Thứ Hai, 31 tháng 8, 2020

Nhận thức đúng về “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” hiện nay

       Nguồn gốc, nguyên nhân của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở nước ta hiện nay có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan. Trong đó, có âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch. Song, phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở Việt Nam hiện nay không phải là cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh địch-ta một mất, một còn như một số người đang rêu rao, mà là cuộc đấu tranh trong nội bộ tổ chức đảng, bộ máy nhà nước, các tổ chức chính trị-xã hội (CT-XH), trong các tầng lớp nhân dân và diễn ra trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội để chống lại cái ác, cái xấu, cản trở công cuộc đổi mới đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Vì vậy, Đảng, Nhà nước, các tổ chức CT-XH, đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhân dân ta vừa là chủ thể đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, đồng thời cũng là đối tượng của phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.

      Nội dung phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ bao gồm toàn bộ các nội dung công tác “phòng” và nội dung đấu tranh “chống” trong mối quan hệ chặt chẽ và thống nhất với nhau, cụ thể như sau:
Thứ nhất, ngăn ngừa, triệt tiêu nguồn gốc, nguyên nhân làm nảy sinh “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Trong đó, phải hết sức chú ý đấu tranh khắc phục tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch.
        Thứ hai, khắc phục những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên. Thực hiện nội dung này, cần tiến hành đấu tranh chống những tư tưởng, biểu hiện: Phản bác, phủ nhận Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các nguyên tắc tổ chức của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ; đòi thực hiện “đa nguyên, đa đảng”; phản bác, phủ nhận nền dân chủ xã hội chủ nghĩa (XHCN), Nhà nước pháp quyền XHCN; đòi thực hiện thể chế “tam quyền phân lập”, phát triển “xã hội dân sự”, phủ nhận nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, chế độ sở hữu toàn dân về đất đai... thực chất là đấu tranh khắc phục 9 biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII của Đảng.
       Thứ ba, ngăn ngừa, khắc phục tác hại “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong xã hội. Đó là việc thực hiện các nội dung đấu tranh để ngăn ngừa, khắc phục tác hại của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong mỗi con người và tổ chức; làm cho những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” mất khả năng gây tác hại, không còn lây lan trong đời sống xã hội, dần dần bị triệt tiêu, loại bỏ trong mỗi con người và tổ chức.
       Thứ tư, xây dựng con người, đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức theo chuẩn mực phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, năng lực, phong cách sống, làm việc khoa học. Trong nội dung này, đặc biệt cần thực hiện tốt nội dung xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức; nhất là xây dựng về phẩm chất, năng lực, đạo đức, lối sống, phong cách sống, tác phong công tác đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ, theo đúng chuẩn mực đạo đức xã hội chủ nghĩa, chuẩn mực đạo đức cán bộ, đảng viên.
      Thứ năm, xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh, hoạt động đúng chức năng, nhiệm vụ. Điều đó không những tạo nên khả năng đề kháng, miễn dịch, bảo đảm cho mỗi cán bộ, đảng viên, các tổ chức đảng và toàn Đảng không bị mắc vào “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, mà còn tạo nên động lực to lớn, sức mạnh nội sinh để giành thắng lợi trong phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
      Thứ sáu, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nhằm phát huy sức mạnh nội sinh của cả dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN, không để cho các thế lực thù địch lợi dụng những yếu kém, bất cập, bất đồng, bất hòa, mâu thuẫn giữa các dân tộc, tôn giáo, các giai cấp, các tầng lớp xã hội, giữa Đảng, Nhà nước, đoàn thể CT-XH với nhân dân; giữa đồng bào ở trong nước với đồng bào định cư ở nước ngoài để thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong xã hội ta.
       Để cuộc đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở nước ta hiện nay được đúng hướng và có hiệu quả, cần nhận thức đúng đắn và quán triệt sâu sắc quan điểm chỉ đạo của Đảng là: “Nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá đúng sự thật. Kết hợp giữa “xây” và “chống”; “xây” là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài; “chống” là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách”. Cụ thể bao gồm:
Một là, phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ở Việt Nam hiện nay, thực chất là cuộc đấu tranh trong nội bộ cán bộ, đảng viên và nhân dân.
       Hai là, phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn dân.
       Ba là, phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ phải tiến hành đồng bộ trên tất cả lĩnh vực với những nội dung, hình thức, biện pháp đa dạng, linh hoạt, hiệu quả.
      Bốn là, phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ phải tiến hành thường xuyên, liên tục, lâu dài, có sự phối hợp chặt chẽ của các cấp, các ngành, các tổ chức và lực lượng.
      Năm là, phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ phải kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa “phòng” và “chống”, giữa “xây” và “chống”, trong đó lấy “phòng”, “xây” là chính.
      Việc xác định đúng đắn các hình thức, biện pháp đấu tranh là vấn đề đặc biệt quan trọng trong phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở nước ta hiện nay. Hình thức, biện pháp phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” rất đa dạng, phong phú, bao gồm các hình thức của công tác tư tưởng, tổ chức, chính sách; các hình thức, biện pháp về hành chính, kinh tế, pháp luật... trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, đồng thời thường xuyên được đổi mới phù hợp với sự phát triển của tình hình. Trong đó, tập trung vào một số hình thức, biện pháp cơ bản sau đây:
(1) Giáo dục, tuyên truyền: Đây là hình thức, biện pháp có vị trí đặc biệt quan trọng, trực tiếp góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho các chủ thể, các lực lượng tham gia phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở nước ta hiện nay. Thông qua hình thức giáo dục chính trị tư tưởng trong tổ chức đảng, công tác cán bộ, công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật Đảng, công tác bảo vệ chính trị nội bộ... để giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên nhằm phòng ngừa, ngăn chặn mọi vấn đề có thể phát sinh, dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; đấu tranh, phê bình, xử lý mọi biểu hiện của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Thông qua công tác giáo dục, tuyên truyền của các tổ chức CT-XH, tổ chức xã hội-nghề nghiệp, đoàn thể nhân dân, các nhà trường trong hệ thống giáo dục quốc dân, trên các phương tiện thông tin đại chúng... để nâng cao trình độ nhận thức, trình độ giác ngộ chính trị, bồi dưỡng phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, bản lĩnh, ý chí, niềm tin, phong cách sống, tư cách, nhân cách... cho cán bộ, đảng viên, học sinh, sinh viên và các tầng lớp nhân dân. Đồng thời, qua đó vạch trần bản chất, âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phê phán những trào lưu tư tưởng cơ hội, xét lại, những nhận thức sai trái, lệch lạc trong xã hội, góp phần ngăn chặn nguyên nhân dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong xã hội ta.
(2) Phát huy sức mạnh tổng hợp, phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng. Tính chất, đặc điểm của cuộc phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở nước ta hiện nay đòi hỏi phải phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp, phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng trong quá trình đấu tranh. Đây vừa là hình thức, biện pháp quan trọng, vừa là quan điểm chỉ đạo và yêu cầu cơ bản trong phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở nước ta hiện nay, đồng thời là hình thức, biện pháp có sức lôi cuốn mạnh mẽ, có ý nghĩa xã hội sâu sắc, tạo sức mạnh tổng hợp to lớn cho công tác phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở nước ta, cần được phát huy tốt trong thực tiễn đấu tranh.
(3) Thực hiện cơ chế, chính sách, tạo môi trường, điều kiện phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Đây là hình thức, biện pháp rất quan trọng, trực tiếp tạo động lực cho cuộc đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở nước ta hiện nay. Các cơ quan, đơn vị, chính quyền các cấp làm tốt công tác quản lý, giáo dục đối với cán bộ, công chức, nhân viên của mình, duy trì đầy đủ các chế độ, nền nếp trong sinh hoạt, học tập, các chế độ quản lý theo quy định của pháp luật. Xử lý kịp thời, nghiêm minh mọi biểu hiện vi phạm đạo đức, tư cách của cán bộ, công chức, viên chức; vi phạm các chế độ quy định, vi phạm pháp luật, đặc biệt là những biểu hiện suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các tiêu cực, tệ nạn xã hội khác... góp phần vào cuộc phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ở cơ quan, đơn vị.
(4) Tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, giữ nghiêm kỷ cương, phép nước. Đây là hình thức, biện pháp tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc đấu tranh, bảo đảm cho cuộc đấu tranh đúng yêu cầu, nâng cao tính hiệu quả, đồng thời giữ vững được kỷ cương, phép nước trong quá trình phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Thực hiện hình thức, biện pháp này đòi hỏi Nhà nước phải thực sự trong sạch, cán bộ, đảng viên trong bộ máy Nhà nước phải thực sự mẫu mực, xứng đáng là những người được nhân dân trao cho quyền lực để quản lý, điều hành đất nước phục vụ lợi ích của nhân dân, của dân tộc, của cách mạng; đề cao kỷ cương, pháp luật trong xử lý, giải quyết những hành vi vi phạm pháp luật, ngăn chặn tác động tiêu cực của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
(5) Phát huy vai trò của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đây là hình thức, biện pháp trực tiếp ngăn chặn “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, tạo sức đề kháng, “miễn dịch” của cán bộ, đảng viên, khắc phục những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, để hoàn thiện phẩm chất, năng lực, tư cách, đạo đức, lối sống, tác phong công tác của đội ngũ cán bộ, đảng viên đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng.
Các hình thức, biện pháp trên đều nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở nước ta hiện nay. Vì vậy, cần bám sát đặc điểm, nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị, địa phương mà xác định và thực hiện hình thức, biện pháp đúng đắn, phù hợp, mang lại hiệu quả cao nhất trong phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở từng cơ quan, đơn vị, địa phương.

