời sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên để “thổi phồng”… nhằm tạo sự hoài nghi trong xã hội, làm giảm sút ý chí, từng bước hạ thấp rồi làm mất lòng tin của nhân dân vào Đảng, vào chế độ.
Những luận điệu “phán xét” về Việt Nam như “thiếu nền dân chủ”, “vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo”… thực chất chỉ là cái cớ để các tổ chức, cá nhân phản động, thù địch, cơ hội chính trị “lồng ghép” vào đó những nội dung tuyên truyền sai lệch nhằm kích động những phần tử bất mãn, phản động chống đối Đảng, Nhà nước ta, tiến tới phủ nhận con đường, mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn.
Chúng ta hiểu rằng, chiêu bài “dân chủ, nhân quyền” chỉ là một trong những âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” mà các thế lực thù địch, cơ hội chính trị đã và đang áp dụng hòng mong muốn xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, tiến tới thực hiện chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Những thủ đoạn ấy tuy không có gì mới nhưng rất nguy hiểm nên cần có sự nhận thức đúng và tích cực đấu tranh phên phán./.

ĐẤU TRANH VỚI CHIÊU BÀI “DÂN CHỦ, NHÂN QUYỀN” CỦA CÁC THẾ LỰC PHẢN ĐỘNG


Đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu “diễn biến hòa bình” và chiêu bài “dân chủ, nhân quyền” chống phá cách mạng Việt Nam là một nhiệm vụ chính trị vừa cấp bách vừa thường xuyên, lâu dài của cả hệ thống chính trị.
Đảng ta chỉ rõ: “Tăng cường đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; chủ động ngăn chặn, phản bác các thông tin, quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù địch”. Đây thực sự là cuộc đấu tranh “một mất, một còn” giữa ta và các thế lực thù địch, cơ hội chính trị. Theo đó, với phương châm chỉ đạo công tác lý luận, tư tưởng phải đi trước, đón đầu; không để “khoảng trống” thông tin để các thế lực thù địch lợi dụng, xuyên tạc chống phá; các lực lượng, cơ quan chức năng phải không ngừng nâng cao nhận thức, kỹ năng, xây dựng kế hoạch chiến lược, sách lược, tổ chức lực lượng… một cách bài bản, khoa học trọng quá trình đấu tranh, phản bác. “Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao hơn nữa tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả công tác tư tưởng,…”.
Cùng với đấu tranh “trực diện” với các thế lực thù địch, phản động, cả hệ thống chính trị phải không ngừng nâng cao ý thức cảnh giác, tăng cường “ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Với thực tiễn hơn 90 năm lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã cùng với nhân dân kiến tạo nên nhiều thành tựu rực rỡ, trong đó có những giá trị, thành quả về dân chủ, nhân quyền.
Tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo; phát huy bản chất nhân văn của chế độ; củng cố, hoàn thiện nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; nâng cao vai trò chính phủ kiến tạo vì dân; không ngừng cải cách pháp luật, cải cách hành chính để bảo vệ, tạo cơ hội và quyền lợi cho người dân; quyết tâm ngăn chặn, đẩy lùi quan liêu, tham nhũng; phát huy dân chủ, tăng cường các thể chế quốc gia bảo vệ dân chủ, nhân quyền... đã và đang là những tiêu chí, thước đo quan trọng về giá trị, ý nghĩa của dân chủ, nhân quyền không thể phủ nhận ở Việt Nam hiện nay./.

