Thứ Ba, 25 tháng 8, 2020

ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP: NGƯỜI NƯỚC NGOÀI NÓI GÌ VỀ ÔNG?

               Nhân dịp kỷ niệm 109 năm ngày sinh của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, người anh cả của Quân đội nhân dân Việt Nam, xin phép điểm qua những lời đánh giá về ông từ những người nước ngoài, cả những người từng đối địch với ông bên kia chiến tiến. Từ đó, mới thấy được tầm vóc vĩ đại của Đại tướng!

          Võ Nguyên Giáp đã xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam từ 34 người vào tháng 12 năm 1944 thành một đội quân với hơn một triệu người năm 1975. Ông đã chỉ huy quân đội tốt trong cả hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ. Tên tuổi ông gắn liền với chiến thắng Điện Biên Phủ cùng với nỗi hổ thẹn của Quân lực Hoa Kỳ tại Việt Nam, với học thuyết "Chiến tranh nhân dân", với toàn bộ cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước Việt Nam. Nhà sử học Derek Frisby gọi ông là kiến trúc sư của quân đội nhân dân Việt Nam, hoặc thậm chí có thể là của nước Việt Nam tồn tại như ngày nay.

          Ký giả nổi tiếng Oriana Fallaci, trong bài phỏng vấn nhan đề “Mỹ sẽ thua, tướng Giáp khẳng định” (Americans will lose, says General Giap), đăng trên báo Washington Post, ngày 6 tháng 4 năm 1969, mô tả Võ Nguyên Giáp như sau: "Đôi mắt của Giáp! Hẵn đây là đôi mắt thông minh nhất mà tôi từng được thấy. Sắc sảo, linh lợi, tươi vui, dữ dội – tất thảy mọi thứ. Một đôi mắt long lanh như hai tia sáng, xuyên thấu người ta tựa như hai lưỡi kiếm, ánh mắt đầy quyết đoán, uy nghi”. Fallaci cho rằng, dù ông Giáp đã khóc khi có tin Hồ Chí Minh từ trần (tin giả, khoảng năm 1943, khi Hồ Chí Minh bị Quốc dân đảng Trung Quốc cầm tù), “nhưng không một điều gì trên thế giới có thể buộc được cặp mắt ấy đẫm lệ một lần nữa”. Võ Nguyên Giáp tin chắc rằng quân Mỹ sẽ phải rút dần khỏi Việt Nam, rồi họ sẽ phải từ bỏ cuộc chiến tranh vì nó ngày càng ngốn nhiều nguồn lực, đẩy Hoa Kỳ đến bờ vực thẳm của lạm phát. Tháng 11 năm 1972, khi được Henry Kissinger cho phép phỏng vấn, Fallaci viết: "Câu hỏi đầu tiên của Kissinger là về tướng Giáp, “như đã bảo cô, tôi không bao giờ cho phỏng vấn riêng. Lý do tôi cho phép cô phỏng vẫn là do tôi đã đọc bài phỏng vấn tướng Giáp của cô. Rất hay. Ông Giáp là người thế nào nhỉ?" Bà trả lời: "Ông Giáp là một kẻ sĩ theo phong cách Gô loa… Giọng đều đều như đọc bài giảng… Tuy nhiên, những điều ông Giáp nói (vào năm 1969) bây giờ đã trở thành sự thật”

          Nhà sử học quân sự Cecil Currey, trong quyển tiểu sử Victory at Any Cost (Chiến thắng bằng mọi giá), có nhận xét về tính cách của ông. Tướng Giáp dành trọn tình cảm của ông đến đất nước và toàn bộ sự hiến dâng đến Đảng Cộng sản, khát vọng lớn nhất cuộc đời ông là 2 mục tiêu: giải phóng Việt Nam ra khỏi sự đô hộ của nước ngoài và thống nhất đất nước, do đó ông đã "dành trọn khát vọng và niềm kiêu hãnh vô bờ bến của mình vào hai mục tiêu này", và "bề ngoài lạnh buốt của ông che đậy một tính khí rất nóng nên người Pháp đã miêu tả ông là một núi lửa được tuyết che phủ".

          Ngay cả sau này khi chiến tranh đã kết thúc, nhiều người phương Tây cho rằng ông là người vô cảm, bất chấp tổn thất để đạt được mục tiêu.  Tướng Mỹ William Westmoreland - đối phương của ông trong chiến tranh Việt Nam đã chỉ trích ông rằng "Bất cứ tướng Mỹ nào chịu tổn thất nhiều như thế sẽ không giữ được chức trong vòng ba tuần. Sự coi thường mạng người như thế có lẽ sẽ tạo nên một đối thủ ghê gớm, nhưng không tạo nên một thiên tài quân sự". Nhưng sau đó nhận xét của Westmoreland đã bị nhà sử học nổi tiếng Stanley Karnow phản bác. Trước hết, Westmoreland đã bỏ qua sự vượt trội về trang bị và hỏa lực của quân đội Mỹ so với quân đội Việt Nam (nếu quân đội Mỹ trang bị thiếu thốn như phía Việt Nam, thì tổn thất của họ sẽ còn cao hơn nhiều). Stanley Karnow cũng chỉ ra điểm khác biệt cơ bản giữa tướng Giáp và các tướng Mỹ: ông không phải là một người Mỹ đang đối đầu với một dân tộc xa lạ ở một xứ sở xa lạ. Bộ đội của ông, và những thường dân hỗ trợ họ, chiến đấu trên đất đai quê hương mình; họ tin tưởng rằng cuộc kháng chiến trường kỳ cuối cùng sẽ quét sạch lòng kiên nhẫn của quân thù và đưa họ đến mục đích cuối cùng là thống nhất tổ quốc. Chiến lược này đã giúp ông Giáp đánh bại người Pháp và nó sẽ lại phát huy hiệu quả trong cuộc chiến chống lại người Mỹ.

          Nhà sử học Derek Frisby chỉ ra: tướng Giáp thừa hiểu một cuộc chiến kéo dài chắc chắn sẽ mang lại nhiều tổn thất nhưng điều đó không có nghĩa là một phe nào đó chắc chắn sẽ thắng hay thua; và chỉ cần quân đội Việt Nam còn tồn tại để tiếp tục chiến đấu thì ý niệm về Việt Nam sẽ tiếp tục sống trong tâm khảm của những người ủng hộ nó. Đó là bản chất của một cuộc chiến tranh cách mạng. Những lời chỉ trích của Westmoreland dành cho tướng Giáp lại chính là chìa khóa để hiểu tại sao viên tướng Mỹ đã không thể đánh bại Võ Nguyên Giáp. Theo Frisby, Võ Nguyên Giáp đã lợi dụng sự ỷ lại của người phương Tây vào ưu thế vũ khí để đánh bại họ bằng những chiến thuật không ai ngờ tới. Một ví dụ tiêu biểu là trận Điện Biên Phủ, khi Võ Nguyên Giáp sử dụng những phương tiện thô sơ để đưa đại bác và pháo phòng không đi xuyên qua những vùng địa hình tưởng chừng không thể vượt qua được, và điều này đã khiến quân Pháp "chết điếng người".

          Đối với những chỉ trích từ phương Tây rằng ông là người vô cảm, chính bản thân Võ Nguyên Giáp đã từng trả lời một nhà báo Ý rằng: "Người phương Đông chúng tôi khác người phương Tây các ông. Chúng tôi đặt sự tồn vong của cộng đồng lên trên lợi ích cá nhân. Mỗi phút có hàng trăm, hàng ngàn người chết trên trái đất này. Sự sống hoặc cái chết của hàng trăm, hàng ngàn, thậm chí hàng chục ngàn con người, đối với đồng bào của chúng tôi, cũng là không đáng kể (đối với sự nghiệp giành độc lập dân tộc)". Ông cho biết: người Việt Nam sẽ sẵn sàng chịu bất kỳ hy sinh nào và chiến đấu tới cùng để giải phóng đất nước của họ từ quân đội nước ngoài, và ông cũng không ngoại lệ. Trong hồi ký của mình, Võ Nguyên Giáp chia sẻ: phải chỉ huy một đội quân trang bị nghèo nàn chống lại những đội quân trang bị tối tân, không thể nào giành chiến thắng mà không cần phải hy sinh, ông không thể thay đổi điều đó mà chỉ có thể tìm cách hạn chế tối đa mức độ hy sinh. Ông đã ra quyết định ngừng Chiến dịch Điện Biên Phủ thêm 2 tháng để thay đổi phương án tác chiến do e ngại việc đánh nhanh thắng nhanh sẽ gây nhiều tổn thất. Sau một đêm lo lắng mất ngủ, ông kết luận "sẽ là tự sát nếu đưa bộ đội vào trận đánh mà không chuẩn bị chống pháo binh, xe tăng và máy bay địch", và ông kiên quyết ra lệnh ngừng tấn công dù rằng khi đó áp lực rất lớn và ông coi đó là "quyết định khó khăn nhất trong cuộc đời". Thượng tướng Trần Văn Trà nói rằng tướng Giáp "là một tổng tư lệnh biết đau với từng vết thương của mỗi người lính, biết tiếc từng giọt máu của mỗi chiến binh"

          Giáo sư Fredrik Logevall nhận định, việc đánh bại 2 quân đội mạnh như Pháp và Mỹ không chỉ đơn giản là chấp nhận đánh đổi bằng tổn thất lớn. Võ Nguyên Giáp đã thành công trong việc tận dụng các lợi thế sẵn có như địa hình và sự ủng hộ của người dân để khắc chế ưu thế về hỏa lực và vũ khí của Pháp và Mỹ, ngoài ra ông và các đồng sự cũng tranh thủ được sự ủng hộ của những người dân Pháp, Mỹ phản đối chiến tranh. Nếu không có đường lối quân sự đúng đắn này thì dù Việt Nam có hy sinh nhiều tới đâu cũng chỉ là vô ích trước những kẻ thù mạnh như Pháp và Mỹ. Cecil B. Currey nhận xét: các tướng Pháp và Mỹ đều ỷ vào sự áp đảo của xe tăngmáy baypháo binh với suy nghĩ là cứ chiếm thật nhiều vùng đất thì sẽ thắng, họ đã không nắm được yếu tố căn bản của chiến tranh như Võ Nguyên Giáp. Ông có thể thua trong một số trận đánh, nhưng kết quả chung cuộc thì ông luôn thắng. Tư tưởng quân sự của Võ Nguyên Giáp vừa đúc rút từ lịch sử của Việt Nam, vừa chấm phá bằng những màu sắc từ Lê LợiTrần Hưng Đạo, của Tôn TửNapoleon, của Thomas Lawrence và nhiều người khác. Ông tạo nên những nét sáng tạo của chính mình trên tấm vải là Đảng và nhân dân của ông. Bức tranh hoàn toàn là của riêng ông - một kiệt tác nghệ thuật.