Chủ Nhật, 30 tháng 8, 2020

PHÁT HUY GIÁ TRỊ LỊCH SỬ VÀ TẦM VÓC VĨ ĐẠI CỦA CÁCH MẠNG THÁNG TÁM, QUỐC KHÁNH 2-9-1945, XÂY DỰNG QUÂN ĐỘI NGANG TẦM NHIỆM VỤ

 

Cách đây vừa tròn 75 năm, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta từ Bắc chí Nam nhất tề đứng lên tiến hành Tổng khởi nghĩa giành chính quyền, chấm dứt kiếp nô lệ, lầm than, mở ra kỷ nguyên mới-kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Cách mạng Tháng Tám, Quốc khánh 2-9-1945 không chỉ là mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc, mà còn là sự kiện mang tầm vóc thời đại, có ý nghĩa quốc tế sâu sắc; nguồn cổ vũ, động viên, truyền cảm hứng đối với các dân tộc thuộc địa, nhân dân bị áp bức, bóc lột trên thế giới đấu tranh giành độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là thắng lợi của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, truyền thống yêu nước nồng nàn và ý chí quật cường dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng ta và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc; trong đó, lực lượng vũ trang (LLVT) có vai trò, vị trí hết sức quan trọng. Cách mạng Tháng Tám thắng lợi đã mở ra bước ngoặt lớn của cách mạng Việt Nam. Chiều ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa-Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; đưa nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình. Từ đây, lịch sử dân tộc mở sang trang mới-trang sử hào hùng của một dân tộc đi tiên phong trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Đó cũng là bước ngoặt lịch sử chấm dứt sự tồn tại của chế độ phong kiến ở nước ta và là đòn tiến công mạnh mẽ giáng vào chủ nghĩa thực dân cũ, tạo làn sóng cổ vũ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc trên phạm vi toàn thế giới.

Có được thắng lợi đó, trước hết, Đảng ta đã quán triệt và vận dụng sáng tạo những luận điểm cơ bản của Chủ nghĩa Mác-Lênin về chiến tranh cách mạng, chiến tranh và quân đội vào việc chuẩn bị khởi nghĩa. Theo đó, ngày 22-12-1944, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân-tiền thân của Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam anh hùng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc quân đã vận động nhân dân nổi dậy giải phóng một vùng rộng lớn thuộc các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang. Thắng lợi bước đầu của các LLVT cho thấy, chủ trương của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Để phát huy tốt hơn nữa vai trò của lực lượng này, Đảng ta quyết định hợp nhất Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân với Cứu quốc quân thành Việt Nam Giải phóng quân làm nòng cốt cùng toàn Đảng, toàn dân tiến hành Tổng khởi nghĩa thắng lợi, giành chính quyền về tay nhân dân.

Tinh thần quật khởi, giá trị lịch sử và tầm vóc vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám, Quốc khánh 2-9-1945 luôn là nguồn sức mạnh to lớn giúp toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta anh dũng, kiên cường chống các thế lực ngoại xâm, lập nên những chiến công hiển hách, đỉnh cao là Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954 “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”; thắng lợi vĩ đại của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước... Giá trị lịch sử và tầm vóc vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám, Quốc khánh 2-9-1945 mãi mãi là di sản tinh thần to lớn, nguồn động lực thúc đẩy toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị phát huy nội lực, tự lực, tự cường thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới và thu được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử: Kinh tế tăng trưởng khá, chính trị-xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được tăng cường; văn hóa, xã hội phát triển; dân chủ được phát huy và ngày càng mở rộng, đất nước ngày càng phồn thịnh. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) và hệ thống chính trị được đẩy mạnh. Quan hệ quốc tế ngày càng mở rộng, đi vào chiều sâu, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng nâng cao.

Những năm tới, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song tình hình thế giới, khu vực, nhất là Biển Đông diễn biến phức tạp, khó dự báo. Cục diện thế giới tiếp tục biến đổi theo xu hướng đa cực, đa trung tâm, các cường quốc vừa hợp tác, thỏa hiệp, vừa đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau. Kinh tế thế giới đứng trước nguy cơ khủng hoảng kéo dài do ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch Covid-19. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển mạnh mẽ, tạo thời cơ và đột phá trên nhiều lĩnh vực, nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức. Các yếu tố an ninh phi truyền thống, nhất là an ninh mạng, khủng bố, thiên tai, dịch bệnh diễn biến phức tạp, tác động sâu sắc tới mọi quốc gia, dân tộc. ASEAN ngày càng thể hiện rõ vị trí, vai trò không chỉ trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương, mà đối với cả thế giới, nhất là với các nước lớn. Trong nước, thế và lực, sức mạnh tổng hợp quốc gia, uy tín quốc tế của đất nước ngày càng được củng cố, nâng cao, tạo tiền đề quan trọng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức từ an ninh truyền thống, an ninh phi truyền thống; các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị tăng cường chống phá thông qua chiến lược “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, với âm mưu, thủ đoạn ngày càng công khai, quyết liệt. Đứng trước bối cảnh đó, phát huy giá trị lịch sử và tầm vóc vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám, Quốc khánh 2-9-1945, toàn quân cần quán triệt sâu sắc nhiệm vụ, triển khai toàn diện các mặt công tác xây dựng quân đội ngang tầm nhiệm vụ

TẤM LÒNG NGƯỜI MẸ.. VÀ LỄ VU LAN BÁO HIẾU

 

Đến thăm người Mẹ hấp hối ở viện dưỡng lão, lời trăn trối cuối cùng khiến con trai khóc không thành tiếng !

Ở một gia đình nọ, sau khi Bố qua đời, người con trai có gia đình riêng đã đưa Mẹ đến ở một nhà dưỡng lão. Thỉnh thoảng anh cũng có đến thăm Mẹ, song mỗi lần tới cũng vội vội vàng vàng, chỉ kịp biếu Mẹ chút đồ rồi nhanh chóng rời đi vì nói có việc, hai mẹ con hầu như chẳng có thời gian chuyện trò.

Bà Mẹ buồn lắm, vừa thương nhớ con trai, vừa thương nhớ các cháu, nhưng chẳng dám bảo con trai đưa con dâu cùng các cháu đến.

"Chắc chúng nó lúc nào cũng bận, mình chẳng nên làm phiền",

Bà tự nhủ.

Một ngày kia, sức khỏe của bà cụ yếu dần, rồi con trai bà nhận được cuộc gọi từ viện dưỡng lão. Đầu dây bên kia là giọng nói yếu ớt của người Mẹ:

"Hãy đến thăm Mẹ đi ".

Người con trai chạy đến viện dưỡng lão, thấy rằng tình hình của Mẹ mình khó mà qua khỏi được. Đến lúc này, anh mới nhận ra mình là kẻ vô tâm đến mức nào. Hai hàng nước mắt anh tự dưng lăn xuống, anh quỳ gối xuống bên người Mẹ già ốm yếu của mình rồi hỏi:

"Mẹ, giờ Mẹ có muốn con làm điều gì cho Mẹ không?".

Người Mẹ nắm chặt tay con trai dặn dò: "Hãy cho người lắp quạt ở viện dưỡng lão này nhé, vì ở đây không có quạt, nóng lắm. Ngoài ra, con hãy mua một chiếc tủ lạnh rồi chất đồ ăn vào đó nữa, vì có nhiều hôm Mẹ đã phải đi ngủ với cái bụng đói đấy".

Nghe những lời này, người con trai vừa đau lòng, vừa ngạc nhiên nên đã hỏi lại: "Sao Mẹ ở đây bao lâu, phải chịu đựng những điều này mà không nói với con? Giờ đây, Mẹ nói những điều đó thì còn có ích gì nữa? "

Đến lúc này, người Mẹ mới xoa đầu người con trai, giống như bà vẫn thường hay làm cách đây nhiều năm, khi anh vẫn còn là một đứa trẻ.

Bà nhẹ nhàng trả lời: "Con trai, Mẹ có thể chịu nóng, chịu đói khát, chịu đau đớn vì không muốn làm phiền con, nhưng khi con già đi, các con của con cũng đưa con vào đây, thì Mẹ sợ rằng, con sẽ không chịu được đâu…"

Câu chuyện nhỏ cho ta biết một điều. Trên đời này, thứ tình cảm thiêng liêng và vĩ đại nhất, chính là tình yêu thương và sự hy sinh mà Cha Mẹ dành cho con cái. Họ yêu chúng ta vô điều kiện, chăm sóc chúng ta vô điều kiện, và khi chết đi, cũng chẳng muốn phiền lụy đến chúng ta.

Chẳng phải nếu họ chọn cách không sinh ra chúng ta thì cái kết họ nhận được cũng không có gì khác lắm, họ vẫn phải già đi, thậm chí chết đi trong cô đơn, mà thời tuổi trẻ họ lại được thảnh thơi, sung túc và thoải mái tự do hơn sao?

Vì thế, đừng đổ lỗi cho công việc, con cái hay các mối quan tâm khác, những ngày Cha Mẹ còn sống trên cõi đời này, chẳng còn lại là bao, hãy dành trọn vẹn sự yêu thương và chăm sóc cho họ, dạy con cái của bạn như vậy, và mong rằng, bạn cũng sẽ được nhận lại điều đó khi về già.

 

Loạt công chức bị đuổi việc: "chuyện lạ" mà rất cần thiết lúc này

 

Tuần qua ghi nhận có một loạt cán bộ, nhân viên nhiều cơ quan nhà nước, doanh nghiệp ở một số tỉnh, thành phố phải nhận hình thức kỷ luật đuổi việc. Đây là điều khá lạ.

Điều phải nói ngay đầu tiên là, các "án" kỷ luật đuổi việc ngay và luôn của các cơ quan, doanh nghiệp với người vi phạm của họ đều là đích đáng cả.

Thứ nhất là vụ ông thanh tra xe buýt Phạm Bá T., người đã ngay lập tức bị Công ty xe buýt Mạnh Hào, tỉnh Bắc Ninh đuổi việc trong ngày sau khi báo chí, mạng xã hội đăng tải các thông tin, hình ảnh, có cả video clip về việc anh này đã có hành vi đe dọa, chửi bới, thậm chí dọa "cắt cổ hành khách" ngay trong ngày 27/8.