Một số thông tin về sử dụng MXH


        Việt Nam chính thức kết nối với xa lộ thông tin của thế giới vào ngày 19-11-1997. Sau hơn 20 năm phát triển, đến nay Việt Nam đã trở thành một trong các quốc gia có tỷ lệ người dùng internet cao nhất châu Á, đứng thứ 12/20 quốc gia dẫn đầu thế giới về số người dùng internet.
Internet và mạng xã hội (MXH) ở Việt Nam đã trở thành công cụ vô cùng quen thuộc, là “một phần tất yếu” trong cuộc sống của người dân, góp phần quan trọng vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ đất nước. Thế nhưng, vừa qua trên một vài trang mạng vẫn xuất hiện những giọng điệu cho rằng: Việt Nam vi phạm tự do internet, tự do MXH.
Bức tranh sinh động
          Nhà nước Việt Nam luôn nhất quán chủ trương, chính sách tôn trọng và bảo vệ các quyền tự do cơ bản của con người, trong đó có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tiếp cận thông tin, tự do internet nói chung và MXH nói riêng. Điều này đã được hiến định trong Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013, được cụ thể hóa trong nhiều luật, nghị định cùng nhiều văn bản pháp luật khác và được biểu hiện sinh động trên thực tế.
         Ngoài các báo điện tử, các trang tin, thông qua MXH (Facebook, YouTube, Lotus, Viber, Zalo, Twitter, Instagram...), người dân Việt Nam có thể tự do chia sẻ thông tin, hình ảnh, clip, bày tỏ quan điểm, ý kiến cá nhân của mình về mọi vấn đề của đời sống xã hội. Trong hệ thống chính trị, bộ máy hành chính từ Trung ương đến địa phương ở Việt Nam ngày càng nhiều cơ quan, tổ chức sử dụng MXH để làm việc, giải quyết các thủ tục hành chính, giữ mối liên hệ với người dân, nắm bắt và giải quyết kịp thời những tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nhân dân…
         Hệ thống pháp luật của Việt Nam về quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tiếp cận thông tin của công dân là cơ bản đầy đủ, đồng bộ và tương thích với luật quốc tế về quyền con người. Đặc biệt, Luật An ninh mạng (ANM), sau một năm có hiệu lực đã dần đi vào cuộc sống, mang lại những hiệu quả rất rõ nét, thiết thực trong đời sống xã hội. Trước, trong và sau khi luật ra đời, không ít thông tin xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động cho rằng việc Việt Nam ban hành Luật ANM là "vi phạm quyền con người, bóp nghẹt tự do dân chủ, tự do ngôn luận...".             Thực tế, sau một năm thực thi đã chứng minh Luật ANM hoàn toàn không vi phạm quyền con người, không bóp nghẹt tự do ngôn luận, mà ngược lại đã tạo nên nền tảng pháp lý vững chắc, phòng ngừa, đấu tranh, xử lý các hoạt động vi phạm pháp luật trên không gian mạng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân... Mọi cá nhân vẫn được bày tỏ chính kiến trên không gian mạng, tự do ngôn luận hoàn toàn không bị hạn chế nếu chấp hành các quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, luật đã giúp tạo môi trường lành mạnh, an toàn. Nhiều thông tin, bài viết, video clip ảnh hưởng tiêu cực đến chuẩn mực, đạo đức xã hội đã được ngăn chặn, xử lý; đời tư cá nhân được bảo vệ; hoạt động kinh doanh trên môi trường mạng được bảo đảm; các đối tượng tung tin sai lệch, nhất là về dịch Covid-19 gây hoang mang dư luận, ảnh hưởng đến công tác phòng, chống dịch đã bị xử lý.

Tỉnh táo trong tiếp nhận thông tin trên mạng


            Quan điểm về internet, MXH và tham gia MXH của một số người chưa đúng, chưa đầy đủ. Không ít người dùng nghĩ rằng tự do internet, tự do MXH là vô hạn, không thấy rõ sự gắn bó giữa quyền lợi với nghĩa vụ và trách nhiệm của mình khi tham gia MXH. Do cách nhìn thiên về mặt trái của MXH nên vẫn có người nhìn nhận MXH với thái độ thành kiến. Đi kèm với tốc độ phát triển mạnh mẽ của internet, MXH, Việt Nam cũng là quốc gia có nguy cơ xảy ra các hành vi phạm pháp từ MXH.
              Đặc biệt, tình trạng tin giả, lừa đảo, xuyên tạc, bịa đặt qua MXH là một trong những vấn đề nhức nhối nổi lên thời gian qua. Nguyên nhân của tình trạng này do đâu? Phân tích chúng ta thấy dư luận phản ứng rất mạnh mẽ trước những vấn đề thuộc giá trị đạo đức truyền thống hoặc các vấn đề nóng, vấn đề có tính thời sự cao trong đời sống xã hội. Lợi dụng yếu tố tâm lý này, nhiều người đã tạo ra các tin giả, tin lừa đảo, tin bóp méo, xuyên tạc sự thật với động cơ và mục đích cá nhân. Vì mục đích kinh tế mà một bộ phận bán hàng online cố tình tạo ra tin giả và lan truyền tin giả nhằm thu hút sự chú ý của khách hàng vào trang MXH của mình.
           Sự bùng phát của tin giả, tin xuyên tạc cũng một phần do chính những người tiếp cận thông tin, những người tham gia MXH. Do nhận thức hạn chế, thiếu kiến thức và kinh nghiệm cần thiết nên không ít người không biết thông tin mình tiếp cận là đúng hay sai, có cơ sở khoa học hay không, tác động, ảnh hưởng đến người khác, đến xã hội như thế nào nên đã đăng tải, chia sẻ, bình luận một cách tùy tiện, vô trách nhiệm...Lợi dụng điều này, các thế lực thù địch, phản động tạo ra rất nhiều thông tin giả, thông tin xấu độc nhằm tuyên truyền xuyên tạc, kích động, làm nhiễu loạn thông tin, gây hoang mang trong dư luận, tạo sự bất ổn về an ninh trật tự để chống phá Đảng, Nhà nước ta. Một số đối tượng mang danh “thực hiện quyền tự do ngôn luận” thông qua MXH để “bày tỏ quan điểm cá nhân” nhưng thực chất là tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam và đã bị xử lý trước pháp luật. Sau mỗi trường hợp bị xử lý, các thế lực thù địch, phản động lại lu loa rằng “Việt Nam vi phạm quyền tự do ngôn luận”, “vi phạm tự do internet”... Cần khẳng định rõ rằng giọng điệu ấy không nhằm mục đích gì khác là bao che, dung túng, tiếp tay cho những hành vi vi phạm pháp luật và sâu xa là chống phá Việt Nam. Tôn trọng và bảo vệ quyền tự do MXH là nhiệm vụ của mọi quốc gia trên thế giới. Nhưng cũng như các quyền cơ bản khác, quyền tự do MXH chỉ được bảo vệ khi nó được dùng vào mục đích đúng đắn và phục vụ lợi ích chung của cộng đồng. Mọi hành vi lợi dụng quyền này để vi phạm pháp luật thì không chỉ có Việt Nam mà ở hầu hết các quốc gia trên thế giới đều phải xử lý nghiêm minh.
Để đối phó với nạn tin giả, tin xấu độc trên không gian mạng, trước hết cần tuyên truyền, giáo dục để mọi người thấy rõ tính nguy hại của vấn đề; nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của người dân, nhất là người tham gia MXH cần tỉnh táo trong tiếp cận thông tin để tránh bị lợi dụng tiếp tay cho kẻ xấu, đồng thời tích cực đấu tranh với vấn nạn tin giả.
           Tin giả lan truyền nhanh nhất ở bộ phận độc giả thiếu hiểu biết nhưng lại quá nhẹ dạ, cả tin… Do vậy, mỗi người cần đề cao trách nhiệm tự thân, nâng cao trách nhiệm đối với các nội dung được đăng tải, chia sẻ. Có thể ví MXH như cái chợ, ở đó người ta bán đủ thứ thông tin, hình ảnh mà không ai kiểm chứng, kiểm duyệt. Ở đó có cả hàng thật lẫn hàng giả, hàng nhái; lẫn cả hàng tươi ngon với hàng ôi thiu… Mỗi chúng ta hãy trở thành những người “tiêu dùng thông thái” khi tham gia vào chợ thông tin này. Hãy giữ cho mình tác phong thận trọng và luôn mang tâm thế của người hiểu biết, tỉnh táo. Chỉ có như vậy mới tạo ra cho mình một bộ lọc chuẩn trong thời đại "bão" thông tin này.