Các đánh giá khác:

Võ Nguyên Giáp là một trong 21 vị danh tướng của thế giới trong 25 thế kỷ qua, từ thời Alexandre Đại đế đến Hannibal rồi đến thời cận hiện đại với Kutuzov, Zhukov..., những người đã có chiến công tạo nên bước ngoặt của nghệ thuật chiến tranh.

— Duncan Townson, sách Những vị tướng lừng danh

 

Ông [Giáp] không quá nổi bật so với các tướng lãnh khác trong lịch sử, vì ông đứng cao hơn họ.

— Nhà sử học Derek Frisby, 

 

Từ năm 1944-1975, cuộc đời của Võ Nguyên Giáp gắn liền với chiến đấu và chiến thắng, khiến ông trở thành một trong những thống soái lớn của mọi thời đại. Với 30 năm làm tổng tư lệnh và gần 50 năm tham gia chính sự ở cấp cao nhất, ông tỏ ra là người có phẩm chất phi thường trong mọi lĩnh vực của chiến tranh. Khó có vị tướng nào có thể so sánh với ông trong việc kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy. Sự kết hợp đó xưa nay chưa từng có.

— Đại tướng Peter MacDonald, nhà nghiên cứu khoa học lịch sử quân sự người Anh

 

Tài thao lược của tướng Giáp về chiến lược, chiến thuật và hậu cần được kết hợp nhuần nhuyễn với chính trị và ngoại giao... Sức mạnh hơn hẳn về kinh tế, tính ưu việt về công nghệ cùng với sức mạnh áp đảo về quân sự và hỏa lực khổng lồ của các quốc gia phương Tây đã phải khuất phục trước tài thao lược của một vị tướng từng một thời là thầy giáo dạy sử.

— Bách khoa toàn thư quân sự Bộ Quốc phòng Mỹ (xuất bản năm 1993)

 

Là người tổ chức quân đội nhân dân, ông Giáp đã thực hiện được một sự tổng hợp độc đáo các học thuyết quân sự mácxít kết hợp nhuần nhuyễn với truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc, vận dụng khôn khéo vào những điều kiện của một quốc gia có đất đai tương đối hẹp. Võ Nguyên Giáp đã chứng minh rằng ông có những đức tính ngoài tầm cỡ bình thường trên mọi lĩnh vực lớn của cuộc chiến tranh".

— Bách khoa toàn thư Pháp, mục từ về Võ Nguyên Giáp

 

Ông Giáp đã chỉ huy quân đội Việt Nam chiến đấu giành thắng lợi trong một thời gian đặc biệt lâu dài suốt 30 năm, một kỳ tích chưa từng thấy! Vâng, không phải hiện nay mà muôn đời sau, tôi tin rằng cuộc đời và sự nghiệp đầy huyền thoại của Đại tướng Võ Nguyên Giáp mãi mãi là tấm gương, là niềm tự hào của mỗi người Việt Nam.

— Tướng Marcel Bigeard, nguyên Bộ trưởng Quốc phòng Pháp, cựu thiếu tá chỉ huy phó của Pháp trận Điện Biên Phủ, thành viên Học viện Quân sự Quốc phòng Pháp

 

Đại tướng Võ Nguyên Giáp không phải là một người hiền lành. Ông không khác những chiến binh trong quá khứ, từ AttilaTamerlane cho tới NapoleonZhukovPattonMcAthur. Người hiền lành không trở thành những vị tướng huyền thoại; họ dạy lớp học giáo huấn, làm giáo sư lịch sử, hay giáo sĩ trong quân đội. Họ không làm tràn đầy những sách với những chiến công của họ hay những chiến trường với những xác chết. Giáp cũng không thể kể lại những câu chuyện về lòng từ bi hay sự thương người của ông, có thể trừ quan hệ với gia đình và con cháu, nhưng ngay cả họ chỉ nằm trong địa vị thứ ba hay thứ tư trong đời ông. Tướng Giáp đã dành trọn tình cảm của ông đến đất nước và toàn bộ sự hiến dâng đến Đảng Cộng sản. Ông đã tự hướng đến mục tiêu giải phóng Việt Nam ra khỏi sự đô hộ nước ngoài và thống nhất đất nước. Hai mục tiêu này đã giành toàn bộ sự chú ý của ông qua những thập niên trong cuộc đời, và ông đã dành trọn khát vọng và niềm kiêu hãnh vô bờ bến của mình vào đây. Mặc dù ông đã tách rời cảm xúc với những người cấp dưới cho nên chỉ xem họ như những con cờ để mà sử dụng không ngần ngại, bề ngoài lạnh buốt của ông đã che đậy một tính khí rất nóng cho nên người Pháp đã miêu tả ông là một núi lửa được tuyết che phủ.

— Cecil Currey, Chiến thắng bằng mọi giá 

 

Trong suốt thời gian đó [quá trình chỉ huy quân đội của vị tổng tư lệnh], ông không chỉ trở thành một huyền thoại mà có lẽ còn trở thành một thiên tài quân sự lớn nhất của thế kỷ XX và một trong những thiên tài quân sự lớn nhất của tất cả các thời đại... Ông Giáp là vị tướng duy nhất trong lịch sử hiện đại tiến hành chiến đấu chống kẻ thù từ thế vô cùng yếu, thiếu trang bị, thiếu nguồn tài chính, dù mới đầu trong tay chưa có quân, vậy mà vẫn liên tiếp đánh bại tàn quân của đế quốc Nhật Bản, quân đội Pháp (một đế chế thực dân số 2) và quân đội Mỹ (một trong hai siêu cường thế giới)... Ông Giáp là chuyên gia hiện hữu vĩ đại nhất về chiến tranh nhân dân... là một vị tướng hậu cần vĩ đại của mọi thời đại.

— Nhà sử học quân sự Mỹ Cecil Currey, trong tác phẩm "Chiến thắng bằng mọi giá - Sự thiên tài của Đại tướng Võ Nguyên Giáp của Việt Nam"

 

Ông không chỉ trở thành một huyền thoại mà còn là một trong những vị tướng tài năng nhất về chiến tranh nhân dân và là một trong những thiên tài quân sự lớn nhất của tất cả các thời đại.… Nếu Karl von Clausewitz - chiến lược gia quân sự bậc thầy của nước Phổ - sống lại chắc hẳn phải kính cẩn cúi chào vị tướng này

— Nhà sử học quân sự Mỹ Cecil Currey

 

30 năm trước, trước khi nổ ra cuộc Đại chiến thế giới lần thứ I, ngày 25-8-1911, ở làng An Xá (tỉnh Quảng Bình), gần vĩ tuyến 17, đã sinh ra một con người sẽ là một trong những người hiếm hoi làm chuyển dịch dòng chảy của lịch sử. Người ấy sẽ xuất hiện trước toàn thế giới như vị tướng của một quân đội sơ khai nhưng đã chiến thắng hai cường quốc phương Tây, đó là Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Cho đến nay (ở tuổi gần 100), ông vẫn luôn luôn còn đó, tràn đầy nhiệt tình và nghị lực. Những chiến thắng là một liều thuốc bổ mạnh mẽ cho tâm hồn, những chiến thắng đã làm nên sức khỏe cho ông.

— Đại tướng, sử gia Anh Peter Macdonald - tác giả cuốn Giap - an assessment, bản tiếng Pháp Giap - les deux guerres d’Indochine

 

Đại tướng Võ Nguyên Giáp là một người lính tự học, và ông đã trở thành một trong những chỉ huy quân sự quan trọng nhất của thế kỷ XX. Ông đã sử dụng uy tín của mình và kỹ năng chiến thuật để biến đổi một đội ngũ nhỏ du kích Việt Nam thành một quân đội đánh bại cả Pháp và Mỹ... năm 1954, ông đã biến nhóm du kích này trở thành Quân đội nhân dân Việt Nam và đã đánh bại Pháp ở trận Điện Biên Phủ. Sự đầu hàng của quân Pháp sau cuộc bao vây 55 ngày trong khu thung lũng ở tây bắc Việt Nam là dấu chấm hết cho chủ nghĩa thực dân ở Đông Dương

— Robert Templer

 

Tài năng chiến lược của Tướng Giáp đã đặt ông vào ngôi đền của những nhà lãnh đạo quân sự vĩ đại. Sau Hồ Chí Minh, ông là nhân vật quan trọng nhất trong lịch sử Việt Nam thế kỷ XX... Ông ấy giống như một vị thánh. Không có gì khiến ông phải chấp nhận thất bại.

— Nhà báo kiêm sử gia người Mỹ Stanley Karnow

 

Lý do rất đơn giản...ông đánh bại không chỉ một mà hai thế lực phương Tây, đầu tiên là Pháp và sau đó là Hoa Kỳ. Cả hai đều mạnh hơn ông về quân sự, còn ông thì có rất ít phương tiện để sử dụng nhưng lại đã thành công trong việc đánh bại cả hai quốc gia này, trong đó Hoa Kỳ là quốc gia mạnh nhất thế giới về quân sự từ xưa đến nay, nhưng Giáp và quân đội của ông vẫn đứng vững, và đó là lý do tại sao ông lại có vị trí cao quý như vậy.