Vụ thứ hai là một nhóm công nhân làm việc tại công trường thi công dự án đại tu cầu Thăng Long do có hành vi ném các vật liệu xây dựng như các thanh sắt cỡ lớn từ trên cầu xuống bãi đất bên dưới, có thể gây nguy hiểm các các phương tiện giao thông bên dưới. Qua các video clip do người dân bức xúc ghi lại chiều ngày 28/8, không chỉ là vấn đề có thể gây nguy hiểm chết người mà hành vi trên có dấu hiệu của việc ăn trộm vật liệu xây dựng (sắt, thép) để đem bán.

Chính vì điều này, ngay trong ngày 29/8, tức là chỉ 1 ngày sau, Ban quảnl ý dự án 3 (thuộc Tổng cục Đường bộ)- chủ đầu tư dự án đã lập tức sa thải cả nhóm công nhân nói trên. Tuy nhiên, những người này không bị buộc tội là ăn cắp vật liệu xây dựng.

Còn một loạt các vụ cho nghỉ việc đáng chú ý khác như vụ một cô nhân viên Văn phòng đăng ký đất đai của Thành phố Đà Nẵng cho bạn "mượn" 22 bản Giấy chứng nhận quyền sở hữu đất (sổ đỏ) của người dân.

22 cái "sổ đỏ này" mặc dù đã đủ điều kiện cấp nhưng cô nhân viên kia đã không cấp cho chủ sở hữu mà lại cho bạn mượn và hậu quả là không đòi lại được. Cô này không những bị cho nghỉ việc ngay mà đã bị Công an Thành phố Đà Nẵng khởi tố về tội "lợi dụng chức vụ quyền hạn khi thi hành công vụ".

Những người này bị đuổi việc thật chẳng oan tí nào. Nhiều người biết chuyện cũng đều hả lòng, hả dạ. Mặc dù chúng ta có thể nói, làm việc ai cũng có thể có sai lầm và thật là tốt nếu như có được cơ hội sửa chữa sai lầm. Nhưng quả thật, có những hành vi, có những lỗi lầm, như những sai phạm trên, là những lỗi nghiêm trọng, gây hại cho người dân, cho nhà nước thật khó có thể dung thứ. Hình thức kỷ luật "đuổi việc" có lẽ là nhẹ nhất có thể với họ để đảm bảo kỷ cương, kỷ luật, răn đe những người khác không dám có hành vi tương tự.

Nhưng trong cùng một tuần mà dồn dập xảy ra một loạt các việc như vậy và các cơ quan, đơn vị đều rất nhanh chóng kiểm tra, sau khi đã làm rõ thì áp dụng ngay một hình thức kỷ luật nghiêm khắc như vậy cũng là điều mới mẻ. Bởi vì trước đây, chúng ta cũng đều hay thấy, có rất nhiều vụ việc nghiêm trọng hơn, nhiều nơi người ta sẽ mất rất nhiều thời gian thanh tra, kiểm tra rồi cuối cùng lại áp dụng các hình thức kỷ luật không đâu vào đâu như: Rút kinh nghiệm hay rút kinh nghiệm sâu sắc. Thậm chí, kỷ luật xong thì rất nhanh chóng luân chuyển, để người vi phạm ở vị trí công tác cao hơn.

Dù với những vụ việc trên, cũng còn có nhiều ý kiến khác. Có người sẽ nói là đuổi việc là còn nhẹ, chưa ăn thua, phải khởi tố, phạt tù... Nhưng dù sao, cũng nên ghi nhận là các cơ quan, đơn vị nơi xảy ra các vụ việc "nóng" như vậy đã xử lý rất nhanh và công bằng mà nói, mức kỷ luật đuổi việc hay đình chỉ công tác cũng không phải là nhẹ. Với những vi phạm nặng thì nó cũng chỉ là bước đầu để cơ quan chức năng xem xét, xử lý ở mức nghiêm khắc hơn, không loại trừ chuyển cơ quan điều tra truy tố.

Cho nên bước đầu, việc cho nghỉ việc ngay và luôn với những cán bộ, nhân viên như thế là rất đáng ghi nhận. Đó thật sự là những chuyện vẫn còn "lạ" và chúng ta cũng nên mong hình thức xử lý kỷ luật ấy nên được áp dụng thường xuyên hơn.

CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỚI BẢN TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP - NHỮNG GIÁ TRỊ LỊCH SỬ CÒN MÃI VỚI THỜI GIAN

 Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 2/9/1945 tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập” tuyên bố với toàn thể quốc dân đồng bào và thế giới về sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Vào những ngày này của hơn 74 năm trở về trước, cả dân tộc Việt Nam đang sục sôi giành chính quyền ở những tỉnh thành cuối cùng từ tay Nhật và Pháp. Kể từ sau khi Pháp xâm lược năm 1858, nhân dân ta chịu muôn vàn cơ cực dưới ách áp bức, bóc lột của thực dân và phong kiến tay sai, hai tiếng độc lập - tự do đã trở thành nỗi khát khao cháy bỏng của cả dân tộc, để 87 năm sau, sự thật Việt Nam đã trở thành một nước tự do - độc lập.

Thủ đô Hà Nội những ngày này rực rỡ sắc mầu của cờ hoa, băng-rôn, khẩu hiệu chào mừng 75 năm Cách mạng tháng Tám và ngày Quốc khánh. Ngày 2/9 là ngày Tết của cả dân tộc, ngày đất nước ta được khai sinh và chính thức được công nhận trên thế giới. Ý nghĩa, giá trị của ngày lịch sử đó, sẽ không bao giờ đổi thay.

Khi Cách mạng tháng Tám thành công, Trung ương đã cử đồng chí Lê Đức Thọ đón Bác Hồ từ chiến khu Việt Bắc về Hà Nội và nghỉ tại thôn Phú Gia, xã Phú Thượng, Từ Liêm (nay là Phú Thượng, Tây Hồ). Sau đó, Bác về ở tại căn nhà số 48 phố Hàng Ngang, Hà Nội. Tại ngôi nhà này, trong những ngày cuối tháng 8 năm 1945, Người đã dành phần lớn thời gian để soạn thảo bản Tuyên ngôn Độc lập.

Ngôi nhà số 48 Hàng Ngang nguyên là hiệu Phúc Lợi, một hãng buôn tơ lụa, vải vóc vào loại lớn nhất ở Hà Nội những năm 40 của thế kỷ trước. Ngôi nhà có hình ống, nằm gần cuối phố Hàng Ngang, nơi buôn bán sầm uất của khu vực phố cổ. Nhà hai mặt phố, gắn số 48 là mặt tiền phố Hàng Ngang, gắn số 35 là mặt tiền phố Hàng Cân.

Căn nhà này của gia đình ông Trịnh Văn Bô, một tư sản dân tộc được giác ngộ cách mạng sớm và trở thành đảng viên cộng sản. Ông là thành viên tích cực tham gia phong trào Việt Minh và là cơ sở bí mật của ông Nguyễn Lương Bằng. Bác Hồ và Trung ương Đảng tin rằng, người giàu cũng có lòng yêu nước, người nghèo cũng có lòng yêu nước. Ai cũng có lòng yêu nước. Đó chính là tinh thần đại đoàn kết dân tộc - nhân tố quan trọng giành thắng lợi trong bất kỳ cuộc cách mạng nào.

Ngày 2 tháng 9 năm 1945, hơn 50 vạn người dân Hà Nội đã tụ họp tại quảng trường Ba Đình chào mừng thành lập chính phủ mới. Thay mặt cho toàn thể chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập.

Mở đầu bản Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh trích dẫn một câu trong trong Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ và nhắc đến bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của nước Pháp năm 1791. Không chỉ dừng lại ở đó mà Người đã phát triển, nâng lên cái ý cốt lõi, nguyên tắc cơ bản của hai bản Tuyên ngôn của Pháp và Mỹ.

Bản Tuyên ngôn 1776 của Mỹ nói: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng, tạo hóa ban cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Từ quyền cá nhân mỗi con người, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mở rộng, nêu quyền của dân tộc: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Và Người đã nắm chắc mối quan hệ biện chứng giữa quyền con người và quyền dân tộc. Dân tộc không độc lập thì cũng không có quyền con người. Trong những nước thuộc địa thì điều này đã quá rõ ràng. Và nguyên tắc mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên thì đã được xác nhận trong Hiến chương Liên Hợp Quốc và trong Tuyên ngôn về các quyền con người được Liên Hợp Quốc thông qua năm 1948. Sự đóng góp của bản Tuyên ngôn độc lập 2/9/1945 của Việt Nam vào lý luận quyền con người gắn với quyền dân tộc là rất quan trọng.

Tại sao Chủ tịch Hồ Chí Minh lại mở đầu bản Tuyên ngôn độc lập bằng cách trích dẫn hai bản Tuyên ngôn của Mỹ, Pháp?

Thời điểm năm 1945, các nước trên thế giới hầu như không biết có nước Việt Nam, cho nên nếu ta đưa ra một bản Tuyên ngôn với lập luận của ta thì tác dụng gửi thông điệp đến với cộng đồng quốc tế có thể sẽ bị hạn chế, vậy nên trong Chủ tịch Hồ Chí Minh sau khi trích dẫn hai bản Tuyên ngôn Pháp, Mỹ thì đã khẳng định lại bằng câu: “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”.

Phần tiếp theo của bản Tuyên ngôn là chứng minh nguyên lí đã nêu, tất cả đều được bản Tuyên ngôn nêu lên bằng một hệ thống lập luận hết sức chặt chẽ và đanh thép, với những sự thật rõ ràng "không ai chối cãi được". Chính thực dân Pháp đã "lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa". Những tội ác của thực dân Pháp được Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra chính là sự nối tiếp đấu tranh kiên trì từ “yêu sách của nhân dân An Nam gửi Hội nghị Véc-xây năm 1919 để đòi tự do, độc lập cho dân tộc, tiếp là những bài viết trên báo “Người cùng Khổ”, “Nhân đạo” và nhiều báo khác của Người. Và đặc biệt là tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” đã chuẩn bị cho phần quan trọng thứ hai của bản Tuyên ngôn độc lập. Những tội ác của Pháp được Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra với những dẫn chứng thực tế, có chọn lọc cùng lập luận chặt chẽ. Tuyên ngôn Độc lập là bản cáo trạng hùng hồn đanh thép hiếm thấy trong lịch sử đấu tranh dân tộc cũng như thế giới.