Chế tài xử phạt khi vi phạm về an ninh mạng



            Cũng như hầu hết các quốc gia trên thế giới, Việt Nam luôn tôn trọng và bảo vệ các quyền tự do cơ bản của con người, trong đó có tự do internet, MXH. Mặt khác, đối với những người vi phạm các quy định của pháp luật trên không gian mạng, đăng phát các thông tin thất thiệt, lừa đảo, xuyên tạc, xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân...các cơ quan chức năng của Việt Nam sẽ xử lý nghiêm minh theo pháp luật. Việt Nam kiên quyết phản đối, đấu tranh với mọi hành vi lợi dụng quyền con người nói chung và quyền tự do internet, MXH nói riêng để chống phá, can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam.
            Ngày 3-2-2020, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Nghị định số 15/2020/NĐ-CP về “xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử” thay thế Nghị định số 174/2013/NĐ-CP ngày 13-11-2013.
Nghị định số 174/2013/NĐ-CP của Chính phủ đã quy định khá cụ thể về hành vi thông tin sai sự thật trên môi trường viễn thông. Nhưng quá trình tổ chức thực hiện có những hạn chế và diễn biến tình hình đã thay đổi, xuất hiện những kẽ hở, mức độ xử phạt chưa đủ sức răn đe... Vì thế mà tình trạng dùng MXH, trang thông tin, tài khoản cá nhân để đăng thông tin sai sự thật chưa giảm, thậm chí có chiều hướng gia tăng.
             Nghị định số 15/2020/NĐ-CP ra đời với 124 điều, đã quy định rõ hơn, chi tiết hơn về hành vi vi phạm hành chính, hình thức xử phạt, mức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả, thẩm quyền lập biên bản và thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực. Đây được xem là phương thuốc mạnh hơn trong việc phòng, chống những thông tin giả, sai lệch, xấu độc đang lan tràn trên không gian mạng thời gian vừa qua.
Hệ thống pháp luật của Việt Nam ngày càng hoàn thiện, đồng bộ, kịp thời điều chỉnh mọi mặt của đời sống. Việc đưa pháp luật vào cuộc sống, nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật cho người dân đang được các cấp, các ngành, các địa phương chú trọng thực hiện. Cùng với đó, trong thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, điều quan trọng đối với mỗi người dân là phải hết sức bình tĩnh, tỉnh táo trong tiếp nhận và xử lý thông tin. Trong khi thực hiện quyền của mình, mỗi người còn phải tôn trọng quyền và lợi ích của tập thể, cá nhân; luôn đặt lợi ích quốc gia-dân tộc lên hàng đầu, thể hiện rõ tinh thần thượng tôn pháp luật.
              Việc Việt Nam ban hành Luật ANM, Nghị định số 15/2020/NĐ-CP và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan thực chất là nhằm bảo vệ quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tiếp cận thông tin, tự do internet, tự do MXH của người dân ngày càng tốt hơn; làm cho môi trường mạng của Việt Nam ngày càng trong lành và an toàn hơn, phục vụ tốt cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Luận điệu cho rằng Luật ANM, Nghị định số 15/2020/NĐ-CP cùng các văn bản quy phạm pháp luật mà Việt Nam ban hành và thực hiện là "bóp nghẹt tự do dân chủ, tự do ngôn luận...", “vi phạm tự do mạng xã hội”... thực chất là hành vi tuyên truyền xuyên tạc chống phá Đảng, Nhà nước ta. Việt Nam luôn hướng đến xây dựng Nhà nước pháp quyền, tiến bộ, dân chủ và văn minh, trong đó các quyền con người nói chung, quyền tự do internet, tự do MXH nói riêng được tôn trọng và bảo đảm. Đồng thời, Việt Nam kiên quyết vạch trần và đấu tranh không khoan nhượng với những tổ chức, cá nhân lợi dụng vấn đề này để vi phạm pháp luật, đi ngược lại lợi ích của đất nước và nhân dân.