— Fredrik Logevall, Giáo sư Nghiên cứu Quốc tế của Đại học Cornell, New York, 

 

Ông Giáp là người có thân hình thấp bé... Ông có một thái độ kỳ cục: tự coi mình như Napoleon của châu Á. Ông muốn người khác nhìn ông như thế. Và tôi cũng thấy thế.

— Lucien Conein, nhân viên tình báo Mỹ thuộc đội Con Nai

          Nếu như tiêu chí chọn tướng của Hồ Chủ tịch là "Đánh thắng Đại tướng được phong Đại tướng" thì suốt cuộc đời mình, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã lần lượt đọ sức và đánh thắng 10 đại tướng của Pháp và Mỹ (4 Pháp và 6 Mỹ), chưa kể đến nhiều viên đại tướng của chính quyền Việt Nam Cộng hoà. Các tướng lĩnh Mỹ khi nhắc đến ông vẫn thường gọi ông là "Đại tướng 5 sao", William Westmoreland gọi ông là "Tướng huyền thoại" (Legendary Giap)... Trong bách khoa toàn thư của Mỹ và của nhiều nước, tên và hình ảnh của ông được ghi lại như là một trong những vĩ nhân quân sự hiển hách nhất.

          Kỷ niệm 60 năm ngày phát hành số đầu tiên, Thời báo châu Á (Time Asia) đã ra số đặc biệt giới thiệu các "Anh hùng châu Á", gồm các nhân vật làm thay đổi cục diện châu lục trong những thập kỷ gần đây. Những nhân vật được giới thiệu gồm Mahatma GandhiJawaharlal Nehru, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, thiền sư Thích Nhất Hạnh,...

          Trong một cuốn sách được xuất bản tại Anh năm 2008 mang tựa đề Great Military Leaders and Their Campaigns (Những nhà lãnh đạo quân sự lớn và những chiến dịch của họ). Sách dày hơn 300 trang khổ lớn, với hơn 500 tấm ảnh màu minh hoạ của Nhà xuất bản Thames & Hudson dành để giới thiệu 59 nhân vật danh tiếng nhất trong lịch sử các cuộc chiến tranh của thế giới trong 2.500 năm qua, thứ tự được xếp theo trình tự thời gian từ cổ đến kim. Đại tướng Võ Nguyên Giáp được lựa chọn là nhân vật thứ 59, tức là nhân vật nổi bật nhất kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai cho tới hiện nay (xếp thứ 58 là Đô đốc Nimitz của Hoa Kỳ, người chỉ huy mặt trận Thái Bình Dương trong Thế chiến II), và Võ Nguyên Giáp cũng là người duy nhất trong 59 nhân vật vẫn còn sống khi cuốn sách được xuất bản.

          Danh tiếng của ông không chỉ bó hẹp ở Việt Nam mà các nước trên thế giới khi nhắc đến tên Võ Nguyên Giáp đều bày tỏ sự ngưỡng mộ sâu sắc, các dân tộc châu Phi và Mỹ La-tinh tin rằng chiến thắng Điện Biên Phủ do ông chỉ huy là khởi nguồn cho nền độc lập ngày nay của họ. Khi ông mất, hàng chục chính phủ các nước đã gửi điện chia buồn. Tổng thống UruguayJose Mujica gọi ông là "vị tướng huyền thoại", người đã dành cả cuộc đời cho sự nghiệp đấu tranh chống áp bức và "gieo niềm tin rằng yếu tố con người chính là chìa khóa của thắng lợi". Bộ Ngoại giao Venezuela ra thông cáo khẳng định việc Đại tướng ra đi cũng là một tổn thất đối với người dân quốc gia Nam Mỹ này. Tổng thống Algérie - Abdelaziz Bouteflika - gọi ông là người anh hùng quân đội của nền độc lập Việt Nam, là nhà chiến lược vĩ đại đã khiến cho thực dân Pháp phải kinh hoàng ở Điện Biên Phủ, và tên tuổi ông "sẽ vẫn mãi khắc sâu trong ký ức của nhân dân Algeria."


Thứ Hai, 24 tháng 8, 2020

MỊ DÂN, THỦ ĐOẠN CỦA NHỮNG KẺ THIẾU ĐỨC THIẾU TÀI.

Trong đời sống xã hội của nhiều quốc gia trên thế giới, ở đâu đó người ta hay bàn tán về lời nói và hành vi "tiền hậu bất nhất" của những nhân vật đã có địa vị xã hội nhất định hoặc đang tham vọng quyền lực chính trị. Họ hứa với người dân thật nhiều. Và họ thất hứa cũng thật nhiều. Họ hứa hão để người dân ủng hộ, nâng đỡ họ lên các vị trí cao hơn, hoặc để ru ngủ người dân trước những bê bối, tồn tại thuộc trách nhiệm của họ, nhưng họ không đủ tài, đủ đức để giải quyết, cải thiện. Thực chất, đó là một thủ đoạn chính trị, dối trá và xảo quyệt, được che đậy bằng vỏ bọc "Vì Dân". Đó là mị dân. Xưa nay, thủ đoạn mị dân sớm muộn cũng bị lên án và bóc trần trước công luận.

Trước kia, khi dân tộc ta còn chìm đắm nô lệ dưới ách cai trị của thực dân Pháp xâm lược và phong kiến tay sai, nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu đã vạch trần thủ đoạn mị dân, lừa gạt cộng đồng của những kẻ thống trị độc ác:

“Chẳng may lại gặp hồi truân bĩ
Rặt những đồ xu mị phùng nghinh
Hại dân để lợi cho mình
Coi dân hờ hững như mình chẳng can”
(Hải Ngoại huyết thư - Phan Bội Châu)

Đặng Chính Kỷ - Bí thư đầu tiên của huyện ủy Nam Đàn, Nghệ An vạch rõ hơn trò mị dân của thực dân Pháp trong “Bài Ca Cách mạng”:

“Miệng bảo hộ mà tay bóc lột
Mặt nhân từ mà ruột hiểm sâu”

(“Bài ca Cách mạng - Đặng Chính Kỉ)

Những tên thực dân cáo già từng thi hành những chính sách làm cho dân chúng cảm thấy "sung sướng, hả hê" trong ngắn hạn, nhưng sẽ có hại trong dài hạn; thậm chí chúng còn dẫn dắt số đông công chúng vào một cuộc phiêu lưu tinh thần nào đó, đánh lạc hướng dư luận. Trong những năm đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp từng đưa ra chính sách mị dân có tên gọi mỹ miều là "Pháp - Việt đề huề", "khai hóa văn minh", chủ trương cổ xúy phong trào "thể dục thể thao"… Trên thực tế, hầu hết người dân Việt Nam không được ứng xử như cái gọi là "đề huề", "văn minh", không có đủ điều kiện để thể dục, thể thao. Đó chỉ là những "bánh vẽ" hòng lôi kéo, ru ngủ người Việt, mơ hồ không nhận ra bạn – thù mà quên con đường cứu nước, cứu dân.

Trong xã hội hiện đại, ở nhiều quốc gia trên thế giới, mị dân vẫn được hiểu là thủ đoạn chính trị "phỉnh nịnh", "lấy lòng" dân chúng để cầu lợi, thậm chí là có vẻ "theo đuôi" dân để lừa dối dân, mê hoặc dân, nhằm lôi kéo sự ủng hộ của cộng đồng để mưu lợi cá nhân trong vận động tranh cử. Sau khi đạt được mục đích chính trị rồi thì kẻ mị dân sẽ lãng quên luôn những lời hứa và không hề quan tâm đến số đông người đã từng ủng hộ mình.

Ngày nay, ở nước ta, thói mị dân không phải đã bị triệt tiêu hoàn toàn. Đâu đó trong bộ máy chính quyền các cấp vẫn còn những kẻ mị dân để che đậy lòng dạ ham quyền, háo chức, vinh thân, phì gia. Công tác đấu tranh chống tham nhũng những năm qua đã vạch mặt, chỉ ra nhiều cái tên cụ thể. Họ nói lời hay nhưng lại không làm việc tốt.

Ở cấp cơ sở, có trường hợp bí thư, chủ tịch xã nói lo cho dân, làm vì dân nhưng lại biển thủ hàng cứu trợ lũ lụt, dịch bệnh của dân về cho gia đình mình. Ở trung ương, có trường hợp là bộ trưởng, viết sách chống suy thoái đạo đức, tư tưởng nhưng lại tham gia vào vụ án tham ô, hối lộ ngàn tỉ. Những lời họ nói, sách họ viết không hề sai. Nhưng việc làm của họ không đúng. Họ nấp vào cái đúng để làm việc sai trái. Nấp vào cái đúng thì được Đảng, Nhà nước, Nhân dân ủng hộ. Rồi lại nấp sự ủng hộ để làm việc sai, mưu lợi cho cá nhân, gia đình, bè phái, cánh hẩu của mình. Đó là những biểu hiện mị dân, dối trên, lừa dưới.

Rõ ràng, nếu là cán bộ đảng viên mà mị dân thì mị dân là vết trượt dài của sự tha hóa, dối lừa, biến chất.

MỊ DÂN LÀ HẠI NƯỚC.

Bản chất của mị dân là dối trá, lừa gạt nhân dân và cộng đồng, cho nên tác hại của nó là vô cùng nguy hiểm. Vì mục đích cuối cùng của mị dân là mưu lợi cho cá nhân, bè phái, cánh hẩu, nên sau khi bằng mọi cách lấy lòng số đông công chúng, đạt được chức vụ, tham gia bộ máy công quyền, những kẻ mị dân sẽ không hành động vì lợi ích của số đông công chúng, làm phương hại quyền lực Nhân dân, làm suy thoái bộ máy công quyền.