Tuyên ngôn độc lập chứng minh tính pháp lý quốc tế của việc nhân dân ta nắm quyền. Pháp đã đầu hàng Nhật 2 lần (mùa thu năm 1940 và ngày 9/3/1945) “trong năm năm, chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật”. Trong lúc đó nhân dân Việt Nam đã dũng cảm đứng về phía Đồng minh đấu tranh chống phát xít.

“Sự thực là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành nước thuộc địa của Nhật-khi Nhật đầu hàng đồng minh thì nhân dân cả nước ta nổi dậy giành chính quyền, lập nên nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Sự thực là dân ta đã lấy lại được nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp”.

Lập luận tuyên ngôn rất chặt chẽ, mạch văn khúc chiết. Và tiếp đó là lời tuyên bố độc lập: “Bởi thế cho nên chúng tôi- Lâm thời Chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam”.

Và sau cùng là lời tuyên bố trịnh trọng với thế giới:

“Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.

Đã 75 năm từ ngày bản Tuyên ngôn độc lập lịch sử được Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tại Quảng trường Ba Đình trước toàn thế đồng bào. Tiếp sau Hịch tướng sĩ của Trần Hưng Đạo, Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, Tuyên ngôn độc lập năm 1945 là một bản hùng văn của dân tộc, vừa hào khí tưng bừng, vừa lập luận chặt chẽ, vừa đanh thép về pháp lý quốc tế, vừa nung nấu tình cảm của dân tộc nồng nàn, vừa kế thừa khí phách của cha ông, vừa thâu tóm được tinh thần thời đại.

Bản Tuyên ngôn độc lập đã thể hiện được tinh thần: Không có gì quý hơn độc lập tự do - tư tưởng khái quát của cả phong trào giải phóng dân tộc thế kỷ XX trên toàn thế giới. Thông qua lời tuyên bố đanh thép đó cũng đã khẳng định chủ quyền của đất nước, quyền độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam, tình yêu quê hương, đất nước của con người Việt Nam; là truyền thống hào hùng cho nhân dân ta dựng nước và giữ nước.

Những ngày này, trong không khí rộn ràng, khắp mọi nơi trong cả nước tưng bừng đón Tết Độc lập, từng con phố, dòng người tấp nập, hân hoan trước những đổi thay của đất nước, Bảo tàng Lịch sử quốc gia - nơi lưu giữ rất nhiều hiện vật, tài liệu, hình ảnh về sự kiện này đã đón tiếp đông đảo khách tham quan trong nước và quốc tế để tìm hiểu về ngày Lễ lớn của dân tộc Việt Nam.

Ngày Tết Độc lập, cùng nhìn nhận và suy ngẫm, mỗi chúng ta lại ý thức hơn về trách nhiệm của bản thân đối với đất nước với thế hệ tương lai. Càng thấy nhớ và biết ơn Bác:

“Bác ơi! Tim Bác mênh mông thế,

Ôm cả non sông mọi kiếp người”

Những âm mưu xuyên tạc, bóp méo hèn hạ lợi dụng đợt bùng phát Covid-19 lần hai tại Việt Nam

 Trong đợt bùng phát dịch Covid-19 lần hai với ổ dịch tại Đà Nẵng, nhất là khi có những ca bệnh tử vong đầu tiên do nhiễm chủng virus SARS-Covi2, các thế lực thù địch chống phá lợi dụng tình hình, bóp méo, xuyên tạc nhằm suy giảm lòng tin của người dân với Đảng, Nhà nước, với chính sách phòng chống dịch bệnh hiệu quả hiện nay của chính phủ.

Thực tế, nhiều tài khoản xã hội dưới sự hậu thuẫn của các tổ chức chống phá, những kẻ cơ hội, hèn nhất tung tin “Việt Nam giấu dịch, sẽ trở thành Vũ Hán thứ hai”, “Vì thành tích, Việt Nam nói giảm nói tránh…”, “Tỷ lệ tử vong trên số người bệnh bị nhiễm Covid-19 là cao nhất thế giới…”…v.v, đây là những thông tin xuyên tạc, bóp méo hết sức nguy hiểm của những kẻ mưu đồ chính trị hèn hạ.

Chúng ta đã biết, các ca bệnh tử vong tại ổ dịch Đà Nẵng và Quảng Nam đều là các ca bệnh có bệnh lý nền nguy hiểm, đang điều trị, phần lớn là cao tuổi. Do tác động mạnh mẽ của Covid-19 với những biến chứng, bệnh lý có sẵn…những bệnh nhân này mặc dù được các y, bác sỹ hết lòng, hết sức cứu chữa nhưng không qua khỏi. Với tỷ lệ bệnh nặng như vậy, rất nhiều người đã khỏi bệnh và ra viện, chỉ một số ca quá nặng, tiên lượng xấu trước khi nhiễm bệnh là những bệnh nhân tử vong. Với những kết quả từ chính sách dập dịch của chính phủ, đến nay ngày 31/8 chúng ta đã trải qua 2 ngày không có bệnh nhân mới, các ổ dịch ở Đà Nẵng, Quảng Nam, Hải Dương cơ bản đã được khống chế. Chúng ta ghi nhận và tin tưởng vào biện pháp đầy nhân văn của chính phủ cùng sự tận tình, hết lòng vì nhân dân của đội ngũ y bác sỹ, bộ đội, công an và các cơ quan ban ngành đang đồng lòng vì sự bình an của nhân dân, đang ngày đêm vất vả.

          Những hành động cố tình dè bỉu, xuyên tạc, quy chụp về chính sách phòng chống dịch bệnh của chính phủ cần được lên án, chúng ta cảnh giác trước những hành động vô cùng phản cảm, thiếu lương tâm vì những mục tiêu chính trị hèn hạ, chúng sẽ không bao giờ chiến thắng nổi niềm tin, lòng yêu nước của nhân dân ta, không thể cản trở đất nước hùng dũng vượt qua đại dịch, thúc đẩy đất nước phát triển./.

TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM LUÔN ĐƯỢC TÔN TRỌNG

 

Ngay tại Điều 24, Chương II, Hiến pháp 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định:

1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật.

2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.

3. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật.

Như vậy, ngay tại văn bản có tính pháp lý cao nhất trong hệ thống pháp luật đã quy định rất rõ ràng về việc tôn trọng người dân Việt Nam theo hay không theo tôn giáo, cũng như trong vấn đề sinh hoạt tôn giáo của nhân dân. Điều này đã được thời gian chứng minh đó là suốt hàng chục năm qua các tín đồ tôn giáo được tạo điều kiện thuận lợi tối đa trong sinh hoạt tôn giáo cũng như được Đảng và Nhà nước quan tâm trong việc cấp đất, phục dựng, xây dựng mới các cơ sở thờ tự, tôn giáo trên cả nước, các ngày lễ tôn giáo đều được lãnh đạo các cấp quan tâm thăm hỏi động viên để “sống tốt đời đẹp đạo”, “sống phúc âm trong lòng dân tộc”,…đời sống sinh hoạt tôn giáo của các tín đồ phong phú, đa dạng hơn bao giờ hết.

Tuy nhiên, nhiều kẻ đã lợi dụng tự do tôn giáo để thực hiện những âm mưu, thủ đoạn chiến lược diễn biến hoà bình, bạo loạn lật đổ, chúng lợi dụng vấn đề “tự do tín ngưỡng, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền để chia rẽ khối đại đoàn kết các dân tộc Việt Nam, chia rẽ giữa Đảng, Nhà nước, quân đội, công an với nhân dân, chia rẽ giữa đồng bào miền xuôi với miền ngược, giữa người Kinh với đồng bào tôn giáo và đồng bào các dân tộc thiểu số. Chúng đã tiến hành các hoạt động phạm tội, và tất nhiên khi đã là hoạt động phạm tội thì ở bất kỳ một xã hội nào cũng phải bị hệ thống pháp luật điều chỉnh dù đó là phương Đông hay phương Tây và đó là câu chuyện nội bộ của mỗi quốc gia vì mỗi quốc gia lại có những quy định pháp luật khác nhau về các hành vi phạm tội và điều đó cần được các quốc gia khác tôn trọng. Nhưng một số quốc gia lại cậy là nước Lớn, nước Mạnh để áp đặt quan điểm về hành vi phạm tội liên quan đến tôn giáo ở Việt Nam và yêu cầu liệt Việt Nam chúng ta vào danh sách “đen” các quốc gia “đàn áp tôn giáo”.

Nhưng khi ‘họ” đưa ra danh sách các cá nhân, tổ chức bị coi là đang phải chịu “đàn áp tôn giáo” thì lại toàn là các cá nhân tổ chức có hoạt động chống phá Đảng, chống phá chế độ, thường xuyên gây rối trật tự công cộng, chống đối người thi hành công vụ,…đều là những hành vi đã được Hiến Pháp và pháp luật Việt Nam quy định là vi phạm pháp luật. Nếu xét hành vi tương đương thì việc cảnh sát Mỹ đánh đập người biểu tình, dùng xe cảnh sát đâm vào người biểu tình,…và trong số những người biểu tình có rất người theo tôn giáo, vậy Mỹ cũng phải bị liệt vào danh sách “đen” đàn áp tôn giáo mới phải.

Thế nên cái câu chuyện danh sách “đen” về “đàn áp tôn giáo” chỉ là câu chuyện mang nặng tính áp đặt một chiều của nước lớn, cũng như mang đầy mưu toan chính trị hơn là khách quan của vấn đề. Ở Việt Nam, đại bộ phận tín đồ tôn giáo vẫn đang có môi trường sinh hoạt tôn giáo tốt, và luôn được sự quan tâm của cả hệ thống chính trị, chỉ có những kẻ lợi dụng tôn giáo để tiến hành phá hoại mới phải trả giá theo pháp luật.