          Đã thành thông lệ, mỗi khi đất nước chuẩn bị diễn ra các sự kiện chính trị trọng đại thì các thế lực thù địch và những kẻ cơ hội chính trị lại triệt để lợi dụng để chống phá quyết liệt. Lần này cũng vậy, trong lúc toàn Đảng ta đang tiến hành đại hội Đảng các cấp, tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, chúng lại tìm mọi thủ đoạn để tán phát, truyền bá các quan điểm sai trái, phản động, công kích sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong đó tiếp tục tung ra những luận điệu đòi “phi chính trị hóa” Quân đội nhân dân Việt Nam.
Chúng ta không lạ lẫm với những chiêu trò cũ rích, nhưng ngày càng tinh vi và thâm hiểm mà các thế lực thù địch tung ra để chống phá Đảng, Nhà nước ta, chống phá QĐND với mọi luận điệu; nào là “Lực lượng vũ trang chỉ trung thành với quốc gia, dân tộc, với nhân dân, chứ không phải trung thành với một đảng chính trị nào”; “Lực lượng vũ trang chỉ để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia và phục vụ nhân dân”. Chúng còn đưa ra những yêu cầu, kiến nghị có vẻ khách quan, khoa học, cho rằng: “Lực lượng vũ trang phải duy trì tính trung lập về chính trị”, “… phải đứng ngoài chính trị”...
Mọi luận điệu mà các thế lực thù địch tung ra và liên tục cổ súy nói trên không ngoài mục đích nhằm thúc đẩy “tự diễn biến,” “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng ta và trong Quân đội nhân dân, làm cho lực lượng này xa rời mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, biến chất về chính trị, mất sức chiến đấu, bị vô hiệu hóa vai trò là chỗ dựa vững chắc của Đảng, Nhà nước và nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Khi sức mạnh của lực lượng vũ trang bị phân rã, sẽ là thời cơ để các lực lượng chính trị phản động “đục nước béo cò”, đẩy đất nước lâm vào tình trạng rối ren, mất ổn định, chệch hướng đi lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, cần vạch rõ sự xảo trá, ngụy biện cùng các thủ đoạn rất tinh vi, xảo quyệt và thâm hiểm của các thế lực thù địch chống phá lực lượng vũ trang ta trên cả lĩnh vực lý luận và thực tiễn.
Trên lĩnh vực lý luận. Quân đội luôn gắn chặt với giai cấp, nhà nước sinh ra nó và mang bản chất giai cấp sâu sắc. Vì thế, không thể có và không bao giờ có lực lượng vũ trang “phi giai cấp”, “siêu giai cấp”, “phi chính trị”, “đứng ngoài chính trị”. V.I.Lê-nin đã vạch rõ bản chất phản động của luận điệu lực lượng vũ trang “đứng ngoài chính trị”, coi đó là “cái giáo lý tầm thường”, “giả nhân, giả nghĩa và dối trá”; và Người đã khẳng định một cách dứt khoát: Không thể có quân đội, công an “trung lập về chính trị”, “… đó chỉ là khẩu hiệu của bọn tôi tớ giả nhân, giả nghĩa của giai cấp tư sản và của chế độ Nga hoàng, bọn này trong thực tế bao giờ cũng lôi kéo quân đội vào chính trị phản động”. Vì thế, mọi luận điệu “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang thực chất chỉ là chiêu trò lừa bịp những ai nhẹ dạ, cả tin, ấu trĩ về chính trị mà thôi.
Trên bình diện thực tiễn. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thành lập, giáo dục, rèn luyện Quân đội nhân dân. Trong suốt quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn kiên định nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân đội nhân dân. Vì vậy, Quân đội nhân dân mang bản chất giai cấp công nhân của Đảng Cộng sản Việt Nam, có tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc. Đảng ta luôn quan tâm chăm lo xây dựng Quân đội nhân dân theo phương hướng “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại,” lấy xây dựng vững mạnh về chính trị làm cơ sở để nâng cao sức mạnh tổng hợp của lực lượng Quân đội nhân dân, đủ sức hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội trong mọi điều kiện, tình huống.
Lịch sử chiến đấu, xây dựng và trưởng thành của Quân đội nhân dân cho thấy, chỉ dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, thống nhất, với đường lối vũ trang cách mạng đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, Quân đội nhân dân mới có đủ bản lĩnh, năng lực, thực sự là chỗ dựa tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân trong thực hiện các chủ trương, đường lối, chiến lược bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội; chủ động phòng ngừa, tấn công làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình”, bạo loạn, lật đổ của các thế lực thù địch, phản động, phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội và đối ngoại của đất nước. Vì vậy, Quân đội nhân dân Việt Nam không bao giờ xa rời bản chất chính trị của Đảng; cũng như không bao giờ sao nhãng mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Đảng là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng chính là nhân tố quyết định trưởng thành và chiến thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam nói riêng và lực lượng vũ trang nói chung.
Mọi luận điệu của các thế lực thù địch kêu gọi “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” ở Việt Nam, cổ súy quan điểm chuyên nghiệp hóa lực lượng quân đội và công an, đòi “lực lượng vũ trang phải trung lập về chính trị”, đòi bỏ quy định sự trung thành của lực lượng vũ trang đối với Đảng Cộng sản Việt Nam… Đó chính là những cái bẫy “phi chính trị hóa” hết sức tinh vi và thâm hiểm của các thế lực thù địch. Bài học đắt giá về sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu; và gần đây là những sự kiện ở bất ổn chính trị-xã hội liên miên, kéo dài làm suy yếu đất nước đang diễn ra ở một số nước châu Á, châu Âu và hàng loạt nước theo thể chế đa nguyên, đa đảng ở Trung Đông, Bắc Phi, khiến chúng ta phải hết sức cảnh giác, không mắc mưu trước những chiêu trò “phi chính trị hóa” Quân đội nhân dân Việt Nam của các thế lực thù địch./.
TMT. 07.7.20