Mị dân là kẻ "nói liều", "hứa bừa", "lộng ngôn" thậm chí, "lời nói đi trước, não bộ chạy sau", nói mà không nghĩ… cốt để lấy lòng công chúng và không mấy khi làm được như lời nói, thậm chí "nói một đằng, làm một nẻo". Điều này sẽ làm tổn thất uy tín của cơ quan công quyền trong tầm quan sát của quần chúng nhân dân.

Kẻ mị dân lọt vào, nắm giữ chức vụ bé thì làm hại lợi ích của cộng đồng bé. Leo lên cao hơn thì làm hại lợi ích của cộng đồng lớn hơn. Nếu lọt vào chính quyền trung ương thì sẽ làm tổn hại lợi ích của quốc gia, dân tộc, làm ảnh hưởng tới vai trò lãnh đạo của Đảng, Nhà nước.

LÀM THẾ NÀO ĐỂ LOẠI BỎ NHỮNG KẺ MỊ DÂN.

Điều trước tiên là phải tinh mắt mà nhận ra nhưng "con sâu" mị dân tinh quái. Cần coi trọng phát huy quy chế dân chủ tại cơ sở, dùng tai mắt quần chúng mà thẩm định bản chất của những người có thể trong tầm ngắm của công tác cán bộ. Bổ nhiệm và cất nhắc các vị trí lãnh đạo quản lý cần phải có cái nhìn toàn diện, có quan điểm khách quan, lịch sử cụ thể khi đánh giá con người. Hãy giao việc khó để mà thử người, thay vì nghe những lời đường mật của những kẻ xu mị.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc" và "muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém" và "huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng". Trong tiến trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn luôn chú trọng công tác cán bộ, xây dựng, đào tạo đội ngũ cán bộ có đức có tài, xứng đáng là người lãnh đạo, người công bộc thật trung thành của nhân dân.

Chúng ta cần phải đãi cát tìm vàng, lựa chọn những người ưu tú nhất để phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý như ông cha từng nói "dụng nhân như dụng mộc". Không thể chủ quan, dựa vào cảm xúc cá nhân mà đánh giá con người một cách hời hợt, nông nổi, bề ngoài. Phải lấy tiêu chí vì lợi ích của dân, của nước, vì lý tưởng của Đảng mà tìm người hiền tài cho sự nghiệp cách mạng. Đó là những người có đủ đức sáng, tài cao, nhân hậu, chí bền, bản lĩnh và nghị lực kiên cường, vững vàng trước mọi thử thách để xây dựng và phát triển bền vững đất nước, đem hạnh phúc đến cho mọi nhà, cho dân tộc, vì sự ổn định, hòa bình, hữu nghị, hợp tác phát triển của nhân loại.

Phát biểu bế mạc hội nghị trung ương 12 khóa XII và trong bài viết "Một số vấn đề cần được đặc biệt quan tâm trong công tác chuẩn bị nhân sự Đại hội XIII của Đảng", Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã liệt kê "Mị dân" là một trong những khuyết điểm cần kiên quyết loại bỏ.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: Kiên quyết không bỏ sót những người thực sự có đức, có tài, đủ tiêu chuẩn; đồng thời không để lọt vào Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII những người có một trong các khuyết điểm sau:

1. Bản lĩnh chính trị không vững vàng, không kiên định với đường lối, quan điểm của Đảng; có biểu hiện cơ hội chính trị, tham vọng quyền lực, xu nịnh, chạy chọt, tham nhũng, quan liêu cục bộ, vận động cho cá nhân, phe cánh, lợi ích nhóm; thiếu chính kiến, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh.

2. Vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, mị dân, chuyên quyền, độc đoán; không công bằng, công minh trong đánh giá, sử dụng cán bộ; trù dập người thằng thắn đấu tranh, phê bình.

3. Để nội bộ mất đoàn kết nghiêm trọng hoặc để xảy ra tham nhũng, thất thoát, vụ việc tiêu cực lớn ở địa phương, cơ quan, đơn vị.

4. Không chịu nghiên cứu học hỏi, bảo thủ, trì trệ, làm việc kém hiệu quả, nói nhiều làm ít, nói không đi đôi với làm; ý thức kỉ luật kém, không chấp hành sự điều động phân công của tổ chức, uy tín giảm sút.

5. Kê khai tài sản không trung thực, có biểu hiện giàu nhanh, nhiều nhà, nhiều đất, nhiều tài sản khác mà không giải trình được rõ nguồn gốc; bản thân hoặc vợ, chồng, con có lối sống thiếu gương mẫu, lợi dụng chức quyền để thu lợi bất chính.

6. Vi phạm quy định về lịch sử chính trị hoặc chính trị hiện nay.

 vtv.vn

CUỘC CÁCH MẠNG THỰC SỰ 'LÀM CHO ĐẾN NƠI', THỰC SỰ 'DÂN CHỦ, CỘNG HOÀ'


Trong thế kỷ XX, thậm chí kể cả từ khi xuất hiện những cuộc cách mạng tư sản đầu tiên thời cận hiện đại cho đến nay, hiếm có một cuộc cách mạng nào làm cho đến nơi, thực sự dân chủ, cộng hòa như Cách mạng tháng Tám năm 1945 của Việt Nam.

GIỌNG LƯỠI ĐỘC ÁC CỦA VIỆT TÂN



Ngày 18/8/2020 trên Fb của tổ chức phản động Việt Tân đăng bài “Việt Nam ơi, đừng giao trứng cho ác” của Phạm Nhật Bình.
Sau khi cho rằng: “Thế giới bất ngờ khi Tổng thống Nga Putin tuyên bố rằng Bộ y tế Nga đã cấp phép cho Vaccine Sputnik V do nước này tìm ra” Phạm Nhật Bình viết: “Ba ngày sau, quyền Bộ trưởng Y tế Việt Nam đã tuyên bố rằng Việt Nam đã đặt mua 50-150 triệu liều Vaccine từ Nga”. Tiếp đó Bình đưa ra nhiều thông tin không được kiểm chứng để bài báo cho rằng Vaccine của Nga chưa đủ tin cậy an toàn để sử dụng ngừa Covid-19 cho người, Phạm Nhật Bình trắng trợn vu cáo: “Việt Nam nhanh chóng giúp Nga quảng cáo Vaccine và mua hàng trăm triệu liều cũng không ngoài tâm lý chư hầu 13 nước XHCN anh em”. Là tay sai của Việt Tân, luôn ôm chân Mỹ nên Phạm Nhật Bình rêu rao: “Các nhà khoa học Hoa Kỳ và các quốc gia Châu Âu đều tỏ ý nghi ngờ Vaccine của Nga”. Rồi Bình tiếp tục vu cáo, xuyên tạc: “Việt Nam đang đối diện một cách vất vả với đợt bùng phát Covid-19 lần thứ hai nên nhà cầm quyền Việt Nam tuyên bố mua từ 50-150 triệu liều Vaccine cũng là cách trấn an lòng dân. Nhưng chưa biết rõ Vaccine của Nga hiệu nghiệm và an toàn như thế nào mà đem sinh mạng của người dân ra đánh cuộc cho thấy CSVN chỉ muốn khoe thành tích hơn là quan tâm đến sức khỏe và an toàn của người dân”.
Đó là sự vu cáo hèn hạ của một tên phản quốc luôn “bới lông tìm vết” để bịa đặt nói xấu đất nước vì miếng bánh mỳ thiu của chính hắn chứ đâu phải vì lo cho người dân Việt Nam.
Đảng, Nhà nước Việt Nam có đủ nguồn lực, trí tuệ để chăm lo cho nhân dân, không cần đến loại mạt hạng như Bình và Việt Tân nhúng mũi vào. Thực tế chúng ta đã thành công trong việc kiểm soát dịch Covid-19, giữ được 99 ngày không có ca lây nhiễm trong cộng đồng và hiện nay cũng khống chế và kiểm soát rất tốt làn sóng Covid-19 thứ hai tại khu vực miền Trung trong khi thế giới đã có 23 triệu người nhiễm Covid-19, 796.143 ca tử vong. Mỹ dẫn đầu với 5,7 triệu người nhiễm, tử vong 177.628 trường hợp. Đó là vì Nhân dân ra có lòng yêu nước, đoàn kết, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau và luôn tin tưởng tuyệt đối vào các giải pháp phòng chống dịch của Chính phủ Việt Nam.
Tuy nhiên, dịch Covid-19 chỉ có thể được giải quyết tận gốc khi có Vaccine phòng bệnh, chúng ta trân trọng sự cống hiến của tất cả các nhà khoa học trên thế giới nếu họ tìm ra Vaccine ngừa Covid-19. Vì thế khi Nga công bố sản xuất và thử nghiệm thành công Vaccine Covid-19 thì Việt Nam đặt mua cũng là điều hết sức bình thường.
Trong cuộc họp ban chỉ đạo quốc gia phòng chống dịch Covid-19 sáng 18/8/2020, Bộ y tế cho biết Vaccine của Nga mua về sẽ được thử nghiệm trên người từng bước theo đúng quy trình rồi mới đưa ra sử dụng rộng rãi. Theo TS Trần Đắc Phu phải thử nghiệm 6 tháng, 1 năm thậm chí vài năm, bởi vậy giải pháp chính vẫn là thực hiện nghiêm các biện pháp phòng dịch như đeo khẩu trang khi ra đường, luôn rửa tay theo hướng dẫn, cài đặt ứng dụng Bluzone để biết mà phòng tránh, hạn chế tập trung đông người, khi có ca lây nhiễm trong cộng đồng thì phải truy vết nhanh nhất, cách ly nhanh nhất và đưa vào điều trị nhanh nhất. Chính phủ và nhân dân Việt Nam tuyệt đối không ỷ lại vào Vaccine để chủ quan, lơ là, mất cảnh giác. Chính phủ cũng không bao giờ “đánh cược” mạng sống của 97 triệu dân như Phạm Nhật Bình xuyên tạc một cách hỗn láo.
Hãy nhìn các nước xung quanh Việt Nam mà xem: Ông Dutete, Tổng thống Philippine cho biết ông ta vô cùng tin tưởng Vaccine của Nga cung cấp và tình nguyện làm “chuột bạch” thí nghiệm đầu tiên, ông nói: “tôi có niềm tin lớn vào nghiên cứu của Nga chống Covid-19 và tôi tin loại Vaccine mà Nga sản xuất thực sự tốt cho con người” - hãy tin Rewters ngày 11/8 dẫn lời ông Dutete. Văn phòng  của tổng thống Dutete cũng khẳng định Philippine sẵn sàng hợp tác với Nga trong cuộc thử nghiệm, cung cấp và sản xuất Vaccine. Ngày 17/8, Tổng thống Mexico Andres Mamuclobica đã khẳng định sẽ là người đầu tiền tiêm Vaccine Sputnik V của Nga và thông báo sẽ dành 1,2 tỷ USD để mua Vaccine cung cấp miễn phí cho người dân. Toàn thế giới có 20 quốc gia đặt mua hàng tỷ liều Vaccine của Nga; dự kiến Vaccine của Nga sẽ được sản xuất tại Brazil, khu vực Mỹ La tinh vào tháng 11 tới.
Phạm Nhật Bình và Việt Tân thấy Tổng thống Philippine, Tổng thống Mexico và lãnh đạo 20 quốc gia trên thế giới họ có phải vì “Tâm lý chư hầu 13 nước XHCN” và “chỉ muốn khoe thành tích hơn là quan tâm đến sức khỏe và an toàn của người dân” hay không mà họ bạo tay và quyết tâm cùng Nga sản xuất, sử dụng Vaccine Sputnik V để chống dịch Covid-19 như vậy?
Đến đây thì bộ mặt đểu cáng, khốn nạn của Phạm Nhật Bình và Việt Tân đã rõ mồn một giữa ban ngày. Theo các bạn, chúng ta nên gọi những bộ mặt này với tên là gì?