XEM LÒ CỤ TỔNG RỰC HỒNG

 XEM LÒ CỤ TỔNG

Lò Cụ Tổng xây vẫn rực hồng

Liệu có quan tham dám nói không

Củi ướt củi khô đều bắt lửa

Phen này tham nhũng chắc khóc ròng

Bởi vững niềm tin nên nghiệp lớn

Do bền ý chí mới thành công

Cơ đồ vun đắp càng thêm đẹp

Đất nước ngàn năm bỗng hóa rồng.

KỊCH BẢN UCRAINA ĐANG DIỄN RA Ở BELARUS VÀ BÀI HỌC CHO CHÚNG TA

 

Núp dưới chiêu bài dân chủ, nhân quyền, chống độc tài, Mỹ và phương tây đã thò bàn tay lông lá của mình vào can thiệp lật đổ các quốc gia có chủ quyền bằng cách mạng màu nhằm phục vụ cho lợi ích kinh tế, chính trị của mình.

Hậu quả là biến những đất nước vốn thanh bình thành bất ổn, các đảng phái, phe nhóm nổi loạn tranh giành quyền lực nội chiến triền miên, "nước loạn dân tàn, nồi da nấu thịt" dẫn đến làn sóng di cư tị nạn ngày càng tăng.

Điểm mặt các quốc gia có "hồng phúc" được Mỹ ban phát thứ "dân chủ lật đổ", "nhân quyền bom đạn" như Iraq, Libia, Syria, Ucraina... đều có tình cảnh bi đát như nhau, đất nước hoang tàn đổ nát, nội chiến triền miên, đói nghèo, bệnh tật tội phạm gia tăng...tất cả đều trút lên đầu người dân vô tội.

Kẻ được hưởng lợi duy nhất là các tập đoàn kinh tế Mỹ, bởi chính quyền do Mỹ dựng lên và hậu thuẫn nên đã tạo điều kiện cho các công ty Mỹ thò vòi bạch tuộc vào vơ vét tài nguyên, thâu tóm các huyết mạch nền kinh tế của đất nước, khiến các nước này về lâu dài dù có ổn định và phục hồi cũng bị lệ thuộc vào Mỹ cả kinh tế lẫn chính trị.

Trong chiến dịch này có công lớn của cỗ máy truyền thông lưu manh khổng lồ của phương tây như RFI, VOA, RFA, BBC... Chính những cách lươn lẹo chuyên nghề "xỏ gậy bánh xe" này đóng một vai trò không nhỏ trong việc tuyên truyền xuyên tạc lừa đảo, bóp méo sự thật, đánh tráo khái niệm, gieo rắc hoài nghi làm suy giảm lòng tin về chế độ hiện tại, tạo ra "cái bánh vẽ" về một xã hội thiên đường tương lai, từ đó kích động nhân dân biểu tình bạo loạn lật đổ chế độ...

Nếu ai chưa tường tận sự thật cứ nhìn vào các nước được Mỹ và phương tây yêu quý ban phát cho "dân chủ" ắt sẽ rõ.

Sau Ucraina đến Belarus, mưu đồ của Mỹ là lôi kéo các nước thuộc "hậu không gian Xô Viết" vào vòng cương tỏa của Nato, mở rộng Nato ngày càng áp sát biên giới Nga để bao vây cô lập kìm chế Nga. Với kịch bản này nếu người dân Belarus không tỉnh táo trước âm mưu thâm độc của Mỹ thì tất yếu phải nhận một kết cục tối tăm, thê thảm không lối thoát tựa như người anh em Ucraina.

Ở Việt Nam, trong những năm qua dù kinh tế phát triển, chính trị ổn định, tuy nhiên các thế lực thù địch vẫn đang nuôi mưu đồ dùng cách mạng màu lật đổ thể chế chính trị hiện tại.

Xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam và chế độ XHCN ở Việt Nam, thực hiện đa nguyên về chính trị đa đảng đối lập, thiết lập chính quyền tay sai chư hầu Mỹ làm công cụ cho Mỹ kìm chế Trung quốc và bảo vệ lợi ích của Mỹ ở khu vực Đông Nam Á là giấc mơ không bao giờ Mỹ từ bỏ.

Thực tiễn trong những năm qua cho thấy bạo loạn ở Bình Dương, Bình Thuận, Hà Tĩnh... dù mang các màu sắc khác nhau nhưng đều nằm trong âm mưu cách mạng màu và đều có bàn tay của các thế lực thù địch bên ngoài chỉ đạo, tài trợ.

Nếu kịch bản này xẩy ra ở Việt Nam thì kẻ có lợi nhất là Trung Quốc chứ không phải là Mỹ. Bởi khi các đảng phái đang lừa bịp, kích động nhân dân biểu tình đấu đá nhau nhằm tranh giành quyền lực, cũng là thời cơ vàng Trung Quốc sẽ ra tay cướp biển đông, Trường Sa mà không vấp phải một sức kháng cự đáng kể nào, dân tộc ta sẽ mất lãnh thổ vào tau Trung Quốc.

Thậm chí, khi đất nước đang bạo loạn đã có bàn tay của tình báo Trung Quốc mua chuộc lôi kéo, các thế lực, thúc đẩy nhanh sự sụp đổ của thể chế để dễ bề thôn tính biển đông và phục vụ âm mưu lâu dài của chúng. Nên nhớ rằng dù Trung quốc tuyên bố là nước XHCN nhưng bản chất là Trung quốc đang theo đuổi con đường chủ nghĩa dân tộc đại Hán cực đoan.

Một số kẻ mang tư tưởng tự nhục, cuồng Mỹ luôn ảo tưởng "Mỹ sẽ viện trợ kinh tế cho đất nước giàu mạnh" nhưng đó là những suy nghĩ hoang tưởng, phi thực tế, hãy nhớ rằng Mỹ làm giàu bằng chiến tranh cướp bóc tài nguyên và buôn bán vũ khí. Các công ty, tập đoàn tư bản Mỹ sẽ nhanh chóng nhảy vào giành những hợp đồng béo bở, vơ vét tài nguyên khoáng sản, lũng đoạn tài chính, thao túng về chính trị... giống như từng diễn ra ở Iraq, Syria, Libia, Ucraina.

Hơn ai hết, dân tộc Việt Nam đã trải qua nhiều đau thương mất mát chống chiến tranh xâm lược mới có ngày hôm nay. Giữ vững hòa bình, ổn định để phát triển đó là hạnh phúc của chúng ta và cũng chính là tương lai của con cháu chúng ta.

Hãy cảnh tỉnh với cỗ máy truyền thông lưu manh phương tây, thận trọng với không gian mạng, cảnh giác với các mưu đồ kích động bạo loạn của các thế lực thù địch núp dưới chiêu trò "yêu nước", "chống độc tài", "đòi dân chủ, nhân quyền", "bảo vệ môi trường", "chống tham nhũng"... Đừng bao giờ tin vào thứ đạo đức công lí mà bọn lái súng rêu rao./.

VÌ MỘT NƯỚC VIỆT NAM HÒA BÌNH, ĐỘC LẬP VÀ THỐNG NHẤT


    Trên hành trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, đến với con đường cứu nước trong thời đại mới và khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Từ bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, Người đã lựa chọn và đứng trên lập trường của giai cấp vô sản để tiến hành giải phóng dân tộc bằng một cuộc cách mạng vô sản và bước phát triển tiếp theo là xây dựng chủ nghĩa xã hội khi nhấn mạnh:

    1) Cách mạng phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản - đội tiền phong của giai cấp công nhân và dân tộc;

     2) Phải thực hiện Dân tộc cách mệnh để tập trung đánh đổ bọn đế quốc thực dân và bọn phong kiến tay sai giành lại độc lập cho xứ sở và Thế giới cách mệnh giống như giai cấp công nông Nga đánh đổ tư bản áp bức…

    Luận cứ để mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội có thể trở thành hiện thực sinh động ở Việt Nam chính là cách mạng giải phóng dân tộc được đặt trong quỹ đạo cách mạng vô sản, là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới, trong cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội theo tinh thần khẩu hiệu chiến lược của Quốc tế thứ III: “Vô sản giai cấp và dân tộc bị áp bức trong thế giới liên hợp lại”! Đồng thời, “muốn cách mệnh thành công thì dân chúng (công nông) làm gốc, phải có đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin” và “An Nam muốn cách mệnh thành công, thì tất phải nhờ Đệ tam quốc tế”. Khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời vào mùa Xuân năm 1930, tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội được khẳng định trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội để đi tới xã hội cộng sản chủ nghĩa được chỉ rõ là: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” - tức là tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ để thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và người cày có ruộng, từng bước đưa đất nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hai giai đoạn cách mạng này có quan hệ biện chứng; trong đó: 1) Để xây dựng chủ nghĩa xã hội thì trước hết phải giành được độc lập dân tộc. 2) Đi lên chủ nghĩa xã hội chính là điều kiện tiên quyết để giữ vững được độc lập dân tộc và xây dựng được cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.

    Độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội (giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa) - mục tiêu định hướng tương lai của dân tộc Việt Nam là sự lựa chọn chính xác, đúng đắn của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ thập niên 1930, đã góp phần khơi nguồn sức mạnh của toàn dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ, phát triển đất nước. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội được Đảng tiếp tục bổ sung, phát triển, phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam.

    Đại hội lần thứ II của Đảng (1951) khẳng định, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam sẽ tiến triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa và nước Việt Nam sẽ thành một nước xã hội chủ nghĩa. Dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội lần thứ II của Đảng, cuộc trường chinh chống thực dân Pháp kéo dài 9 năm (1946-1954) đã giành được thắng lợi. Song, với Hiệp định Giơnevơ, miền Bắc Việt Nam được giải phóng đã từng bước khôi phục, cải tạo kinh tế, xã hội, văn hóa và đi lên chủ nghĩa xã hội, còn ở miền Nam, đồng bào ta tiếp tục thực hiện cuộc đấu tranh giải phóng, thực hiện khát vọng thống nhất nước nhà. 