Một đất nước, một dân tộc phi thường


Cho tới nay, cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của Mỹ vẫn giữ kỷ lục là cuộc chiến có số lượng bom được ném nhiều nhất trong lịch sử thế giới.

Tổng số bom mà máy bay Mỹ ném xuống Việt Nam là 7,85 triệu tấn, gấp gần 3 lần tổng số bom mà tất cả các nước đã sử dụng trong Chiến tranh thế giới thứ hai và tương đương sức công phá của 250 quả bom nguyên tử mà Mỹ ném xuống Hiroshima.

Tính bình quân mỗi người Việt Nam thời đó phải chịu đựng khoảng 250kg bom ném xuống từ máy bay Mỹ. Đó là chưa kể tới 7,5 triệu tấn đạn dược được Mỹ sử dụng trên mặt đất (gồm lựu đạn, mìn, thuốc nổ, đạn súng pháo các loại) và 45.260 tấn (khoảng 75 triệu lít) chất độc hóa học được Mỹ rải xuống.
Khép lại quá khứ nhưng vẫn phải nhắc lại lịch sử hào hùng của dân tộc. Để con cháu ta thấy rằng có được như ngày hôm nay dân tộc ta đã trải qua bao hy sinh, gian khổ, phải trả bằng máu và nước mắt. Hãy trân trọng điều đó và có trách nhiệm giữ gìn.
Hải Đăng st

NHẬN DIỆN ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN CHỐNG PHÁ ĐẠI HỘI ĐẢNG LẦN THỨ XIII CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH


Những âm mưu, thủ đoạn các thế lực thù địch tập trung chống phá, “diễn biến hòa bình” đối với cách mạng Việt Nam có thể tổng quát phương châm của họ là: lấy chống phá về chính trị, tư tưởng làm khâu đột phá; lấy mua chuộc kinh tế làm mũi nhọn; lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo làm ngòi nổ; dùng ngoại giao để hỗ trợ, hậu thuẫn. Đối với “chiến dịch” chống phá Đại hội XIII của Đảng, âm mưu, phương thức, thủ đoạn của họ thể hiện ở một số điểm sau đây:
Một là, Xuyên tạc bản chất ưu việt của chế độ XHCN, thể chế chính trị ở Việt Nam, hướng lái từ bỏ mục tiêu, con đường đi lên CNXH. Đây là cái đích trong chiến lược “diễn biến hoà bình”; tác động vào nhận thức, nội bộ nhằm thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, hiện thực hóa mục tiêu chệch hướng XHCN, thủ tiêu chế độ xã hội, lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam.
Hai là, Xuyên tạc nền tảng tư tưởng, chủ trương, đường lối của Đảng, công tác cán bộ, nhân sự Đại hội XIII, thực tiễn công tác phòng, chống tham nhũng của Đảng trong nhiệm kỳ qua… suy diễn xuyên tạc, vẽ ra tình cảnh “khủng hoảng toàn diện”, “tình thế hiểm nghèo”, “Tổ quốc lâm nguy”, “nội bộ lục đục, mất đoàn kết”… Thực tế chỉ là ngụy tạo để đòi hỏi phải “cải cách”, “đổi mới” chính trị từ gốc là từ bỏ nền tảng tư tưởng, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh chính trị, đường lối của Đảng.
Ba là, Với luận điệu sai trái, thù địch nêu trên, họ nhằm tạo nhận thức sai lệch, mơ hồ, hoài nghi, hoang mang, dao động, tác động vào niềm tin của cán bộ, đảng viên, nhân dân vào vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Kích động người dân, nhất là phần tử cơ hội, bất mãn, khoét sâu yếu kém, hạn chế, bất cập, tạo tâm lý bức xúc, chống đối, mất an ninh, trật tự trong đời sống xã hội.
Bốn là, Phương thức của họ là triệt để lợi dụng kênh truyền thông internet, mạng xã hội, các trung tâm truyền thông, các trang mạng, blog hải ngoại tạo thành “chiến dịch” đồng loạt, “tiền hô hậu ủng”, cổ suý, hậu thuẫn, tuyên truyền, xuyên tạc đánh vào nhận thức, tâm lý người dân theo kiểu “mưa dầm thấm lâu”, “góp gió thành bão”.
Năm là, Lợi dụng sự kiện có thật, khoét sâu vào những thiếu sót, yếu kém, hạn chế trong đời sống xã hội để tạo cớ xuyên tạc, vu cáo như: Các vụ án kinh tế, tham nhũng, tình hình Biển Đông, sự cố môi trường, vụ việc Đồng Tâm, dịch bệnh, vụ án Hồ Duy Hải, Lương Hữu Phước... Trên cơ sở đó, suy diễn, xuyên tạc theo chiều hướng tiêu cực, nhằm tạo ra những nhận thức lệch lạc, tâm lý bức xúc, ức chế, bất mãn đối với chế độ, chính quyền; kích động hành vi chống đối, biểu tình, bạo loạn, lật đổ.
Sáu là, Củng cố các tổ chức đội lốt “dân chủ”, “nhân quyền”, “xã hội dân sự”, mua chuộc, lôi kéo, tập hợp lực lượng, tổ chức, kêu gọi biểu tình trái pháp luật. Phương châm của họ là “tích tiểu thành đại”, các hoạt động, tập hợp lực lượng đủ lớn, đủ mạnh, thúc đẩy các cuộc biểu tình, “cách mạng đường phố”, “cách mạng màu” là sức ép, phương thức để lật đổ thể chế chính trị, vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước.
Rõ ràng đây là những âm mưu thâm độc, nguy hiểm với phương thức, thủ đoạn hết sức tinh vi, mỗi cán bộ, đảng viên, nhân dân cần phải đề cao cảnh giác, nhận diện, đấu tranh.

Kiên quyết đập tan âm mưu, thủ đoạn “Phi chính trị hóa” Quân đội ta


         
          Hiện nay, “Phi chính trị hóa” Quân đội ta là một âm mưu cực kỳ nham hiểm, là một mũi nhọn trong tổng thể chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng nước ta của các thế lực thù địch. “Phi chính trị hóa” quân đội tuyệt nhiên không phải là làm cho quân đội ta “không chính trị”, “trung lập”, “đứng ngoài chính trị” trong các cuộc đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp như chúng vẫn thường rêu rao, lừa phỉnh, hoặc như những nhận thức mơ hồ của một số người, mà thực chất đó là nhằm phá hủy chính trị vô sản của Quân đội ta, là lái chính trị của Quân đội ta trượt sang chính trị khác - chính trị tư sản, làm cho Quân đội nhân dân Việt Nam không còn là quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân, của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân nữa.