Yêu nước ST.

A DUA A TÒNG

Mấy hôm trước, mấy anh sứ quán Mẽo lên tiếng bênh vực nhóm Hiến pháp. Hôm nay đến lượt ông đại sứ Anh lại bày tỏ quan ngại việc Việt Nam xét xử nhóm này, cho rằng là vi phạm nhân quyền, rằng Việt Nam cần thay đổi cách nhìn về những người cổ vũ cho tự do ngôn luận.

Tôi gọi đây là thái độ a dua, a tòng của những người có cái nhìn méo mó và sai lệch về nhân quyền.

Có lẽ ông đại sứ đã rất nhầm lẫn giữa thực hiện quyền con người với lợi dụng quyền tự do dân chủ để chống phá, vi phạm pháp luật.
Một nhóm đối tượng đã  tuyên truyền kích động, lên kế hoạch để phá rối an ninh trật tự nhằm gây bất ổn chính trị thì không thể nào gọi là thực hiện "quyền tự do ngôn luận" được.

Nhân quyền chỉ có thể được đảm bảo khi có sự nhìn nhận đúng chứ không phải bằng cái nhìn méo mó, thiển cân mang tính thuyết âm mưu được thưa các ngài đại sứ.

Ngài đại sứ Anh có thể a dua theo Mỹ nhưng đừng quên Việt Nam đã dốc lòng dốc sức cứu chữa cho công dân Anh đấy! Thế có phải tôn trọng nhân quyền không?

Chủ Nhật, 23 tháng 8, 2020

Những giá trị về nhân quyền trong bản tuyên ngôn độc lập của chủ tịch Hồ Chí Minh

 

Sớm tiếp cận với vấn đề quyền con người và đã dành cả cuộc đời để đấu tranh vì quyền con người, nên khi Cách mạng Tháng Tám thành công, trong Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh đã trích dẫn những giá trị về nhân quyền: “Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” trong Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ và “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi” trong Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791, để khẳng định về quyền của mỗi con người.

Theo Hồ Chí Minh, đây là những quyền tự nhiên vốn có của con người, là “những lẽ phải không ai chối cãi được” và những quyền chính đáng ấy của con người cũng hoàn toàn chính đáng/được áp dụng đối với mọi người dân Việt Nam, đang sống trên đất nước Việt Nam. Và đã là quyền chính đáng - quyền của con người, thì bất cứ ai, tổ chức nào, quốc gia nào cũng không thể, không có quyền cướp đoạt, tước đoạt nó đi, cũng như không ai, không dân tộc nào lại cam chịu, khuất phục để bị cướp mất. Vì thế, Tuyên ngôn độc lập không chỉ tuyên bố đanh thép: “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng Minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!” mà còn đi đến khẳng định rằng, “nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”…

Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam do Hồ Chí Minh đọc ngày 2/9/1945 đã thêm một lần khẳng định quyền cơ bản của con người và tuyên bố về quyền của dân tộc Việt Nam - với tư cách là một quốc gia độc lập trong cộng đồng các dân tộc trên thế giới; đồng thời cho thấy các quyền cơ bản của con người và quyền công dân sẽ được thực thi tại một nước Việt Nam độc lập./.

 

Vạch trần âm mưu đòi thay đổi quốc hiệu của các nhà "dân chủ cuội"

 

Quốc hiệu của một quốc gia ở bất cứ đâu trên thế giới cũng mang giá trị lịch sử, văn hóa và chính trị. Những cuộc cách mạng, thay đổi chế độ xã hội nói chung thường dẫn đến thay đổi quốc hiệu.

Sự thay đổi quốc hiệu được xem như một phần của thành quả cách mạng. Quốc hiệu của một quốc gia trong các thời kỳ lịch sử khác nhau còn thể hiện tư duy chính trị của lực lượng cầm quyền (thường là đảng chính trị) giành thắng lợi.

Với nhà nước Việt Nam, quốc hiệu không phải chỉ phản ánh ý chí, nguyện vọng của Đảng Cộng sản Việt Nam mà còn thông qua một quy trình luật định của Hiến pháp, do Quốc hội-cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, đại diện cho toàn thể nhân dân quyết định. Thế nhưng trong làn sóng “dân chủ trên thế giới ảo-mạng” (có tài khoản còn gọi là “dân chủ cuội”) có người đã đòi thay đổi tên nước, từ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam trở lại tên gọi trước đây-nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Loại trừ tính cách cá nhân (muốn thể hiện trí tuệ hơn người) cái gọi là “kiến nghị”, "yêu cầu" trên còn ẩn chứa âm mưu gì?

Trước hết xin được lược qua các quốc hiệu của Nhà nước Việt Nam từ khi nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng lên làm cuộc Cách mạng Tháng Tám, giành lại độc lập dân tộc, năm 1945 đến nay. Quốc hiệu nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Quốc hội khóa I, nhiệm kỳ (1946-1960), quyết định. Tên gọi này kéo dài 31 năm (1945-1976). Còn nhớ, thắng lợi của cuộc kháng chiến thống thực dân Pháp vào năm 1954, Hiệp định Geneve (Thụy Sĩ) quy định Việt Nam tạm thời chia làm hai miền: Miền Bắc và miền Nam. Ở miền Nam, đế quốc Mỹ thế chân thực dân Pháp cai trị dưới hình thức chủ nghĩa thực dân kiểu mới. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam kéo dài từ năm 1954 đến ngày 30-4-1975 cuối cùng đã giành được thắng lợi hoàn toàn.

Vào năm 1976, do còn có sự khác biệt nhất định về thể chế xã hội giữa hai miền, Đảng Cộng sản Việt Nam đã quyết định thực hiện cuộc Tổng tuyển cử trên cả nước. Sau cuộc Tổng tuyển cử, Quốc hội của nước Việt Nam thống nhất ra đời. Quốc hội nhiệm kỳ mới, mở đầu từ năm 1976 đã quyết định đổi tên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.

Sự khác biệt giữa hai tên nước: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và nước Cộng hòa XHCN Việt Nam không chỉ về ngôn từ mà còn mang nội dung chính trị-pháp lý nhất định. Chính thể cộng hòa dân chủ nói chung là một chế độ xã hội trong đó nguyên thủ quốc gia và cơ quan lập pháp (Quốc hội) do nhân dân bầu ra theo thể thức bình đẳng và bỏ phiếu kín. Các quốc gia theo chính thể cộng hòa dân chủ đều xác lập nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân (hoặc xuất phát từ nhân dân). Mọi công dân đến tuổi (do pháp luật quy định) đều được tham gia bầu cử và ứng cử vào các cơ quan đại diện từ cơ sở đến Trung ương. Chính thể cộng hòa dân chủ là hình thức chính thể phổ biến của các nhà nước hiện đại.

Nhìn lại lịch sử nhân loại, chế độ cộng hòa dân chủ có nhiều mô hình. Chẳng hạn, các mô hình: Cộng hòa dân chủ chủ nô (Aten); cộng hòa dân chủ phong kiến (ở một số nước phương Tây); cộng hòa dân chủ tư sản... Công xã Pari là một sự kiện mở đầu cho chính thể cộng hòa dân chủ. Tiếp đó là chế độ cộng hòa Xô viết (ra đời từ nước Nga sau Cách mạng Tháng Mười năm 1917). Mô hình cộng hòa dân chủ còn ra đời từ cuộc cách mạng giải phóng dân tộc thoát khỏi chế độ thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc-đó là mô hình “cộng hòa dân chủ”. Trong mô hình này có thể chế cộng hòa dân chủ của nước ta sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Ở Việt Nam, việc Quốc hội quyết định chuyển quốc hiệu từ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là sự khẳng định thể chế chính trị nước Cộng hòa XHCN Việt Nam; khẳng định vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đồng thời gắn với mục tiêu bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của dân tộc Việt Nam.