    Đại hội Đảng lần thứ III (1960) - Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà đã xác định nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là: Đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội; đồng thời, đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất đất nước, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Hướng đến tương lai tươi sáng đó, cuộc đấu tranh đầy gian khổ sau 21 năm gian nan, thử thách, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa đấu tranh cách mạng ở miền Nam đã kết thúc bằng cuộc Tổng tiến công nổi dậy mùa Xuân năm 1975. Miền Nam được giải phóng, hai miền Nam - Bắc đã sum họp một nhà và cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội.

    Từ sau khi hoàn thành công cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, non sông thu về một mối, tiếp nối, kiên định đường lối cách mạng mà Đảng, chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch ra. Chúng ta đã vững vàng trước những khó khăn, thử thách vô cùng to lớn, phá vỡ thế bao vây, cấm vận của đế quốc, đánh tan hai cuộc xâm lược ở hai đầu đất nước, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toần vẹn lãnh thổ. Từng bước vượt qua khủng hoảng kinh tế, xã hội và phát triển từng bước vững chắc. Đên nay, chúng ta đã có một vị thế, cơ đồ, uy tín lớn chưa từng có. Điều đó, thể hiện sự sáng suốt, kiên định và nỗ lực quyết tâm lớn của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong suốt tiến trình cách mạng từ khi có Đảng. Đồng thời khẳng định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đối với dân tộc việt Nam là hoàn toàn chính xác và không thể đảo ngược.

                                                                                                                        Chủ lực

Thứ Bảy, 29 tháng 8, 2020

“NHỜ TINH THẦN ANH DŨNG VÀ LÒNG YÊU NƯỚC CỦA TOÀN THỂ NHÂN DÂN VIỆT NAM, CÁCH MẠNG THÁNG TÁM ĐÃ THẮNG LỢI”

 

Là khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài viết “Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tròn 15 tuổi”, Người viết vào cuối tháng 8 năm 1960.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi mở ra một bước ngoặt lớn trong lịch sử dân tộc, một cuộc đổi đời chưa từng có với mỗi người Việt Nam; đã lật nhào chế độ quân chủ phong kiến hơn một nghìn năm, ách thống trị thực dân hơn 80 năm, giải phóng đất nước khỏi sự chiếm đóng của phát-xít Nhật suốt 5 năm. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người chủ thực sự của đất nước, làm chủ vận mệnh, cuộc sống của mình. Nước ta từ một nước thuộc địa, nửa phong kiến trở thành một nước độc lập, xây dựng chế độ cộng hòa dân chủ đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á. Trong những nguyên nhân làm nên thắng lợi vĩ đại đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt đề cao tinh thần anh dũng, lòng yêu nước của toàn thể nhân dân Việt Nam.

Lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước đã chứng minh: Dân tộc ta vốn có truyền thống yêu nước nồng nàn, từng trải qua những cuộc đấu tranh kiên cường, bất khuất cho độc lập, tự do. Vì vậy, khi Đảng Cộng sản Đông Dương và Mặt trận Việt Minh phất cao ngọn cờ cứu nước thì toàn dân nhất tề đứng lên cứu nước, cứu nhà, không sợ hi sinh gian khổ, quyết tâm giành độc lập, tự do và sự thật Việt Nam đã trở thành một nước độc lập, tự do.

Phát huy tinh thần anh dũng và lòng yêu nước nồng nàn của toàn thể dân tộc Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ đất nước, Đảng, Nhà nước ta tiếp tục lãnh đạo toàn dân, toàn quân đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, tận dụng mọi thời cơ, vượt qua mọi khó khăn, thách thức, thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.


Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện, là lực lượng nòng cốt cùng với toàn Đảng, toàn dân làm nên thắng lợi vĩ đại của Cách mạng tháng Tám năm 1945. Ngày nay, Quân đội ta tiếp tục giữ vững vai trò nòng cốt trong sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với xây dựng, củng cố nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân và “thế trận lòng dân” vững chắc. Cán bộ, chiến sĩ toàn quân luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động; ngăn chặn, phản bác kịp thời những thông tin, luận điệu sai trái; sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh truyền thống và phi truyền thống; bảo đảm an ninh, an toàn thông tin, an ninh mạng. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ vững chắc biên giới và chủ quyền biển, đảo, vùng trời của Tổ quốc; đồng thời, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển bền vững đất nước./.

 

 

BẢN CHẤT NHÂN VĂN CỦA NHÀ NƯỚC VIỆT NAM TRONG BẢN TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP ĐƯỢC THỂ HIỆN RÕ TRONG ĐẠI DỊCH COVID-19

 

Covid-19 là một trong những đại dịch lớn nhất, nguy hiểm nhất mà nhân loại từng trải qua (tính đến ngày 5-4-2020, gần 65.000 người trên thế giới đã tử vong).

Chính lúc này, đất nước Việt Nam, chế độ chính trị-xã hội tại Việt Nam đang được dư luận khắp năm châu cảm phục vì đây là một nhà nước thực sự vì con người, một xã hội đầy tính nhân văn.

Trong bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ năm 1776, Thomas Jefferson đã viết một câu văn bất hủ: “Chúng tôi khẳng định một chân lý hiển nhiên rằng mọi người sinh ra đều bình đẳng, rằng tạo hóa đã ban cho họ những quyền tất yếu và bất khả xâm phạm, trong đó có quyền được sống, quyền được tự do và mưu cầu hạnh phúc”. Nước Mỹ đã ra đời từ bản tuyên ngôn mà trong đó trước hết đề cao “quyền sống”, thứ quyền tất yếu và bất khả xâm phạm của con người.

Khi viết bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trích dẫn ý văn nói trên của Thomas Jefferson và khẳng định rằng: “Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Như thế, Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam không chỉ đề cao “quyền sống” trên các quyền cơ bản của con người và mở rộng hơn khi nhấn mạnh rằng mọi dân tộc, mọi con người đều có quyền sống. Và như vậy, một nhà nước vì con người trước hết phải bảo đảm quyền sống của mọi công dân.

Đại dịch Covid-19 là cuộc sát hạch nghiêm khắc, làm lộ rõ những hạn chế của nhiều nhà nước trên thế giới... Ở Mỹ, đến ngày 5-4, 8.454 người đã tử vong vì Covid-19. Thậm chí, quan chức Nhà Trắng còn dự tính nước Mỹ có thể mất tới 240.000 người do dịch này trong những tháng tới. Nhiều nước phát triển khác cũng điêu đứng vì dịch bệnh này với hàng vạn người tử vong, như Italy đã có 15.362 người tử vong, Tây Ban Nha: 11.947 người tử vong, Pháp: 7.560 người tử vong, Anh: 4.313 người tử vong. Trong khi đó, Việt Nam chưa thể so sánh với các nước nói trên về tiềm lực kinh tế, y tế, khoa học công nghệ thì đến ngày 5-4, đã có hơn 90 người khỏi bệnh (trong tổng số 241 bệnh nhân, không có người tử vong).

Bí quyết để tạo ra sự khác biệt về kết quả chống dịch giữa Việt Nam và một số nước trên thế giới là gì? Đó chính là: Nhà nước Việt Nam đặc biệt coi trọng tính mạng, sức khỏe của công dân, của con người; hệ thống chính trị của Việt Nam có năng lực thực hiện những điều tốt đẹp đó.

Có một thực tế đau lòng đang xảy ra tại một số nước trong đại dịch Covid-19, đó là người yếu thế đang bị bỏ lại phía sau, không có cơ hội được chữa bệnh. Kể cả khi được điều trị thì tiền viện phí ở nhiều nước là quá cao, cho thấy những bất cập trong thiết kế chính sách an sinh xã hội. Câu chuyện của bệnh nhân Danni Askini (Mỹ) phải trả tới 34.927USD viện phí (tương đương hơn 800 triệu đồng khi điều trị Covid-19), cho thấy người nghèo không có bảo hiểm y tế, khi bị bệnh thì nguy cơ mất mạng là rất lớn. Theo ước tính, tại Mỹ có khoảng 27 triệu người không có bảo hiểm y tế. Những người không có bảo hiểm y tế e ngại khi phải đi xét nghiệm Covid-19 vì sợ nếu mắc bệnh phải trả viện phí cao, rồi lại cố đi làm vì sợ mất việc. Đây cũng là một trong những nguyên nhân quan trọng khiến dịch lây lan mạnh ở một số nước.

Khi quyền sống, khi tính mạng, sức khỏe không được bảo đảm thì mọi thứ trở nên vô nghĩa. Trong đại dịch Covid-19, người Việt Nam ở khắp nơi đã về nước và được Tổ quốc dang vòng tay bao bọc. Họ trở về vì ở Việt Nam, họ được an toàn hơn, được Nhà nước thực sự chăm lo, cho hưởng các chế độ trong thời gian cách ly phòng dịch và khám, điều trị Covid-19 miễn phí.

Tại Việt Nam, ngay từ đầu dịch, từ Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng, tới Quốc hội, Chính phủ đều coi chống dịch Covid-19 là nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách và huy động cả hệ thống chính trị vào cuộc. Từ ngày 27-1 (mồng 3 Tết Canh Tý), Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã chủ trì cuộc họp phòng, chống dịch và chỉ đạo: Chống dịch như chống giặc! Thủ tướng cũng tuyên bố sẵn sàng hy sinh lợi ích kinh tế để bảo vệ tốt nhất sức khỏe và tính mạng của nhân dân. Đây là tuyên bố được truyền thông các nước ca ngợi về tính đúng đắn, sự quyết đoán, sự dũng cảm của lãnh đạo Việt Nam. Những hành động phòng, chống dịch đã ngay lập tức được thực hiện quyết liệt, đã sớm mang lại sự yên tâm cho người dân.