NHỮNG BỨC THƯ GIÀU LÒNG HIẾU NGHĨA CỦA BÁC HỒ VỚI THƯƠNG BINH, LIỆT SỸ


Ngày 27-7-1947, theo Chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, lần đầu tiên ngày Thương binh Liệt sỹ được tổ chức tại Chiến khu Việt Bắc. Từ đó hàng năm cứ đến dịp này Bác Hồ lại viết thư nhắc nhở về tổ chức ngày Thương binh Liệt sỹ sao cho thiết thực. Từ những lá thư đầu tiên cho đến Bản Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta Người luôn căn dặn đồng bào ta phải tỏ lòng hiếu nghĩa đối với thương binh, liệt sỹ.
Ở Bảo tàng Hồ Chí Minh có trưng bày một bức thư của Bác Hồ mà khách tham quan trong cũng như ngoài nước ai đọc cũng đều cảm động rơi nước mắt. Đó là bức thư Bác viết gửi một gia đình công giáo yêu nước- gia đình bác sỹ Vũ Đình Tụng đề ngày 7-1-1947, chia sẻ nỗi đau thương vô hạn với gia đình có người con trai đã anh dũng hy sinh trong những ngày đầu kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược tháng 12-1946 ở Thủ đô Hà Nội... Bác viết:“Tôi được báo cáo rằng con giai của ngài đã anh dũng hy sinh cho Tổ quốc. Tôi không có gia đình, cũng không có con cái. Tất cả thanh niên Việt Nam là con cháu tôi. Mất một thanh niên thì hình như tôi đứt một đoạn ruột. Những cháu và anh em thanh niên khác dũng cảm hy sinh để giữ gìn đất nước, thế là họ đã làm rạng rỡ dân tộc, vẻ vang giống nòi. Họ chết cho Tổ quốc sống mãi, tinh thần họ đã luôn luôn sống với non sông.”
Hải Đăng st

Sức mạnh của vũ khí không thể khuất phục được ý chí

"MỸ SẼ CHỈ CHỊU THUA TRÊN BẦU TRỜI HÀ NỘI" - CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
Ngày 19-7-1965, đến thăm Trung đoàn 324, bộ đội Phòng không-Không quân, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Dù đế quốc Mỹ lắm súng, nhiều tiền, dù chúng có B-57, B-52 hay “bê” gì đi nữa ta cũng đánh. Từng ấy máy bay, từng ấy quân Mỹ, chứ nhiều hơn nữa ta cũng đánh. Mà đã đánh là nhất định thắng”.

Vào một buổi tối mùa xuân năm 1968, Bác Hồ lại nói với đồng chí Phùng Thế Tài, lúc này là Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam đặc trách cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, ngay phút đầu đầu tiên Bác lại hỏi về B52 và nhận định: “Sớm muộn đế quốc Mỹ cũng sẽ đưa B52 ra ném bom Hà Nội rồi có thua nó mới chịu thua... Chú nên nhớ trước khi đến Bàn Môn Điếm ký Hiệp định đình chiến ở Triều Tiên, Mỹ đã cho không quân huỷ diệt Bình Nhưỡng. Ở Việt Nam, Mỹ nhất định thua, nhưng nó chỉ chịu thua sau khi thua trên bầu trời Hà Nội. Vì vậy nhiệm vụ của chú rất nặng nề”.

Chính những đường lối lãnh đạo đúng đắn và tinh thần quyết chiến vì Tổ quốc quyết sinh đã làm nên chiến thắng lịch sử Hà Nội-  “Điện Biên Phủ trên không” năm 1972 buộc Mỹ phải ký kết Hiệp định Paris, cam kết tôn trọng các quyền cơ bản của nhân dân Việt Nam, chấp nhận rút hoàn toàn quân viễn chinh Mỹ và các nước chư hầu ra khỏi lãnh thổ Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho quân và dân ta tiến lên giành toàn thắng vào mùa xuân năm 1975, thực hiện mong ước của Bác “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, tiến lên “Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”.
Hải Đăng ST