Nói như thế không có nghĩa quốc hiệu là bất biến. Khi nào có thể và cần thay đổi thì vẫn có thể thay đổi. Quốc hiệu mới như thế nào thì câu trả lời dành cho đảng cầm quyền và cho cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất là Quốc hội. Ở Việt Nam, quốc hiệu nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là sự kế thừa quốc hiệu nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhưng mô hình xã hội thì đã thay đổi. Về chính trị, đó là Nhà nước pháp quyền, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo với những quy định chặt chẽ. Điều 4, Hiến pháp 2013 quy định: “1. Đảng Cộng sản Việt Nam-Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội; 2. Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình; 3. Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.

Vậy, những người đòi thay quốc hiệu nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, trở về với quốc hiệu nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa để nhằm mục đích gì? Có "trong sáng" như họ vẫn nói hay không? Sẽ tác động đến tư tưởng-chính trị và văn hóa của đất nước ra sao? Và cuối cùng, thực chất của giọng điệu đề nghị thay đổi tên nước?

Trước hết, về hệ quả lý luận, sự thay đổi tên nước như có người nêu sẽ dẫn đến “vênh” giữa nền tảng tư tưởng của Đảng ta (đó là Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh) với mục tiêu đi lên xã hội XHCN. Cần lưu ý rằng mô hình kinh tế của xã hội Việt Nam hiện nay là mô hình “quá độ” lên xã hội XHCN. Nói cách khác về mặt logic, mô hình này chưa phải là mô hình XHCN.

Thứ hai, về tư tưởng, chính trị, sự thay đổi tên nước như có người nêu sẽ dẫn đến nhận thức chung của xã hội là Đảng Cộng sản Việt Nam đã thay đổi nền tảng tư tưởng, đã từ bỏ Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Sự thay đổi này bao gồm cả nhận thức về quyền làm chủ của nhân dân. Từ đó, theo logic sẽ dẫn đến những hình thức đấu tranh đòi xóa bỏ thể chế kinh tế hiện này.

Thứ ba, về khách quan, đó sẽ là sự phủ định vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam. Người ta có thể lập luận rằng, mô hình kinh tế xã hội hiện hữu do Đảng Cộng sản Việt Nam xây dựng và điều hành bấy lâu nay là sai lầm... nên phải thay đổi “tận gốc”, phải thay đổi đảng chính trị cầm quyền, đây là cái gốc của mô hình cũ.

Trong thời đại công nghệ thông tin dựa trên nền tảng internet, mạng xã hội... hệ lụy của những sai lầm về chính trị tư tưởng, từ nhỏ có thể trở thành những vấn đề tư tưởng chính trị phức tạp, khó lường. Âm mưu đòi đổi quốc hiệu núp dưới vỏ bọc "chân thành", mong muốn trở về với "tên nước do Bác Hồ đặt" thực ra là âm mưu tạo cớ để đòi thay đổi nền tảng tư tưởng của đảng cầm quyền, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thay đổi mục tiêu và con đường xây dựng, phát triển đất nước mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn và đã thu được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.

Thiết nghĩ, vấn đề này cần được thông tin rộng rãi để cộng đồng, xã hội hiểu rõ bản chất của các nhà “dân chủ mạng”, “dân chủ ảo”, “dân chủ cuội”./.

 

GIÁ TRỊ LỊCH SỬ VÀ Ý NGHĨA NGÀY QUỐC KHÁNH 2/9



Quốc khánh 2/9 đã trở thành một mốc son hào hùng của dân tộc Việt Nam trong suốt chặng đường 75 năm qua. Chúng ta cùng nhìn lại lịch sử và ý nghĩa của ngày Quốc khánh 2/9.
Những ngày này, cả nước ta tưng bừng chào mừng ngày Quốc khánh 2/9. Cách đây 75 năm, ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình,trong mùa thu lịch sử Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Nhớ về Quốc khánh 2/9, chúng ta càng thấy rõ những tư tưởng vĩ đại, tầm nhìn chiến lược của Người thể hiện trong Tuyên ngôn.

ĐÔI LỜI GỬI GIÁO PHẬN HÀ TĨNH!

Vừa qua, tại Giáo phận Hà Tĩnh lại có hơn 3000 người tụ tập tại các giáo xứ Cửa Sót, Lộc Hà, Kẻ Đọng, Hương Sơn, Đông Sơn, thị xã Kỳ Anh để tham gia cầu nguyện trong đó có nhiều người già và trẻ em. Các linh mục và giáo dân không quên đá xéo chính quyền khi cho giáo dân trưng ra nhiều slogan kiểu như "phải tôn trọng quyền tự do tôn giáo", "bách hại tôn giáo là tội ác", "yêu cầu tôn trọng quyền tự do sinh hoạt tôn giáo"...

Cần khẳng định rõ là ở Việt Nam, quyền tự do tôn giáo luôn được Đảng và nhà nước tôn trọng, ghi rõ ở cả trong Hiến pháp và pháp luật. Thực tế thì nhà thờ, chùa chiền và nơi sinh hoạt tôn giáo ở nước ta thậm chí hoành tráng nhất nhì Đông Nam Á và thuộc hàng top của châu Á. Chẳng ai kỳ thị hay ngăn cấm các tôn giáo hoạt động! Tuy nhiên, ở bất kỳ quốc gia nào trên thế giới thì tín ngưỡng, tôn giáo không bao giờ được đứng cao hơn pháp luật của nước sở tại, và ở Việt Nam cũng không là ngoại lệ.

Trong thời điểm đại dịch Covid-19 đang hoành hành trên khắp thế giới, hiện có trên 23 triệu ca nhiễm với hơn 800 ngàn người tử vong. Còn Việt Nam hiện có trên 1000 ca nhiễm với 26 người tử vong vì COVID-19. Chính phủ đang quyết liệt chỉ đạo các hoạt động phòng chống dịch trong đó yêu cầu người dân không được tụ tập quá 100 người; thế nhưng giáo phận Hà Tĩnh vẫn ngang nhiên tụ tập hàng ngàn người, phớt lờ quy định và hướng dẫn của chính quyền. Nhiều xứ đạo ở Hà Tĩnh lâu nay không hề tuân theo lời giáo huấn của Giáo hoàng và tôn chỉ hoạt động của Thiên chúa giáo là "sống tốt đời đẹp đạo, sống phúc âm trong lòng dân tộc". Luôn chống đối, đi ngược lại với lợi ích chung của quốc gia, dân tộc này.

Tôn giáo ở Việt Nam có nhiều nhưng tổ quốc Việt Nam thì chỉ có một. Vậy nên hãy đặt lợi ích của đất nước lên trên bất cứ điều gì. Covid 19 không phân biệt tôn giáo, dân tộc hay đảng phái và không phải người theo Thiên chúa giáo thì Covid 19 nó chừa ra. Đại dịch hoành hành khắp thế giới, ngay cả thủ phủ của Thiên chúa giáo là Thủ đô Roma, Vatican ở Italia cũng thất thủ. Vậy nên theo khoa học mà nói thì chỉ có các biện pháp cách ly, điều trị và kiểm soát dịch một cách nghiêm túc nhất thì mới làm giảm nguy cơ vỡ trận. Ngoài ra không có cách nào khác! Tụ tập đông người, nguy cơ lây lan Covid 19 rất cao nếu có người mắc Covid-19 trong số 3000 người này thì đúng là thảm họa. Hãy kính Chúa, yêu nước theo cách lý trí nhất, tỉnh táo nhất, khoa học nhất, thưa Giáo phận Hà Tĩnh./.

CẦN PHẢI KIÊN QUYẾT XỬ LÝ LINH MỤC NGUYỄN DUY TÂN

Nguyễn Duy Tân, thời gian gần đây thường tham giác các buổi hội luận với các tổ chức phản động trong và ngoài nước về chủ đề tự do báo chí, tự do internet và chống ngược đãi tra tấn “tù nhân lương tâm” tại Việt Nam.

Tại các buổi hội luân, Nguyễn Duy Tân ra sức xuyên tạc về tình hình tự do báo chí, kêu gọi các tổ chức phản động giúp đỡ vì đến nay bản thân y đã bị nhiều lần bị mời gọi lên đồn Công an về các hành vi vi phạm pháp luật, gây rối trật tự an toàn xã hội, ...

Từ trước đến nay, Nguyễn Duy Tân liên tục có nhiều hành vi nhằm kích động những phần tử phản động, bất mãn với chế độ như LM. Nguyễn Đình Thục, Đặng Hữu Nam, …tập hợp, tạo dựng phe cánh, gây xung đột, gây rối trật tự an toàn xã hội, ...

Mặc dù đã được Công an Đồng Nai nhắc nhở xử phạt nhiều lần, song linh mục Nguyễn Duy Tân vẫn chưa từ bỏ tư tưởng hận thù chế độ, từng bước vận động giới chức Mỹ, liên tục cấu kết cùng các tổ chức nhân quyền trong và ngoài nước hòng chống phá Đảng và Nhà nước Việt Nam.

Bản chất con người của linh mục Nguyễn Duy Tân có lẽ không bao giờ thay đổi. Bởi, khi vẫn còn núp bóng ‘áo Chúa’ thì vẫn những tưởng ‘sẽ được bảo vệ’ an lành, không ai, chính quyền nào có thể ‘động đến’. Giống như các linh mục Đặng Hữu Nam, Nguyễn Đình Thục, Nguyễn Thái Hợp,… ‘chiếc áo Chúa’ vẫn là ‘bình phong’ vững chắc nếu như chính quyền Việt Nam chưa kiên quyết xử lý.

Có lẽ, CA Đồng Nai cần phải kiên quyết hơn nữa đối với linh mục Nguyễn Duy Tân và coi đây là ‘điểm’ để phá bỏ quan niệm ‘chiếc áo Chúa’. Không thể có đối tượng được ‘miễn trừ’ trước pháp luật và càng không có chuyện ‘pháp luật cả nể’ một cá nhân hay một tổ chức nào trong xã hội.