Qua dịch bệnh Covid-19 càng thấy hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị Việt Nam. Hệ thống chính trị của Việt Nam là một thể thống nhất từ Đảng, chính quyền, đoàn thể, mặt trận, lực lượng vũ trang, tổ chức chính trị-xã hội... Hệ thống chính trị đó không chỉ bám rễ vào từng thôn bản, khu phố, từng gia đình mà còn ở trong mỗi con người, tạo nên nhận thức đúng đắn, là cầu nối, là sợi dây gắn kết vững chắc toàn xã hội. Khi Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng ra lời kêu gọi đồng bào, đồng chí, chiến sĩ cả nước và đồng bào ta ở nước ngoài đoàn kết một lòng, thống nhất ý chí và hành động để chiến thắng đại dịch Covid-19, ngay lập tức, lời kêu gọi của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước đã được toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và đồng bào ta ở nước ngoài đồng lòng thực hiện. Vì thế, khi Thủ tướng Chính phủ ra chỉ thị cách ly toàn xã hội trên phạm vi toàn quốc để phòng, chống dịch Covid-19 thì cả nước đã nghiêm túc thực hiện. Từ thành thị tới nông thôn, từ miền xuôi tới miền ngược, từ người già tới người trẻ, tất cả đều nhất tâm tôn trọng và thực hiện quy định của Nhà nước về chống dịch. Hàng quán, khu vui chơi đều đóng cửa. Toàn xã hội, trong đó có giới trẻ đồng lòng kêu gọi nhau ở trong nhà, không ra ngoài đường, một phong cách sống, phong cách làm việc mới-làm việc trực tuyến-hình thành trong thời dịch bệnh. Tất cả những biểu hiện vi phạm đều bị cả xã hội lên án gay gắt. Nhờ tinh thần đoàn kết một lòng đó, đà lây lan của dịch đã được kiềm chế.

Nhà nước ta luôn quan tâm chăm lo các chính sách an sinh xã hội, bảo hiểm y tế, các chính sách khám, chữa bệnh, đặc biệt là cơ chế, chính sách trong phòng, chống dịch bệnh thể hiện rõ tính nhân văn. Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm quy định rõ các bệnh truyền nhiễm thuộc nhóm A (gồm các bệnh truyền nhiễm đặc biệt nguy hiểm có khả năng lây truyền rất nhanh, phát tán rộng và tỷ lệ tử vong cao hoặc chưa rõ tác nhân gây bệnh) thì các bệnh nhân sẽ được điều trị miễn phí. Cuối tháng 1-2020, trước sự nguy hiểm của dịch Covid-19, Bộ Y tế đã xếp dịch này vào nhóm A. Tại thời điểm đó, tất cả bệnh nhân của dịch này tại Việt Nam đều được khám, chữa bệnh miễn phí, kể cả đó là người nước ngoài. Sang giai đoạn 2, kể từ khi xuất hiện bệnh nhân thứ 17, trước các yêu cầu phòng, chống dịch bệnh, các bệnh nhân người nước ngoài nếu đến Việt Nam chữa bệnh sẽ được miễn phí xét nghiệm, nhưng phải trả phí chữa bệnh. Còn tất cả các công dân Việt Nam vẫn được miễn phí khám, chữa bệnh đối với Covid-19, trong đó có cả các kỹ thuật cao, như: Lọc máu, thở máy, ECMO, thuốc kháng sinh hoạt lực cao-những kỹ thuật mà bệnh nhân nghèo ở một số nước không thể với tới.

Đại dịch Covid-19 trên toàn cầu đang đặt nhân loại trước thử thách ngặt nghèo nhất về sinh mạng con người. Nếu không nhìn nhận nghiêm túc về sự nguy hiểm của dịch, có những giải pháp quyết liệt, phù hợp thì mạng sống của người dân ở khắp nơi trên thế giới sẽ tiếp tục bị cướp đi. Trong lúc này, chúng ta càng nhận rõ tính ưu việt của Nhà nước Việt Nam vì dân, vì con người, tính ưu việt của một xã hội Việt Nam đầy nhân văn, đầy tình đoàn kết, đầy tình Tổ quốc, nghĩa đồng bào, đã tạo ra sức đề kháng tốt như thế nào đối với đại dịch nguy hiểm này. Chủ trương, chính sách và hiệu quả thực tế của cuộc chiến đấu chống dịch Covid-19 thời gian qua đã thêm một bằng chứng mạnh mẽ, bác bỏ những luận điệu sai trái của các thế lực thù địch về cái gọi là "vi phạm nhân quyền tại Việt Nam".

Chúng ta không chủ quan với dịch Covid-19, vì vẫn còn nhiều yếu tố khó lường, cần phải tiếp tục nêu cao ý thức, mỗi người dân là một chiến sĩ để đẩy lùi dịch bệnh. Tuy nhiên, với những gì đã diễn ra trong thời gian qua, mỗi chúng ta càng thêm vững tin vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Nhà nước, vào sức mạnh đoàn kết của cả dân tộc, vào con đường phát triển của đất nước. Chúng ta tin rằng đất nước ta, dân tộc ta sẽ sớm vượt qua thời khắc đầy thử thách của dịch Covid-19, phát triển bền vững, trường tồn./.

HIỆN TƯỢNG PHA LOÃNG XÉT LẠI LỊCH SỬ

      (Báo Nhân Dân Đt) Nhận thức là quá trình tiệm cận chân lý. Về lịch sử, khi thế hệ sau có tư liệu toàn diện, chân xác hơn, thì nhận thức về lịch sử có bước phát triển mới.

Ðó là yêu cầu của xã hội, của khoa học, là việc bình thường đáng trân trọng của các nhà sử học chân chính. Nhưng lại có người lợi dụng điều này, lớn tiếng đòi "xét lại lịch sử", "viết lại lịch sử" với động cơ không minh bạch.

Gần đây, ý kiến "xét lại lịch sử", "viết lại lịch sử" được nêu lên dưới một số hình thức với một số biến tướng khác nhau, nhưng qua biểu hiện của chúng có thể sơ bộ quy loại trong ba nhóm: "a. Viết lại lịch sử vì cho rằng thiếu chân thực (về tư liệu) và thiếu hiểu biết (về phương pháp); b. Viết lại lịch sử để tô vẽ bản thân; c. Viết lại lịch sử với mưu đồ chính trị". Không rõ do động cơ và ý đồ không trong sáng, do thiếu hiểu biết và thiếu trách nhiệm, hay do "thói quen giật tít câu view" mà một số tờ báo, tạp chí đã góp phần làm sai lệch một số vấn đề lịch sử? Với mức độ, tốc độ lan truyền thông tin như hiện nay, với sự thiếu trách nhiệm trong kiểm chứng hoặc thẩm tra độ chính xác của thông tin, thì điều này gây tác hại rất lớn. Như có tờ báo phỏng vấn "nhà cách mạng lão thành", nhưng "nhà" này "nhớ nhầm", nói sai, quy công lao về phía mình. Có sách lại viết về "nhân vật lịch sử quá cố" với bao niềm thương tiếc, trong khi chính người này lại vẫn sống khỏe mạnh (!). Có báo, sách công bố sai lệch nhiều tư liệu, chữa lại cả sự kiện lịch sử đã được khẳng định - mà cái "sự mới" do họ viết ra lại không dựa trên cơ sở khoa học nào... Những ấn phẩm đó mang danh viết về lịch sử nhưng lại làm "nhiễu" kiến thức, gây mơ hồ và chính sự mơ hồ "chưa kết luận", dẫn đến sai lệch trong tư duy, dẫn đến nghi vấn về sự thật.

Một loại "xét lại lịch sử" khác nhằm phục vụ âm mưu "hạ bệ thần tượng, giật đổ tượng đài". Thực ra, những người muốn "xét lại lịch sử" với ý đồ đó khi lớn tiếng hô hào xét (viết) lại lịch sử chỉ mượn danh khoa học lịch sử. Không khó để nhận ra phương pháp họ sử dụng rất phi khoa học, tư liệu họ dùng để làm "bằng chứng" được ngụy tạo một cách sống sượng. Một thói quen hay gặp ở các tác giả muốn "viết lại lịch sử" là thường nhấn mạnh các chi tiết riêng lẻ mà không đặt chúng trong bối cảnh lịch sử cụ thể. Như một người từng có những năm đứng trong đội ngũ chiến đấu trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, sau khi "trở cờ" lại lớn tiếng lên án chế độ mình từng bảo vệ "trong suốt cả thời gian dài mấy chục năm (dưới chính thể Việt Nam DCCH) không có ai được cấp hộ chiếu để đi du lịch nước ngoài" (!). Hẳn ông ta quên là trong bối cảnh cả nước sống với câu khẩu hiệu "Tất cả cho tiền tuyến", thì một người Việt Nam chân chính ai lại nghĩ đến đi du lịch nước ngoài! Xa hơn nữa là cái "công trình" cho rằng "truyền thuyết trăm trứng liên quan tới Lạc Long Quân - Âu Cơ từng được ghi lại trong Lục độ tập kinh - một bộ kinh Phật; truyền thuyết về An Dương Vương chỉ là dị bản mô phỏng trận đánh giữa anh em Pandu và Duryodhana được kể lại trong Mahabharata - một sử thi Ấn Ðộ" được một tờ báo làm rùm beng, làm không ít người vì băn khoăn mà đã nghi ngờ các công trình nghiên cứu lịch sử.

Sinh thời, Ðại tướng Võ Nguyên Giáp - người là một thầy giáo dạy môn lịch sử, đã nói đại ý: Người làm sử phải có trái tim nhiệt thành, đầu óc sáng suốt, ngòi bút ngay thẳng. Từ cái gọi là "công trình" họ đã công bố, có thể thấy một số người tham gia viết sử hôm nay có hai điều kiện kể trên nhưng ngòi bút của họ lại "không thẳng". Ðiều đáng nói là các cơ quan, cán bộ có trách nhiệm tổ chức, quản lý công việc viết sử lại bỏ qua, giữ thái độ im lặng, "án binh bất động", tuy họ thừa hiểu rằng làm như vậy là sai. Do đó, họ đã (vô tình hay hữu ý) im lặng trước một việc sai, có thể tiếp tay cho cái sai tiếp theo, đó là điều cần phê phán. Bên cạnh đó, việc một số cuốn sách, tờ báo thiếu cẩn trọng đưa thông tin sai sự thật tới công chúng, hoặc đưa thông tin không chính xác, thậm chí sai về lịch sử cũng ảnh hưởng nghiêm trọng nhận thức chung.