Nhận diện tác động của “diễn biến hòa bình” đến thế hệ trẻ hiện nay


Thanh niên là một bộ phận quan trọng, là vốn quý và thế mạnh trong chiến lược phát triển đất nước. Tuy nhiên, do đặc điểm tâm lý lứa tuổi và một phần do hạn chế về nhận thức, thanh niên là đối tượng trọng điểm để các thế lực thù địch, phản động mua chuộc, lôi kéo, kích động…, nhằm thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta.
Các thế lực phản động, cơ hội, chống đối chính trị… luôn triệt để lợi dụng đặc điểm tâm lý nhạy cảm, ham tiếp cận cái mới, thích tự do, tự khẳng định mình… của thanh niên, trong khi vốn sống và nhận thức chính trị-xã hội của họ còn hạn chế, để dụ dỗ, lôi kéo, tiêm nhiễm bằng cả vật chất và văn hóa, lối sống thực dụng, ngoại lai. Đồng thời, họ cũng lợi dụng những sơ hở, buông lỏng trong công tác quản lý, hoặc một bộ phận thanh niên đua đòi theo trào lưu, lối sống thực dụng, đòi xét lại quá khứ…, để lôi kéo, kích động, tập hợp thanh niên tham gia, hòng gây mất an ninh trật tự, chống đối chính quyền.
Thực tế hiện nay cho thấy, số lượng người đọc báo mạng, nhất là học sinh, sinh viên (gọi chung là thanh niên hoặc sinh viên) đang có xu thế tăng nhanh đột biến so với một vài năm trước đây; trong số những người thường xuyên truy cập mạng Internet đa số là sinh viên, đây là một thực tiễn rất đáng chú ý trên cả hai mặt tích cực và tiêu cực, trong đó có vấn đề “tư tưởng chính trị”.
Sự phát triển nhanh của mạng internet và dịch vụ viễn thông cũng đang đặt ra những thách thức mới đối với công tác tư tưởng. Các quan điểm sai trái trên mạng thường được in ấn, nhân bản với số lượng lớn nên phát tán rất nhanh trong xã hội, do đó cũng tác động đến một bộ phận không nhỏ học sinh, sinh viên. Với lượng thông tin sai trái, thù địch trên mạng lớn gấp rất nhiều lần so với cách truyền bá thủ công trước đây, lại được tuyên truyền hằng ngày hằng giờ, đã thực sự tác động mạnh mẽ đối với cộng đồng cư dân mạng. Thực tế cho thấy một bộ phận cư dân mạng, nhất là “học sinh, sinh viên, đã và đang chịu tác động tiêu cực của mặt trái công nghệ thông tin, bị mê hoặc, lung lạc bởi những ''điều phi lý'' trên mạng internet, trở thành nạn nhân "một cách rất tự nhiên". Một số thanh niên, sinh viên phai nhạt lý tưởng, mắc căn bệnh "nhạt Đảng, khô Đoàn, chán chính trị". Một số sinh viên đề cao quan điểm “dân chủ tư sản”; sống thực dụng, ích kỷ, cá biệt có hiện tượng tha hoá về nhân cách; một số viết bài cho đài nước ngoài nói xấu chế độ ta để xin học bổng…
Với mưu đồ hình thành lực lượng lâu dài về sau, nên các thế lực thù địch đã tập trung tác động vào thế hệ trẻ, họ xem đây như chiến lược con người nhằm chuyển hóa tư tưởng của học sinh, sinh viên, phai nhạt dần lý tưởng cộng sản. Học sinh, sinh viên là những lực lượng trẻ, có tri thức lại nhanh nhạy với cái mới và là đối tượng của DBHB. Kinh nghiệm thế giới cho biết, các cuộc biểu tình, đấu tranh, gây sức ép đối với chính quyền đương nhiệm diễn ra ở các nước thời gian qua, dù được tổ chức, chỉ đạo của lực lượng nào thì học sinh, sinh viên, thanh niên luôn là lực lượng nòng cốt.
Thanh niên có vai trò rất quan trọng, là lực lượng nòng cốt trong các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và trong thời kỳ đổi mới, xây dựng đất nước; trân trọng, bảo vệ và tiếp nối xứng đáng truyền thống hào hùng của Đảng và dân tộc, của thế hệ cha anh; nêu cao lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội; có ý thức, trách nhiệm, nhiệt huyết xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Trong xu thế toàn cầu hóa, cùng sự phát triển của công nghệ thông tin, tuyệt đại bộ phận thanh niên Việt Nam đều nhận thức rõ tình hình và những mưu đồ thâm hiểm của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị. Chúng đã và đang ra sức lôi kéo, tập hợp thanh niên cho những mưu đồ đen tối. Có thời điểm, một bộ phận quần chúng nhân dân không khỏi băn khoăn, lo lắng về “sức đề kháng”, khả năng “miễn dịch” của thanh niên trước những sóng gió, biến động chính trị trên thế giới và khu vực, nhất là trước âm mưu, thủ đoạn chống phá quyết liệt, thâm hiểm của các thế lực thù địch, nhằm lôi kéo, xúi giục thanh niên chống đối chính trị, nhất là ở địa bàn nhạy cảm, phức tạp.
Chính vì tình hình đó đòi hỏi chính quyền và tổ chức Đoàn các cấp, nhất là ở cơ sở cần quan tâm đổi mới, tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức công tác thanh niên, đổi mới nội dung, phương thức giáo dục chính trị, tư tưởng, lý tưởng, truyền thống, bồi đắp lý tưởng cách mạng, lòng yêu nước, xây dựng đạo đức, lối sống lành mạnh, ý thức tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật cho thế hệ trẻ. Coi trọng giáo dục ý thức cảnh giác cách mạng để thanh niên biết nhận diện, đề phòng và tránh xa những cám dỗ vật chất, văn hóa tầm thường, văn hóa ngoại lai xấu độc, biết tự bảo vệ mình,không mắc vào bẫy “phi chính trị hóa” của các thế lực thù địch. Đặc biệt, cần thẳng thắn, kiên quyết đấu tranh với những luận điệu xuyên tạc, âm mưu, thủ đoạn lôi kéo, xúi giục thanh niên chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ XHCN, góp phần cùng toàn dân, toàn quân bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng, giữ gìn bản sắc, truyền thống dân tộc, tự tin hội nhập quốc tế, góp phần nâng cao nhận thức cho lực lượng thanh niên, biết cảnh giác, đề phòng và đấu tranh ngăn chặn các âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch./.