KHI LINH MỤC COI THƯỜNG TÍNH MẠNG GIÁO DÂN

Hơn 3000 người tụ tập tại các giáo xứ Cửa Sót, Lộc Hà, Kẻ Đọng, Hương Sơn, Đông Sơn, thị xã Kỳ Anh ...cầu nguyện cho các đối tượng phản động như Trần Thị Xuân, Nguyễn Trung Trực( Hội anh em dân chủ); Nguyễn Văn Hoá ( Việt tân) và Đan viện Thiên An ... với những lời lẽ kích động, xuyên tạc về tình hình tự do tôn giáo trong nước và tại Hà Tĩnh, Nghệ An, Quảng Bình...
Thực tế cho thấy chưa đầy 10 năm hàng chục đối tượng phản động chống đối bị bắt giữ tại các tỉnh này đều xuất thân là giáo dân thiếu ý thức chấp hành pháp luật, kích động biểu tình gây bạo loạn, đánh người, đập phá hủy hoại tài sản do tham gia các tổ chức phản động lưu vong như vụ đập phá tại Formosa 2/10/2016; đập phá đánh người tại trụ sở Lộc Hà 3/4/2017; đánh người hủy hoại tài sản tại Diễn Châu, Quỳnh Lưu... nhiều hành vi khác....
Việc các cơ quan chức năng bắt, xử lý đối với số này là đúng pháp luật Việt Nam và quốc tế. Do đó không có chuyện bị bách hại như những lời rao giảng của Giám mục và linh mục chống đối vừa qua.
Mặt khác về vấn đề tự do tôn giáo Đảng và Nhà nước luôn quan tâm các chính sách nhằm đảm bảo các lợi ích của các tôn giáo chung tay xây dựng đất nước hoà bình thịnh vượng, sống Phúc âm trong lòng dân tộc.
Trong khi Nhà nước kêu gọi toàn dân để chống dịch nhưng các linh mục vẫn tổ chức đông người, chủ yếu là người già (nhiều bệnh nền được khuyến cáo hạn chế tiếp xúc), trẻ em, phụ nữ...không đeo khẩu trang tham gia các hoạt động mang tính kích động.
Không ai cho ta, cấm ta tự do tôn giáo, nó là quyền nhưng đi kèm với quyền là nghĩa vụ với Tổ quốc, gia đình và xã hội.
Nhìn sang Ý, Vatican chưa đầy 6 tháng đã có hàng trăm ngàn người chết vì dịch Covid và trong số đó là hàng chục linh mục, giám mục không vâng lời Chúa giữa mùa dịch, tụ tập đông người và bị gọi về bên kia thế giới. Tại Việt Nam có 1016 người nhiễm, 27 người tử vong, riêng Hà Tĩnh có hơn 15.000 người đi về từ các vùng dịch, nhiều người nước ngoài làm việc nguy cơ lây nhiễm rất cao.
Nếu các linh mục có lương tâm thì hãy lo lắng cho gia đình sức khỏe của các giáo dân nhất là người già, trẻ em vì đó là những người yếu thế trong xã hội và dễ bị tổn thương nhất thay vì thể hiện tính phá hoại, ngông cuồng để tổ chức kiểu như vậy.

"Hãy yêu thương nhau và cùng nhau đoàn kết"

 

"Hãy yêu thương nhau và cùng nhau đoàn kết", Đó là tiêu đề bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tại Quảng Châu, Trung Quốc, đăng trên Báo Thanh niên, ngày 23-8-1925. Đây là giai đoạn phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân đang diễn ra mạnh mẽ, rộng khắp trên thế giới cũng như ở Đông Dương.

Lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã trải qua những chặng đường đầy gian lao thử thách, nhưng vẫn trường tồn và phát triển bởi đã rèn đúc nên bản lĩnh vững vàng, mang đậm tính cách và khí phách của dân tộc, hình thành và hun đúc nên truyền thống yêu nước Việt Nam.

Truyền thống đó đã thấm sâu vào mỗi người dân, tạo nên tâm hồn, bản lĩnh và trí tuệ của các thế hệ người Việt và sức mạnh to lớn của dân tộc để chiến đấu, chiến thắng thiên tai, địch họa. Lời kêu gọi của Nguyễn Ái Quốc đã tập hợp, quy tụ người Việt Nam không phân biệt đàn ông, đàn bà, già, trẻ, đảng phái, tôn giáo, dân tộc… đoàn kết, đấu tranh chống thực dân, đế quốc xâm lược, giành độc lập, tự do cho Tổ Quốc.

Học tập và làm theo lời của Người, cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam luôn mài sắc lý tưởng chiến đấu, yêu nước, yêu chế độ, trung thành vô hạn với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân; đề cao tinh thần quyết chiến, quyết thắng, ý chí vượt qua khó khăn, gian khổ, hiểm nguy; gan dạ, dũng cảm, kiên cường, mưu trí, sáng tạo trong chiến đấu và công tác; đoàn kết nội bộ tốt, tình đồng chí, đồng đội gắn bó keo sơn, gắn bó máu thịt với nhân dân; đề cao tính kỷ luật tự giác, nghiêm minh, tinh thần quốc tế cao cả…

Phẩm chất, truyền thống tốt đẹp ấy phản ánh bản chất cách mạng và là sức mạnh nội sinh được tích hợp ở một trình độ cao trong quá trình xây dựng, chiến đấu, trưởng thành của Quân đội ta, dưới sự lãnh đạo, giáo dục, rèn luyện của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, xứng đáng với tên gọi Bộ đội Cụ Hồ, với niềm tin yêu của Đảng, Nhà nước và nhân dân./.

 

Thứ Bảy, 22 tháng 8, 2020

Ngăn chặn tâm lý chủ quan

 

Theo thông báo của Bộ Y tế, những ổ dịch ở Đà Nẵng và các tỉnh miền Trung đã được kiểm soát bước đầu, Bộ chỉ huy chống dịch tiền phương cho miền Trung đã được Bộ Y tế rút về.

Có thể nói đây là tin vui lớn làm nức lòng hàng triệu người dân Việt Nam.

Cách đây hơn 3 tháng, chúng ta cũng vui mừng khi nhiều ngày trôi qua không có ca nhiễm virus mới trong cộng đồng. Rồi chúng ta bắt đầu đếm.

Ban đầu chúng ta đếm một cách dè dặt, sau đó có lúc chúng ta bắt đầu nghĩ đến việc dịch bệnh không quay trở lại với chúng ta. Số ngày không có ca lây nhiễm mới trong cộng đồng càng tăng lên, tư tưởng chủ quan, tâm lý cho rằng mình là bất khả nhiễm bệnh càng lớn.

Đúng lúc đó thì dịch quay trở lại. Nhưng sự chủ quan và tâm lý tự mãn đây đó đã làm cho chúng ta không còn khả năng nhận biết sự trở lại của virus SARS-CoV-2 sớm, để cho dịch bệnh lan rộng tại mấy tỉnh miền Trung. Chưa hết, sự chủ quan và tâm lý tự mãn đó còn làm cho công tác chống dịch thêm khó khăn.

Sau những bất ngờ ban đầu, các địa phương cùng cả nước đã ra quân. Công việc truy vết, khoanh vùng, dập dịch đã được thực hiện một cách quyết liệt.

Và hôm nay, số ca lây nhiễm được phát hiện trong cộng đồng đang giảm dần. Ngoài những ổ dịch ở các tỉnh, thành miền Trung, các ổ dịch mới phát sinh ở miền Bắc cũng nhanh chóng được kiểm soát.

Có thể nói chúng ta đã bước đầu khống chế được sự bùng phát dịch lần thứ hai ở đất nước ta.

Chúng ta có quyền hi vọng vào một tương lai mà ở đó, chúng ta có thể kiểm soát được sự lây lan của virus SARS-CoV-2, hạn chế tối đa thiệt hại, cả về nhân mạng, tinh thần và kinh tế... cho đến khi chính thức có vaccine cho loại virus quái ác này.

Nhưng cuộc chiến vẫn đang ở quanh đây và phía trước. Chỉ cần một chút chủ quan, lơ là, dịch sẽ lại bùng phát mạnh.

Mức độ giảm số ca nhiễm mới, hoặc thậm chí là số ngày không có ca nhiễm mới trong cộng đồng sẽ chẳng có ý nghĩa gì nếu dịch bùng phát trở lại, như nó đã từng bùng phát cách đây mấy tuần.

Dù chúng ta có lý do để hi vọng vào một tương lai tốt lành, chúng ta vẫn cứ phải kiên nhẫn áp dụng các biện pháp phòng dịch bệnh lây lan, thực hiện rửa tay, mang khẩu trang, tránh tụ tập đông người.

Chỉ một chút chủ quan, lơ là hay tự mãn, mọi thành quả sẽ tan biến, hậu quả sẽ khôn lường như chúng ta phải đối mặt hơn một tháng qua.

Virus muôn hình vạn trạng, nhưng sự chủ quan hay lơ là cụ thể trong mỗi chúng ta. Chỉ là mới kiểm soát cơ bản dịch bệnh, cuộc chiến vẫn còn cam go, luôn cảnh giác và chủ động là bài học còn nguyên đó, không hề cũ./.

 

ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI - CON ĐƯỜNG TẤT YẾU CỦA VIỆT NAM

 

Độc lập dân tộc và CNXH với Việt Nam không chỉ là mục tiêu, là nhu cầu, là cương lĩnh hành động, là ngọn cờ hiệu triệu, mà còn là động lực, là niềm tin sắt son của nhân dân với Đảng. Độc lập dân tộc gắn với CNXH là sự gắn kết hai sức mạnh thành một sức bật mới, là cội nguồn thắng lợi của cách mạng Việt Nam hôm qua, hôm nay và mai sau. Hệ giá trị độc lập dân tộc và CNXH là mục tiêu, lý tưởng phù hợp xu thế thời đại, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Trong suốt tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã rút ra năm bài học lớn; trong đó, bài học số một là “nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”. Đây là sự tổng kết sâu sắc về lịch sử và lý luận, “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt đường lối cách mạng nước ta, được thể hiện sâu sắc trong Cương lĩnh chính trị và các văn kiện đại hội Đảng. Bài học đó, đến nay vẫn còn nguyên giá trị trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc mà văn kiện trình Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định.