Lịch sử Việt Nam có những trang bi hùng. Nhiều lần đất nước bị kẻ thù xâm chiếm, tàn phá, rồi bằng nỗ lực của toàn dân mà đất nước lại hồi sinh. Bối cảnh đó làm cho nhiều giá trị văn hóa, nhiều tư liệu lịch sử bị hủy hoại, dẫn đến thực tế là không phải giai đoạn nào cũng có tư liệu lịch sử phong phú, và lịch sử giai đoạn đó được chép một cách đầy đủ, chính xác. Ðó cũng là lý do mà lịch sử cần phải nhận thức từng bước, các bộ sử cần được tu chỉnh, thậm chí viết lại. Việc làm này trước hết là phụ thuộc vào người viết sử - những người nhận trọng trách trước xã hội về sự chân thực, chính xác khi tái hiện quá khứ. Việc nghiên cứu và viết sử cần ở người viết một tầm nhìn rộng hơn ngoài chuyên môn sâu của mình để phân định điều gì của lịch sử đã được khẳng định, điều gì còn là tồn nghi, điều gì bị chi phối bởi "tâm lý xã hội".

Ở Việt Nam, huyền sử nhiều khi lẫn với lịch sử và ngược lại - những chi tiết lịch sử được "thiêng hóa" trở nên mờ ảo lung linh, khó có thể kiểm định, xác minh bằng chứng cứ. Có những nhân vật từ huyền sử bước vào những trang lịch sử. Chuyện này đã có nhiều trong quá khứ và vẫn có cả trong thời hiện đại. Trong một số tình huống, việc đòi hỏi "bạch hóa" hoặc "thiêng hóa" một chi tiết hoặc một nhân vật lịch sử đều là thái quá, trở nên siêu hình về phương pháp, khi không đặt các chi tiết hoặc nhân vật trong cả bối cảnh lịch sử rộng lớn hơn - tại nơi được sinh ra. Câu chuyện truy nguyên "lý lịch" của Kinh Dương Vương gần đây trên một tạp chí và được một số trang mạng dẫn lại là một thí dụ. Theo tác giả, dường như hình tượng huyền thoại Kinh Dương Vương có nguồn gốc sai lạc so với sự tôn kính. Ðáng chú ý là luận điểm này đã được một vị Giáo sư, Tiến sĩ người nước ngoài nêu ra. Ông cho rằng, từ thời trung đại, Việt Nam đã có việc "kiến tạo truyền thống" mặc dù chính các sử gia và chính trị gia thời phong kiến cũng đã phê phán việc "kiến tạo" này. Nhưng kể cả khi hình tượng có thể có sai lệch theo quan điểm mà nhà nghiên cứu đòi thực chứng, thì thực tế nhân vật ấy vẫn "thiêng" trong cả đền đài và tâm thức nhân dân. Khi dân tộc cần đoàn kết, nhân tâm cần "quy về một mối" thì sẽ (và đã) xuất hiện một, và chỉ một "Quốc tổ". "Quốc tổ" bước từ huyền thoại vào lịch sử với diện mạo của một con người. Dù chứng cứ, hiện vật khảo cổ học đã chứng minh sự tồn tại của một nền văn minh khá rực rỡ trong thời đại đó, thì việc cố truy tìm đầy đủ, rõ ràng lý lịch cá nhân, chính xác như thời nay là điều không thể. Nhưng dù không thể có một "lý lịch" thật cụ thể, vị thủ lĩnh đó vẫn thiêng liêng tồn tại trong tâm thức dân gian, không ai đòi phải chứng minh bằng kỹ thuật xác minh ADN hiện đại! Chưa nói tới xu hướng "xét lại lịch sử" bằng giả định "nếu như thế này thì sẽ thế kia" như ngầm bác bỏ sự lựa chọn xu hướng phát triển dân tộc. Cho nên phẫn nộ với ý kiến cho rằng: "Không cần phải phát động chiến tranh làm tốn phí cả bốn hay năm triệu sinh linh, thì rồi đến lúc nào đó, Pháp cũng phải trả lại chủ quyền độc lập cho dân ta", nhà sử học là người Mỹ gốc Việt Nguyễn Mạnh Quang đã viết rất rành mạch: "Trừ phi không biết hoặc thuộc loại phản quốc, khi có một nước khác đến ngồi trên đầu làm chủ, không có một người dân tử tế nào bằng lòng chờ cho có ngày bọn thực dân tự động trả lại cơ đồ ông cha mình cả. Nếu theo luận điệu ươn hèn như trên, thì những công lao và sự hy sinh của hàng triệu anh hùng nghĩa sĩ trong các lực lượng nghĩa quân kháng chiến của nhân dân ta trong đại cuộc đánh đuổi giặc Pháp ngoại xâm từ năm 1858 đến năm 1954 đều là vô ích hay sao! Và hàng triệu anh hùng nghĩa sĩ đã ngã xuống trong cuộc chiến 1954 - 1975 để đòi lại miền Nam trong tay Mỹ, đem lại thống nhất cho đất nước cũng là vô ích hay sao! Ðưa ra luận điệu này là tỏ ra vô ơn với hàng triệu anh hùng nghĩa sĩ đã ngã xuống cho Tổ quốc Việt Nam được trường tồn".

Nhu cầu hiểu biết về quá khứ luôn là một đòi hỏi của con người. Nhà sử học Nga O Va-in-xten cho rằng: "Lịch sử là sự tập hợp những tấm gương để cho người ta bắt chước những hành vi tốt và tránh đi những hành vi xấu" (Sử học Tây Âu thời Trung đại, Matxcova, 1962). Các bài học, kinh nghiệm từ quá khứ lịch sử vẫn mang những giá trị to lớn đối với xã hội hiện tại, để động viên nhân dân trong cuộc đấu tranh giành lại độc lập dân tộc. Năm 1942, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: "Dân ta phải biết sử ta. Sử ta dạy cho ta những chuyện vẻ vang của tổ tiên ta. Dân tộc ta là con Rồng, cháu Tiên, có nhiều người tài giỏi,... yêu dân trị nước tiếng để muôn đời"; "Sử ta dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập tự do. Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn..." (Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 3, NXB Chính trị Quốc gia, H. 2011, tr 255 - 256). Sự khách quan, tính trung thực chính là điều làm cho sử học hấp dẫn. Hứng thú khi đọc và học lịch sử cũng bắt nguồn từ đó. Nghiên cứu để thấu suốt, nhận biết lịch sử ngày càng đúng đắn, sâu sắc hơn là yếu tố đầu tiên quyết định giá trị của nghiên cứu, điều đó cần thiết cho hôm nay và cho cả con cháu mai sau. Nhưng lịch sử cũng không cần và không chấp nhận việc "xét lại lịch sử" với tầm nhìn hẹp, hoặc từ cái tâm thiếu trong sáng.
THIÊN PHƯƠNG
#QSD

 Yêu nước ST.

Thứ Sáu, 28 tháng 8, 2020

NGUYỄN DUY TÂN LÀ GIẶC!

Giáo hoàng Francesco, Tòa thánh Vatican từng răn dạy, khuyến khích cộng đồng Công giáo ở Việt Nam “sống phúc âm giữa lòng dân tộc”, “người Công giáo tốt cũng là người công dân tốt”. Ấy thế mà từ nhiều năm nay, một số linh mục đã đi trật đường ray, họ kích động giáo dân sống chày bửa ngay trong lòng dân tộc, sống để tiếng xấu cho đời, gây phẫn nộ trong quần chúng nhân dân. Điển hình như linh mục Nguyễn Duy Tân, dù đã bị chính bà con Công giáo và cả những chức sắc tẩy chay, từ một linh mục trở thành người trông coi tượng Đức mẹ ở núi cúi vì có những hành vi gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân, vi phạm pháp luật Việt Nam.

Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo. Đảng và nhà nước ta luôn tôn trọng các quyền tự do tôn giáo, tạo điều kiện để cho giáo dân thuận lợi sinh hoạt, để họ làm tốt hai vai là công dân tốt, giáo dân tốt. Vậy nhưng vì hám danh, hám lợi mà linh mục Nguyễn Duy Tân đã bất chấp tất cả, ngồi xổm trên pháp luật, ngang nhiên chà đạp lên truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam. Nghiêm trọng hơn, y đã liên kết với các tổ chức phản động ở nước ngoài, tàng trữ, phát tán các tài liệu chống Đảng, nhà nước, kêu gọi lật đổ chính quyền nhân dân. Việc làm bại lý, vong luân của linh mục Tân đã được chính quyền nhắc nhở, khuyên bảo; thế nhưng y ngày càng hung hăng hơn, táo tợn hơn. Hàng ngày tuyên truyền, xuyên tạc về tình hình đất nước, bôi nhọ chế độ. Nguyễn Duy Tân đã làm trái ý Chúa Giê Su, đi ngược lòng dân Việt Nam!

Chúng ta đã rất nhân nhượng khi nhiều lần vận động, giáo dục, thuyết phục, với mong muốn hắn quay đầu là bờ. Dùng lễ không thành thì phải dùng binh, đã đến lúc chúng ta phải đưa linh mục Nguyễn Duy Tân ra trước ánh sáng của công lý và pháp luật. Nhân dân Việt Nam ủng hộ Đảng và nhà nước trong việc xử lý hình sự đối với Nguyễn Duy Tân. Không thể để hình ảnh của người Công giáo bị tổn hại, chỉ vì một kẻ lòng lang dạ sói. Không thể để những kẻ như Tân chà đạp lên pháp luật Việt Nam! Nguyễn Duy Tân đã không còn xứng đáng là công dân của nước Việt Nam tự do, độc lập và đời đời văn hiến. Nguyễn Duy Tân là giặc, nhân nhượng với giặc là tàn bạo với chính mình. Cần phải cách ly hắn ta ra khỏi đời sống xã hội./.