Chánh cương vắn tắt của Đảng được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng xác định rõ con đường tiến lên của cách mạng Việt Nam là “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Nhiệm vụ của cách mạng đã hàm chứa các nội dung của độc lập dân tộc và phương hướng tiến lên chủ nghĩa xã hội. Luận cương chánh trị được thông qua tại Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng (10/1930) chỉ ra các bước tiến triển của cách mạng Việt Nam là: Trong lúc đầu sẽ là cuộc cách mạng tư sản dân quyền; tiếp đó sẽ tranh đấu tiến thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa.

Trong những năm đầu sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, những người cộng sản Việt Nam có sự nhất trí cao về đường lối độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, song lại không nhất trí về sự chỉ đạo chiến lược đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu và nhiệm vụ cách mạng ruộng đất sẽ được thực hiện từng bước. Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Đông Dương nhận thức rằng để bảo đảm thắng lợi của cách mạng phải đặt nhiệm vụ giành độc lập dân tộc lên hàng đầu, nhiệm vụ đấu tranh giai cấp rải ra làm từng bước thích hợp ở từng giai đoạn, tùy thuộc vào tiến trình giải phóng dân tộc. Giải phóng dân tộc được xác định là nhiệm vụ hàng đầu trong cách mạng dân tộc dân chủ.

Ngay sau khi giành được chính quyền cách mạng trong cả nước, trong hoàn cảnh thù trong, giặc ngoài, mâu thuẫn dân tộc vẫn còn tồn tại gay gắt. Đảng xác định nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là bảo vệ độc lập dân tộc, với tinh thần “Tổ quốc trên hết”, “Dân tộc trên hết”. Đối với nhiệm vụ giải phóng giai cấp, cải cách ruộng đất, Đảng chủ trương tiếp tục tiến hành từng bước, sát với tiến trình thực hiện nhiệm vụ chống đế quốc và phục vụ nhiệm vụ chống đế quốc. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Đảng đề ra chủ trương vừa kháng chiến vừa xây dựng chế độ dân chủ mới - chế độ nhân dân làm chủ. Ngay trong tiến trình kháng chiến, nhiều tiền đề của chủ nghĩa xã hội được tạo dựng: Công cuộc xây dựng chính quyền mới, chính quyền của dân, do dân, vì dân đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Những yếu tố cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đã được xác lập.

    Trong giai đoạn tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng (1954-1975). Độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội thể hiện ở đường lối tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam.

Ở miền Bắc, chủ nghĩa xã hội không còn là định hướng mà đã trở thành mục tiêu trực tiếp. Mặc dù gặp nhiều khó khăn, nhưng miền Bắc đã đạt được những kết quả nhất định trên mọi mặt, bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sức mạnh cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc Việt Nam là kết quả của quá trình phát huy cao độ mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phát huy sức mạnh của chế độ mới được khơi dậy trên nền tảng của tinh thần dân tộc và chủ nghĩa yêu nước. Dựa vào sức mạnh của chế độ mới được thiết lập ở vùng giải phóng miền Nam và chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, nhân dân Việt Nam đã vượt qua mọi khó khăn, gian khổ để đi đến thắng lợi cuối cùng - hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ, cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội.

Sau nhiều thập kỷ đấu tranh gian khổ, dân tộc Việt Nam đã giành lại trọn vẹn nền độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc, mở ra thời kỳ mới trong lịch sử dân tộc - thời kỳ cả nước cùng quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Lựa chọn và kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đồng thời đòi hỏi phải đưa ra được các giải pháp, bước đi, cách làm thực sự khoa học nhằm thực hiện bằng được mục tiêu đó. Trước năm 1986, do chủ quan, duy ý chí, Đảng đã phạm những khuyết điểm nghiêm trọng trong lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm cho nền kinh tế - xã hội chẳng những không đạt được các mục tiêu đã dự kiến, mà ngày càng rơi vào khó khăn, khủng hoảng. Vì vậy, Việt Nam đã bước vào công cuộc đổi mới toàn diện đất nước từ năm 1986.  Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa, mà nhằm làm cho mục tiêu đó đạt được bằng những bước đi, phương thức và biện pháp phù hợp hơn.

Công cuộc đổi mới ở nước ta trong hơn ba thập kỷ qua, nhờ sự nỗ lực, thống nhất cao độ của toàn Đảng, toàn dân đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Những thành tựu đó chẳng những hiện thực hóa từng bước giá trị của chủ nghĩa xã hội mà còn nâng cao vị thế đất nước, tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia, củng cố nền độc lập dân tộc.

Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là con đường mà Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam đã lựa chọn từ khi Đảng ta ra đời - năm 1930. Đây là sự kiên định, thống nhất xuyên suốt cả quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam của Đảng ta. Ngày nay, Việt Nam vẫn tiếp tục kiên định đường lối cách mạng: Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Chỉ có đi theo con đường này chúng ta mới có nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân, mới đảm bảo được độc lập dân tộc thực sự, giữ gìn được bản sắc văn hóa dân tộc, khai thác được tiềm năng, thế mạnh của đất nước để hội nhập quốc tế một cách có hiệu quả.

                                                                                                                        Chủ lực

Thứ Sáu, 21 tháng 8, 2020

Việt Nam không nhân nhượng những gì thuộc về chủ quyền

 

Bộ Quốc phòng khẳng định những gì thuộc về độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ kiên quyết không nhân nhượng. 

Bộ Quốc phòng vừa trả lời kiến nghị của cử tri tỉnh Tiền Giang do Ban Dân nguyện chuyển đến.

Theo đó, nội dung kiến nghị của cử tri đề nghị Bộ cần tiếp tục có những sách lược mạnh mẽ, kiên quyết hơn trong công cuộc bảo vệ chủ quyền biển, đảo.

Trả lời kiến nghị này, Bộ Quốc phòng cho biết việc đ.ấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo là vấn đề hệ trọng, nhạy cảm, lâu dài của Đảng, Nhà nước, cả hệ thống chính trị và toàn dân tộc.

Do đó, quan điểm chung của Đảng, Nhà nước ta là kiên quyết, kiên trì, dĩ bất biến, ứng vạn biến; những gì thuộc về nguyên tắc kiên quyết giữ; những gì thuộc về độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ kiên quyết không nhân nhượng, song phải có đối sách phù hợp, vì truyền thống văn hóa giữ nước của Việt Nam chúng ta là hòa hiếu, hòa bình, giữ vững chủ quyền biển, đảo nhưng phải ổn định chính trị, giữ vững môi trường hòa bình để phát triển đất nước.

Trước diễn biến ph.ức t.ạp của tình hình trên Biển Đông, Đảng và Nhà nước ta chủ trương đẩy mạnh thực hiện các giải pháp đấu tranh trên các mặt trận chính trị, kinh tế, ngoại giao, pháp lý, thông tin tuyên truyền, quốc phòng, an ninh… để bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo.

Đối với lĩnh vực quân sự, quốc phòng, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng chủ động tham mưu cho Đảng, Nhà nước sẵn sàng triển khai các phương án và chuẩn bị lực lượng, phương tiện đấu tranh trên thực địa.

Việt Nam cũng tăng cường nguồn nhân lực và các trang, thiết bị hiện đại cho các lực lượng Phòng không-Không quân, Hải quân, Cảnh sát biển, Bộ đội Biên phòng… nhằm nâng cao năng lực bảo vệ chủ quyền biển, đảo phù hợp với quy định của luật pháp quốc tế và Việt Nam; kiên quyết, kiên trì tuyên truyền, đấu tranh không để bất cứ một đối tượng nào xâm phạm vào vùng biển của Việt Nam. Tích cực chuẩn bị, thu thập tài liệu, chuẩn bị sẵn hồ sơ đ.ấu tranh pháp lý.

Đồng thời, tập trung nâng cao năng lực phối hợp bảo vệ chủ quyền biển, đảo của các quân khu, các quân binh chủng, các đơn vị chức năng, các ban, bộ, ngành, địa phương và các tàu cá ngư dân của ta, tạo thành thế trận quốc phòng toàn dân vững mạnh, gắn với thế trận an ninh nhân dân và “thế trận lòng dân” vững chắc trên biển.

Triển khai có hiệu quả Quỹ vì biển, đảo Việt Nam trên cơ sở Quỹ vì Trường Sa thân yêu theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ nhằm đẩy mạnh tuyên truyền, vận động Nhân dân cả nước và người Việt Nam ở nước ngoài hướng về biển đảo quê hương.

Huy động mọi nguồn lực, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, cộng đồng xã hội và mỗi người dân, tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc.

Tăng cường tuyên truyền thông qua hệ thống truyền thông, báo chí, Internet, mạng xã hội; hệ thống báo cáo viên, tuyên truyền viên các cấp; tổ chức các đoàn đi thăm Trường Sa, nhà giàn DK1; các hoạt động xuất bản, in, văn hóa nghệ thuật và công tác thông tin đối ngoại…

Qua đó, kịp thời cung cấp thông tin chính thống, cập nhật về tình hình biển, đảo nói chung và Biển Đông nói riêng; làm rõ bằng chứng lịch sử, cơ sở pháp lý; quan điểm nhất quán của Đảng, Nhà nước ta về chủ quyền biển đảo của Việt Nam, góp phần thống nhất nhận thức, tạo sự đồng thuận, ủng hộ mạnh mẽ của dư luận trong nước và cộng đồng quốc tế đối với công cuộc bảo vệ chủ quyền biển đảo chính nghĩa của Việt Nam.

Kiên quyết phản bác các luận điệu xuyên tạc, lợi dụng tình hình phức tạp trên Biển Đông để kích động, lôi kéo gây mất an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội./.